Tải bản đầy đủ (.doc) (132 trang)

Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của tòa án nhân dân ở tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (612.17 KB, 132 trang )

mục lục

Trang
1

Mở đầu

Chơng 1: cơ sở lý luận áp dụng pháp luật trong việc giải
quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của tòa
án nhân dân

8

1.1 Khái niệm, đặc điểm áp dụng pháp luật trong
.

việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất

của Tòa án nhân dân
1.2 Quy trình áp dụng pháp luật trong việc giải
.

quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của Tòa án

nhân dân
1.3 Tiêu chí đánh giá và các điều kiện đảm bảo áp
.

8

21



dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp
quyền sử dụng đất của Tòa án nhân dân

27

Chơng 2: Thực trạng tranh chấp quyền sử dụng đất và
áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh
chấp quyền sử dụng đất của Tòa án nhân
dân ở tỉnh Vĩnh phúc

35

2.1 Thực trạng tranh chấp và giải quyết tranh chấp
.
quyền sử dụng đất tại tỉnh Vĩnh Phúc
2.2 Thực trạng ¸p dơng ph¸p lt trong viƯc gi¶i

35

qut c¸c tranh chÊp quyền sử dụng đất của
Tòa án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc

41

Chơng 3: Quan điểm và giải pháp đảm bảo ¸p dơng ph¸p
lt trong viƯc gi¶i qut tranh chÊp qun sử
dụng đất của Tòa án nhân dân ở tỉnh vĩnh
phúc


91

3.1 Các quan điểm cơ bản về áp dụng pháp luật trong
.

giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của Tòa

án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc
3.2 Các giải pháp đảm bảo vịêc áp dụng pháp luật trong
.

91

giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của Tòa
án nhân dân ở tỉnh VÜnh Phóc

96


Kết luận
danh mục tài liệu tham khảo

124
126

Danh mục các bảng
Bảng 2.1: Kết quả thụ lý và giải quyết các vụ án tranh
chấp về quyền sử dụng đất của Toà án nhân
dân cấp huyện ở tỉnh Vĩnh Phúc
Bảng 2.2: Kết quả án sơ thẩm của Toà án nhân dân cấp


55

huyện ở tỉnh Vĩnh Phúc bị kháng cáo, kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm
Bảng 2.3: Kết quả án sơ thẩm của Toà án nhân dân

55

cấp huyện ở tỉnh Vĩnh Phúc bị kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm
Bảng 2.4: Kết quả giải quyết các vụ án tranh chấp về

56

quyền sử dụng đất của Toà án nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc (từ năm 2005 - 2009)
Bảng 2.5: Kết quả án sơ thẩm của Toà án nhân dân

56

tỉnh Vĩnh Phúc bị kháng cáo, kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm
Bảng 2.6: Kết quả án phúc thẩm về tranh chấp quyền

57

sử dụng đất của Toà án nhân dân cấp tỉnh
Vĩnh Phúc bị kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm


57


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định “Nhà
nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân” [6]. Xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa với mục đích của dân, do dân, vì dân là chủ trương
lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn phát triển đất nước. Trong
Nhà nước pháp quyền, các cơ quan tư pháp cũng như hoạt động tư pháp có
vai trị hết sức quan trọng đảm bảo cho đặc trưng của Nhà nước pháp quyền
được thể hiện đầy đủ và toàn diện.Trong đó việc áp dụng pháp luật và tăng
cường hiệu quả áp dụng pháp luật là một vấn đề được Đảng và Nhà nước ta
rất quan tâm.
Theo tinh thần Nghị quyết số 49/NQ-TƯ ngày 02/6/2005 của Bộ chính
trị thì trong hoạt động tư pháp, Toà án là khâu trung tâm của quá trình cải
cách tư pháp và xét xử là khâu trọng tâm của toàn bộ hoạt động tư pháp bởi lẽ
hoạt động của Toà án là nơi thể hiện rõ nhất chất lượng hoạt động và uy tín
của hệ thống các cơ quan tư pháp nói riêng và quyền lực nhà nước nói riêng.
Thực tế hoạt động xét xử của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc trong
những năm gần đây cho thấy các vụ án dân sự ngày càng gia tăng và thể hiện
rõ tính chất phức tạp của từng loaị tranh chấp trong đó có tranh chấp về đất
đai. Thực trạng trên đòi hỏi trách nhiệm hết sức nặng nề đối với ngành Tồ án
nói chung và các Tồ án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng để giữ vững ổn
định, trật tự xã hội. Mặc dù Luật đất đai năm 2003 có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/7/2003 đã tạo điều kiện thuận lợi cho mọi công dân đưa quyền sử
dụng đất vào giao lưu dân sự góp phần thúc đẩy kinh tế gia đình và xã hội

phát triển. Tuy nhiên pháp luật về đất đai hiện nay vẫn bộc lộ những bất cập,
thiếu sót nhất định đó là: pháp luật về đất đai thay đổi nhanh chóng, tính ổn
định thấp và trong khi các chính sách, pháp luật đất đai mỗi thời kỳ lại có


2
những thay đổi rất khác nhau nhưng Nhà nước lại khơng có văn bản pháp luật
nào quy định hướng xử lý các loại quan hệ đã hình thành trong mỗi gia đoạn
đó nên khi có tranh chấp Tồ án gặp nhiều khó khăn trong giải quyết vì nó
vừa có tính chất của giao dịch dân sự, vừa bị chi phối bởi chính sách pháp
luật, pháp luật đất đai. Luật đất đai năm 2003 có hiệu lực thi hành từ ngày
01/7/2003 nhưng những văn bản liên quan đến công tác xét xử loại tranh chấp
này chưa được hướng dẫn cụ thể, tập huấn kịp thời bên cạnh đó tổ chức bộ
máy, đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất của Toà án chưa được kiện toàn để đáp
ứng yêu cầu của nhiệm vụ cải cách tư pháp trong đó có việc tăng thẩm quyền
trong xét xử của Toà án cấp huyện.
Theo thống kê của các Toà án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc thì trong những
năm gần đây các vụ, việc dân sự tăng đáng kể trong đó có tranh chấp về
quyền sử dụng đất. Thực trạng này xuất phát từ đặc điểm tự nhiên, kinh tế của
Vĩnh Phúc trong những năm gần đây đó là sự phát triển của các khu công
nghiệp, các khu đô thị mới bên cạnh sự tăng trưởng vượt bậc về kinh tế với
chính sách mở cửa thì cũng kéo theo sự phát triển khá rầm rộ của thị trường
bất động sản. Do vậy các tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng,
thừa kế tài sản, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho quyền sử dụng đất và thế
chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất diễn ra vô cùng phức tạp. Do
số lượng các vụ án tăng nhanh, tính chất ngày càng phức tạp và do nhiều
nguyên nhân khác nhau mà hoạt động xét xử của các Toà án nhân dân tỉnh ở
Vĩnh Phúc còn bộc lộ những hạn chế nhất định như để quá thời hạn chuẩn bị
xét xử, Thẩm phán nghiên cứu văn bản chưa đầy đủ dẫn đến đánh giá chứng
cứ thiếu khách quan, tồn diện, bản án tun khơng rõ ràng gây khó khăn cho

cơng tác thi hành án dân sự, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nên Toà án
cấp trên phải huỷ hoặc sửa bản án của Tồ án cấp dưới. Đáng chú ý có một số
vụ án tranh chấp nhà đất kéo dài nhiều năm, qua nhiều cấp xét xử ảnh hưởng
đến quyền và lợi ích của công dân. Tuy số bản án bị sửa, huỷ không nhiều


3
nhưng đây cũng là nhược điểm lớn nhất mà ngành Tồ án nhân dân tỉnh Vĩnh
Phúc ln trăn trở và đã tập trung mọi nguồn lực đẩy nhanh tiến độ, nâng cao
chất lượng giải quyết các loại vụ án đặc biệt là các vụ án dân sự tranh chấp về
quyền sử dụng đất nhằm đảm bảo đúng thời hạn chuẩn bị xét xử, hạn chế đến
mức thấp nhất các vụ án bị sửa, huỷ; tăng cường công tác hướng dẫn áp dụng
thống nhất các quy định của pháp luật đặc biệt là trong lĩnh vực giải quyết
tranh chấp đất đai.Tiếp tục củng cố và nâng cao trình độ chun mơn, phẩm
chất đạo đức và bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, Thẩm phán từ cấp
huyện đến cấp tỉnh. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của
cácToà án nhân dân tỉnh ở Vĩnh Phúc đã và đang đặt ra những yêu cầu vừa
cấp bách, vừa lâu dài để không ngừng nâng cao chất lượng xét xử và đáp ứng
yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp. Như vậy, về mặt lý luận và thực tiễn
có nhiều vấn đề đặt ra để nghiên cứu, đánh giá thực tế, tìm hiểu từ nhiều góc
độ khác nhau để có những căn cứ khoa học về vấn đề áp dụng pháp luật trong
hoạt động xét xử của Toà án nhân dân nói chung và áp dụng pháp luật trong
giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất nói riêng.
Chính vì ý nghĩa khoa học và thực tiễn như trên, học viên đã lựa chọn đề
tài "Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của
Tòa án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc" làm luận văn thạc sĩ Luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án nói chung và áp dụng
pháp luật trong giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất nói riêng đã được
giới khoa học pháp lý và nhất là những người trực tiếp làm công tác xét xử của

ngành Tịa án quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết
đề cập đến một số khía cạnh về những vấn đề liên quan đến đề tài như:
- Luận án tiến sĩ của tác giả Lê Xuân Thân: “Áp dụng pháp luật trong
hoạt động xét xử của Toà án nhân dân ở Việt nam hiện nay”, năm 2004.


4
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Văn Hà: “Giải quyết tranh chấp đất
đai bằng con đường Toà án ở Việt Nam”, năm 2007.
- Tiến sĩ Nguyễn Văn Cường với bài “Những vấn đề cần trao đổi khi áp
dụng điều 136 Luật đất đai năm 2003”, Tạp chí Tồ án tháng 8/2005.
- Ban biên tập Tạp chí Tồ án nhân dân với bài “Những vấn đề cần trao đổi
khi áp dụng điều 136 Luật đất đai năm 2003”, Tạp chí Tồ án tháng 9/2005.
- Tác giả Vũ Thanh Tuấn, Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương với bài
“Vướng mắc khi giải quyết khiếu kiện trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về đất
đai”, Tạp chí Tồ án số 09 tháng 5/ 2009.
- Tác giả Thuỷ Nguyên với bài “Về thủ tục hồ giải khơng thành trước
khi Tồ án thụ lý vụ án tranh chấp về quyền sử dụng đất”, Tạp chí Tồ án
nhân dân số 5, tháng 3/2008.
- Tác giả Từ Văn Thiết Toà án nhân dân huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định
với bài “Giải quyết tranh chấp quyền sở hữu nhà có liên quan đến quyền sử
dụng đất là tài sản chung”, Tạp chí Tồ án số 13 tháng 7/2008.
Ngồi ra trên các tạp chí khác như: Tạp chí Luật học, Tạp chí Dân chủ và
pháp luật, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật... cũng có nhiều bài viết nghiên cứu
về việc áp dụng pháp luật. Các bài viết trên và các cơng trình trên nói chung đã
làm rõ một số khía cạnh lý luận và thực tiễn liên quan đến việc áp dụng pháp
luật trong giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất làm tiền đề tư liệu vật
chất quan trọng cho việc nghiên cứu đề tài. Tuy nhiên các bài viết trên hoặc
nghiên cứu chung về việc áp dụng pháp luật của Toà án nhân dân hoặc nghiên
cứu một khía cạnh nào đó của hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết các

tranh chấp về quyền sử dụng đất, đến nay chưa có một cơng trình nào phân tích
một cách tồn diện, đầy đủ có hệ thống dưới góc độ Lý luận và pháp luật về
vấn đề áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của
Toà án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc. Đó cũng chính là một trong những lý do
khiến học viên chọn chủ đề này làm đề tài luận văn cao học Luật của mình.


5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Về đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về áp dụng pháp
luật trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của Toà án nhân dân ở tỉnh
Vĩnh Phúc, nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật, nguyên nhân và những
bất cập trong việc áp dụng pháp luật, từ đó đưa ra những giải pháp đảm bảo
áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của Toà án
nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc.
3.2. Về phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề áp dụng pháp luật trong giải quyết
tranh chấp quyền sử dụng đất của Tồ án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc, khơng
đề cập đến việc áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai của các
cơ quan liên quan khác và tại các địa phương khác. Do khn khổ có hạn của
luận văn và liên quan đến thời điểm có hiệu lực của Bộ luật dân sự năm 2005,
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Luật đất đai năm 2003 nên phạm vi thời
gian nghiên cứu của luận văn được xác định từ năm 2005 đến năm 2009.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
4.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về áp dụng pháp luật
trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất và thực trạng giải quyết tranh
chấp quyền sử dụng đất của Toà án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc. Luận văn
hướng tới việc đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh

chấp dân sự nói chung, các tranh chấp về quyền sử dụng đất nói riêng của Tồ
án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc và qua đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động áp dụng pháp luật của hệ thống Toà án nước ta.
4.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Phân tích cơ sở lý luận của việc áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử
của Toà án đối với tranh chấp quyền sử dụng đất, cụ thể tại tỉnh Vĩnh Phúc.


6
- Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật của Toà án nhân dân ở tỉnh Vĩnh
Phúc từ năm 2005 đến năm 2009 rút ra những ưu điểm, hạn chế và những
nguyên nhân của những hạn chế đó.
- Làm sáng tỏ những quan điểm và luận chứng cho các giải pháp chủ yếu
nhằm đảm bảo áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng
đất của Toà án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm đường lối của Đảng Cộng
sản Việt Nam về tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền của
dân, do dân, vì dân đăc biệt là quan điểm của Đảng chỉ đạo về cải cách tư
pháp trong thời gian tới.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử Mác xít, chú trọng phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn,
phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lịch sử cụ thể. Ngồi ra
luận văn cịn sử dụng các phương pháp phổ biến và hiện đại khác như thống
kê luật học, điều tra xã hội học, so sánh...
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn tập trung phân tích khái niệm, đặc điểm, quy trình áp dụng

pháp luật từ đó đưa ra được khái niệm cụ thể về áp dụng pháp luật trong giải
quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất và các đặc điểm đặc trưng, quy trình
của áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất. Luận
văn cũng xác định được các tiêu chí đánh giá và các điều kiện đảm bảo áp
dụng pháp luật trong việc xét xử tại Toà án nói chung và trong việc giải quyết
các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tồ án nhân dân nói riêng.


7
Luận văn đã đánh giá được thực trạng tranh chấp và giải quyết tranh
chấp quyền sử dụng đất tại tỉnh Vĩnh Phúc và nguyên nhân phát sinh các tranh
chấp. Nêu và đánh giá được thực trạng áp dụng pháp luật trong giải quyết
tranh chấp của Toà án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc, từ đó phản ánh được tính
phức tạp trong thực tiễn giải quyết tranh chấp quyền quyền sử dụng đất,
những ưu điểm và hạn chế trong áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp về
quyền sử dụng đất.
Luận văn đề xuất các quan điểm và giải pháp đảm bảo áp dụng pháp luật
trong giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất của Toà án nhân dân ở tỉnh
Vĩnh Phúc, trong đó xác định rõ được các quan điểm chỉ đạo của Toà án nhân
dân tối cao, của Tỉnh uỷ- Hội đồng nhân dân- Uỷ ban nhân dân tỉnh Vĩnh
Phúc và đặc biệt là quan điểm chỉ đạo của lãnh đạo Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh
Phúc. Luận văn đã đưa ra những luận cứ và 08 giải pháp cụ thể nhằm nâng
cao chất lượng áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp về quyền sử
dụng đất.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả của luận văn góp phần bổ sung và phát triển lý luận về vai trò
của pháp luật và áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp về quyền
sử dụng đất của Toà án nhân dân.
Luận văn có thể được sử dụng phục vụ cho cơng tác giảng dạy, nghiên
cứu khoa học. Đặc biệt, luận văn có thể được coi là một tài liệu bổ ích đối với

những Thẩm phán, cán bộ Toà án đang trực tiếp xét xử và giải quyết các tranh
chấp về quyền sử dụng đất và các vụ án liên quan đến tranh chấp về quyền sử
dụng đất.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.


8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ QUYỀN SỬ
DỤNG ĐẤT CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG VIỆC GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN

1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh
chấp quyền sử dụng đất của Tòa án nhân dân
1.1.1.1.Khái niệm áp dụng pháp luật
Trong đời sống xã hội, pháp luật xã hội chủ nghĩa giữ vai trò rất quan
trọng. Pháp luật là phương tiện để thể chế hố đường lối chính sách của Đảng
đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng được thực hiện có hiệu quả trên quy mơ
tồn xã hội; là phương tiện để nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội; là
phương tiện để nhân dân phát huy dân chủ và quyền làm chủ, thực hiện quyền
và nghĩa vụ của mình. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, pháp luật xã
hội chủ nghĩa là tổng hợp các quy tắc xử sự chung thể hiện ý chí của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, được cơ
quan nhà nước và người có thẩm quyền ban hành theo một trình tự nhất định với
các hình thức nhất định nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Hình thức thể hiện của pháp luật xã hội chủ nghĩa chính là các quy
phạm pháp luật được các chủ thể có thẩm quyền ban hành với các loại văn
bản có tên gọi và hiệu lực pháp lý khác nhau. Quy phạm pháp luật trước hết là
các quy phạm xã hội vì vậy nó mang tính chất vốn có của quy phạm xã hội là
quy tắc sử sự chung, là tiêu chuẩn để đánh giá hành vi của con người.Khi ban
hành văn bản pháp luật nhà nước hướng tới dùng các văn bản quy phạm pháp
luật điều chỉnh các lĩnh vực của đời sống xã hội như chính trị, kinh tế, văn
hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật, an ninh quốc phòng... Tổ chức và hoạt động


9
của toàn bộ bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa và các nhân viên nhà nước có
thẩm quyền cũng dựa trên cơ sở của các quy phạm pháp luật. Quy phạm pháp
luật được xem là những thành tố tạo nên pháp luật vì vậy quy phạm pháp luật
vừa mang những đặc tính của pháp luật vừa có những đặc tính riêng rẽ riêng
rẽ của mình liên quan đến hình thức và nội dung của nó. Các quy phạm pháp
luật là cơ sở pháp lý của việc tôn trọng và thực thi các quyền tự do, dân chủ
của công dân và là "thước đo" chung để xem xét, đánh giá một hành vi hợp
pháp luật hay vi phạm pháp luật.Tuy nhiên để pháp luật đi vào đời sống ngoài
sự phù hợp của hệ thống quy phạm pháp luật trên cơ sở điều kiện kinh tế, lịch
sử, trình độ phát triển của xã hội, Nhà nước còn phải quan tâm đến một hoạt
động vô cùng quan trọng là tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật một cách
nghiêm minh, triệt để.
Pháp luật là một công cụ quản lý xã hội sắc bén song pháp luật chỉ có
thể phát huy vai trị và những giá trị của mình trong việc duy trì trật tự và tạo
điều kiện cho xã hội phát triển khi nó được tơn trọng và thực hiện trong cuộc
sống.Do vậy thực hiện pháp luật là hoạt động không thể thiếu kể từ khi pháp
luật ra đời vì văn bản pháp luật khi ban hành dù có hồn chỉnh đến đâu nhưng
nếu các văn bản đó khơng được thực hiện trên thực tế thì mục đích điều chỉnh
pháp luật vẫn chưa đạt được..

Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích làm cho
những qua định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống tạo ra cơ sở
pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật. Đó là những hoạt
động, những phương cách, những quá trình làm cho những quy tắc xử sự
chung chứa đựng trong các quy phạm pháp luật trở thành hành vi, cách xử sự
thực tế của các chủ thể pháp luật. Khi các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội thì các quan hệ xã hội trở thành các quan hệ pháp luật với các
chủ thể mang quyền và nghĩa vụ pháp lý tương ứng. Khi các chủ thể quan hệ
pháp luật thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình sẽ làm phát sinh


10
hành vi pháp luật, hay nói cách khác, thực hiện pháp luật làm "hiện thực hóa"
các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể pháp luật trong đời sống xã hội. Các
hình thức thực hiện pháp luật có mối liên hệ chặt chẽ và khăng khít với nhau
tạo thành hệ thống nhất nhằm biến các quy phạm pháp luật thành các quy tắc
xử sự chung và đi vào trong đời sống xã hội. Thực hiện pháp luật rất đa dạng
và phong phú phụ thuộc vào ý chí của mỗi các nhân nhưng cũng có thể phụ
thuộc vào ý chí của nhà nước xuất phát từ nhiều nguyên nhân như sự tự giác
của bản thân chủ thể hoặc ảnh hưởng của dư luận xung quanh hoặc là kết quả
của sự cưỡng chế nhà nước. Căn cứ vào tính chất của việc thực hiện pháp
luật, khoa học pháp lý đã phân chia thực hiện pháp luật thành những hình
thức cụ thể như: Tuân thủ pháp luật; thi hành pháp luật; sử dụng pháp luật;
áp dụng pháp luật.
- Tuân thủ pháp luật, còn gọi là tuân theo pháp luật, là hình thức các
chủ thể quan hệ pháp luật không thực hiện những hành vi mà pháp luật đã
ngăn cấm. Thơng qua hình thức tuân thủ pháp luật của các chủ thể quan hệ
pháp luật, các quy phạm pháp luật ngăn cấm được tôn trọng và thực hiện trên
thực tế. Ví dụ: Pháp luật hình sự quy định khơng được trộm cắp, khơng được
lừa đảo chiếm đoạt tài sản; khơng được xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh

dự, nhân phẩm của con người, pháp luật đất đai quy định không lấn chiếm đất
đai; hủy hoại đất; không sử dụng hoặc sử dụng đất không đúng mục đích v.v...
chủ thể thực hiện hình thức tn thủ pháp luật là tất cả các cơ quan nhà nước,
nhân viên nhà nước, các tổ chức, cá nhân và mọi công dân trong xã hội.
- Thi hành pháp luật, cịn gọi là chấp hành pháp luật là hình thức các
chủ thể quan hệ pháp luật phải thực hiện những hành vi mà pháp luật quy
định được thực hiện trong những hoàn cảnh, những quan hệ pháp luật mà
pháp luật đã dự liệu cụ thể. Đây là hình thức thực hiện pháp luật chủ động và
tích cực bằng các hành vi cụ thể của các chủ thể quan hệ pháp luật. Ví dụ, quy
định về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình cá


11
nhân đang sử dụng đất, quy định về việc thực hiện các quy phạm pháp luật
hơn nhân gia đình về nghĩa vụ chăm sóc, ni dưỡng con cái của cha mẹ; việc
thực hiện các quy định về sinh đẻ có kế hoạch, xây dựng gia đình ít con, ấm
no, hạnh phúc của vợ chồng v.v... Chủ thể thực hiện hình thức thi hành pháp
luật này là tất cả các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các cá nhân, tổ
chức và mọi công dân trong xã hội.
- Sử dụng pháp luật là hình thức các chủ thể thực hiện pháp luật sử
dụng các quyền mà pháp luật cho phép. Đây cũng là hình thức thực hiện pháp
luật chủ động và tích cực bằng các hành vi cụ thể của các chủ thể quan hệ
pháp luật. Do hình thức thực hiện pháp luật này là việc sử dụng các quyền
năng pháp lý được pháp luật trao quyền, nên các chủ thể quan hệ pháp luật có
quyền thực hiện hoặc khơng thực hiện các quyền của mình, pháp luật khơng
bắt buộc các chủ thể phải thực hiện như hai hình thức tuân thủ pháp luật và
chấp hành pháp luật. Ví dụ: việc thực hiện quyền khởi kiện vụ án dân sự hay
không khởi kiện vụ án dân sự của các cá nhân theo quy định của pháp luật tố
tụng dân sự; quyền chứng minh mình vơ tội hay quyền khơng chứng minh
mình vơ tội trong tố tụng hình sự v.v... Chủ thể thực hiện hình thức sử dụng

pháp luật là tất cả các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các cá nhân, tổ
chức và mọi công dân trong xã hội.
- Áp dụng pháp luật là một trong những hình thức thực hiện pháp luật

có những đặc điểm riêng so với các hình thức thực hiện pháp luật đã nêu trên
và bao giờ cũng có sự tham gia của cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước có
thẩm quyền. Áp dụng pháp luật là một trong những hình thức quan trọng của
việc thực hiện pháp luật. Hoạt động áp dụng pháp luật bảo đảm cho pháp luật
được tôn trọng, thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất; các quyền của chủ thể
được thực hiện và được bảo vệ trên thực tế; các hành vi vi phạm pháp luật và
tội phạm được xử lý nghiêm minh, kịp thời để bảo vệ các quan hệ xã hội xã
hội chủ nghĩa đã và đang được thiết lập. Áp dụng pháp luật là hoạt động diễn


12
ra hàng ngày trong các cơ quan nhà nước và chỉ do nhân viên nhà nước, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Trong hoạt động tư pháp, áp dụng
pháp luật thường được Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm...
tiến hành theo một thủ tục tố tụng nhất định để thu thập chứng cứ, xác minh,
điều tra làm rõ các tình tiết vụ án nhằm xác định sự thật khách quan sự việc;
truy cứu trách nhiệm pháp lý; xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
quan hệ pháp luật.
Do hoạt động áp dụng pháp luật gắn liền với quyền lực nhà nước trong
lĩnh vực hành pháp và tư pháp nên nó có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
thực thi quyền lực nhà nước. Thông qua hoạt động áp dụng pháp luật, các cơ
quan nhà nước và nhân viên nhà nước có thẩm quyền ban hành các quyết định
để thực thi trên thực tế các quyền và nghĩa vụ chủ thể quan hệ pháp luật.
Chính vì vậy, áp dụng pháp luật cịn là một hình thức thực hiện quyền lực nhà
nước trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nếu quy phạm pháp luật là những "khuôn mẫu" chung, những tiêu

chuẩn chung cho xử sự giữa người với người trong các mối quan hệ xã hội thì
hoạt động áp dụng pháp luật ln ln mang tính cụ thể.
Tính cụ thể của hoạt động áp dụng pháp luật thể hiện ở chỗ các địa chỉ
để áp dụng pháp luật là xác định, gồm cả sự việc, con người, tập thể, thời
gian, không gian; quy phạm pháp luật cần áp dụng và quyết định áp dụng
pháp luật được ban hành ln ln mang tính cá biệt.
Do đặc trưng này nên quyết định áp dụng pháp luật phải thỏa mãn các
yêu cầu cụ thể, áp dụng một lần cho một đối tượng nhất định. Việc ban hành
một quyết định áp dụng quy phạm pháp luật phải được thực hiện thông qua
các thủ tục nhất định. Các thủ tục để ban hành quyết định áp dụng quy phạm
pháp luật được pháp luật quy định rất chặt chẽ và đòi hỏi phải được các chủ
thể tuân thủ nghiêm chỉnh. Các thủ tục giúp cho chủ thể áp dụng pháp luật có
điều kiện xem xét, đánh giá kỹ, cân nhắc kỹ các tình tiết sự việc trước khi ra


13
quyết định. Các thủ tục cũng giúp cho chủ thể được áp dụng pháp luật trình
bày nguyện vọng, mong muốn của mình một cách dân chủ, khách quan trong
quá trình áp dụng pháp luật. Tính đơn giản hay phức tạp của các thủ tục tùy
thuộc rất lớn vào tính chất nội dung của sự việc cần phải áp dụng.
Thực tế áp dụng pháp luật luôn luôn sinh động và phong phú, vừa áp
dụng cái chung vào cái cụ thể và vừa đặt ra các yêu cầu cụ thể bổ sung hoàn
chỉnh các quy phạm pháp luật để phục vụ cho cái chung, cái phổ biến. Tính
thực tiễn và tính sinh động của hoạt động áp dụng pháp luật còn thể hiện rõ
nét khi phải áp dụng pháp luật tương tự để giải quyết các tình huống cụ thể.
Trong những trường hợp sự việc cụ thể khơng có quy phạm pháp luật điều
chỉnh trực tiếp, hay nói cách khác, pháp luật chưa có dự liệu trước thì người
áp dụng pháp luật tiến hành áp dụng pháp luật tương tự. Áp dụng pháp luật
tương tự có thể gồm áp dụng tương tự quy phạm pháp luật và áp dụng tương
tự pháp luật. Áp dụng tương tự quy phạm pháp luật là sử dụng quy phạm pháp

luật của một lĩnh vực, một sự việc khác tương tự để giải quyết cho một sự
việc, một lĩnh vực cụ thể chưa có quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp.
Áp dụng pháp luật được tiến hành trong các trường hợp sau:
Một là, khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước hặc áp dụng
các chế tài pháp luật đối với những hành vi vi phạp pháp luật.
Hai là, khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa
các bên thâm gia quan hệ pháp luật mà các bên đó khơng tự giải quyết được.
Ba là, trong trường hợp Nhà nước thấy cần thiết phải tham gia để kiểm
tra, giám sát hoạt động của các bên hoặc xác nhận sự tồn tại một số sự việc,
sự kiện thực tế.
Theo giáo trình Lý luận về Nhà nước và pháp luật của Trường Đại
học Luật Hà Nội thì áp dụng pháp luật được hiểu là:
Hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thơng qua các
cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tổ chức cho


14
các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc
tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật để tạo ra các quyết
định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ
pháp luật cụ thể [8].
Theo cuốn tài liệu Học tập và nghiên cứu môn học Lý luận chung về
Nhà nước và pháp luật (tập 1) của Viện Nhà nước và pháp luật thuộc Học
viện Chính trị- Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh thì
Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật diễn ra
trong hoạt động thực hiện quyền hành pháp và thực hiện quyền tư
pháp của Nhà nước. Đây là hoạt động thực hiện pháp luật của cơ
quan nhà nước được xem như là đảm bảo đặc thù của Nhà nước sao
cho các quy phạm pháp luật được thực hiện có hiệu quả trong đời
sống xã hội [11].

Như vậy trên thực tế có nhiều quan điểm, cách tiếp cận khác nhau khác
nhau về áp dụng pháp luật nhưng theo quan điểm của chúng tơi thì: Áp dụng
pháp luật là một hoạt động mang tính thực tiễn, cụ thể và sinh động do các
cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước được giao quyền tiến hành theo một
thủ tục nhất định do pháp luật quy định. Nó là hình thức thực hiện pháp luật,
là thủ tục bắt buộc để các cơ quan nhà nước thực hiện các biện pháp cưỡng
chế khi có hành vi vi phạm pháp luật, khi phải giải quyết các tranh chấp về
quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể tham gia quan hệ pháp
luật hoặc khi Nhà nước cần phải can thiệp, tham gia để bảo đảm việc thực thi
trên thực tế các quyền của chủ thể trên các lĩnh vực của đời sống xã hội theo
quy định của pháp luật.
Áp dụng pháp luật có một vai trị rất to lớn và rất quan trọng trong việc
thực hiện quyền lực nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội như chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, trật tự trị an xã hội. Việc tạo
lập một cơ chế, một quy trình với các thủ tục đơn giản, gọn nhẹ, nhanh chóng


15
và chính xác để áp dụng pháp luật có ý nghĩa rất lớn đến việc thực thi các
quyền tự do, dân chủ của cơng dân và giữ gìn pháp chế, kỷ cương của đất
nước là việc làm rất cần thiết. Đây chính là biểu hiện sinh động của tính hiệu
quả, hiệu lực trong công tác quản lý nhà nước của một Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của của dân, do dân, vì dân mà chúng ta đã và đang xây dựng.
1.1.1.2. Khái niệm áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp
quyền sử dụng đất của Toà án nhân dân
Hiện nay Nhà nước ta coi quyền sử dụng đất là một loại tài sản “có giá”
(Điều 174 Bộ luật dân sự 2005) vì vậy tranh chấp quyền sử dụng đất là một
hiện tượng phổ biến và cũng là vấn đề hết sức phức tạp hiện nay.Các tranh
chấp đất đai trong thời kỳ hiện nay mang nội dung kinh tế (tranh chấp quyền
sử dụng đất) cũng như ý nghĩa chính trị khác với các tranh chấp đất đai trong

xã hội có giai cấp đối kháng. Đất đai khơng những là tư liệu sản xuất chính
khơng thể thay thế được của các ngành nông, lâm, ngư nghiệp và một số
ngành khác mà đất đai còn là nơi đặt kho tàng, bến bãi, nhà xưởng, xây dựng
khu công nghiệp…Tranh chấp đất đai có thể được hiểu là sự bất đồng, mâu
thuẫn hay xung đột về mặt lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể khi
tham gia vào quan hệ đất đai trong đó tranh chấp về quyền sử dụng đất là loại
tranh chấp ln có sự tham gia của hai hay nhiều bên các bên tranh chấp về
quyền quản lý và sử dụng đất.Thực tế có nhiều nguyên nhân dẫn đến phát
sinh các tranh chấp về đất đai như: nhận thức của các chủ thể pháp luật trong
việc thực hiện các quy định của pháp luật dân sự và pháp luật về đất đai cịn
hạn chế đơi khi cách hành xử chỉ là thói quen trong đời sống xã hội dẫn đến
một bên trong quan hệ tranh chấp không thực hiện biết hoặc không muốn thực
hiện đúng các quy địnhcủa pháp luật, việc vận dụng pháp luật của các cơ quan
quản lý đất đai cịn thiếu chính xác dẫn đến việc nhầm lẫn hoặc sai sót anh
hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của các chủ thể pháp luật và một nguyên
nhân không nhỏ là do hệ thống quy phạm pháp luật dân sự về giải quyết tranh


16
chấp quyền sử dụng đất còn chậm chễ, chung chung, thiếu đồng bộ nên hiệu
quả áp dụng chưa cao… Trong quan hệ đất đai nếu việc phát sinh các tranh
chấp là khơng tránh khỏi thì việc giải quyết nó là vơ cùng cần thiết. Giải
quyết tranh chấp đất đai chính là giải quyết những bất đồng, mâu thuẫn trong
nội bộ giữa các cá nhân, tổ chức trên cơ sở đó phục hồi các quyền và lợi ích
hợp pháp bị xâm phạm đồng thời cũng buộc các cá nhân, tổ chức chịu trách
nhiệm pháp lý đối với những hành vi vi phạm pháp luật đất đai. Từ thực tiễn
đòi hỏi phải có các cơ quan có thẩm quyền để giải quyết các tranh chấp đất
đai trong đó có tranh chấp về quyền sử dụng đất và một trong những cơ quan
đó là Toà án nhân dân. Toà án là cơ quan duy nhất được giao quyền xét xử các
vụ án hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao động nên hoạt động xét xử của

Tồ án nhân dân chính là hoạt động áp dụng pháp luật trong quá trình giải
quyết các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao động. Hoạt động xét
xử là chức năng riêng và cũng là hoạt động đặc trưng của Toà án nhân dân.
Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử nói chung và áp dụng pháp luật
trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất tại Toà án nhân dân
nói riêng chính là việc thực hiện pháp luật của Thẩm phán thông qua việc thu
thập chứng cứ nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án để Hội đồng xét
xử phán quyết, xem xét tính có căn cứ hay khơng có căn cứ, hợp pháp hay
khơng hợp pháp ban hành các bản án, quyết định nhân danh nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể
pháp luật hoặc buộc các chủ thể thực hiện nghĩa vụ của mình theo quy định
của pháp luật. Áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp về
quyền sử dụng đất cịn có sự tham gia của các cơ quan tố tụng khác đó là Viện
kiểm sát nhân dân và Thi hành án dân sự nhằm góp phần đảm bảo sự khách
quan, triệt để trong quá trình áp dụng pháp luật nâng cao hiệu quả của chất
lượng giải quyết tranh chấp.
Từ phân tích nêu trên có thể đưa ra khái niệm áp dụng pháp luật trong
việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của Toà án nhân dân là hình


17
thức thực hiện pháp luật mang tính quyền lực Nhà nước thông qua hoạt động
của Hội đồng xét xử do Thẩm phán- chủ toạ phiên toà điều khiển nhằm xác
định những sự thật khách quan xác định tính có căn cứ hay tính khơng có căn
cứ, hợp pháp hay khơng hợp pháp để phán quyết ban hành các bản án, quyết
định nhân dânh nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam giải quyết các
tranh chấp quyền sử dụng đất đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các
đương sự góp phần ổn định trật tự xã hội và củng cố mối đoàn kết trong nội
bộ nhân dân.
Như vậy áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp quyền sử

dụng đất của Toà án nhân dân là vơ cùng quan trọng góp phần to lớn vào cơng
cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do
dân, vì dân.
1.1.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp
quyền sử dụng đất của Tòa án nhân dân
1.1.2.1. Đặc điểm áp dụng pháp luật
Áp dụng pháp luật có các đặc điểm đặc thù sau:
- Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức, tính quyền lực nhà
nước và chỉ do các cơ quan có thẩm quyền tiến hành, mỗi cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, mỗi cá nhân chỉ được giao một số hoạt động nhất định trong
phạm vi thẩm quyền của mình. Trong một số trường hợp cá biệt một số tổ
chức xã hội cũng có thể được Nhà nước trao một số quyền nhất định để tiến
hành áp dụng pháp luật. Hoạt động áp dụng pháp luật được tiến hành chủ yếu
theo ý chí đơn phương của các cơ quan nhà nước hay những người có thẩm
quyền khơng phụ thuộc vào ý chí của những chủ thể có liên quan. Trong
trường hợp cần thiết áp dụng pháp luật được thực hiện bằng cưỡng chế Nhà
nước. Trong quá trình áp dụng pháp luật các cơ quan nhà nước và những
người có thẩm quyền phải xem xét cân nhắc thận trọng và dựa trên những quy
phạm pháp luật đã được xác định để ra văn bản áp dụng pháp luật cụ thể. Văn


18
bản áp dụng pháp luật là hình thứcc thể hiện chính thức của hoạt động áp
dụng pháp luật, là văn bản pháp lý cá biệt mang tính quyền lực do cơ quan
nhà nước, người có thẩm quyền xây dựng được nhà nước trao quyền ban hành
trên cơ sở những quy phạm pháp luật nhằm xác định quyền và nghĩa vụ pháp
lý cụ thể của cá nhân tổ chức hoặc xác định những biện pháp, trách nhiệm
pháp lý đối với những chủ thể vi phạm pháp luật.
- Áp dụng pháp luật là hoạt động được tiến hành theo trình tự, thủ tục
chặt chẽ do pháp luật quy định. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan

hệ pháp luật được pháp luật quy định rõ ràng nên các cơ quan nhà nứoc và
những người có thẩm quyền khi áp dụng pháp luật phải tuân thủ nghiêm ngặt
các quy định để tránh sự tuỳ tiện có thể dẫn đến việc áp dụng pháp luật khơng
đúng, thiếu chính xác ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các chủ thể tham
gia quan hệ pháp luật. Hình thức thể hiện của áp dụng pháp luật là là văn bản
áp dụng pháp luật được thể hiện cụ thể bằng các bản án, quyết định … các
loại văn bản trên phải phù hợp với pháp luật được dựa trên những quy phạm
pháp luật cụ thể. Văn bản áp dụng pháp luật có hai loại là văn bản xác định
quyền vfa nghĩa vụ của các chủ thể và văn bản bảo vệ pháp luật chứa đựng
những biện pháp trừng trị, cưỡng chế đối với những cá nhân, tổ chức vi phạm
pháp luật.
- Áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh cá biệt cụ thể đối với các
quan hệ xã hội xác định trên cơ sở những mệnh lệnh chung trong quy phạm
phápluật. hay nói cách khác quy phạm pháp luật thông qua hoạt động áp dụng
pháp luật sẽ được cá biệt hố một cách chính xác thành mệnh lệnh cụ thể đối
với những chủ thể cụ thể. Tuy nhiên mệnh lệnh cụ thể không được trái với
mệnh lệnh chung đã nêu trong quy phạm pháp luật.
- Áp dụng pháp luật là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo do vậy các cơ
quan nhà nước, người có thẩm quyền khi áp dụng pháp luật cần phải nghiên
cứu kỹ vụ việc là sáng tỏ cấu thành pháp lý của nó từ đó để lựa chọn những


19
quy phạm pháp luật để áp dụng phù hợp và ra quyết định, tổ chức thi hành
đúng pháp luật.Trong trường hợp pháp luật chưa quy định hoặc quy định chưa
rõ thì phảI vận dụng sáng tạo bằng cách áp dụng tập quán hoặc áp dụng pháp
luật tương tự để giải quyết vụ việc. Trong quá trình áp dụng pháp luật u cầu
đối với những ngưịi có thẩm quyền là phải có tinh thần trách nhiệm, ý thức
pháp luật cao, có tri thức tổng hợp, kinh nghiệm phong phú, đạo đức trong
sáng và trình độ chun mơn nghiệp vụ tốt.

Tóm lại, hoạt động áp dụng pháp luật mang tính tổ chức, tính quyền lực
nhà nước được thực hiện thơng qua cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền
hoặc các tổ chức xã hội khi được Nhà nước trao quyền nhằm cá biệt hoá
những quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, tổ
chức cụ thể.
1.1.2.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp quyền
sử dụng đất của Toà án nhân dân
Đặc điểm của áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp về quyền
sử dụng đất của Toà án nhân dân mang đầy đủ các đặc điểm của áp dụng pháp
luật nhưng biểu hiện cụ thể của nó chính là việc áp dụng pháp luật dân sự và
pháp luật đất đai trong giải quyết những vụ việc cụ thể.Với tính chất phức tạp
và vô cùng đa dạng phong phú của quan hệ pháp luật dân sự về đất đai cùng
với những quy định về trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc tranh chấp về
quyền sử dụng đất do pháp luật tố tụng dân sự và pháp luật về đất đai quy
định thì áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng
đất của Toà án nhân dân có những đặc điểm đặc trưng như sau:
- Giai đoạn đầu tên của quy trình áp dụng pháp luật là thu thập chứng cứ.
Xuất phát từ nguyên tắc quyền tự định đoạt của các đương sự do vậy khi
đương sự có đơn khởi kiện đến Tồ án kèm theo các chứng cứ chứng minh
cho yêu cầu khởi kiện của mình Tồ án phải xem xét xem có đủ điều kiện thụ
lý hay khơng nếu đủ điều kiện thì thụ lý nếu khơng đủ điều kiện thì trả lại đơn


20
cho đương sự. Cụ thể đối với tranh chấp quyền sử dụng đất thủ tục hoà giải ở
địa phương là bắt buộc theo quy định tại Điều 135 Luật đất đai và đây cũng là
điều kiện để Toà án thụ lý vụ án. Việc các đương sự tự cung cấp chứng cứ
chứng minh cho các yêu cầu khởi kiện của mình tại Tồ án là một đặc điểm
đặc trưng cho q trình giải quyết các vụ án dân sự nói chung và giải quyết
các tranh chấp về quyền sử dụng đất nói riêng.Trong trường hợp các cơ quan

tổ chức xã hội khởi kiện thì Tồ án cũng u cầu các chủ thể này cung cấp các
tài liệu, chứng cứ cần thiết, Toà án chỉ thu thập chứng cứ trong trường hợp
các đương sự không tự thu thập chứng cứ được và có đơn đề nghị Tồ án thu
thập chứng cứ. Theo quy định của Bộ luật tố tụng việc thu thập chứng cứ bao
gồm các biện pháp là lấy lời khai đương sự, xác minh, xem xét thẩm định tại
chỗ, định giá tài sản và một số biện pháp khác. Việc thu thập chứng cứ nhằm
làm rõ các tình tiết liên quan đến các tranh chấp về quyền sử dụng đất. Nếu
như trong tố tụng hình sự việc chứng minh một hành vi có tội hay khơng có
tội thuộc trách nhiệm của cơ quan điều tra thì trong tố tụng dân sự nghĩa vụ
chứng minh lại là nghĩa vụ của các đương sự. Việc quy định nhiệm vụ thu
thập chứng cứ của Toà án nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp dân
sự nói chung và tranh chấp về quyền sử dụng đất nói riêng là cơ sở để Toà án
nhân dân thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình theo đúng các quy định
của Bộ luật tố tụng dân sự và cũng góp phần tạo điều kiện để những người
tham gia tố tụng thực hiện đúng đủ quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định.
Thực trạng trình độ dân trí nước ta cịn nhiều hạn chế nên Tồ án nhân dân
phải hết sức nhiệt tình giúp đỡ và hướng dẫn các đương sự thực hiện tốt nghĩa
vụ chứng minh nhằm đảm bảo có đầy đủ chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình.
- Trong các quan hệ pháp luật dân sự chủ thể chủ yếu của các tranh chấp
quyền sử dụng đất là các cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình do vậy Tồ án với
vai trị là chủ thể chính của hoạt động áp dụng pháp luật chỉ là “ trọng tài”


21
trong việc giải quyết tranh chấp giữa các bên. Trước khi tiến hành xét xử thủ
tục hoà giải là thủ tục bắt buộc trong q trình tố tụng, việc hồ giải giúp các
đượng sự có thể tự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Chỉ khi các
đương sự khơng tự hồ giải được thì Tồ án đưa vụ án ra xét xử để đảm bảo
quyền và lợi ích chính đáng của đương sự trên cơ sở pháp luật.

- Khi đã có quyết định của Tồ án về việc tranh chấp quyền sử dụng đất
nếu đương sự không tự nguyện chấp hành sẽ bị cưỡng chế thi hành án theo
quy định của Luật thi hành án.
1.2. QUY TRÌNH ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA TỊA ÁN NHÂN DÂN

1.2.1. Quy trình áp dụng pháp luật
Áp dụng pháp luật là một quá trình phức tạp với sự tham gia phối hợp
của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân khác nhau vì vậy để áp dụng pháp luật
một cách chính xác, đạt hiệu quả cao cần tiến hành các giai đoạn sau:
* Nghiên cứu, phân tích đánh giá đúng những tình tiết thực tế khách
quan của vụ việc và các đặc trưng pháp lý của nó.
Khi quyết định áp dụng pháp luật các cơ quan có thẩm quyền, người có
thẩm quyền phải tiến hành thu thập chứng cứ và dùng các biện pháp chun
mơn đặc biệt để nhằm làm sáng tỏ những tình tiết khách quan của vụ án. Nếu
việc thu thập không đúng trình tự, việc xem xét đánh giá đối chiếu chứng cứ
khơng tồn diện, khơng khách quan sẽ dễ dẫn đến những sai lầm khi ra văn
bản áp dụng pháp luật.
Theo quy định của pháp luật tố tụng thì việc nghiên cứu hồ sơ là một
công việc không thể thiếu khi tiến hành giải quyết một vụ việc, nếu không
nắm vững nội dung cơ bản của vụ việc người áp dụng pháp luật sẽ khơng thể
có phương hướng đúng đắn để xem xét đánh giá các chứng cứ, các thông tin,
không thể kết nối thành một thể thống nhất để có sự đánh giá mang tính khách
quan, tồn diện vụ án. Nếu khơng có phương pháp nghiên cứu đúng đắn


22
người áp dụng pháp luật sẽ rất dễ dàng phát hiện các thơng tin, các tình tiết sự
việc chính yếu của vụ việc thông qua các tài liệu, các lời khai, các chứng cứ
đã thu thập trong hồ sơ vụ án. Sau khi thu thập chứng cứ, nghiên cứu hồ sơ vụ

án người áp dụng pháp luật phải tiến hành các biện pháp phân tích, đánh giá,
đối chiếu các chứng cứ, tài liệu đã có trong hồ sơ để có cơ sở áp dụng những
qui định phù hợp của pháp luật nhằm ban hành những văn bản đúng pháp
luật. Việc nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ việc có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
xem xét giải quyết các vụ việc một cách triệt để đúng pháp luật, có tình, có lý.
Chất lượng áp dụng pháp luật sẽ được nâng cao khi người áp dụng pháp luật
nắm vững các tình tiết của vụ việc thông qua việc nghiên cứu hồ sơ, phân tích
đánh giá các tình tiết của sự việc.
* Tìm, lựa chọn những quy phạm pháp luật phù hợp với nội dung vụ việc
đang giải quyết.
Quy trình này trước hết phải dựa trên cơ sở nhận thức pháp luật, trình độ
hiểu biết, tích luỹ kiến thức pháp luật của người áp dụng pháp luật. Tìm và chọn
quy phạm pháp luật chính là sự đối chiếu các tình tiết sự việc xảy ra với quy
phạm pháp luật điều chỉnh phù hợp. Có hay khơng quy phạm pháp luật điều
chỉnh? Quy phạm pháp luật giải thích như thế nào? Quy phạm được lựa chọn
phải có cịn hiệu lực tại thời điểm xảy ra sự việc cần áp dụng hay không? Nếu
các quy phạm đó có quy định hiệu lực hồi tố thì cần xem xét để áp dụng cho
từng trường hợp cụ thể và nếu pháp luật chưa quy định thì có quy phạm pháp
luật tương tự để áp dụng hay khơng? Như vậy tìm, lựa chọn sai quy phạm pháp
luật sẽ dẫn đến hậu quả sai lầm của việc áp dụng pháp luật do vậy đây là một
thao tác bắt buộc và rất có ý nghĩa rất trong việc đảm bảo tính đúng đắn và hợp
pháp của các văn bản được ban hành. Quá trình tìm, chọn lựa các quy phạm cụ
thể đã u cầu phải có độ chính xác cao thì khi đã lựa chọn được cũng yêu cầu
người áp dụng pháp luật phải có tư duy lơgíc, khoa học, biện chứng làm sáng
tỏ những nội dung và ý nnghĩa khoa học của các quy phạm pháp luật.


23
* Ban hành văn bản áp dụng pháp luật.
Ban hành văn bản pháp luật là giai đoạn có ý nghĩa rất quan trọng của

quá trình áp dụng pháp luật. Do đó pháp luật địi hỏi người có thẩm quyền ban
hành văn bản áp dụng pháp luật phải tuân thủ nghiêm ngặt các bước, các thủ
tục theo quy định của pháp luật.
Văn bản áp dụng pháp luật chính là việc cá thể hoá, cụ thể hoá những
quyền và nghĩa vụ chung chứa đựng trong các văn bản pháp luật để ấn định
những quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của các chủ thể pháp luật hoặc những
biện pháp, trách nhiệm pháp lý đối với những người vi phạm. Văn bản áp
dụng pháp luật phải phù hợp với lợi ích và mệnh lệnh của Nhà nước được thể
hiện trong các đạo luật và văn bản quy phạm pháp luật khác. Khi ban hành
các văn bản các cơ quan Nhà nước, người có thẩm quyền phải đánh giá những
tình tiết của vụ việc mang tính pháp lý, có cơ sở khoa học và thực tiễn. Cụ thể
văn bản áp dụng pháp luật phải được ban hành đúng thẩm quyền, đúng tên
gọi, đúng trình tự và thủ tục do pháp luật quy định, nội dung văn bản phải
chính xác, rõ ràng, đầy đủ, hình thức văn bản phải đảm bảo các quy định của
thủ tục hành chính. Văn bản áp dụng pháp luật phải được ban hành có cơ sở
pháp lý chỉ rõ các điểm, khoản, điều của văn bản áp dụng pháp luật và căn cứ
vào những sự kiện, những đòi hỏi thực tế đầy đủ, chính xác và có thật thì mới
bảo đảm áp dụng pháp luật chính xác, có tính thuyết phục. Nếu văn bản áp
dụng pháp luật không phù hợp với thực tế thì khó được thi hành hoặc thi hành
kem hiệu quả hoặc không thể thi hành được.
* Tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật.
Đây là giai đoạn cuối cùng của quá trình áp dụng pháp luật theo đó trong
giai đoạn này cần tiến hành các hoạt động bảo đảm cho việc thực hiện đúng
đắn, đầy đủ các văn bản áp dụng pháp luật. Đồng thời cần tiến hành kiểm tra,
giám sát việc thi hành văn bản áp dụng pháp luật nhằm đảm bảo để quyết định
trở thành hiện thực trong đời sống.


×