Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Việc làm cho lao động nông thôn bị thu hồi đất ở huyện sóc sơn, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (583.45 KB, 99 trang )

1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Lao động, việc làm ln là một trong vấn đề cấp thiết có tính toàn cầu,
là mối quan tâm lớn của mỗi quốc gia và mỗi địa phương, nhất là đối với các
nước đang phát triển. Trong khi nền kinh tế đang phát triển, đời sống nhân
dân không ngừng được cải thiện nâng cao, tình hình an ninh chính trị được
giữ vững thì tình trạng thiếu việc làm lại diễn ra trong phạm vi rộng và có xu
hướng ngày càng gia tăng.
Giải quyết việc làm là một trong những chủ trương quan trọng, đặc biệt
là đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao động lớn như ở Việt
Nam. Giải quyết việc làm cho người lao động trong sự phát triển của thị
trường lao động là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động
góp phần tích cực vào việc hình thành thể chế kinh tế thị trường đồng thời tận
dụng lợi thế để phát triển tiến kịp khu vực và thế giới.
Việt Nam là nước nông nghiệp có trên 70% số dân sống ở nơng thơn,
nhưng diện tích đất dùng cho sản xuất nơng nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Trong
những năm qua nhiều diện tích đất đã chuyển làm khu công nghiệp, khu đô thị
và các cơng trình lợi ích cơng cộng, lợi ích quốc gia, việc thu hồi đất nông
nghiệp đã tác động đến đời sống của hàng trăm ngàn hộ gia đình và hàng triệu
nhân khẩu. Mặc dù quá trình thu hồi đất, Nhà nước và các địa phương đã ban
hành nhiều chính sách cụ thể đối với người nông dân như: bồi thường, hỗ trợ
giải quyết việc làm, đào tạo chuyển đổi nghề, hỗ trợ tái định cư…tuy nhiên số
lao động khơng có việc làm hoặc có việc làm nhưng khơng ổn định vẫn rất lớn.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, Đảng ta đã có nhiều
chủ trương, chính sách thiết thực hiệu quả trong giải quyết việc làm. Với mục
tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước cơng nghiệp theo hướng
hiện đại thì u cầu chuyển dịch cơ cấu lao động, giải quyết việc làm cho



2
người lao động là hết sức quan trọng. Nội dung này đã được Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI chỉ rõ: “…Đầu tư phát triển kinh tế, phải hết sức quan
tâm tới yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động, giải quyết việc làm cho người
lao động, tạo điều kiện giải quyết ngày càng nhiều việc làm, đặc biệt là cho
nông dân…” [11, tr.127].
Để đến năm 2020 đạt mục tiêu là nước cơng nghiệp theo hướng hiện
đại thì phải đẩy mạnh Cơng nghiệp hố, hiện đại hố, q trình Cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa sẽ đồng thời phát triển nhanh về đô thị, hệ thống cơ sở hạ
tầng và các cơng trình phục vụ lợi ích cộng đồng, lợi ích quốc gia. Tốc độ
cơng nghiệp hố, hiện đại hố càng nhanh thì trình độ đơ thị hố càng cao, hệ
thống cơ sở hạ tầng và các cơng trình cơng cộng càng đồng bộ, càng hiện đại.
Để làm được điều đó, tất yếu là phải phân bổ lại nguồn nhân lực, đất đai và
lao động. Phải chuyển một bộ phận đất đai, trước hết là đất nông nghiệp sang
phục vụ cho xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, cho việc mở rộng
các khu đô thị cũ và xây dựng các khu đô thị mới, cũng như cho việc xây
dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng và các cơng trình cơng cộng phục
vụ lợi ích của cộng đồng và quốc gia.
Thực hiện chủ trương đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố, trong
những năm qua, trên địa bàn cả nước đã hình thành và đi vào hoạt động nhiều
khu công nghiệp với qui mô khác nhau. Tuy nhiên q trình phát triển nhanh
các khu cơng nghiệp, khu đô thị, việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã
hội, các cơng trình cơng cộng và lợi ích quốc gia cũng đang đặt ra những vấn
đề bức xúc, thậm chí gây nên những tác động tiêu cực, ảnh hưởng xấu đến
mục tiêu phát triển dài hạn và bền vững của đất nước.
Việc phát triển các khu kinh tế, cụm công nghiệp, khu đô thị, xây dựng
kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, các cơng trình cơng cộng phục vụ lợi ích quốc
gia, thì phải thực hiện việc thu hồi đất, bao gồm cả đất ở và đất nông nghiệp
của các bộ phận dân cư, chủ yếu là các vùng ven đơ thị, vùng có điều kiện



3
giao thơng thuận lợi, vùng có tiềm năng, có điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển kinh tế, xã hội. Giải quyết việc làm ổn định, từng bước nâng cao đời
sống cho lao động nông thôn bị thu hồi đất là nhiệm vụ của các cấp uỷ Đảng,
chính quyền và tồn xã hội. Để làm được điều đó cần có một hệ thống chính
sách đồng bộ để thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước,
vừa đảm bảo được lợi ích của lao động nơng thơn bị thu hồi đất.
Q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đã và đang diễn ra mạnh mẽ
trên phạm vi cả nước nói chung và Hà Nội nói riêng. Ở tầm vĩ mơ, cơng
nghiệp hố, đơ thị hố là một trong những giải pháp quan trọng trong chiến
lược phát triển kinh tế xã hội theo hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế đáp ứng
mục tiêu cơng nghiệp hố, hiện đại hố: phát triển mạnh các ngành cơng
nghiệp thương mại - dịch vụ mà Đảng và Nhà nước đã đề ra trong giai đoạn
từ nay đến năm 2020. Mặt khác, công nghiệp hố, đơ thị hố cũng là một
trong những chỉ tiêu quan trọng phản ánh sự phát triển của một đất nước. Tuy
nhiên bên cạnh những tác động tích cực, vẫn cịn có khơng ít những bất cập,
tồn tại cần phải giải quyết, đặc biệt là vấn đề việc làm đối với một bộ phận
lớn dân cư nông thôn bị rơi vào tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm khi bị
thu hồi đất. Hà Nội là một trong những Thành phố có tốc độ đơ thị hố nhanh
nhất so với các địa phương khác trong cả nước. Điều này được thể hiện trong
phương hướng phát triển của Thủ đô Hà Nội là: “Phấn đấu thực hiện hoàn
thành trước từ 1-2 năm những mục tiêu, nhiệm vụ cơ bản về cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa Thủ đơ…” [34, tr.78].
Sóc Sơn là một huyện ngoại thành Hà Nội, nhiều năm qua đã được
Thành phố quan tâm đầu tư phát triển, trong những năm tới cùng với sự
phát triển của Thủ đô, qui hoạch Sóc Sơn là Thành phố vệ tinh với tính
chất cơng nghiệp - dịch vụ, với việc hình thành một số khu, cụm công
nghiệp, cụm trường Đại học - Dạy nghề, q trình đơ thị hóa nhanh sẽ
diễn ra trên địa bàn huyện cho nên diện tích đất nơng nghiệp ngày càng bị



4
thu hẹp lại và cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nơng
nghiệp thì tất yếu dẫn đến việc chuyển đổi cơ cấu lao động và việc làm
của người dân ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống của họ. Q trình đơ
thị và cơng nghiệp hóa, cộng với việc đẩy mạnh thực hiện chương trình
“Dồn điền đổi thửa” tạo ra các vùng sản xuất hàng hóa tập trung áp dụng
cơ giới hóa trong nơng nghiệp cũng sẽ tạo ra nguồn lao động dôi dư rất
lớn trong nơng thơn, chính vì vậy nhu cầu về giải quyết việc làm đặt ra
ngày càng cao và bức xúc.
Xuất phát từ những yêu cầu trên, để góp phần tạo sự chuyển biến mạnh
mẽ về nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở Sóc Sơn, gắn cơng nghiệp hóa, đơ
thị hóa với phát triển nông nghiệp, nông thôn và chuyển dịch lao động trong
nông nghiệp, giải quyết tốt các vấn đề bức xúc hiện nay ở nông thôn trên địa
bàn huyện. Tác giả luận văn đã lựa chọn đề tài: “Việc làm cho lao động nông
thôn bị thu hồi đất ở huyện Sóc Sơn, Thành phố Hà Nội” làm đề tài nghiên
cứu của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những vấn đề liên quan đến thu hồi đất, đền bù và giải phóng mặt
bằng, đang là vấn đề nóng, phức tạp của nhiều địa phương, đặc biệt là việc
thu hồi đất cho các dự án phát triển công nghiệp, đô thị. Việc làm cho lao
động bị thu hồi đất nếu không được giải quyết thấu đáo sẽ ảnh hưởng không
chỉ đến tiến độ và hiệu quả của các cơng trình, mà nó còn tiềm ẩn những bất
ổn về mặt an sinh xã hội
Trong những năm vừa qua, bên cạnh một số dự án thực hiện tốt việc
giải quyết đền bù phù hợp cho người bị thu hồi đất được triển khai đúng tiến
độ, thì nhiều dự án đã bị chậm tiến độ do không giải toả được mặt bằng, dẫn
đến làm thiệt hại đáng kể cho nhà đầu tư và cả nền kinh tế, do không đưa

được năng lực sản xuất vào hoạt động đúng tiến độ. Mà nguyên nhân chính là
ở khâu giải phóng mặt bằng.


5
Đã có một số nghiên cứu về vấn đề này, và nguyên nhân chủ yếu là do
chính sách đền bù không thoả đáng, nhưng thực chất và quan trọng nhất vẫn
là, người bị thu hồi đất “mất kế sinh nhai”. Khi nhận được khoản tiền đền bù,
họ chưa định hình việc quản lý, sử dụng đồng tiền đó mà với số tiền sẵn có
trong tay họ mua sắm, kiến thiết nhà cửa…là chủ yếu.
Vấn đề lao động, việc làm được chú ý nghiên cứu từ nhiều năm nay,
đặc biệt là các cơng trình nghiên cứu của viện Khoa học xã hội thuộc Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội, Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, Trường Đại học Lao
động và Xã hội, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân và nhiều nhà nghiên cứu
khác. Trong đó, có thể kể đến các cơng trình nghiên cứu có liên quan như sau:
- Thực trạng thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi
để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội, nhu cầu cơng cộng và lợi ích quốc gia (Đề tài cấp Nhà nước
12/2005). Nghiên cứu này được thực hiện tại 8 tỉnh/TP: Hà Nội, TP Hồ Chí
Minh, Hải Phịng, Đà Nẵng, Bắc Ninh, Cần Thơ và Bình Dương với mục tiêu:
+ Đánh giá thực trạng thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị
thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu ha
tầng kinh tế - xã hội, nhu cầu công cộng và lợi ích quốc gia hiện nay, chỉ ra
những thành tựu và hạn chế, nguyên nhân hạn chế của vấn đề này.
+ Đề xuất các quan điểm, phương hướng, giải quyết các điều kiện giải
quyết thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi để xây dựng
các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, nhu
cầu công cộng và lợi ích quốc gia những năm tới.
- Nghiên cứu đề xuất phương án đào tạo và phát triển nguồn nhân lực

nông thôn ngoại thành Hà Nội trong quá trình đơ thị hố gắn với cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá, trên địa bàn thành phố Hà Nội (Đề tài khoa học và
công nghệ cấp thành phố - 2005). Cùng với xu thế khách quan và tất yếu của


6
đơ thị hố là sự dịch chuyển về cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động ở các vùng
bị thu hồi đất sản xuất nơng nghiệp, trong đó vấn đề giải quyết việc làm cho
người lao động thuần nông gặp phải những trở ngại lớn khi họ buộc phải
chuyển đổi từ việc làm nơng nghiệp khơng cần đến trình độ chuyên môn kỹ
thuật sang làm việc phi nông nghiệp địi hỏi phải có trình độ chun mơn kỹ
thuật. Nghiên cứu này hướng đến đề xuất những giải pháp phát triển nguồn
nhân lực nông thôn với phương án khả thi và mơ hình phù hợp với xu thế đơ
thị hố nhanh và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngoại thành Hà Nội.
- Vấn đề giải quyết việc làm đề tài cấp Bộ (2000) “Những biện pháp
chủ yếu giải quyết lao động thiếu việc làm ở vùng thuần nông” do Trung tâm
Nghiên cứu Dân số và Nguồn lao động - Viện Khoa học Lao động và Xã hội
thực hiện, đã đưa ra nhận định: khả năng tạo việc làm ở khu vực nông thôn
hiện nay rất phong phú và đa dạng, tạo việc làm phi nông nghiệp ngay tại địa
phương, tăng cường dạy nghề cho lao động nông thôn, ưu tiên các dự án quốc
gia và quốc tế cho việc giải quyết việc làm, dạy nghề và nâng cao dân trí.
- TS. Nguyễn Hữu Dũng và các tác giả khác trong nghiên cứu “Về
chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam” năm 1997 đã đề cập đến chính
sách giải quyết việc làm ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước. Về mặt lý luận nghiên cứu đã nêu khá chi tiết về
phương pháp luận luận, cách tiếp cận về chính sách việc làm, hệ thống khái
niệm về lao động - việc làm và phương pháp tính. Đặc biệt cơng trình nghiên
cứu đã bước đầu đề cập đến khái niệm thị trường lao động, mối quan hệ giữa
cung - cầu lao động và vai trò đối với giải quyết sức ép về việc làm. Về mặt
thực tiễn các tác giải đã phân tích đánh giá thực trạng vấn đề việc làm ở nước

ta nói chung, trong nơng nghiệp nơng thơn nói riêng và những nguyên nhân
chủ yếu; khái quát dòng di chuyển lao động trên thị trường lao động, nhất là
di chuyển từ nông thơn ra thành thị tìm việc làm. Trên cơ sở đó đưa ra hệ
thống quan điểm giải quyết việc làm trong q trình đẩy mạnh cơng nghiệp


7
hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Giải pháp cơ bản cho khu vực nơng thơn đó là
giải quyết nạn thiếu việc làm còn rất phổ biến và nghiêm trọng, việc làm kém
hiệu qủa và thu nhập thấp thông qua chuyển dịch cơ bản cơ cấu kinh tế và cơ
cấu lao động theo hướng cơng nghiệp hố, hiận đại hố.
- Trường Đại học Kinh tế Quốc dân trong đề tài cấp Nhà nước KX.01 2005 đã đề cập đến vấn đề “Việc làm và thu nhập cho lao động bị thu hồi đất
trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố và đơ thị hố”. Về mặt lý luận
nghiên cứu đã đề cập đến sự cần thiết phải thu hồi đất, cơng nghiệp hố, hiện
đại hố và đơ thị hố tất yếu sẽ dẫn đến thu hồi đất nông nghiệp do đó một
bộ phận nơng dân sẽ mất việc làm trong nông nghiệp. Đây vừa là cơ hội vừa
là thách thức đối với nước ta trong quá trình phát triển. Về mặt thực tiễn
nghiên cứu chỉ ra những bất cập về vấn đề đảm bảo thu nhập, đời sống, việc
làm của người có đất bị thu hồì. Việc thu hồi đất là điều kiện dịch chuyển cơ
cấu lao động theo hướng tiến bộ nhưng kế hoạch thu hồi đất không gắn với
kế hoạch đào tạo nghề nên người dân mất đất khơng có việc làm và thu
nhập, đời sống người dân tiềm ẩn sự bất ổn bên trong. Nghiên cứu dự báo
nhu cầu thu hồi đất và đưa ra khung chính sách đồng bộ bao gồm: chính
sách đền bù, bồi thường thiệt hại; chính sách tạo việc làm; chính sách tái
định cư; chính sách về trách nhiệm và nghĩa vụ của các đơn vị được nhận đất
thu hồi sử dụng vào các mục đích phát triển các khu cơng nghiệp, khu đơ thị,
và các chính sách xã hội liên quan để đảm bảo việc làm và thu nhập cho đối
tượng bị thu hồi đất.
Ngồi ra, cũng có một số đề tài luận văn thạc sĩ viết về vấn đề việc làm
ở Đồng Nai, Hà Tĩnh, Kiên Giang.... Những năm gần đây, cùng với việc đẩy

mạnh phát triển kinh tế, tăng cường đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật đô thị,
Thành phố Hà Nội đã xác định công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho
những người dân bị thu hồi đất là một trong những nhiệm vụ trọng tâm cần
làm thường xuyên để đảm bảo đời sống của người dân.


8
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có nghiên cứu nào chuyên sâu về mối
quan hệ tương tác giữa việc thu hồi đất với sự dịch chuyển về cơ cấu lao
động, việc làm cho những lao động ở nông thôn trong khu vực giải phóng mặt
bằng bị thu hồi đất. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này là rất cần thiết
nhằm phát hiện ra các tác động của việc thu hồi đất đối với cơ cấu lao động,
việc làm của lao động nơng thơn nằm trong vùng giải phóng mặt bằng. Như
vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Việc làm cho lao động nông thôn bị thu hồi đất
ở huyện Sóc Sơn, Thành phố Hà Nội” dưới góc độ kinh tế chính trị là cần
thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Giải quyết việc làm cho lao động nơng thơn bị thu hồi đất ở huyện
Sóc Sơn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống cơ sở lý luận và kinh nghiệm về việc làm và giải quyết việc làm
- Xác định rõ thực trạng của việc bị thu hồi đất ở Sóc Sơn.
- Phân tích, đánh giá thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho lao
động nơng thơn khi bị thu hồi đất ở huyện Sóc Sơn.
- Đưa ra quan điểm, giải pháp về giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn bị thu hồi đất ở huyện Sóc Sơn.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở những quan điểm lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước đối với
lao động nông thôn khi bị Nhà nước thu hồi đất.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử để nghiên cứu. Ngồi ra cịn sử dụng các phương pháp: hệ thống,
tổng hợp, thống kê, so sánh đối chiếu và phân tích để làm sáng tỏ vấn đề.


9

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Việc làm của lao động nông thơn bị thu hồi đất ở huyện Sóc Sơn.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Khảo sát vấn đề việc làm của lao động nông thôn bị
thu hồi đất trên địa bàn huyện Sóc Sơn.
- Về thời gian: Khảo sát và thu thập thông tin từ năm 2000 đến 2010
- Về cách tiếp cận: Đề tài tiếp cận dưới góc độ kinh tế chính trị.

6. Những đóng góp mới của luận văn
Về lý luận: Hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về việc làm và giải
quyết việc làm
Về thực tiễn: đánh giá thực trạng việc làm giai đoạn 2000 - 2010 và đề
xuất những giải pháp về việc làm cho lao động nông thôn bị thu hồi đất ở
huyện Sóc Sơn đến 2015 và tầm nhìn năm 2020.

7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

gồm 3 chương, 8 tiết và 14 bảng.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về việc làm và giải quyết việc làm
cho lao động nông thôn bị thu hồi đất.
Chương 2: Thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho lao động
nông thơn bị thu hồi đất ở huyện Sóc Sơn.
Chương 3: Giải pháp về việc làm cho lao động nông thôn bị thu hồi đất từ
năm 2011 đến 2015 và tầm nhìn 2020 ở huyện Sóc Sơn, Thành phố Hà Nội.


10
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN BỊ THU HỒI ĐẤT
1.1. Những vấn đề lý luận về việc làm và giải quyết việc làm
1.1.1. Khái niệm về việc làm
Việc làm là một phạm trù tồn tại khách quan, tổng hợp liên kết các quá
trình kinh tế, xã hội và nhân khẩu, nó thuộc những vấn đề chủ yếu của toàn bộ đời
sống xã hội trong nền sản xuất xã hội, phục vụ vào các điều kiện hiện có của nền
sản xuất. Một người lao động có việc làm khi có một vị trí nhất định trong hệ
thống sản xuất của xã hội. Thông qua việc làm, người lao động thực hiện được
quá trình lao động tạo ra sản phẩm và thu nhập. Ở mỗi một giai đoạn phát triển
kinh tế xã hội, khái niệm việc làm lại được hiểu theo nhiều khía cạnh khác nhau.
Trước đây, trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, những
người lao động làm việc trong khu vực kinh tế nhà nước (Quốc doanh), khu
vực kinh tế tập thể là những người được coi là có việc làm.
Hiện nay, sau khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, quan niệm việc làm đã được thay đổi. Theo Điều 13
chương II Bộ luật Lao động nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1994 ban hành: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị
pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”.

Tuy nhiên, quan niệm của người lao động về việc làm trong giai đoạn
này cũng có thay đổi. Trước đây, nhiều người quan niệm rằng chỉ làm việc
trong các xí nghiệp quốc doanh và nằm trong biên chế Nhà nước có cơng việc
ổn định thì mới được coi là có việc làm. Vì vậy, nhiều người cố gắng phải xin
vào làm việc trong cơ quan nhà nước hoặc các Nhà máy, Xí nghiệp Quốc
doanh. Hiện nay, đối với nhiều người quan niệm này khơng cịn mang nặng,
họ chỉ cần tìm được cơng việc phù hợp, có thu nhập cao và được Nhà nước
khuyến khích thì họ sẵn sàng làm.


11
Có thể nói yếu tố việc làm và yếu tố lao động có liên quan đến nhau,
cùng phản ánh đến lợi ích của một con người. Tuy nhiên hai phạm trù này
khơng giống nhau, vì lao động là hoạt động (là sự kết hợp giữa sức lao động
và tư liệu sản xuất); việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập (là sự kết
hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất để tạo ra thu nhập). Do đó khơng
phải mọi lao động là việc làm và khơng phải cứ có việc làm là có lao động, vì
nếu thu nhập mà việc làm mang lại khơng thoả đáng với hao phí lao động của
người lao động bỏ ra thì họ sẽ khơng lao động (khác với việc làm ở nền kinh
tế hiện vật).
Vì vậy việc làm cho lao động hay giải quyết việc làm nói chung chỉ là
đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm.
Quan niệm về việc làm như Bộ luật lao động quy định cho thấy đã có
sự thay đổi căn bản trong nhận thức về việc làm và giải quyết việc làm. Từ
chỗ việc làm phải có người nằm trong bộ máy biên chế của Nhà nước và giải
quyết việc làm là trách nhiệm của Nhà nước nay chuyển sang nhận thức mới:
“ Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều
được thừa nhận là việc làm”. Bởi vì, lao động tạo ra nguồn thu nhập khơng
chỉ trong thành phần kinh tế nhà nước mà còn ở cả trong thành phần kinh tế tư
nhân, cá thể và hộ gia đình...Với khái niệm đó, nó đã xố bỏ sự phân biệt đối

xử lao động giữa các thành phần kinh tế, động viên mọi tổ chức, mọi cá nhân
và toàn xã hội tạo mở nhiều việc làm cho người lao động. Điều đó được Bộ
luật Lao động quy định rõ ràng: “Giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người
có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước,
của các doanh nghiệp và của toàn xã hội” [24, tr.10].
- Các hoạt động lao động được xác định là việc làm bao gồm:
+ Làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật.
+ Những công việc tự làm để thu lợi nhuận cho bản thân hoặc tạo thu
nhập cho gia đình mình nhưng khơng được trả cơng như: sản xuất nông


12
nghiệp, hoạt động kinh tế phi nông nghiệp do chủ hộ hoặc một thành viên
khác trong gia đình có quyền sử dụng sở hữu hoặc quản lý.
- Phân loại việc làm:
+ Việc làm đầy đủ: là sự thỏa mãn nhu cầu việc làm của bất cứ ai có khả
năng lao động trong nền kinh tế quốc dân. Hay nói cách khác việc làm đầy đủ
là trạng thái mà mỗi người có khả năng lao động, muốn làm việc thì đều có
thể tìm được việc làm trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, việc xác định số người
lao động có việc làm theo khái niệm này vẫn chưa phản ánh chính xác được
trình độ sử dụng lao động xã hội vì khơng đề cập đến chất lượng của công
việc làm. Thực tế, nhiều người lao động đang có việc làm nhưng chỉ làm nửa
ngày hoặc việc làm có năng suất, thu nhập thấp. Việc làm đầy đủ căn cứ trên
hai khía cạnh: mức độ sử dụng thời gian lao động, năng suất lao động và thu
nhập. Mọi việc làm đầy đủ đòi hỏi người lao động phải sử dụng đủ thời gian
lao động theo luật định (8giờ/ngày), đồng thời, việc này phải mang lại thu
nhập không thấp hơn mức lương tối thiểu của người lao động (hiện nay nước
ta quy định mức lương tối thiểu chung là 1.050.000 đồng).
+ Việc làm chính: là công việc mà người lao động thực hiện dành nhiều thời
gian nhất và địi hỏi u cầu của cơng việc cần trình độ chun mơn kỹ thuật.

+ Việc làm phụ: là công việc mà người lao động thực hiện dành thời
gian sau cơng việc chính.
Vậy những người làm việc đủ thời gian quy định có thu nhập lớn hơn
mức thu nhập tối thiểu hiện hành là những người có việc làm đầy đủ.
- Thiếu việc làm: là những việc làm không tạo điều kiện cho người lao
động sử dụng hết thời gian lao động của mình, tạo thu nhập cho người lao
động thấp hơn mức lương tối thiểu. Theo quan niệm của Tổ chức Lao động
thế giới (Viết tắt:ILO), thiếu việc làm được chia làm 2 dạng:
+ Thiếu việc làm vơ hình: là những người có đầy đủ việc làm, làm đủ thời
gian, thậm trí cịn q thời gian quy định nhưng lại có thu nhập thấp do tay nghề


13
kém, điều kiện lao động xấu, tổ chức lao động khơng khoa học khiến năng xuất
thấp, thường có nhu cầu tìm cơng việc khác có mức thu nhập cao hơn.
+ Thiếu việc làm hữu hình: là những người lao động làm việc với thời
gian ít hơn quỹ thời gian quy định, khơng đủ việc làm và đang có mong muốn
kiếm thêm việc và luôn sẵn sàng để làm việc.
- Thất nghiệp: là hiện tượng những người trong độ tuổi lao động tại thời
điểm điều tra ở trong tình trạng khơng có việc làm nhưng có nhu cầu làm
việc. Nhu cầu này thể hiện thơng qua các hoạt động tích cực tìm việc làm.
Thất nghiệp được chia thành nhiều loại:
+ Thất nghiệp tự nhiên: tỷ lệ thất nghiệp đương nhiên bởi ln có một
số người trong giai đoạn chuyển từ chỗ làm này qua chỗ làm khác.
+ Thất nghiệp cơ cấu: là sự mất việc kéo dài trong các ngành hoặc vùng
có sự giảm sút kéo dài về nhu cầu lao động thay đổi cơ cấu nền kinh tế.
+ Thất nghiệp chu kỳ: khi tổng cầu lao động thấp hơn tổng cung lao
động ở giai đoạn suy thoái của chu kỳ kinh tế.
+ Thất nghiệp kỹ thuật: do việc thay thế cơng nhân bằng máy móc hoặc
cơng nghệ tiên tiến hơn.

+ Thất nghiệp tự nguyện: khi thu nhập thực tế xuống dưới mức chấp
nhận được.
+ Thất nghiệp theo mùa: khi việc làm phụ thuộc vào thời vụ
(Không đủ việc làm hay Mác gọi là thất nghiệp tiềm tàng nhất là đối
với nông thôn).
- Người thất nghiệp: ở nước ta, theo quan niệm của Bộ Lao độngThương binh và xã hội: Người bị coi là thất nghiệp là người đủ 15 tuổi trở
lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế, hiện tại đang đi tìm việc làm hay
khơng đi tìm việc làm do khơng biết tìm việc ở đâu; và những người trong
tuần lễ trước thời điểm điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 8 giờ, có mong
muốn và sẵn sàng làm thêm giờ nhưng khơng tìm ra việc.


14
Với quan niệm trên, theo Luật Lao động ở nước ta hiện nay: những người
trong độ tuổi lao động (nam từ 15- 60 tuổi, nữ từ 15- 55 tuổi) có khả năng lao
động, khơng có việc làm hoặc đang tìm việc làm là những người thất nghiệp.
Tuy nhiên, các đối tượng sau đây mặc dù nằm trong độ tuổi lao động
nhưng không thuộc những người thất nghiệp và không nằm trong lực lượng lao
động: người khơng có khả năng lao động, người khơng có nhu cầu tìm việc làm,
người đang đi học và người làm công việc nội trợ cho gia đình mình.
Thất nghiệp là một vấn đề xã hội rất nhạy cảm, là mối quan tâm lớn của
tất cả các quốc gia, khi mức thất nghiệp tăng quá mức tự nhiên, tài nguyên sẽ
bị lãng phí, thu nhập của người lao động giảm và rơi vào tình trạng nghèo
đói; nền kinh tế suy thoái, lạm phát cao dẫn đến khủng khoảng kinh tế - xã
hội. Do đó, tỷ lệ thất nghiệp là một trong những chỉ tiêu trọng yếu để xem xét,
đánh giá tình trạng của một nền kinh tế, sự tiến bộ xã hội, là mối quan tâm
hàng đầu của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới.
1.1.2. Khái niệm giải quyết việc làm
Giải quyết việc làm là giải quyết vấn đề thất nghiệp, tạo ra nhiều việc
làm cho người lao động để giảm tỷ lệ thất nghiệp. Giải quyết việc làm là Nhà

nước tìm việc làm, sắp xếp bố trí việc làm phù hợp cho những người chưa có
việc làm và có nhu cầu tìm việc làm phù hợp với trình độ và năng lực.
Giải quyết việc làm nhằm thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu;
thực hiện các biện pháp kích cầu đầu tư; chính sách tài chính hỗ trợ doanh
nghiệp; hỗ trợ sản xuất nông nghiệp bảo đảm an ninh lương thực, bảo đảm an
sinh xã hội.
Hỗ trợ phát triển mơ hình kinh tế hộ tự sản xuất, tự tạo việc làm thông
qua các gói hỗ trợ tín dụng vi mơ, chương trình tín dụng việc làm và các
chính sách hỗ trợ khác.
Hỗ trợ các doanh nghiệp đang sử dụng và có khả năng sử dụng nhiều lao
động như dệt may, giày da, chế biến... thơng qua các gói hỗ trợ tín dụng ưu đãi,
giảm thuế, hỗ trợ xuất khẩu, hỗ trợ quỹ lương và bảo hiểm, tiền thuê đất...


15
Đầu tư phát triển các dự án lớn mang tính cơng ích sử dụng nhiều lao
động như: thuỷ điện, cơng trình thuỷ lợi lớn, giao thơng,...phát triển mơ hình
thanh niên nông thôn đi xây dựng kinh tế mới, thanh niên lập nghiệp.
Ưu tiên đầu tư các cơng trình hạ tầng cơ sở ở nông thôn như: giao
thông nông thôn, thuỷ lợi nội đồng... với mục tiêu tạo việc làm và thu nhập tại
chỗ cho người dân.
Hỗ trợ tăng cường các hoạt động đào tạo nâng cao nguồn nhân lực
nông thôn. Đặc biệt ưu tiên đào tạo lao động xuất khẩu, chuẩn bị để đáp ứng
tốt hơn nhu cầu lao động quốc tế sau khủng khoảng. Hỗ trợ dự án đào tạo
nghề cho thanh niên nông thôn, nông dân và người nghèo thơng qua các
chương trìng hỗ trợ dậy nghề và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực...
Giải quyết việc làm là thước đo chất lượng đào tạo nghề, giải quyết tốt vấn
đề việc làm góp phần bảo đảm ổn định xã hội và tăng trưởng kinh tế bề vững.
Trong quá trình 25 năm đổi mới đất nước, từ nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung, chuyển sang nền kinh tế hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị

trường định hướng xã hộị chủ nghĩa, cịn nhiều khó khăn từ nhận thức, đến
thể chế hố q trình thực hiện. Bên cạnh lực lượng lao động dồi dào vừa
là thế mạnh vừa là thách thức, thì giải quyết việc làm đầy đủ, giảm tỷ lệ
thất nghiệp, xố đói, giảm nghèo, ổn định xã hội và tăng trưởng kinh tế bền
vững là mối quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước trong suốt quá trình xây
dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Trên thế giới, việc làm
cũng là vấn đề mang tính tồn cầu được chú trọng của các quốc gia. Cịn
nội tại của Chủ nghĩa tư bản thì giải quyết mâu thuẫn việc làm và thất
nghiệp, chống khủng khoảng kinh tế để tồn tại và tiếp tục phát triển đã là
một học thuyết kinh tế được tồn tại nhiều năm. Vì vậy, xác định đúng đắn
chủ trương, đường lối với các biện pháp giải quyết việc làm có hiệu quả,
góp phần đảm bảo ổn định xã hội và tăng trưởng kinh tế bền vững ở Việt
Nam là nhiệm vụ, thách thức lớn của Đảng và Nhà nước.


16
Muốn phát triển bền vững thì mơ hình tăng trưởng kinh tế phải hợp lý
và ổn định, mà tăng trưởng kinh tế chỉ ổn định khi xã hội, cuộc sống và việc
làm của người dân nói chung và người lao động nói riêng ổn định; và việc
làm chỉ ổn định khi sản xuất, kinh doanh và thị trường ổn định. Với thực tế
của Việt Nam hiện nay, để đảm bảo tính ổn định cao của xã hội và tăng trưởng
kinh tế thì định hướng giải quyết việc làm phải có cơ sở vững chắc, khoa học,
biện pháp cụ thể, thực tế, hiệu quả trên nền tảng:
Một là, chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội phải có tầm
nhìn xa trên cơ sở dự báo có căn cứ khoa học, thực tiễn, phù hợp với quy luật
khách quan của kinh tế thị trường. Quy hoạch tổng thể và qui hoạch chi tiết
phải đồng bộ, ăn khớp và ổn định. Trên cơ sở quy hoạch tổng thể, các qui
hoạch vùng, qui hoạch ngành phải được xây dựng có tầm nhìn trên 20 năm
đến 50 năm.
Hai là, một trong những nhiệm vụ quan trọng của quản lý vĩ mô là phải

tìm, khai thác, dần hình thành một thị trường hàng hoá ổn định và chất lượng
ngày một nâng cao, đặc biệt là thị trường xuất khẩu, để định hướng cho người
sản xuất, kinh doanh đầu tư, tạo việc làm ổn định cho người lao động. Nền
kinh tế của chúng ta hiện nay đóng góp từ người sản xuất, kinh doanh nhỏ lẻ,
phần lớn là tự phát, bị lệ thuộc, thiếu tính ổn định, hiệu quả thấp, khơng đủ
lực và kinh nghiệm để tìm một thị trường hàng hố ổn định, phù hợp với tiềm
lực trong nước để lập qui hoạch, định hướng, chỉ dẫn đầu tư cho sản xuất
trong nước, để nhà đầu tư lựa chọn sản phẩm, ổn định sản xuất, kinh doanh,
nhất là khu vực ngoài Nhà nước, giảm dần mức độ tự bươn trải như hiện nay.
Ba là, trong những năm tới phát triển kinh tế cá thể nằm ở nơng thơn vẫn
chiếm tỷ trọng cao, vì vậy, trên cơ sở qui hoạch lại vùng nông thôn có kế hoạch
phù hợp với từng vùng để phát triển kinh tế nông thôn một cách đồng bộ, từ cơ
cấu sản xuất đến cơ cấu xã hội, dân cư, phát triển làng nghề truyền thống, liên
kết các cá thể kinh tế để tạo sức mạnh đầu tư vốn và khoa học, công nghệ và


17
nông thôn, không thể để ruộng vườn bị băm nhỏ, đầu tư sản xuất, nuôi trồng
cây, con, nhỏ lẻ luôn thay đổi, bị động, gây lãng phí lớn như hiện nay.
Bốn là, nhu cầu lao động của nhiều nước trên thế giới ngày một tăng
cao, Nhà nước ta cần đặt vấn đề ở cấp quốc gia, ký kết các hiệp định hoặc
thoả thuận song phương để đưa người lao động đi làm việc ở nước ngồi một
cách ổn định, có hiệu quả, bảo đảm được các mục đích đặt ra thay vì cho phép
các doanh nghiệp lớn, nhỏ, có hoặc khơng có kinh nghiệm, trình độ chun
mơn, có tiềm lực hoặc khơng có tiềm lực tự tìm lao động ở nước ngoài, ký kết
nhiều hợp đồng cung ứng lao động nhỏ lẻ, chất lượng và tính ổn định thấp,
làm ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu lao động như hiện nay.
Năm là, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đơi với xóa nghèo bền
vững là một nội dung hết sức quan trọng. Cần thống kê đầy đủ lực lượng lao
động trong các hộ nghèo, sau đó phân tích kỹ ngun nhân đói nghèo để có

giải pháp phù hợp với từng nguyên nhân, không thể để chung một giải pháp
cho nhiều ngun nhân đói nghèo. Nghèo do lười biếng, khơng biết làm ăn
chiếm tỷ trọng khá lớn, khuyến khich vươn lên thốt nghèo, khơng thể cứ cho
vay và xố nợ mãi như hiện nay.
Sáu là, điều tra, thống kê hàng năm hoặc định kỳ, theo dõi nắm chắc số
lượng cung - cầu lao động là một việc làm vô cùng quan trọng trong phân bố,
phân cơng sử dụng có hiệu quả nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội. Đảng
và Nhà nước cần hết sức quan tâm, coi trọng từ nội dung hoạt động, quản lý
đến bộ máy thực hiện công tác này. Bộ máy ngành Lao động - Thương binh
và Xã hội hiện tại phần lớn dành cho cơng tác đảm bảo chính sách người có
cơng và an sinh xã hội là chủ yếu, bộ phận còn lại không thể thực hiện được
nhiệm vụ quản lý gần 60 triệu lao động của cả nước, lực lượng mà không có
họ thì khơng có của cải vật chất, tăng trưởng kinh tế, bảo đảm công bằng và
tiến bộ xã hội. Vì vậy, Đảng và Nhà nước cần quan tâm tăng cường, củng cố
đội ngũ người làm công tác lao động xã hội từ trung ương đến địa phương.


18
Bảy là, chỉ tiêu giải quyết việc làm hàng năm chưa phản ánh chính xác,
thì nên chuyển thành chỉ tiêu tham khảo, có tính định hướng, đồng thời
nghiên cứu tiêu chí thất nghiệp phản ánh đúng thực chất, nhằm nâng cao chất
lượng giải quyết việc làm, bảo hiểm thất nghiệp.
Giải quyết việc làm và thất nghiệp là vấn đề lớn, phức tạp, không thể
giải quyết “một sớm một chiều”, và cần phải có một hệ thống chính sách và
biện pháp đồng bộ để giải quyết hiệu quả vấn đề này. Vì vậy, Nhà nước, các
cơ quan, tổ chức, cá nhân người lao động và tồn xã hội phải có trách nhiệm
trong giải quyết việc làm, góp phần ổn định xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô,
tăng trưởng bền vững.
1.1.3. Đặc điểm của lao động, việc làm ở nông thôn
Ở các nước đang phát triển nói chung, Việt Nam nói riêng khu vực

nơng thơn có đặc điểm chung là dân số tăng nhanh, cấu trúc dân số trẻ, dẫn
đến tỷ lệ lao động tăng với tốc độ cao. Vì vậy khả năng tạo việc làm luôn thấp
hơn nhu cầu việc làm của lao động nông thôn.
Sản xuất Nông - Lâm - Ngư nghiệp là lĩnh vực tạo việc làm truyền thống
và thu hút nhiều lao động của dân cư nông thơn, nhưng bị giới hạn bởi diện
tích đất canh tác vốn đã hạn hẹp và có xu hướng giảm dần, do q trình đơ thị
hóa và cơng nghiệp hóa đang phát triển mạnh. Điều đó đã hạn chế khả năng
giải quyết việc làm ở nơng thơn, nếu tình trạng dân số càng gia tăng thì sự
khan hiếm đất nơng nghiệp càng trầm trọng hơn, dẫn đến hậu quả ngày càng
thiếu việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn nếu lực lượng này không
được chuyển sang các khu vực sản xuất khác.
Lao động nơng thơn mang tính thời vụ, sản xuất nông nghiệp luôn chịu
sự tác động và bị chi phối mạnh mẽ của các qui luật sinh học và điều kiện tự
nhiên. Q trình sản xuất nơng nghiệp mang tính thời vụ rất cao, cho nên có
thời kỳ cần rất ít lao động song cũng có thời kỳ cần rất nhiều lao động (mùa
vụ). Do đó khả năng thu hút lao động trong nông nghiệp nông thôn là không


19
đều, khác nhau trong từng giai đoạn sản xuất. Đối với ngành trồng trọt, việc
làm chỉ tập trung chủ yếu vào thời điểm gieo trồng và thu hoạch, thời gian
còn lại là nông nhàn.Trong thời kỳ nông nhàn, một bộ phận lao động nông
thôn thường chuyển sang làm các công việc phi nông nghiệp hoặc đi sang địa
phương khác làm thêm để tăng thu nhập. Tình trạng thời gian nơng nhàn cùng
với thu nhập thấp trong sản xuất nông nghiệp là nguyên nhân gây nên tình
trạng di chuyển lao động nông thôn từ vùng này sang vùng khác, từ nông thơn
ra thành thị.
Lao động nơng thơn trình độ văn hóa thấp, ít chun mơn so với lao
động cơng nghiệp. Trong sản xuất nơng nghiệp có nhiều loại cơng việc mang
tính chất khác nhau, một lao động có thể làm được nhiều việc và nhiều lao

động cũng có thể làm được một việc. Chính vì vậy mà lao động nơng nghiệp ít
chuyên sâu hơn lao động công nghiệp, hơn nữa phần lớn lao động trong nơng
nghiệp mang tính phổ thơng, chưa được đào tạo, sản xuất chủ yếu bằng kinh
nghiệm là chính, lao động chất xám khơng nhiều. Vì thế làm cho hiệu suất lao
động thấp, khó khăn trong việc đưa khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp.
Lao động nông thôn có việc làm khơng ổn định và rất đa dạng, hoạt
động sản xuất nông nghiệp diễn ra trên phạm vị không gian rộng lớn, lại luôn
phụ thuộc vào các yếu tố về thiên nhiên, cơ sở hạ tầng và các dịch vụ sản
xuất. Do vậy rủi ro về mùa màng có thể xẩy ra với bất cứ lúc nào, do đó cơng
việc của người lao động thường khơng ổn định và rất bấp bênh, có lúc thì thừa
việc làm song có lúc lại thiếu việc làm.
Việc làm trong nơng nghiệp, nông thôn thường là những công việc giản
đơn, thủ công, khơng địi hỏi tay nghề cao, tư liệu sản xuất chủ yếu là đất đai
và tư liệu cầm tay, dễ học hỏi, dễ chia sẻ. Vì vậy khả năng thu dụng lao động
cao nhưng sản phẩm làm ra chất lương thấp, năng suất lao động thấp nên thu
nhập bình quân của lao động nơng thơn nói chung khơng cao. Ở nơng thơn có
một lượng khá lớn cơng việc tại nhà không định được thời gian như: trông


20
nhà, nội chợ, trơng con cháu…có tác dụng hỗ trợ tích cực tăng thêm thu nhập
cho gia đình. Thực chất đây cũng là việc làm có khả năng tạo thu nhập và lợi
ích đáng kể cho người lao động.
Thị trường sức lao động ở nơng thơn thực tế đã có từ lâu nhưng kém phát
triển. Hình thức trao đổi sức lao động diễn ra tự phát theo quan hệ truyền thống
trong cộng đồng, thiếu một cơ chế điều tiết thống nhất và chưa được pháp chế
hóa. Vì vậy giá trị công lao động thường được đánh giá theo thỏa thuận dân sự,
trực tiếp, việc thanh toán kết hợp cả giá trị và hiện vật. Một số nơi do chưa phát
triển được ngành nghề dẫn đến dư thừa lao động, nhất là vào thời vụ nông nhàn
người lao động phải đi làm thuê ở vùng khác hoặc ra thành phố để tìm việc làm.

Các đặc điểm trên có ảnh hưởng rất lớn đến chủ trương chính sách và
định hướng tạo việc làm ở nơng thơn. Nếu có cơ chế phù hợp, mở rộng và
phát triển các biện pháp về tạo việc làm thích ứng sẽ góp phần giải quyết tốt
mối quan hệ dân số với việc làm.
1.1.4. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và Đảng ta về việc làm
và giải quyết việc làm
Về vấn đề việc làm, Mác cho rằng: “Việc làm là phạm trù để chỉ trạng
thái phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản
xuất, công nghệ) để sử dụng sức lao động đó”. Trong xã hội tư bản sức lao
động do người lao động sở hữu, còn tư liệu sản xuất cơ bản nằm trong tay các
nhà tư bản, quy luật giá trị và quy luật tích luỹ tư bản làm cho trạng thái phù
hợp đó khơng được duy trì thường xuyên, khủng khoảng và thất nghiệp cũng
như tình trạng thiếu việc làm là mang tính chu kỳ. Nếu những điều kiện cần
thiết như vốn, công nghệ, tư liệu sản xuất… do người lao động và xã hội
quản lý, sử dụng, tạo ra cơng bằng xã hội thì mới có thể khắc phục được tình
trạng thất nghiệp và thiếu việc làm mang tính chu kỳ.
Vì vậy, Đảng ta chủ trương lấy phát triển kinh tế làm trung tâm, gắn
tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi


21
và trong suốt quá trình phát triển của đất nước là giải pháp cơ bản nhất để giải
quyết vấn đề việc làm và thất nghiệp. Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành
Trung ương Đảng lần thứ tư (khóa VIII) đã khẳng định:
Tích cực giải quyết vấn đề lao động, việc làm. Kết hợp chương
trình quốc gia giải quyết việc làm với tùng chương trình dự án lớn
phát triển kinh tế để tạo ra nhiều chỗ làm việc mới, đặc biệt là các
dự án đầu tư bằng vốn ngân sách và vốn đầu tư nước ngồi.
Khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các làng nghề mới ở
nông thôn để giải quyết việc làm tại chỗ, hoàn thiện cơ chế quản lý

và tăng cường quỹ quốc gia giải quyết việc làm [8, tr.80].
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI chỉ rõ: “Thực hiện tốt các chính
sách về lao động, việc làm, tiền lương, thu nhập nhằm khuyến khích và phát
huy cao nhất năng lực của người lao động. Bảo đảm quan hệ lao động hài
hịa,cải thiện mơi trường và điều kiện lao động…”[11, tr.125].
1.2. Vai trò của giải quyết việc làm cho lao động nông thôn bị thu
hồi đất
1.2.1. Thu hồi đất phục vụ các cơng trình lợi ích cơng cộng, lợi ích
quốc gia, phát trển kinh tế - xã hội
Theo Khoản 5, Điều 4 Luật Đất đai năm 2003 qui định: “Thu hồi đất là
việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu
lại đất đã giao cho, tổ chức, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý
theo qui định của Luật này” [27, tr.17].
Thu hồi đất là việc chuyển đổi quyền sử dụng đất từ một chủ thể đang
sử dụng sang một chủ thể khác. Việc thu hồi đất có thể có rất nhiều lý do, ví
dụ như người sử dụng đất vi phạm các quy tắc về quản lý và sử dụng đất đai
(thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai), hoặc do chiến tranh, thiên tai, địch
hoạ (trưng mua, trưng dụng). Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài
luận văn chỉ tập trung vào các trường hợp thu hồi đất trong quy hoạch xây dựng,
tức là việc thu hồi đất không phải do vi phạm luật đất đai, cũng không phải do


22
chiến tranh, thiên tai, địch họa mà do thực hiện xây dựng theo quy hoạch chung,
để phục vụ các mục đích phúc lợi xã hội, quốc phịng, an ninh hoặc để phát triển
kinh tế theo đồ án qui hoạch xây dựng đã được cơ quan có thẩm quyền phê
duyệt. Do vậy, thu hồi đất trong phạm vi nghiên cứu của đề tài gồm: vì mục đích
cơng cộng, phát triển kinh tế, xã hội; theo qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã
được duyệt; do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo trình tự thủ tục
và các qui định của pháp luật.

Việc thu hồi đất gắn với việc đền bù, bồi thường,hỗ trợ:
+ Đền bù: Là khái niệm dùng để chỉ sự “ đền đáp” lại những thiệt hại
do mọi hoạt động của một chủ thể gây ra. Trong qui hoạch xây dựng, chính
sách đền bù là khái niệm chung, dùng để chỉ tập hợp các chính sách về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư.
+ Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư:
Bồi thường là sự “bù đắp” tất cả những thiệt hại mà chủ thể gây ra một
cách tương xứng. Trong qui hoạch xây dựng, thiệt hại gây ra có thể là thiệt hại
vật chất hoặc thiệt hại phi vật chất. Trong giải phóng mặt bằng, cùng với các
quy định về “bồi thường” là các qui định về hỗ trợ, tái định cư nhằm trợ giúp
thêm cho người bị thu hồi đất tái lập cuộc sống mới, để chuyển đổi nghề
nghiệp, để giải quyết khó khăn về mặt kinh tế. Riêng tái định cư đặt ra với các
chủ thể khơng cịn đất ở sau khi bị thu hồi nhằm tái lập nơi ở mới “ bằng hoặc
tốt hơn nơi ở cũ”. Đây là những khái niệm được dùng trong các qui định pháp
luật hiện hành.
+ Những hình thức hỗ trợ thu hồi đất:
* Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước giúp đỡ người bị
thu hồi đất thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để
di rời đến địa điểm mới.
* Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc nhà nước trả lại giá trị
quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất.


23
1.2.2. Đặc điểm của người lao động khi Nhà nước thu hồi đất
Với những người dân khi bị thu hồi đất, do đất đai chính là tư liệu sản
xuất, nơi đã giúp họ tạo ra được thu nhập, là điều kiện cần thiết để họ có thể
sinh tồn. Người lao động khi bị thu hồi đất, khơng cịn đất tham gia vào lao
động sản xuất cũng tựa như họ mất đi quyền lợi của chính mình.
Ngồi ra, những người lao động sau khi bị thu hồi đất họ rất khó

chuyển đổi nghề nghiệp. Một phần vì với phần lớn người lao động bị thu hồi
đất quen với nghề nông. Mất đất canh tác đồng nghĩa với việc họ mất nơi lao
động hoạt động sản xuất. Những lao động này thường quen với việc thuần
nơng, khơng có tay nghề, khơng có bằng cấp. Để kiếm được việc làm, họ cần
phải cạnh tranh với khá đông số lượng lao động được đào tạo bởi các trường
đại học, cao đẳng, dạy nghề. Biết được sự bất lợi của mình thế nhưng người
lao động lại không cố gắng khắc phục những yếu kém, mà cịn bng xi,
khơng nỗ lực trong việc nâng cao trình độ kiến thức để tìm được một cơng
việc mới tốt hơn. Ngoài ra, một phần những lao động bị thu hồi đất đã quá
tuổi, cùng với tâm lý lo sợ rủi ro, thất bại, với tư duy “ăn chắc, mặc bền” sản
xuất nhỏ lẻ, càng làm cho cơ hội tìm việc của họ trở nên khó khăn hơn.
Phần lớn người bị thu hồi đất là những người làm nghề nông nghiệp.
Một số người sau khi bị thu hồi đất tuy diện tích đất bị thu hẹp nhưng họ vẫn
cố bám trụ với nghề nơng như: trồng lúa, chăm sóc hoa màu, chăn ni trâu,
bị, lợn gà để kiếm sống. Tuy nhiên, họ chỉ biết lao động với những phương
thức đơn giản, chưa biết áp dụng những tiến bộ công nghệ mới, họ vẫn dựa
nhiều vào những công nghệ lâu năm của mình đã sản xuất. Vì vậy, thu nhập
của những người lao động này sau khi bị thu hồi đất trở nên rất thấp, khơng
đủ để sinh sống.
Bên cạnh đó, vẫn cịn có những lao động sống ỷ lại vào những khoản
tiền trợ cấp đền bù đất. Phần lớn số tiền được đền bù người dân sử dụng vào
việc sửa sang xây dựng nhà ở, mua sắm phương tiện đi lại, việc học tập của


24
con cháu. Tuy nhiên rất ít gia đình dành tiền đền bù đầu tư cho việc học tập
của con cháu, số hộ dùng tiền được đền bù để đầu tư vào kinh doanh sản xuất
cũng không nhiều. Nhiều người chỉ biết ăn tiêu chứ không biết cách tạo việc
làm như thế nào. Một số người chỉ thích chọn những cơng việc nhàn hạ mà
khơng phải chịu nhiều áp lực. Vì vậy, cần có những chính sách tạo việc làm

và hỗ trợ cho người lao động.
Việc thu hồi đất để phát triển cơng nghiệp, khu đơ thị có một số ảnh
hưởng tiêu cực đến đời sống của người dân như ô nhiễm môi trường, tệ nạn
xã hội…điều này đã gây băn khoăn, lo lắng về sức khỏe của người dân, và
cộng đồng. Sự xuất hiện của các tệ nạn xã hội như ma túy, cờ bạc, rượu chè
… do những người lao động sau khi bị thu hồi đất, đang sẵn tiền, lại khơng có
việc làm nên hàng ngày họ chỉ biết ăn chơi, hưởng thụ khoản tiền lớn từ đền
bù đất do nhà nước trả cho họ. Chính vì vậy mà họ đã trở thành những người
dễ bị lôi kéo vào các tệ nạn của xã hội, là một trong các tác nhân gây nên
những bất ổn của xã hội.
Phần lớn nông dân bị thu hồi đất cảm thấy chưa thật hài lịng với chính
sách đền bù giải tỏa mặt bằng và hỗ trợ chuyển đổi việc làm, nguyên nhân là
do việc thu hồi đất kéo dài nhiều đợt dẫn đến việc tiền đền bù nhận được lẻ tẻ
gây khó khăn cho việc đầu tư, ổn định, phát triển sản xuất. Nhưng lý do cơ
bản nhất là tình trạng thiếu công bằng trong công tác đền bù. Hiện nay, đứng
giữa các quy định chính sách cũ và mới, mức giá đền bù đã chênh nhau đáng
kể. Nhiều người dân bị thu hồi đất trước trở nên thiệt thòi.
1.2.3. Sự cần thiết phải giải quyết việc làm cho
người dân bị thu hồi đất
Tạo việc làm cho lao động nông thôn bị thu hồi đất là một nhân tố quan
trọng cho việc phát triển kinh tế của đất nước. Sự phát triển này còn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như tài nguyên, vốn, lao động, cơng nghệ, trong đó
việc sử dụng lao động là một nhân tố quan trọng, nhất là đối với một nước


25
nông nghiệp đang phát triển như Việt Nam. Hiện nay chúng ta đang có nhiều
dự án phát triển, dẫn đến việc tồn tại một lượng lớn người lao động sau khi bị
thu hồi đất khơng có việc làm. Việc một lực lượng lớn lao động dôi dư không
sử dụng đã gây lãng phí và tổn thất lớn cho xã hội, nhất là đối với một đất

nước đang phát triển như Việt Nam. Chính vì vậy, tạo việc làm cho lao động
nơng thơn bị thu hồi đất là hoạt động đóng vai trò quan trọng đối với xã hội,
doanh nghiệp và đối với bản thân chính người lao động.
Tạo việc làm cho lao động nơng thơn bị thu hồi đất chính là biện pháp
giúp người lao động sớm ổn định được đời sống cũng như góp phần nâng cao
thu nhập của bản thân và gia đình của người lao động. Khi đó, ý thức của
người dân lao động trong việc nâng cao trình độ, nhận thức tăng lên, biết đầu
tư nhiều hơn vào đào tạo cho tầng lớp con em. Đồng thời điều này cũng giúp
giảm sự phân cách giàu nghèo giữa trong xã hội.
Hiện nay, nước ta là một nước đang phát triển, người lao động là một
nguồn lực quan trọng, là một trong những yếu tố cơ bản để phát triển.Vì vậy,
tạo việc làm cho người lao động nói chung và lao động nông thôn bị thu hồi
đất là rất cần thiết. Đối với một nước thuần nông như nước ta, lao động nông
thôn bị thu hồi đất mà chủ yếu là đất canh tác, khơng cịn đất để sản xuất làm
ăn sinh sống, trở nên thất nghiệp. Nhà nước cần có những chính sách đào tạo,
đặc biệt hướng vào các đối tượng thành niên, bởi đây là lực lượng nòng cốt, là
xương sống để phát triển kinh tế hiện nay. Nếu đẩy mạnh q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa mà khơng gắn liền với quyền lợi và việc làm của lao
động bị thu hồi đất thì sẽ tạo ra sự mất ổn định trong xã hội, làm chậm tiến
q trình cơng nghiệp hóa. Việc đưa lao động sau thu hồi đất, sử dụng đúng
chỗ, đúng cách giúp chúng ta có thể tăng năng xuất sản xuất, tạo cho nền kinh
tế đi lên. Trong những năn vừa qua, cùng với q trình cơng nghiệp hóa, đơ
thị hóa, nhiều diện tích đất đã bị thu hồi để phục vụ cho việc phát triển kinh tế


×