Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình của tòa án nhân dân ở tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (489.35 KB, 102 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cơng cuộc đổi mới của đất nước ta hiện nay, một trong những
nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân
và vì dân. Chủ trương này của Đảng lần đầu tiên được đề cập tới tại Nghị
quyết Hội nghị tồn quốc giữa nhiệm kỳ khố VII (năm 1993), được ghi nhận
chính thức tại Đại hội Đảng lần thứ IX và được thể chế hoá tại điều 2 Hiến
pháp năm 1992 (sửa đổi). Đặc trưng của Nhà nước pháp quyền là bộ máy Nhà
nước phải luôn được củng cố, tăng cường để đáp ứng những nhiệm vụ mà
thời kỳ đổi mới đặt ra, đó là tinh giản, gọn nhẹ và đặc biệt hoạt động có hiệu
quả theo đúng chức năng, nhiệm vụ của mình đã được pháp luật quy định. Tại
các Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VIII) cũng
đã chỉ rõ: “Tiếp tục cải cách Tư pháp là yêu cầu cấp bách” Vì vậy, Bộ Chính
trị đã đưa ra một số Nghị quyết nhằm cải cách tư pháp trong thời kỳ mới, đó
là Nghị quyết số 08/NQ- TƯ ngày 2/1/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm
của công tác tư pháp trong thời gian tới”; Nghị quyết số 48/NQ-TƯ ngày
24/5/2002 về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” và Nghị quyết 49/NQTƯ ngày 2/6/2005 về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Mục
đích của cải cách tư pháp là nhằm xây dựng nền tư pháp trong sạch, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc mà trọng
tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Tòa án năm
2002, nhiệm vụ trọng tâm của Tòa án là xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hơn
nhân và gia đình, kinh tế, hành chính, lao động và giải quyết các việc khác
theo quy định của pháp luật. Trên thực tế, hoạt động trọng tâm của Tòa án là
một hoạt động áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án nói chung và


2
các vụ án Hơn nhân và Gia đình nói riêng, được tiến hành theo một quá trình


gồm nhiều giai đoạn. Các giai đoạn của áp dụng pháp luật có mối liên hệ mật
thiết với nhau, kết quả của giai đoạn này làm tiền đề cho giai đoạn tiếp theo
với mục đích là giải quyết một vụ án được chính xác, bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của các đương sự.
Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua luôn ln quan tâm tới vấn
đề gia đình. Luật Hơn nhân và gia đình có vai trị góp phần xây dựng, hồn
thiện và bảo vệ chế độ hơn nhân và gia đình tiến bộ, nhằm xây dựng gia đình
ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững. Quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về gia đình được ghi nhận tại Điều 64 Hiến pháp năm 1992: “Gia
đình là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình theo nguyên
tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Cha mẹ có
trách nhiệm nuôi dạy con thành những người công dân tốt, con cháu có bổn
phận chăm sóc ơng bà, cha mẹ…” [30, tr.11].
Trong những năm gần đây, đời sống kinh tế xã hội ngày càng phát triển,
song các vụ án về hơn nhân và gia đình có chiều hướng gia tăng, các vụ án về
lĩnh vực này được Tòa án thụ lý xét xử ngày càng nhiều. Việc áp dụng pháp luật
trong giải quyết án hơn nhân và gia đình đã được thực hiện nhằm giải quyết
những mâu thuẫn bất hòa trong gia đình và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các thành viên trong gia đình. Bên cạnh những mặt đã đạt được trong quá
trình áp dụng pháp luật để giải quyết án hơn nhân và gia đình thì hoạt động áp
dụng pháp luật của Tịa án trong lĩnh vực này vẫn còn những hạn chế, bất cập
như vẫn cịn những vụ án mà q trình giải quyết còn để tồn đọng, dây dưa
kéo dài, một số bản án còn bị sửa, hủy gây ảnh hưởng đến quyền lợi của các
bên đương sự…
Ở tỉnh Phú Thọ trong những năm qua, số lượng án về Hơn nhân và gia
đình cũng có chiều hướng gia tăng. Đối với loại án trong lĩnh vực này, mỗi vụ
án có nội dung đa dạng và tính phức tạp khác nhau. Do đó, việc áp dụng pháp


3

luật để giải quyết loại án này gặp khơng ít khó khăn như khó khăn trong nhận
thức vận dụng pháp luật, cũng như những khó khăn từ khách quan mang lại.
Tuy vậy, q trình giải quyết án Hơn nhân và gia đình ở Phú Thọ trong
những năm qua đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần giải quyết các
mâu thuẫn bất hịa trong hơn nhân, bảo vệ các quyền lợi các quyền lợi hợp
pháp của đương sự. Thông qua việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết án
Hơn nhân và gia đình đã góp phần làm ổn định quan hệ trong hơn nhân, giữ
gìn kỷ cương pháp luật, giữ ổn định chính trị, trật tự an tồn xã hội, góp phần
tăng cường nền pháp chế XHCN trên toàn tỉnh Phú Thọ. Đồng thời, hoạt động
áp dụng pháp luật trong giải quyết án Hơn nhân và gia đình, ngoài việc đấu
tranh với các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực về hơn nhân, cịn phổ
biến, tun truyền giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân. Từ sự hiểu biết pháp
luật, nhân dân sẽ tự giác thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật, tố giác những
hành vi vi phạm pháp luật trong quan hệ hôn nhân. Đồng thời, qua thực tiễn áp
dụng pháp luật trong giải quyết án Hơn nhân và gia đình sẽ phát hiện ra những
hạn chế, bất cập trong pháp luật để có những đề xuất sửa đổi cho phù hợp với
địi hỏi của thực tiễn trong từng giai đoạn cụ thể.
Bên cạnh những mặt đã đạt được, qua quá trình kiểm tra Giám đốc
thẩm và xét xử phúc thẩm của TAND tỉnh Phú Thọ đã phát hiện có những
thiếu sót, hạn chế của việc áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết như
xét xử oan sai, án tồn đọng còn nhiều, cịn có vụ án vi phạm thời hạn tố tụng.
Đặc biệt, một số vụ án do áp dụng pháp luật khơng chuẩn xác nên cịn bị sửa,
hủy nhiều lần, kéo dài nhiều năm, gây ảnh hưởng đến đời sống, quyền và lợi ích
hợp pháp của cơng dân. Do đó, đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn
đến nhân dân khiếu kiện vượt cấp lên đến các cơ quan Trung ương. Có thể thấy
rằng những tồn tại trên là rào cản cho quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền.
Như vậy, về mặt lý luận và thực tiễn hiện nay có nhiều vấn đề đặt ra để
nghiên cứu, đánh giá thực tế, tìm hiểu từ nhiều góc độ khác nhau để có những căn



4
cứ khoa học về áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tịa án nhân dân nói
chung và áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án Hơn nhân và gia đình nói
riêng. Do đó, việc nghiên cứu về vấn đề này là rất cần thiết và có ý nghĩa cả về lý
luận và thực tiễn. Xuất phát từ những lý do trên, cùng với việc mong muốn góp
phần nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết án Hơn
nhân và gia đình của ngành Tịa án nói chung và TAND tỉnh Phú Thọ nói riêng,
tơi chọn đề tài nghiên cứu: “Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án Hôn
nhân và gia đình của Tịa án nhân dân ở tỉnh Phú Thọ” làm luận văn Thạc sĩ
chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án nói chung và áp dụng
pháp luật trong giải quyết các vụ án Hơn nhân và gia đình nói riêng đã được
giới khoa học pháp lý và nhất là những người trực tiếp làm công tác xét xử
của ngành Tịa án quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều bài viết, cơng trình
nghiên cứu đề cập đến một số khía cạnh khác nhau về những vấn đề liên quan
đến đề tài như:
- Lê Thu Hà (1999), “Án dân sự bị kéo dài- vài nguyên nhân và giải
pháp”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 01;
- Đặng Quang Phương (1999), “Thực trạng của các bản án hiện nay và
một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các bản án”, Tạp chí Tịa án số 7,8;
- Bùi Văn Thuấn (2002), “Phụ nữ và pháp luật, quyền và nghĩa vụ của
vợ chồng đối với tài sản riêng và chung”, Luận văn thạc sĩ Luật học Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Lê Xuân Thân (2004), “Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của
Tòa án nhân dân ở Việt nam hiện nay” Luận án tiến sĩ; , Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.
- Chu Đức Thắng (2004), “Áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các
vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn



5
thạc sĩ Luật, Viện Nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh;
- Hà Thành Đê (2004), “Thực hiện pháp Luật Hôn nhân và gia đình trong
đồng bào dân tộc ít người ở tỉnh Yên Bái”, Luận văn thạc sĩ Luật, Viện Nhà
nước và pháp luật, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh;
- Nguyễn Văn Cừ (2005) “Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam” Luận án tiến sĩ, Trường đại học Luật Hà Nội;
- Thủy Nguyên (2005), “Áp dụng Luật hơn nhân gia đình khi giải
quyết vụ án có yếu tố nước ngồi”, Tạp chí Tịa án số 17;
Ngồi ra, trên các tạp chí khác như: Tạp chí Luật học; Tạp chí Kiểm
sát; Tạp chí Dân chủ; Tạp chí Nhà nước và Pháp luật… cũng có nhiều bài viết
nghiên cứu về việc áp dụng pháp luật.
Các bài viết và các cơng trình trên nói chung đã làm rõ một số khía
cạnh lý luận và thực tiễn liên quan đến việc áp dụng pháp luật trong giải quyết
các vụ án Hôn nhân và gia đình, làm tiền đề tư liệu quan trọng cho việc
nghiên cứu đề tài về lĩnh vực này. Tuy nhiên, các nghiên cứu và bài viết trên
chỉ tập trung nghiên cứu về việc áp dụng pháp luật của Tịa án nhân dân nói
chung hoặc nghiên cứu một khía cạnh nào đó của hoạt động áp dụng pháp
luật trong giải quyết các vụ án Hơn nhân và gia đình. Hiện nay, chưa có một
cơng trình nào phân tích một cách tồn diện, đầy đủ có hệ thống dưới góc độ
Lý luận và thực tiễn về áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án Hơn nhân
và gia đình của Tòa án nhân dân ở tỉnh Phú Thọ. Do đó, với cơng việc hiện nay
là một cán bộ đang cơng tác tại Tịa án nhân dân tỉnh Phú Thọ, tôi lựa chọn chủ
đề này làm đề tài luận văn Cao học Luật của mình với mong muốn kết quả
nghiên cứu sẽ góp phần nâng cao chun mơn nghiệp vụ công tác.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu hoạt động việc áp dụng pháp luật trong hoạt động

giải quyết án Hơn nhân và gia đình của Tịa án nhân dân.


6
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu tình hình áp dụng pháp luật để giải quyết án Hôn
nhân và gia đình của TAND ở tỉnh Phú Thọ, trong khoảng thời gian từ năm
2008 đến năm 2012. Luận văn không đề cập đến việc áp dụng pháp luật trong
giải quyết các việc dân sự liên quan đến Hôn nhân và gia đình, các loại án
khác tại Tịa án nhân dân tỉnh Phú Thọ và tại các địa phương khác.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
4.1. Mục đích luận văn
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật trong giải quyết án
Hôn nhân và gia đình.
- Đánh giá thực tiễn của việc áp dụng pháp luật trong giải quyết án Hơn
nhân và gia đình của TAND tỉnh Phú Thọ.
- Đề ra những giải pháp đưa ra các giải pháp mang tính khoa học nhằm
đảm bảo việc áp dụng pháp luật trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình của
TAND ở tỉnh Phú Thọ hiện nay.
4.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện được mục đích trên luận văn có nhiệm vụ cụ thể sau đây:
+ Phân tích, làm sáng tỏ xây dựng khái niệm, áp dụng trong giải quyết
án Hơn nhân và gia đình và phân tích các đặc điểm, nội dung, cũng như nêu
lên các giai đoạn của việc áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết án
Hơn nhân và gia đình.
+ Đánh giá kết quả đạt được, những ưu điểm, hạn chế của hoạt động áp
dụng pháp luật trong giải quyết án Hơn nhân và gia đình của TAND ở tỉnh
Phú Thọ và rút ra các nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan của
thực trạng, hạn chế.
+ Nêu lên các quan điểm, yêu cầu và đề xuất các giải pháp cụ thể như:

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Tịa án; hồn thiện
các quy phạm pháp luật nhằm đảm bảo áp dụng pháp luật trong giải quyết án


7
Hơn nhân và gia đình; kiện tồn tổ chức, nâng cao năng lực của Thẩm phán, cán
bộ Tòa án và Hội thẩm nhân dân… nhằm đảm bảo việc áp dụng pháp luật trong
giải quyết án Hơn nhân và gia đình của TAND ở tỉnh Phú Thọ.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
Nhà nước và pháp luật, trong đó có vấn đề áp dụng pháp luật giải quyết án Hôn
nhân và gia đình.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử
dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp lịch sử, phương
pháp luật học so sánh, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp điều
tra xã hội học, phương pháp thống kê, tổng kết thực tiễn…
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động áp
dụng pháp luật trong giải quyết án Hơn nhân và gia đình, làm rõ những đặc
thù của loại án này ở tỉnh Phú Thọ.
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng, chỉ ra những bất cập trong hoạt động
áp dụng pháp luật giải quyết án Hơn nhân và gia đình ở tỉnh Phú Thọ và đề ra
các giải pháp có tính khả thi nhằm đảm bảo áp dụng pháp luật trong hoạt động
giải quyết án Hơn nhân và gia đình tỉnh Phú Thọ có hiệu quả, đáp ứng u cầu
của cơng cuộc cải cách tư pháp.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn là cơng trình nghiên cứu đầu tiên về hoạt động áp dụng
pháp luật trong giải quyết án Hơn nhân và gia đình của TAND ở tỉnh Phú Thọ.

Luận văn góp phần nghiên cứu những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật
trong giải quyết án Hơn nhân và gia đình, làm phong phú thêm những vấn đề
lý luận trong lĩnh vực này.


8
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận và
cơ sở thực tiễn cho những người trực tiếp làm công tác áp dụng pháp luật
trong giải quyết án Hơn nhân và gia đình để đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh
Luật Hôn nhân và gia đình.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên
cứu giảng dạy, học tập trong các trường Đại học chuyên luật và không chuyên
luật, hệ thống các trường chính trị của Đảng, cho những người đang trực tiếp
làm công tác giải quyết án Hơn nhân và gia đình tại TAND nói chung và
TAND tỉnh Phú Thọ nói riêng.
8. Kết cấu luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.


9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT CÁC
VỤ ÁN HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA
TỊA ÁN NHÂN DÂN

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm áp dụng pháp luật
1.1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật

Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, sử dụng pháp luật để điều
chỉnh, quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn
hố, giáo dục, an ninh quốc phòng, khoa học kỹ thuật... Tuy nhiên, để pháp
luật thực sự đi vào cuộc sống thì ngồi yếu tố như sự phù hợp của hệ thống
quy phạm pháp luật với các điều kiện kinh tế, lịch sử, trình độ phát triển của
xã hội, Nhà nước còn phải quan tâm đến hoạt động tổ chức thực hiện và áp
dụng pháp luật một cách nghiêm minh. Bởi lẽ, cho dù có ban hành ra những
văn bản pháp luật hoàn chỉnh đến đâu nhưng nếu các quy định của những văn
bản đó khơng thực hiện được trên thực tế thì mục đích điều chỉnh pháp luật
vẫn chưa đạt được.
Thực hiện đúng đắn và nghiêm chỉnh pháp luật là một yêu cầu khách
quan của quản lý Nhà nước bằng pháp luật. Pháp luật được ban hành nhiều
nhưng khơng đi vào cuộc sống thì điều đó chứng tỏ cơng tác quản lý nhà nước
kém hiệu quả. Do đó, xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật là hai hoạt
động có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Thực hiện pháp luật là hành vi của con người phù hợp với những quy
định của pháp luật. Nói cách khác, đó là hành vi khơng trái, khơng vượt quá
phạm vi các quy định của pháp luật và có lợi cho xã hội, cho Nhà nước và cho
bản thân các cá nhân. Hành vi hợp pháp rất đa dạng và phong phú, chúng có


10
thể được thực hiên phụ thuộc vào ý chí của mỗi cá nhân, nhưng cũng có thể
chỉ phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước. Hành vi hợp pháp của các chủ thể có
thể được thực hiện xuất phát từ nhiều nguyên nhân như sự tự giác của bản
thân chủ thể; do ảnh hưởng của dư luận xung quanh hoặc là kết quả của việc
áp dụng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước.Thực hiện pháp luật là một
quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào
cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể pháp
luật. Các quy phạm pháp luật rất phong phú nên hình thức thực hiện chúng

cũng được tiến hành theo nhiều cách khác nhau. Khoa học pháp lý đã xác
định có bốn hình thức thực hiện pháp luật sau:
Thứ nhất, tuân thủ pháp luật: là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó
các chủ thể pháp luật kiềm chế khơng tiến hành những hành động mà pháp
luật ngăn cấm.
Thứ hai, chấp hành pháp luật: là một hình thức thực hiện pháp luật,
trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành
động tích cực.
Thứ ba, sử dụng pháp luật: là một hình thức thực hiện pháp luật, trong
đó các chủ thể pháp luật sử dụng các quyền năng pháp lý để bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp khác của mình.
Thứ tư, áp dụng pháp luật: là một hình thức thực hiện pháp luật, trong
đó Nhà nước thơng qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ
chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật hoặc
tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm
phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể.
Như vậy, trong bốn hình thức thực hiện pháp luật nêu trên thể hiện: nếu
như tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật và sử dụng pháp luật là những
hình thức mà mọi chủ thể pháp luật đều có thể thực hiện thì áp dụng pháp luật
là hình thức ln ln có sự tham gia của Nhà nước - là một hình thức thực


11
hiện pháp luật đặc biệt. Bởi, nếu chỉ thông qua các hình thức thực hiện pháp
luật như: Tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật và sử dụng pháp luật thì
pháp luật có lúc khơng được thực hiện triệt để vì các chủ thể khơng tự giác
thực hiện. Các hình thức này chỉ do các chủ thể pháp luật tự giác thực hiện mà
khơng có sự bắt buộc thực hiện của Nhà nước. Đối với áp dụng pháp luật thì
mục đích trực tiếp là đảm bảo cho những quy phạm pháp luật được thực hiện
trong thực tế đời sống, phát huy được hiệu lực trong hoạt động thực tế của các

chủ thể pháp luật. Thực tế đã cho thấy, có những trường hợp nếu khơng có sự
can thiệp của Nhà nước thì nhiều quy phạm pháp luật sẽ khơng được thực
hiện hoặc thực hiện không đúng.
Áp dụng pháp luật là hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
hoặc các tổ chức, cá nhân được Nhà nước trao quyền trong việc tổ chức, tạo
điều kiện cho các chủ thể pháp luật thực thiện các quy định của pháp luật về
quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ. Nó vừa là một hình thức thực hiện pháp
luật, vừa là cách thức Nhà nước tổ chức cho các chủ thể thực hiện pháp luật.
1.1.1.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật
Nghiên cứu áp dụng pháp luật cho thấy áp dụng pháp luật có một số
đặc điểm đặc thù sau:
Một là, áp dụng pháp luật về nguyên tắc chỉ do những cơ quan nhà nước
có thẩm quyền và cá nhân được nhà nước trao quyền tiến hành. Pháp luật quy
định các cơ quan nhà nước khác nhau có thẩm quyền áp dụng pháp luật khác
nhau. Ngoài ra, trong một số trường hợp cá biệt, pháp luật trao cho các tổ chức
xã hội thẩm quyền áp dụng pháp luật.
Hai là, áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước.
Trong nhiều trường hợp, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành áp
dụng pháp luật theo ý chí đơn phương, khơng phụ thuộc vào ý chí của chủ thể
bị áp dụng. Sự áp dụng này có tính bắt buộc đối với chủ thể bị áp dụng và
được bảo đảm bởi sức mạnh cưỡng chế nhà nước.


12
Ba là, áp dụng pháp luật là hoạt động phải tiến hành theo các thủ tục
chặt chẽ do pháp luật quy định.
Bốn là, áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính sáng tạo. Nghĩa là,
khn khổ của pháp luật cho phép người áp dụng pháp luật phải vận dụng tri
thức khoa học của mình để áp dụng pháp luật sáng tạo trên cơ sở có ý thức
pháp luật cao, có kiến thức tổng hợp, kinh nghiệm cuộc sống phong phú mà

khơng rập khn, máy móc.
Áp dụng pháp luật thường được thực hiện trong các trường hợp sau:
- Khi cần sử dụng các biện pháp cưỡng chế bằng những chế tài thích
hợp đối với chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật.
Ví dụ: Tịa án áp dụng pháp luật để ra một bản án đối với người có hành
vi phạm tội.
- Khi các quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý cụ thể khơng tự phát sinh
nếu khơng có sự tác động của nhà nước.
- Khi xảy ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên tham
gia các quan hệ pháp luật mà họ không tự giải quyết được.
- Trong trường hợp nhà nước thấy cần thiết phải tham gia để kiểm tra,
giám sát hoạt động của các bên tham gia quan hệ đó hoặc nhà nước xác nhận
sự tồn tại hay không tồn tại của một số sự việc, sự kiện thực tế.
Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về áp dụng pháp luật như
sau: Áp dụng pháp luật là hoạt động thực hiện pháp luật, trong đó cơ quan nhà
nước, cá nhân được nhà nước trao quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật
làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể.
1.1.2. Khái niệm vụ án hơn nhân và gia đình và khái niệm, đặc điểm
áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án hơn nhân và gia đình của Tịa
án nhân dân
1.1.2.1. Khái niệm vụ án hơn nhân và gia đình
Để hiểu về khái niệm vụ án hơn nhân và gia đình, trước tiên chúng ta
cần hiểu thế nào là hơn nhân và gia đình:


13
- Hôn nhân: Là hiện tượng xã hội, là sự liên kết giữa người đàn ông và
người đàn bà được pháp luật thừa nhận để xây dựng gia đình và chung sống
với nhau. Sự liên kết đó phát sinh, hình thành do việc kết hôn và được biểu
hiện ở một quan hệ xã hội gắn liền với nhân thân, đó là quan hệ vợ chồng.

Quan hệ này là quan hệ giới tính, thực chất và ý nghĩa của nó là biểu hiện
trong việc sinh đẻ, nuôi nấng, giáo dục con cái, đáp ứng những nhu cầu về
tinh thần và vật chất trong đời sống hàng ngày. Trong mỗi giai đoạn phát triển
của lịch sử, giai cấp thống trị bằng pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân cho
phù hợp với ý chí, nguyện vọng của mình, phù hợp với lợi ích giai cấp mình,
xã hội nào thì có hình thái hơn nhân đó và tương ứng với chế độ hơn nhân
nhất định. Chẳng hạn, xã hội phong kiến có hình thức hôn nhân phong kiến,
mang bản chất của hôn nhân phong kiến. Trong xã hội tư bản có hình thức
hơn nhân tư sản mang bản chất của xã hội tư sản. Xã hội xã hội chủ nghĩa có
hình thức của hôn nhân xã hội chủ nghĩa.
Ở nước ta hiện nay, hơn nhân theo Luật hơn nhân và gia đình Việt Nam
là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người đàn bà trên nguyên tắc
hoàn toàn tự nguyện, bình đẳng theo quy định của pháp luật để chung sống
với nhau suốt đời, xây dựng gia đình hạnh phúc, dân chủ, hòa thuận và bền
vững. Khoản 6, điều 8 Luật hơn nhân và gia đình năm 2000 giải thích: “Hôn
nhân là quan hệ giữa người vợ và chồng sau khi đã kết hơn”.
- Gia đình: Tại khoản 10, điều 8 Luật hơn nhân và gia đình năm 2000
quy định: “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân,
quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng làm phát sinh các nghĩa vụ
và quyền giữa họ với nhau” [31, tr.13].
Điều đó thể hiện, gia đình có thể gồm vợ chồng, con cái, anh chị em,
cha mẹ, ơng bà... cùng chung sống với nhau, có quan hệ huyết thống hoặc
quan hệ nuôi dưỡng. Trong quá trình chung sống phát sinh các quyền và nghĩa
vụ đối với nhau.


14
Hơn nhân và gia đình là những hiện tượng xã hội mà luôn luôn được
các nhà triết học, xã hội học, sử học, luật học... nghiên cứu. Hôn nhân là cơ sở
của gia đình, cịn gia đình là tế bào của xã hội, mà trong đó kết hợp chặt chẽ,

hài hịa lợi ích của mỗi cơng dân, Nhà nước và xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen
đã chứng minh một cách khoa học rằng: Hơn nhân và gia đình là phạm trù
phát triển theo lịch sử, rằng giữa chế độ kinh tế - xã hội và tổ chức gia đình có
mối liên quan trực tiếp và chặt chẽ. Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình,
của chế độ tư hữu và Nhà nước” (1884), Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh: Chế độ
gia đình trong xã hội phụ thuộc vào quan hệ sở hữu thống trị trong xã hội đó
và bước chuyển hình thái gia đình này lên gia đình khác cao hơn suy cho cùng
được quyết định bởi những điều kiện vật chất của đời sống xã hội. Bằng tác
phẩm đó, Ph.Ăngghen đã làm thay đổi quan điểm trước đây về hình thái hơn
nhân và gia đình trong lịch sử.
Như vậy, hơn nhân gia đình là một lĩnh vực có thể nói là rất phức tạp,
liên quan đến nhiều cá nhân, nhiều thế hệ (ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái)
và mọi sự biến động liên quan đến gia đình đều làm phát sinh hàng loạt các
vấn đề pháp lý phức tạp, “chồng chéo” lên nhau. Khi trong gia đình phát sinh
những mâu thuẫn, bất đồng quan điểm về một hay các mối quan hệ liên quan
đến hơn nhân (tình cảm, con chung, tài sản chung...) mà các thành viên trong
gia đình khơng thể tự thỏa thuận, dàn xếp được với nhau dẫn đến phải khởi
kiện ra Tịa án thì được gọi là vụ án về hơn nhân và gia đình.
Như vậy, hơn nhân gia đình là một lĩnh vực có thể nói là rất phức tạp,
liên quan đến nhiều cá nhân, nhiều thế hệ (ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái)
và mọi sự biến động liên quan đến gia đình đều làm phát sinh hàng loạt các
vấn đề pháp lý phức tạp, “chồng chéo” lên nhau. Khi trong gia đình phát sinh
những mâu thuẫn, bất đồng quan điểm về một hay các mối quan hệ liên quan
đến hơn nhân (tình cảm, con chung, tài sản chung...) mà các thành viên trong


15
gia đình khơng thể tự thỏa thuận, dàn xếp được với nhau dẫn đến phải khởi
kiện ra Tịa án thì được gọi là vụ án về hôn nhân và gia đình.
Theo quy định tại Điều 27, Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành, những

tranh chấp về hôn nhân gia đình sau đây sẽ do tịa án giải quyết thơng qua đơn
khởi kiện của các đương sự là vụ án hơn nhân và gia đình.
1. Ly hơn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
2. Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
3. Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
4. Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ.
5. Tranh chấp về cấp dưỡng.
6. Các tranh chấp khác về hơn nhân và gia đình mà pháp luật có quy định.
Với phân tích trên, chúng ta có thể hiểu: vụ án hơn nhân và gia đình là
thuật ngữ chung dành để chỉ những tranh chấp giữa các đương sự liên quan
đến lĩnh vực hơn nhân gia đình, được tịa án xem xét giải quyết theo trình tự
và thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự.
1.1.2.2. Khái niệm, đặc điểm áp dụng pháp luật trong giải quyết các
vụ án hơn nhân và gia đình của Tòa án nhân dân
a) Khái niệm áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án hơn nhân và
gia đình
Trong tổ chức bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử. Hiến pháp năm 1946, Hiến
pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam độc lập, mặc dù khơng quy định rõ Tịa
án là cơ quan xét xử, nhưng trên tinh thần của Hiến pháp chúng ta cũng có thể
hiểu Tịa án là cơ quan xét xử. Sau đó, Hiến pháp năm 1959, 1980 và Hiến
pháp 1992 đã quy định rõ về chức năng xét xử của Tòa án. Tại Điều 127 của
Hiến pháp 1992 đã quy định: “Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân
địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là cơ quan
xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [30, tr.171]. Trên cơ


16
sở Hiến pháp, Điều 1 Luật tổ chức Tòa án nhân dân quy định về chức năng
xét xử của Tòa án: “Tịa án xét xử những vụ án về hình sự, dân sự, hơn nhân

và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo
quy định của pháp luật” [32, tr.7].
Trong quá trình giải quyết các vụ án, Tòa án phải áp dụng pháp luật
để giải quyết. Đối với quan hệ hôn nhân và gia đình, khi có tranh chấp xảy
ra, các đương sự khơng tự mình giải quyết được thì theo quy định của pháp
luật, đương sự có quyền gửi đơn khởi kiện đến Tịa án nhân dân có thẩm
quyền để đề nghị giải quyết tranh chấp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành, khi
đương sự gửi đơn khởi kiện vụ án hơn nhân và gia đình đến Tịa án nhân
dân cấp có thẩm quyền giải quyết, Tịa án xem xét nếu thấy đủ điều kiện thì
sẽ thụ lý vụ án và giải quyết theo trình tự của Bộ luật Tố tụng dân sự quy
định từ khâu thu thập tài liệu chứng cứ liên quan đến vụ án, lựa chọn quy
phạm pháp luật điều chỉnh để ra bản án hoặc quyết định buộc các đương
sự thi hành bằng các hình thức tự nguyện hoặc có sự cưỡng chế của cơ quan
thi hành án dân sự.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành thì Tịa án là cơ
quan tiến hành tố tụng chủ yếu trong việc áp dụng pháp luật giải quyết các
vụ án dân sự nói chung, vụ án hơn nhân và gia đình nói riêng. Ngồi ra,
cịn có sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp trong việc kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu
cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc
giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật. Đồng thời, Viện kiểm
sát tham gia phiên Tòa đối với những vụ án do Tịa án thu thập chứng cứ
mà đương sự có khiếu nại, các việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án, các vụ việc dân sự mà Viện kiểm sát kháng nghị bản án, quyết định
của Tòa án [33, tr.16].


17
Như vậy, có thể hiểu áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án hơn

nhân và gia đình là hoạt động thực hiện pháp luật đặc thù, trong đó Tịa án
thơng qua hoạt động của Thẩm phán (trong trường hợp giải quyết vụ án
khơng phải mở phiên Tịa xét xử ) hoặc Hội đồng xét xử (sau khi có quyết
định đưa vụ án ra xét xử) căn cứ vào các quy định của pháp luật Hơn nhân
và gia đình, các quy định khác của pháp luật để ra một quyết định cá biệt
hoặc một bản án làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp
luật về hơn nhân và gia đình.
b) Đặc điểm áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án hôn nhân và
gia đình của Tịa án nhân dân
Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án hơn nhân và gia đình của
Tòa án nhân dân là sự biểu hiện của áp dụng pháp luật nói chung, nó mang
đầy đủ đặc điểm của áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, do tính chất riêng biệt của
các quan hệ hơn nhân và gia đình cùng với trình tự, thủ tục giải quyết các vụ
án hơn nhân và gia đình của pháp luật tố tụng dân sự trong giải quyết các vụ
án hôn nhân và gia đình của Tịa án cho nên áp dụng pháp luật trong giải
quyết các vụ án hôn nhân và gia đình có những đặc điểm riêng sau:
Thứ nhất, Tịa án là chủ thể duy nhất có thẩm quyền áp dụng pháp luật để
giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình. Điều 33, Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2004 quy định: Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có
thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hơn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; u cầu về dân sự, hơn
nhân gia đình. Quy định về thẩm quyền giải quyết của Tòa án giúp cho việc
giải quyết các vụ án hơn nhân và gia đình của Tòa án được thuận lợi, tạo điều
kiện cho đương sự cũng như đáp ứng được yêu cầu theo quy định của pháp
luật nói chung.
Khoản 2, Điều 32 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 quy định:
Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền sơ


18

thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng. Điểm a, Khoản 1,
Điều 33, Bộ luật Tố tụng dân sự quy định Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm
quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về hơn nhân và gia
đình quy định tại Điều 27, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2011, cụ thể: Ly hôn,
tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn. 2.Tranh chấp về chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. 3.Tranh chấp về thay đổi người
trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. 4.Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con
hoặc xác định con cho cha, mẹ. 5.Tranh chấp về cấp dưỡng. 6. Các tranh chấp
khác về hôn nhân và gia đình mà pháp luật có quy định.
Điều 28, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 quy định thẩm quyền
nói chung của Tịa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, theo đó
Tịa án nhân dân cấp tỉnh có các thẩm quyền sau:
- Sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng.
- Phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật của Tịa án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của
pháp luật tố tụng.
- Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có
hiệu lực thi hành luật của Tòa án nhân dân cấp dưới bị kháng nghị theo quy
định của pháp luật tố tụng.
- Giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật.
Đồng thời, Điều 34, Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành quy định Tòa án
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục
sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật Tố tụng dân
sự, trừ những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân
cấp huyện quy định tại khoản 1, Điều 33, Bộ luật Tố tụng dân sự. Theo khoản
2 Điều 33, Bộ luật Tố tụng dân sự thì Tịa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền
giải quyết những tranh chấp hôn nhân và gia đình mà đương sự hoặc tài sản ở



19
nước ngoài hoặc cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan Lãnh sự của Việt Nam
ở nước ngoài, cho Tịa án nước ngồi; giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những
vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện
quy định tại Điều 33, Bộ luật Tố tụng dân sự mà Tòa án nhân dân cấp tỉnh lấy
lên để giải quyết.
Căn cứ vào quy định trên thì Tịa án nhân dân cấp huyện có đầy đủ
thẩm quyền giải quyết theo trình tự sơ thẩm các vụ án hơn nhân và gia đình,
trừ những vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Tịa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết các vụ án hôn nhân và gia
đình theo các trình tự cơ bản. Cụ thể, Tịa dân sự (Tịa chun trách) giải
quyết các vụ án hơn nhân và gia đình theo trình tự sơ thẩm và phúc thẩm; Ủy
ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm đối với những bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp
huyện đã có hiệu lực pháp luật.
Thứ hai, áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án hơn nhân và gia
đình được tiến hành theo một thủ tục chặt chẽ do pháp luật tố tụng dân sự và
các quy phạm pháp luật của Luật Hôn nhân và gia đình, Bộ luật Dân sự quy
định. Khi tiến hành giải quyết một vụ án hôn nhân và gia đình, các trình tự
xây dựng hồ sơ từ khâu thụ lý, điều tra, thu thập chứng cứ đến khi ra quyết
định hoặc đưa vụ án ra xét xử đều phải tuân theo các bước như đã quy định
trong Bộ luật Tố tụng dân sự nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên
đương sự.
Thứ ba, nguyên tắc áp dụng luật trong giải quyết các vụ án hôn nhân và
gia đình của Tịa án nhân dân: Tịa án là cơ quan thụ lý và giải quyết các vụ
án hôn nhân và gia đình, nhân danh Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ra các phán quyết nhằm đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của các đương
sự, nguyên tắc hịa giải v v.v.. Chính vì vậy, địi hỏi khi Tòa án áp dụng pháp
luật trong giải quyết các vụ án hơn nhân và gia đình Tịa án phải tuân theo



20
những nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và gia đình, của Bộ luật Tố tụng
dân sự cũng như các văn bản pháp luật có liên quan đến việc áp dụng pháp
luật giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình.
1.2. CÁC GIAI ĐOẠN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT CÁC
VỤ ÁN HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án Hôn nhân và gia đình của
Tịa án nhân dân là sự biểu hiện cụ thể của áp dụng pháp luật nói chung. Tuy
nhiên, do tính đa dạng của tranh chấp Hơn nhân gia đình và những quy định
về thủ tục tố tụng khi giải quyết các vụ án do pháp luật quy định nên việc áp
dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án hơn nhân và gia đình được chia ra
các giai đoạn sau:
1.2.1. Giai đoạn phân tích những tình tiết thực tế khách quan của
vụ án hôn nhân và gia đình và các đặc trưng pháp lý của nó
Đây là hoạt động đầu tiên trong các giai đoạn áp dụng pháp luật giải
quyết các vụ án hôn nhân và gia đình của Tịa án nhân dân. Trong hoạt động
này, Tòa án phải xác định loại vụ việc thuộc thẩm quyền của Tịa án cấp nào
giải quyết, hoặc thơng báo cho các đương sự quyền được lựa chọn Tòa án. Do
vậy, trước khi thụ lý vụ án Tòa án phải xem xét đơn khởi kiện có thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tịa án khơng, nếu thuộc thẩm quyền giải quyết Tòa án
sẽ tiến hành thụ lý đơn khởi kiện và thu thập các thông tin liên quan đến vụ án
như: Đơn khởi kiện, đăng ký kết hôn, xác định nơi có hộ khẩu cư trú hoặc nơi
cư trú cuối cùng của đương sự, nguyện vọng của các đương sự lựa chọn Tòa
án giải quyết và các giấy tờ, tài liệu khác liên quan để xác định thẩm quyền
giải quyết của Tịa án.
Để làm rõ được các tình tiết khách quan và nội dung của vụ án hơn
nhân và gia đình thì Tịa án phải tiến hành điều tra xác minh, thu thập chứng
cứ, đánh giá các tình tiết của vụ án trên cơ sở tài liệu chứng cứ đã thu thập.

Tuy nhiên, có những trường hợp Tịa án khơng nhất thiết phải tiến hành điều


21
tra xác minh mà xuất phát từ nguyên tắc quyền tự định đoạt và nghĩa vụ
chứng minh của các bên đương sự tự xuất trình chứng cứ, các đương sự tự
thỏa thuận được với nhau về các quan hệ trong vụ án hơn nhân và gia đình, thì
vụ án cũng không phải tiến hành tất cả các hoạt động điều tra, đây cũng là đặc
điểm riêng của vụ án hôn nhân và gia đình.
Như vậy, đây là giai đoạn đầu của quá trình áp dụng pháp luật trong
giải quyết các vụ án hơn nhân và gia đình. Ở giai đoạn này, địi hỏi khơng chỉ
xác định những tình tiết, sự kiện của vụ án mà còn phải đánh giá tầm quan
trọng về mặt pháp lý của nó. Địi hỏi khi áp dụng pháp luật để giải quyết vụ
án hôn nhân và gia đình phải nghiên cứu khách quan, tồn diện và đầy đủ tất
cả các tình tiết của vụ án, xác định đặc trưng pháp lý của vụ án, tuân thủ tất cả
các quy định mang tính thủ tục gắn với vụ án hơn nhân và gia đình.
1.2.2. Giai đoạn lựa chọn các quy định pháp luật tương ứng để giải
quyết vụ án hơn nhân và gia đình
Trên cơ sở phân tích những tình tiết khách quan và làm rõ đặc trưng
của vụ án hơn nhân và gia đình, thì trong giai đoạn này, trước tiên Tòa án phải
lựa chọn các quy phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình, về dân sự, tố tụng
dân sự và các văn bản có liên quan đến vụ án để áp dụng.
Việc lựa chọn các quy phạm pháp luật để áp dụng được tiến hành theo
ý chí đơn phương của Tịa án có thẩm quyền, khơng phụ thuộc vào ý chí của
chủ thể bị áp dụng. Tuy nhiên, một số trường hợp có thể trong khi giải quyết
vụ án các đương sự có thể thực hiện quyền của mình theo pháp luật quy định
sẽ thay đổi quan điểm, nên dẫn đến vụ án khơng phải tiếp tục điều tra, xét xử
mà có thể ra một trong các quyết định theo hướng khác phụ thuộc vào ý chí
của các chủ thể bị áp dụng pháp luật như Quyết định đình chỉ vụ án (khi
nguyên đơn rút đơn khởi kiện) hay Quyết định công nhận sự thỏa thuận của

các đương sự (khi các đương sự hòa giải thành được với nhau về nội dung vụ
án), Quyết định cơng nhận thuận tình ly hơn (khi các bên tự nguyện ly hôn và


22
đã thỏa thuận về việc chia tài sản, con chung) nhưng lựa chọn các quy phạm
pháp luật vẫn là do Tòa án thực hiện.
1.2.3. Giai đoạn, làm sáng tỏ tư tưởng và nội dung của quy phạm
pháp Luật Hôn nhân và gia đình, Bộ luật Dân sự, Luật Nhà ở và các quy
phạm pháp luật khác có liên quan khi đưa ra áp dụng đối với vụ án hôn
nhân và gia đình
Làm sáng tỏ tư tưởng và nội dung của quy phạm pháp Luật Hơn nhân
và gia đình cũng như các quy phạm pháp luật có liên quan nhằm mục đích
bảo đảm áp dụng đúng đắn pháp luật vào giải quyết vụ án hơn nhân và gia
đình. Đây là q trình Thẩm phán giải quyết vụ án phải vận dụng tổng hợp
các tri thức chính trị, kinh tế, xã hội, đặc biệt là các tri thức pháp lý.
Để làm sáng tỏ tư tưởng và nội dung các quy phạm pháp luật đưa ra áp
dụng, đòi hỏi Thẩm phán giải quyết vụ án phải biết giải thích pháp luật thơng
qua các phương pháp như phương pháp lơgic, phương pháp giải thích về mặt
lịch sử, phương pháp giải thích về mặt văn phạm, phương pháp giải thích hệ
thống và một số phương pháp khác để nhận thức đầy đủ và đúng đắn pháp
luật đưa ra áp dụng đối với vụ án hôn nhân và gia đình.
1.2.4. Giai đoạn, ra bản án hoặc quyết định để giải quyết vụ án hôn
nhân và gia đình
Đây là giai đoạn thể hiện kết quả của ba giai đoạn trên. Ở giai đoạn này,
Thẩm phán và Hội đồng xét xử ra quyết định hoặc bản án để quy định quyền
và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của các đương sự trong vụ án hơn nhân và gia
đình. Quyết định hoặc bản án này thể hiện rất rõ trình độ và năng lực của
Thẩm phán cũng như của Hội đồng xét xử khi áp dụng pháp luật. Bởi trong
giai đoạn này, các phán quyết cuối cùng thể hiện tính pháp lý chính là việc

vận dụng các quy định pháp luật về lĩnh vực hơn nhân và gia đình để giải
quyết vụ án hơn nhân và gia đình.
Khi ra quyết định hay bản án, Thẩm phán hay Hội đồng xét xử không
thể xuất phát từ ý muốn chủ quan hoặc tình cảm cá nhân của mình mà quyết


23
định hay bản án áp dụng pháp luật được ban hành phải phù hợp với quy phạm
pháp luật đưa ra áp dụng. Nội dung của quyết định, bản án phải rõ ràng, chính
xác, nêu rõ được các quan hệ tranh chấp cần giải quyết và tuân thủ đúng quy
định của Luật tố tụng dân sự và pháp luật liên quan.
1.3. CÁC YẾU TỐ BẢO ĐẢM ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI
QUYẾT CÁC VỤ ÁN HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN

1.3.1. Chất lượng của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
Có thể nói, sau hơn 25 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, cơng tác xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta
đã có những tiến bộ quan trọng, hệ thống pháp luật Việt Nam đã có bước đổi
mới và chuyển biến đáng kể cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt sau 5 năm
thực hiện Nghị quyết số 48/NQ-TW của Bộ Chính trị (ban hành năm 2005) về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020, hàng trăm văn bản quy phạm pháp luật đã
được ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội, góp phần tiếp tục tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội và đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi
mới và hội nhập quốc tế. Công tác thi hành pháp luật được quan tâm và chú
trọng hơn; công tác phổ biến giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý được triển
khai khá đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm với nhiều hình thức phong phú,
thiết thực. Cơng tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật được
tiến hành thường xuyên, tập trung vào những lĩnh vực bức xúc của cuộc sống,

qua đó đã khắc phục được nhiều sơ hở, khiếm khuyết của các văn bản pháp
luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật.
Tuy nhiên, theo đánh giá của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X
tại Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ XI thì “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước”.
Theo đánh giá của Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, việc lập Chương trình xây


24
dựng luật, pháp lệnh vẫn cịn mang tính bị động, tính khả thi khơng cao nên
phải điều chỉnh nhiều lần. Một số ban soạn thảo được thành lập chậm, một số
ban soạn thảo khác tuy đã được thành lập nhưng hiệu quả hoạt động không
cao... Chất lượng chuẩn bị một số dự án luật, pháp lệnh còn nhiều hạn chế và
chưa bảo đảm tiến độ như đã dự kiến. Nội dung một số luật, pháp lệnh được
ban hành vẫn còn nhiều quy định mang tính nguyên tắc, thiếu cụ thể nên phải
chờ văn bản dưới luật quy định chi tiết thì mới có thể thực hiện được, nhưng
việc ban hành các văn bản này lại không bảo đảm tiến độ. Tính đến thời điểm
này vẫn cịn 55 Nghị định chưa được Chính phủ ban hành để quy định chi tiết
thi hành các luật đã có hiệu lực.
Nguyên nhân của sự chậm trễ trong cơng tác xây dựng và hồn thiện hệ
thống pháp luật trước hết, do chúng ta chưa hoạch định được một chương
trình xây dựng pháp luật tồn diện, tổng thể, có tầm nhìn chiến lược; việc đào
tạo, nâng cao trình độ cán bộ pháp luật và cơng tác nghiên cứu lý luận về
pháp luật chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn; việc tổ chức thi hành pháp luật
còn thiếu chặt chẽ; ý thức pháp luật của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công
chức và nhân dân cịn nhiều hạn chế.
Tại Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ XI (năm 2011), vấn đề xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng đã được nhiều đại biểu quan tâm và bàn
luận sơi nổi. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X)
tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI nhấn mạnh: “Tiếp tục hồn thiện hệ

thống pháp luật, cơ chế, chính sách để vận hành có hiệu quả nền kinh tế và
thực hiện tốt các cam kết quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Khẩn
trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi,
bổ sung năm 2001) phù hợp với tình hình mới”.
Theo Nghị quyết của Đảng, việc xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp
luật ở Việt Nam phải bảo đảm các nguyên tắc sau đây:
Một là, thể chế hóa kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối của Đảng về
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do


25
nhân dân và vì nhân dân; bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của
công dân; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát
triển văn hóa - xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh.
Hai là, phát huy cao độ nội lực, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế,
thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền,
an ninh quốc gia và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, đồng thời tiếp thu có chọn lọc
kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật; kết hợp hài
hòa bản sắc văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tính hiện đại của hệ
thống pháp luật.
Bốn là, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế trong q trình xây
dựng, hồn thiện và tổ chức thi hành pháp luật.
Năm là, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật cần tiến hành
đồng bộ với cải cách hành chính, cải cách tư pháp, với những bước đi vững
chắc; coi trọng số lượng và chất lượng, có trọng tâm, trọng điểm; dự tính đầy
đủ các điều kiện bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thi hành của pháp luật.
Yêu cầu quan trọng của Nhà nước pháp quyền là quản lý đất nước và
xã hội bằng pháp luật; cơ quan nhà nước, cán bộ, cơng chức trong bộ máy nhà
nước và hệ thống chính trị chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép;

cơng dân được làm tất cả những gì mà pháp luật khơng cấm. Chính vì vậy,
xây dựng hệ thống pháp luật theo hướng hoàn thiện, đồng bộ, thống nhất là
nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, lâu dài của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Phát biểu khai mạc Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIII, Tổng
bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Quốc hội cần tập trung xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi để thể chế hóa
Cương lĩnh chính trị, các quan điểm, đường lối của Đảng, phát huy vai trò và
hiệu lực quản lý của Nhà nước, bảo đảm giữ vững ổn định chính trị, phát triển
kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh, đẩy mạnh hội nhập quốc tế,
xây dựng Nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh”.


×