Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

Giáo trình Luật kinh tế (Nghề: Quản trị kinh doanh - Cao đẳng): Phần 2 - Trường CĐ Cộng đồng Đồng Tháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (521.87 KB, 47 trang )

Chƣơng 4: PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TRONG KINH DOANH
Mã chƣơng MH-04
Giới thiệu
Nói đến kinh doanh hầu như ai cũng mong muốn nghe hai từ lợi nhuận, nhưng một
trong các cơ chế đảm bảo lợi nhuận được bảo vệ đó chính là hợp đồng giao dịch trong
kinh doanh phải đảm bảo tính pháp lý thì các bên mới có thể n tâm thực hiện giao
dịch. Vì nó được bảo đảm bằng cơ chế pháp lý, nếu bên nào vi phạm sẽ bị chế tài thích
đáng. Hợp đồng đã trở thành yếu tố then chốt giúp các bên tuân thủ quy địng của pháp
luật, để việc kinhd doanh được tiến hành suông sẽ và đạt lợi nhuận mong đợi.
Mục tiêu

- Kiến thức: có kiến thức căn bản về hợp đồng, tranh chấp phát sinh trong các giao
dịch, đồng thời cung cấp những kiến thức trong việc thiết lập một hợp đồng, giải quyết
tranh chấp hợp đồng kinh doanh.
- Kỹ năng: phân tích và áp dụng luật trong hợp đồng kinh doanh.
- Năng lực tự chủ và trách nhiệm: có tinh thần tự học và làm việc nhóm tốt, tự sắp
sếp hồn thành các nhiệm vụ được giao.
Nội dung chƣơng
1. Một số vấn đề chung về hợp đồng dân sự
1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại hợp đồng dân sự:
1.1.1. Khái niệm
Theo phư ng diện chủ quan Hợp đồng dân sự là một giao dịch dân sự, trong
đó các bên có sự thỏa thuận thống nhất ý chí với nhau nhằm ác lập, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự cho nhau.
Theo phư ng diện khách quan: Hợp đồng dân sự là một loại quan hệ ã hội
được quy phạm pháp luật dân sự điều chỉnh và thể hiện dưới một hình thức nhất định.
Dưới góc độ pháp luật, khái niệm hợp đồng dân sự tại Việt Nam được quy định
tại Điều 385 Bộ luật dân sự năm 2015, theo đó: “Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các
bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.”
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng dân sự:
Theo quy định tại Điều 385 Bộ luật dân sự năm 2015, hợp đồng dân sự bao


gồm những đặc điểm sau:
Thứ nhất, hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên, nhưng là
sự thỏa thuận thống nhất ý chí và ý chí đó phải phù hợp với ý chí của Nhà nước.
Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều người mà tạo lập nên
một nghĩa vụ làm hoặc không làm một việc cụ thể, nếu chỉ là ý chí của một bên thì đó
được gọi là hành vi pháp lý đơn phương. Tuy nhiên, thỏa thuận không dựa trên sự tự
nguyện của các bên, tức là khơng có sự thống nhất ý chí thì hợp đồng dân sự đó bị
tun vơ hiệu khi có yêu cầu. Nguyên tắc của pháp luật dân sự là bình đẳng, dựa trên
sự thỏa thuận, tự nguyện thiện chí của các bên nên nếu khơng có sự thống nhất ý chí
thì khơng được coi là hợp đồng dân sự.Chỉ khi thống nhất ý chí thì quyền và nghĩa vụ
dân sự mới phát sinh. Đồng thời, sự thỏa thuận thống nhất ý chí cịn phải phù hợp với
ý chí của Nhà nước để Nhà nước kiểm soát và cho phép Hợp đồng dân sự phát sinh
trên thực tế.
Thứ hai, hợp đồng dân sự là một sự kiện pháp lý làm phát sinh hậu quả pháp
lý: Xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên chủ thể.
Sự kiện pháp lý là sự biến hoặc hành vi mà pháp luật quy định khi uất hiện thì
sẽ ác lập, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật. Hợp đồng dân sự là một sự kiện
44


pháp lý, theo đó các bên khi có nhu cầu tham gia giao lưu dân sự nhằm thỏa mãn mục
đích của mình sẽ tiến hành thực hiện.
Nghĩa vụ dân sự được phát sinh từ hai nguồn gốc là hành vi pháp lý hoặc sự
kiện pháp lý. Sự kiện pháp lý bao gồm các sự kiện, hoặc tự nguyện (như vi phạm)
hoặc không tự nguyện; hợp pháp hoặc không hợp pháp mà hậu quả pháp lý cụ thể của
chúng được ác định không phải bởi các bên mà bởi pháp luật. Tự nguyện trong sự
kiện pháp lý chỉ là tự nguyện đối với hậu quả thiệt hại chứ không tự nguyện đối với
hậu quả pháp lý.
Hành vi pháp lý là một sự thể hiện ý chí nhằm làm phát sinh ra một hậu quả
pháp lý, có nghĩa là làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt một quyền lợi. Sự thể hiện ý

chỉ có thể là đơn phương (như đề nghị giao kết hợp đồng) hoặc có thể là đa phương,
hay cịn gọi là sự thống nhất ý chí, có nghĩa là sự thỏa thuận, mà sự thỏa thuận có mục
đích ác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền lợi được gọi là hợp đồng. Vậy nên hợp
đồng thường được định nghĩa là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều người ác lập
nhằm thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên chủ thể.
Thứ ba, nội dung của hợp đồng dân sự là quyền và nghĩa vụ mà các bên chủ thể
quy định cho nhau.
Hợp đồng là sự thống nhất của ý chí các chủ thể tham gia giao kết, nội dung của
hợp đồng thể hiện rõ ý chỉ đó của các bên trong phần quyền và nghĩa vụ cụ thể. Vì
vậy, hợp đồng ít nhất phải có hai bên chủ động cùng nhau tạo lập một quan hệ nghĩa
vụ pháp lý cụ thể. Nếu phân tích hợp đồng từ các lời hứa hay sự cam kết, thì hợp đồng
có thể được em là một phương thức mà theo đó người này thương lượng với người
khác để có thể tạo ra sự đảm bảo rằng những lời hứa hay sự cam kết của họ có đời
sống dài lâu hơn so với những trạng thái dễ thay đổi trong suy nghĩ của họ. Điều này
nghĩa là khi đã cam kết thực sự và mong muốn tạo lập ra một hậu quả pháp lý, những
người cam kết bị ràng buộc vào cam kết của mình (trừ trường hợp trở ngại khách
quan, bất khả kháng) mà pháp luật gọi đó là nghĩa vụ.
Thứ tư, mục đích của hợp đồng dân sự là lợi ích hợp pháp, khơng trái đạo đức
ã hội mà các bên cùng hướng tới: Chỉ khi mục đích của hợp đồng dân sự được chứng
minh hoặc được thừa nhận là hợp pháp, không trái đạo đức ã hội thì hợp đồng dân sự
mới phát sinh hiệu lực, qua đó quyền và nghĩa vụ của các bên mới có thể thực hiện
được trên thực tế.
1.1.3. Phân loại hợp đồng dân sự
Bộ luật dân sự năm 2015 ghi nhận sáu loại hợp đồng chủ yếu tại Điều 402:
Hợp đồng gồm các loại chủ yếu sau đây
1. Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau.
2. Hợp đồng đơn vụ là hợp đồng mà chỉ một bên có nghĩa vụ.
3. Hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu lực khơng phụ thuộc vào hợp đồng phụ.
4. Hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính.
5. Hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba là hợp đồng mà các bên giao kết hợp đồng đều

phải thực hiện nghĩa vụ và người thứ ba được hưởng lợi ích từ việc thực hiện nghĩa vụ
đó.
6. Hợp đồng có điều kiện là hợp đồng mà việc thực hiện phụ thuộc vào việc phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt một sự kiện nhất định.

45


Hợp đồng có thể có phụ lục kèm theo để quy định chi tiết một số điều khoản
của hợp đồng. Phụ lục hợp đồng có hiệu lực như hợp đồng. Nội dung của phụ lục hợp
đồng không được trái với nội dung của hợp đồng. Trường hợp phụ lục hợp đồng có
điều khoản trái với nội dung của điều khoản trong hợp đồng thì điều khoản này khơng
có hiệu lực, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp các bên chấp nhận phụ lục
hợp đồng có điều khoản trái với điều khoản trong hợp đồng thì coi như điều khoản đó
trong hợp đồng đã được sửa đổi.
**Hình thức của hợp đồng dân sự
Hợp đồng dân sự bản chất chính là một giao dịch dân sự, trong đó hình thức của
giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.
Giao dịch dân sự thơng qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo
quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.
Hình thức giao kết hợp đồng bằng lời nói thường được áp dụng đối với những
giao dịch mà giá trị của hợp đồng không lớn hoặc các bên hiểu biết, tin tưởng nhau, là
đối tác lâu năm của nhau, những giao dịch mà ác lập và thực hiện kết thúc nhanh
chóng (mua bán ngồi chợ) thường gọi là giao kết bằng miệng, các bên khi ác lập
hợp đồng trong trường hợp này cũng có thể chọn người làm chứng tuy nhiên pháp luật
không bắt buộc điều này.
Đối với trường hợp mà hợp đồng giao kết bằng hành vi cụ thể thì hai bên khơng
có thỏa thuận bằng văn bản cũng như thỏa thuận bằng miệng. Việc giao kết hợp đồng
được minh chứng bằng các hành vi như bên bán tiến hành giao hàng hoặc bên mua
tiến hành trả tiền.

Với hình thức bằng văn bản, các bên khi tham gia giao dịch sẽ thỏa thuận về
quyền và nghĩa vụ của mình sau đó ghi nhận lại bằng văn bản.
Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có
cơng chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tn theo quy định đó. khoản 3 Điều
167 Luật đất đai năm 2013 quy định các giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản
phải được công chứng hoặc chứng thực cụ thể:
“3.Việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử
dụng đất được thực hiện như sau
a) Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất,
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực,
trừ trường hợp kinh doanh bất động sản quy định tại điểm b khoản này;
b) Hợp đồng cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất, hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp; hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, tài
sản gắn liền với đất mà một bên hoặc các bên tham gia giao dịch là tổ chức hoạt động
kinh doanh bất động sản được công chứng hoặc chứng thực theo yêu c u của các bên;
c) Văn bản về thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật về dân sự;
d) Việc công chứng thực hiện tại các tổ chức hành nghề công chứng, việc chứng thực
thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã.”
1.2. Giao kết hợp đồng dân sự
Giao kết hợp đồng dân sự là việc các bên bày tỏ ý chí với nhau theo những
ngun tắc và trình tự nhất định để qua đó ác lập với nhau các quyền, nghĩa vụ dân
sự.
Khi giao kết hợp đồng, các chủ thể phải tuân theo các quy tắc chung được quy
định tại Điều 3 BLDS
46


o Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức ã

hội.
o Các bên tự nguyện và bình đẳng trong giao kết hợp đồng
Trình tự giao kết hợp đồng là q trình mà trong đó các bên chủ thể bày tỏ ý chí
với nhau bằng cách trao đổi ý kiến để đi đến thỏa thuận trong việc cùng nhau làm xác
lập những quyền và nghĩa vụ dân sự đối với nhau. Trình tự này gồm hai giai đoạn đề
nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận giao kết hợp đồng.
1.2.1. Đề nghị giao kết hợp đồng
Khoản 1 Điều 386 quy định: Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định
giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã
được ác định hoặc tới công chúng (bên được đề nghị). Người đề nghị phải đưa ra
những điều khoản của hợp đồng một cách cụ thể và rõ ràng. Việc đề nghị giao kết hợp
đồng được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau. Bên đề nghị có thể trực tiếp trao đổi
với bên được đề nghị hoặc có thể thơng qua điện thoại, công văn, giấy tờ qua bưu
điện,..
Để đảm bảo quyền lợi cho bên được đề nghị, Khoản 2 Điều 386 BLDS quy định
Trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại
giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời thì phải
bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được giao kết hợp đồng nếu có
thiệt hại phát sinh.
Như vậy, lời đề nghị mặc dù chưa phải là hợp đồng nhưng ít nhiều có tính chất
rang buộc đối với người đề nghị. Bên đề nghị vẫn có thể thay đổi hoặc rút lại đề nghị
trong các trường hợp sau:
o Bên được đề nghị chưa nhận được đề nghị
o Bên đề nghị nêu rõ điều kiện được thay đổi hoặc rút lại đề nghị và điều kiện
đó đã đến.
1.2.2. Chấp nhận giao kết hợp đồng:
Điều 393 BLDS quy định Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của
bên được đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị.
Sự im lặng của bên được đề nghị không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được ác lập giữa các

bên.
 Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng
 Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu
lực khi được thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận
được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới của
bên chậm trả lời.
 Khi bên đề nghị không nêu rõ thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có
hiệu lực nếu được thực hiện trong một thời hạn hợp lý.
 Trường hợp thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì lý do khách
quan mà bên đề nghị biết hoặc phải biết về lý do khách quan này thì thơng báo chấp
nhận giao kết hợp đồng vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay khơng
đồng ý với chấp nhận đó của bên được đề nghị.
 Khi các bên trực tiếp giao tiếp với nhau, kể cả trong trường hợp qua điện thoại
hoặc qua phương tiện khác thì bên được đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận hoặc
khơng chấp nhận, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận về thời hạn trả lời.Rút lại
thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng
47


Bên được đề nghị giao kết hợp đồng có thể rút lại thông báo chấp nhận giao kết
hợp đồng, nếu thông báo về việc rút lại này đến trước hoặc cùng với thời điểm bên đề
nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng.
 Thông tin trong giao kết hợp đồng
Trường hợp một bên có thơng tin ảnh hưởng đến việc chấp nhận giao kết hợp
đồng của bên kia thì phải thơng báo cho bên kia biết.
Trường hợp một bên nhận được thơng tin bí mật của bên kia trong q trình
giao kết hợp đồng thì có trách nhiệm bảo mật thông tin và không được sử dụng thơng
tin đó cho mục đích riêng của mình hoặc cho mục đích trái pháp luật khác. Bên vi
phạm quy định nêu trên mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.


 Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực được ác định như sau:
o Do bên đề nghị ấn định;
o Nếu bên đề nghị khơng ấn định thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ
khi bên được đề nghị nhận được đề nghị đó, trừ trường hợp luật liên quan có quy
định khác.

 Các trường hợp sau đây được coi là đã nhận được đề nghị giao kết hợp đồng:
o Đề nghị được chuyển đến nơi cư trú, nếu bên được đề nghị là cá nhân; được
chuyển đến trụ sở, nếu bên được đề nghị là pháp nhân;
o Đề nghị được đưa vào hệ thống thơng tin chính thức của bên được đề nghị;
o Khi bên được đề nghị biết được đề nghị giao kết hợp đồng thông qua các
phương thức khác.
 Thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng: Bên đề nghị giao kết hợp đồng có
thể thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng trong trường hợp sau đây:
o Bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị
trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị;
o Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị
có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh.
o Khi bên đề nghị thay đổi nội dung của đề nghị thì đó là đề nghị mới.
 Hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng
Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể hủy bỏ đề nghị nếu đã nêu rõ quyền này
trong đề nghị và bên được đề nghị nhận được thông báo về việc hủy bỏ đề nghị trước
khi người này gửi thông báo chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
 Chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng
Đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt trong trường hợp sau đây:
o Bên được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng;
o Bên được đề nghị trả lời không chấp nhận;
o Hết thời hạn trả lời chấp nhận;
o Khi thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực;
o Khi thơng báo về việc hủy bỏ đề nghị có hiệu lực;

48


o Theo thỏa thuận của bên đề nghị và bên được đề nghị trong thời hạn chờ bên
được đề nghị trả lời.
 Sửa đổi đề nghị do bên được đề nghị đề uất
Khi bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng nhưng có nêu điều kiện hoặc
sửa đổi đề nghị thì coi như người này đã đưa ra đề nghị mới.
**Trường hợp bên đề nghị chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi sau khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận giao kết
hợp đồng thì đề nghị giao kết hợp đồng vẫn có giá trị, trừ trường hợp nội dung giao kết
gắn liền với nhân thân bên đề nghị.
**Trường hợp bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng nhưng sau đó
chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
thì việc trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có giá trị, trừ trường hợp nội dung
giao kết gắn liền với nhân thân bên được đề nghị.
1.3. Thực hiện hợp đồng dân sự
1.3.1. Khái niệm thực hiện hợp đồng dân sự:
Thực hiện hợp đồng dân sự là việc các bên tiến hành các hành vi mà mỗi bên
phải thực hiện nhằm đáp ứng quyền dân sự tương ứng của bên kia.
1.3.2. Nguyên tắc thực hiện hợp đồng dân sự
Việc thực hiện hợp đồng dân sự phải tuân theo nguyên tắc sau đây:
– Thực hiện đúng, đầy đủ các thỏa thuận trong nội dung của hợp đồng về chất lượng,
sổ lượng, chủng loại của đổi tượng; về thời hạn; về phương thức và các thỏa thuận
khác.
– Thực hiện hợp đồng một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho
các bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau.
– Khi thực hiện hợp đồng không được làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích
công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác.
1.3.3. Nội dung hợp đồng dân sự

– Đối với hợp đồng đơn vụ (Theo quy định tại Điều 409 Bộ luật dân sự năm 2015).
Trong hợp đồng đơn vụ, bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đúng như đã thoả
thuận; chỉ được thực hiện trước hoặc sau thời hạn nếu được bên có quyền đồng ý.
1.3.4. Đối với hợp đồng song vụ
Điều 410 Bộ Luật dân sự năm 2015
Trong hợp đồng song vụ, khi các bên đã thoả thuận thời hạn thực hiện nghĩa
vụ thì mỗi bên phải thực hiện nghĩa vụ của mình khi đến hạn; khơng được hỗn thực
hiện với lý do bên kia chưa thực hiện nghĩa vụ đối với mình.
Trong trường hợp các bên khơng thoả thuận bên nào thực hiện nghĩa vụ trước
thì các bên phải đồng thời thực hiện nghĩa vụ đối với nhau; nếu nghĩa vụ khơng thể
thực hiện đồng thời thì nghĩa vụ nào khi thực hiện mất nhiều thời gian hơn thì nghĩa vụ
đó phải được thực hiện trước.
Nếu một bên không thực hiện được nghĩa vụ mà các bên đều khơng có lỗi thì
bên khơng thực hiện được nghĩa vụ khơng có quyền yêu cầu bên kia thực hiện nghĩa
vụ đối với mình. Trường hợp một bên đã thực hiện được một phần nghĩa vụ thì có
quyền u cầu bên kia thực hiện phần nghĩa vụ tương ứng đối với mình.
49


Khi một bên không thực hiện được nghĩa vụ của mình do lỗi của bên kia thì có
quyền u cầu bên kia vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với mình hoặc huỷ bỏ hợp đồng
và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Các bên trong hợp đồng song vụ có quyền hoãn thực hiện nghĩa vụ trong các
trường hợp sau đây:
+ Bên phải thực hiện nghĩa vụ trước có quyền hỗn thực hiện nghĩa vụ, nếu tài
sản của bên kia đã bị giảm sút nghiêm trọng đến mức không thể thực hiện được
nghĩa vụ như đã cam kết cho đến khi bên kia có khả năng thực hiện được nghĩa
vụ hoặc có người bảo lãnh.
+ Bên phải thực hiện nghĩa vụ sau có quyền hỗn thực hiện nghĩa vụ đến hạn nếu
bên thực hiện nghĩa vụ trước chưa thực hiện nghĩa vụ của mình khi đến hạn.

1.3.5. Đối với hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba
+ Khi thực hiện hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba thì người thứ ba có quyền
trực tiếp yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đối với mình; nếu các
bên có tranh chấp về việc thực hiện hợp đồng thì người thứ ba khơng có quyền
u cầu thực hiện nghĩa vụ cho đến khi tranh chấp được giải quyết.
+ Bên có quyền cũng có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng vì lợi
ích của người thứ ba.
+ Trong trường hợp người thứ ba từ chối lợi ích của mình trước khi bên có nghĩa
vụ thực hiện nghĩa vụ thì bên có nghĩa vụ khơng phải thực hiện nghĩa vụ, nhưng
phải báo cho bên có quyền và hợp đồng được coi là bị huỷ bỏ, các bên phải hồn
trả cho nhau những gì đã nhận; nếu người thứ ba từ chối lợi ích của mình sau khi
bên có nghĩa vụ đã thực hiện nghĩa vụ thì nghĩa vụ được em là đã hồn thành và
bên có quyền vẫn phải thực hiện cam kết đối với bên có nghĩa vụ.
Trách nhiệm pháp lý (trách nhiệm dân sự) do vi phạm hợp đồng dân sự
Trách nhiệm pháp lý mang tính tài sản được áp dụng đối với người vi phạm
pháp luật dân sự nhằm bù đắp về tổn thất vật chất, tinh thần cho người bị thiệt hại.
Trách nhiệm dân sự dựa vào căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ mà các bên đã vi phạm,
trách nhiệm dân sự được phân chia thành trách nhiệm ngoài hợp đồng và trách nhiệm
do vi phạm nghĩa vụ từ những cam kết, thỏa thuận. Nếu nghĩa vụ được tạo lập do các
bên cam kết thỏa thuận mà người có nghĩa vụ vi phạm thì trách nhiệm đó được coi là
trách nhiệm theo hợp đồng. Nếu nghĩa vụ được quy định bởi các quy định pháp luật
nói chung mà người có nghĩa vụ vi phạm thì trách nhiệm đó được coi là trách nhiệm
ngoài hợp đồng. Trách nhiệm dân sự bao gồm in lỗi, cải chính cơng khai, buộc thực
hiện nghĩa vụ dân sự, buộc bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm. Trách nhiệm dân sự là
trách nhiệm pháp lý mang tính tài sản được áp dụng đối với người vi phạm pháp luật
dân sự nhằm bù đắp về tổn thất vật chất, tinh thần cho người bị thiệt hại. Nếu hiểu theo
nghĩa này, trách nhiệm dân sự là loại trách nhiệm pháp lý được đặt ra khi và chỉ khi có
sự vi phạm pháp luật dân sự
1.4.1. Đặc điểm của trách nhiệm dân sự:
Như trên đã phân tích, trách nhiệm dân sự được hiểu là một trách nhiệm pháp lý

cho nên nó sẽ mang những đặc tính nói chung của trách nhiệm pháp lý. Tuy nhiên, vì
đây là trách nhiệm dân sự nói riêng nên sẽ có những đặc điểm riêng biệt thuộc về trách
nhiệm dân sự
1.4.

50


Thứ nhất: Căn cứ phát sinh trách nhiệm dân sự phải là hành vi vi phạm pháp luật
dân sự: Đó là việc không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc thực hiện khơng đầy
đủ nghĩa vụ của người có nghĩa vụ dân sự;
Thứ hai: Trách nhiệm dân sự là biện pháp cưỡng chế mang tính tài sản. Trong quan
hệ nghĩa vụ dân sự mục đích mà các bên hướng đến là lợi ích. Chính vì vậy, lợi ích mà
các bên hướng tới sẽ mang tính tài sản và đó là trách nhiệm bù đắp cho bên bị vi phạm
một lợi ích nhất định từ bên vi phạm
Thứ ba Trách nhiệm dân sự là trách nhiệm của bên vi phạm trước bên có quyền,
lợi ích bị âm phạm
Thứ tư Chủ thể chịu trách nhiệm dân sự ngoài người vi phạm nghĩa vụ cịn có thể
là những chủ thể khác như: Pháp nhân, cơ quan, tổ chức, người đại diện theo pháp luật
cho người chưa thành niên…
Thứ năm: Hậu quả bất lợi mà người vi phạm nghĩa vụ phải gánh chịu có thể là việc
phải thực hiện nghĩa vụ, thực hiện đúng và thực hiện đủ nghĩa vụ và nếu có thệt hại
thực tế từ vi phạm đó thì sẽ phát sinh thêm trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Thứ sáu Trách nhiệm dân sự nhằm đền bù hoặc khôi phục lại quyền và lợi ích bị
âm phạm.
1.4.2. Nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự:
Các bên phải nghiêm chỉnh thực hiện nghĩa vụ dân sự của mình và tự chịu trách
nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, nếu khơng tự
nguyện thực hiện thì có thể bị cưỡng chế thực hiện theo quy định của pháp luật.
1.4.3. Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ:

 Bên có nghĩa vụ mà vi phạm nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với
bên có quyền.
 Vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ khơng thực hiện nghĩa vụ đúng thời
hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của
nghĩa vụ.
 Trường hợp bên có nghĩa vụ khơng thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả
kháng thì khơng phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác.
 Bên có nghĩa vụ khơng phải chịu trách nhiệm dân sự nếu chứng minh được
nghĩa vụ không thực hiện được là hồn tồn do lỗi của bên có quyền.
Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ là sự quy định của pháp luật về việc
người nào vi phạm nghĩa vụ dân sự hoặc có hành vi trái pháp luật khác phải gánh chịu
một hậu quả pháp lý nhất định như phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ dân sự, bồi thường
thiệt hại. Nghĩa vụ là một quan hệ pháp luật được hình thành trên cơ sở thỏa thuận
hoặc pháp luật quy định. Khi đã ác lập quan hệ nghĩa vụ với nhau, bên nghĩa vụ bị
ràng buộc trách nhiệm bởi lợi ích của bên có quyền.
Do đó, bên có nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ
nghĩa vụ của mình sẽ mang lại tổn thất về tài sản hoặc tinh thần cho bên có quyền. Cho
nên, hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ sẽ mang đến hậu quả bất lợi cho
người này. Họ có thể phải gánh chịu hậu quả buộc phải thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa
vụ hoặc là bồi thường thiệt hại cho bên có quyền.
Đó là trách nhiệm dân sự, một loại chế tài áp dụng cho người có hành vi vi
phạm nghĩa vụ của mình. Hiện nay thực tế cho thấy trong nhiều trường hợp bên có
nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ của mình nhưng khơng do lỗi của chính họ hoặc hồn tồn
dựa trên yếu tố khách quan mà bằng khả năng của mình họ khơng khắc phục, hạn chế
51


được thiệt hai ảy ra cho bên có quyền. Do đó, pháp luật đã dự liệu những trường hợp
sau bên có nghĩa vụ vi phạm có thể khơng phải chịu trách nhiệm.

– Xuất hiện sự kiện bất khả kháng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy
định khác. Nếu uất hiện sự kiện bất khả kháng làm cho bên có nghĩa vụ khơng thể
thực hiện được nghĩa vụ thì bên có nghĩa vụ khơng phải chịu trách nhiệm. Tuy nhiên,
nếu các nên thỏa thuận ngay cả khi ảy ra sự kiện bất khả kháng bên có nghĩa vụ vẫn
phải chịu trách nhiệm khi vi phạm nghĩa vụ của mình thì sự thỏa thuận được ghi nhận
và thực hiện.
– Bên vi phạm nghĩa vụ chứng minh được nghĩa vụ khơng thực hiện được là hồn tồn
do lỗi của bên có quyền. Thơng thường bên có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm dân sự
nếu đến hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự mà bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ trước bên
có quyền.
2. Một số vấn đề riêng về hợp đồng thƣơng mại:
2.1. Khái niệm, phân loại hợp đồng thƣơng mại
2.1.1. Khái niệm
Quan hệ kinh doanh thương mại được ác lập và thực hiện thơng qua hình thức
pháp lý chủ yếu là hợp đồng. Theo luật doanh nghiệp, Hợp đồng kinh doanh, thương
mại có bản chất của hợp đồng nói chung, là sự thỏa thuận nhằm ác lập, thay đổi hoặc
chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ thương mại.
Luật doanh nghiệp, Luật Thương mại không đưa ra định nghĩa về hợp đồng
trong kinh doanh, thương mại, song có thể ác định bản chất pháp lý của hợp đồng
trong kinh doanh, thương mại trên cơ sở quy định của Bộ luật Dân sự về hợp đồng. Từ
đó cho thấy, hợp đồng trong kinh doanh, thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng
dân sự.
Có thể em ét hợp đồng kinh doanh, thương mại trong mối liên hệ với hợp
đồng dân sự theo nguyên lý của mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Nhiều vấn đề
về hợp đồng trong kinh doanh, thương mại được điều chỉnh bởi pháp luật khơng có sự
khác biệt với các hợp đồng dân sự, như: Giao kết hợp đồng, hợp đồng vô hiệu và ử lý
hợp đồng vô hiệu… Bên cạnh đó, uất phát từ yêu cầu của hoạt động thương mại, một
số vấn đề về hợp đồng trong kinh doanh, thương mại được quy định trong pháp luật
thương mại có tính chất là sự phát triển tiếp tục những quy định của dân luật truyền
thống về hợp đồng (như chủ thể, hình thức, quyền và nghĩa vụ của các bên, chế tài và

giải quyết tranh chấp hợp đồng...). Với tư cách là hình thức pháp lý của quan hệ
thương mại, hợp đồng trong kinh doanh, thương mại có những đặc điểm nhất định để
nhận biết và phân biệt với các loại hợp đồng khác.
Thứ nhất, về chủ thể: hợp đồng trong kinh doanh, thương mại được thiết lập
giữa các chủ thể là thương nhân. Theo quy định của Luật Thương mại, thương nhân
bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một
cách độc lập, thường uyên và có đăng ký kinh doanh. Điểm mấu chốt là tất cả chủ thể
của quan hệ hợp đồng kinh doanh, thương mại (thương nhân) đều phải có đăng ký
kinh doanh. Thương nhân là chủ thể của hợp đồng kinh doanh, thương mại có thể là
thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài. Luật Thương mại quy định về
thương nhân nói chung và thương nhân nước ngoài hoạt động thương mại tại Việt
Nam.
Thứ hai, về hình thức: hợp đồng kinh doanh, thương mại có thể được thiết lập
dưới hình thức văn bản, lời nói hoặc bằng hành vi cụ thể của các bên giao kết. Trong
những trường hợp nhất định, pháp luật bắt buộc các bên phải thiết lập hợp đồng kinh
doanh, thương mại bằng hình thức văn bản (Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, hợp
52


đồng dịch vụ khuyến mại, quảng cáo, hội chợ, triển lãm thương mại...). Luật Thương
mại cho phép các bên hợp đồng có thể thay thế hình thức thức văn bản bằng các hình
thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Các hình thức có giá trị tương đương văn
bản bao gồm điện báo, tele , fa , thông điệp dữ liệu.
Thứ ba, về nội dung và mục đích của hợp đồng kinh doanh thương mại: mục đích
của các bên trong hợp đồng kinh doanh, thương mại là lợi nhuận. Trường hợp có chủ
thể hợp đồng khơng nhằm mục đích lợi nhuận giao dịch với thương nhân thực hiện
trên lãnh thổ nước Cộng hoà ã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thì hợp đồng được áp dụng
Luật Thương mại khi bên khơng nhằm mục đích lợi nhuận lựa chọn áp dụng Luật
Thương mại.
2.1.2. Phân loại hợp đồng thƣơng mại:

Hợp đồng trong kinh doanh, thương mại có thể chia thành những nhóm chủ yếu
như sau:
Một là, hợp đồng mua bán hàng hóa: Hợp đồng mua bán hàng hóa khơng có
yếu tố quốc tế; hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (Xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập
tái uất, tạm uất tái nhập, chuyển khẩu) và hợp đồng mua bán hàng hóa qua Sở giao
dịch hàng hóa (hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn).
Hai là, hợp đồng dịch vụ: Hợp đồng cung ứng dịch vụ liên quan trực tiếp đến
mua bán hàng hóa (hợp đồng trong các hoạt động úc tiến thương mại, trung gian
thương mại, các hoạt động thương mại cụ thể khác); các hợp đồng cung ứng dịch vụ
chuyên ngành (hợp đồng dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, đào tạo, du lịch...).
Ba là, những hợp đồng trong các hoạt động đầu tư thương mại đặc thù khác
(hợp đồng giao nhận thầu ây lắp, hợp đồng chuyển nhượng dự án khu đô thị mới, khu
nhà ở, dự án hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp...).
2.2. Một số vấn đề khác của hợp đồng thƣơng mại
Với cách hiểu về hợp đồng thương mại như trên, hợp đồng thương mại mang
những đặc điểm đặc thù như sau:
Hợp đồng thương mại được kí kết giữa các bên là thương nhân, hoặc có một
bên là thương nhân. Đây là một điểm đặc trưng của hợp đồng thương mại so với các
loại hợp đồng dân sự.
Về chủ thể trong hợp đồng thương mại ở đây gồm thương nhân (bao gồm tổ
chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc
lập, thường uyên và có đăng ký kinh doanh), cá nhân, tổ chức khác có hoạt động liên
quan đến thương mại (Điều 2 Luật thương mại 2005)
Thứ nhất, về nội dung của Hợp đồng thương mại:
Nội dung của hợp đồng thương mại nói riêng và hợp đồng nói chung là tổng
hợp các điều khoản mà các bên tham gia giao kết hợp đồng đã thỏa thuận, các điều
khoản này ác định những quyền và nghĩa vụ dân sự cụ thể của các bên giao kết hợp
đồng. Tuy nhiên, sự khác biệt cơ bản của hợp đồng thương mại là nội dung của hợp
đồng thương mại là hoạt động thương mại. Mỗi loại hợp đồng có những quy định nhất
định về các điều khoản cơ bản. Ví dụ : Đối với hợp đồng mua bán thì điều khoản cơ

bản bao gồm đối tượng và giá cả.
Pháp luật đề cao sự thỏa thuận giữa các bên giao kết, tuy nhiên nội dung của
hợp đồng phải tuân theo những quy định của pháp luật hợp đồng nói chung, được quy
định tại BLDS 2015. Loại trừ những điều khoản của pháp luật có nội dung mang tính
bắt buộc, các bên có thể thỏa thuận với nhau những nội dung khác với nội dung quy
định trong pháp luật. Điều 398 Luật dân sự 2015 có quy định các bên trong hợp đồng
53


có quyền thỏa thuận về nội dung trong hợp đồng: Đối tượng của hợp đồng; Số lượng,
chất lượng; Giá, phư ng thức thanh toán; Thời hạn, địa điểm, phư ng thức thực hiện
hợp đồng; Quyền, nghĩa vụ của các bên; Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; Phư ng
thức giải quyết tranh chấp.”
Tùy theo tính chất của từng loại hợp đồng các bên có thể thỏa thuận hay khơng
thỏa thuận tất cả các điều ghi trên. Các bên cũng có thể bổ sung thêm vào hợp đồng
những điều khoản không có quy định nhưng các bên cảm thấy khơng cần thiết.
Ngoài ra, để làm rõ nội dung của hợp đồng, có sự bổ sung bởi phụ lục hợp
đồng. Phụ lục hợp đồng có hiệu lực như hợp đồng, nhưng nội dung của phụ lục không
được trái với hợp đồng.
Trong trường hợp phụ lục có điều khoản trái với nội dung của điều khoản trong
hợp đồng thì điều khoản này khơng có hiệu lực, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
Nếu các bên chấp nhận phụ lục hợp đồng có điều khoản trái với điều khoản
trong hợp đồng thì coi như điều khoản đó trong hợp đồng đã được sửa đổi.
Thứ hai: Về hình thức thì hợp đồng thương mại
Hình thức hợp đồng thương mại được thiết lập theo cách thức mà hai bên thỏa
thuận, có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể của
các bên giao kết. Trong một số trường hợp nhất định, hợp đồng phải được thiết lập
bằng văn bản như hợp đồng đại lý thương mại, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa,
hợp đồng dịch vụ khuyến mại, quảng cáo, hội chợ, triển lãm thương mại…
Điều 24 Luật thương mại năm 2005 đã quy định: “Hợp đồng mua bán hàng

hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối
với các loại hợp đồng mua bán hàng háo mà pháp luật quy định phải được lập thành
văn bản thì phải tuân theo các quy định đó”. Luật thương mại năm 2005 cũng cho
phép thay thế hình thức văn bản bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương,
bao gồm điện báo, fa , thông điệp dữ liệu điện tử và các hình thức khác theo quy định
của pháp luật.
Thứ ba: Về đối tượng của hợp đồng
Đối tượng của hợp đồng thương mại là hàng hóa. Theo nghĩa thơng thường,
hàng hóa được hiểu là những sản phẩm lao động của con người, được tạo ra nhằm mục
đích thỏa mãn nhu cầu của con người. Dực vào tính chất pháp lý, hàng hóa được chia
thành nhiều loại khác nhau như bất động sản, động sản, tài sản hữu hình, tài sản vơ
hình, các quyền về tài sản…
Tại Việt Nam, theo Khoản 3 Điều 5 Luật thương mại năm 1997, đối tượng được
coi là hàng hóa bao gồm: máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu
dùng, các động sản khác được lưu thông trên thị trường, nhà ở dùng để kinh doanh
dưới hình thức cho thuê, mua, bán. Trên thức tế, các hoạt động mua bán có tính chất
thương mại ở Việt Nam khơng chỉ dừng lại ở những loại hàng hóa này mà với cách liệt
kê như Luật thương mại năm 1997 lại bó hàng hóa trong một phạm vi hẹp. Khắc phục
bất cập trên, Khoản 2 Điều 3 Luật thương mại năm 2005 quy định:
“Hàng hóa bao gồm
i) Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tư ng lai;
ii) Những vật gắn liền với đất đai”.
54


Như vậy, hàng hóa trong hợp đồng thương mại có thể là hàng hóa đang tồn tại
hoặc hàng hóa sẽ hình thành trong tương lai, có thể là động sản hoặc bất động sản
được phép lưu thông trong thương mại.
Thứ tư: mục đích của hợp đồng
Mục đích của hợp đồng thương mại là lợi nhuận. Xuất phát từ mục đích của

hoạt động thương mại là nhằm sinh lợi nên khi các thương nhân tham gia ký kết một
hợp đồng thương mại suy cho cùng cũng đều vì lợi ích lợi nhuận. Theo Khoản 3 Điều
1 Luật thương mại năm 2005, đối với những hợp đồng giữa thương nhân với chủ thể
khơng phải là thương nhân và khơng nhằm mục đích sinh lợi, việc có áp dụng Luật
thương mại để điều chỉnh quan hệ hợp đồng này hay không là do bên khơng có mục
đích lợi nhuận quyết định.
Thứ năm : Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
Hợp đồng thương mại được giao kết phải đảm bảo các nguyên tắc của hợp đồng
theo quy định của pháp luật. Việc quy định nguyên tắc giao kết hợp đồng nhằm đảm
bảo sự thỏa thuận của các bên phù hợp với ý chí thực của họ, hướng đến những lợi ích
chính đáng của các bên, đồng thời không âm hại đến những lợi ích mà pháp luật cần
bảo vệ. Theo quy định của Bộ luật dân sự việc giao kết hợp đồng phải tuân theo các
nguyên tắc: tự do giao kết nhưng không trái pháp luật và đạo đức ã hội, luật thương
mại là luật riêng của luật dân sự cho nên cũng phải chịu sự điều chỉnh của những
nguyên tắc trên.
Theo quy định tại Điều 117 Bộ luật dân sự 2015 có quy định thì một giao dịch
có hiệu lực khi thỏa mãn các điều kiện sau đây
Thứ nhất, người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự, bởi vì hành vi
giao kết hợp đồng sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các bên. Do vậy để
hợp đồng có hiệu lực pháp lý và có khả năng thực hiện, người giao kết hợp đồng phải
có khả năng nhận thức hành vi giao kết hợp đồng cũng như hậu quả của việc giao kết
hợp đồng. Đối với cá nhân, tổ chức giao kết hợp đồng phải đúng thẩm quyền. Nếu như
người tham gia giao dịch không đầy đủ năng lực hành vi dân sự thì hợp đồng sẽ khơng
có hiệu lực và theo qui định của pháp luật sẽ bị tuyên bố vô hiệu.
Thứ hai, mục đích và nội dung của giao dịch khơng vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức ã hội. Mục đích của hợp đồng là những lợi ích hợp pháp mà
các bên mong muốn đạt được khi giao kết hợp đồng. Nội dung của hợp đồng bao gồm
các điều khoản mà các bên đã thỏa thuận, thống nhất. Để hợp đồng có hiệu lực và có
khả năng thực hiện, pháp luật quy định mục đích, nội dung của hợp đồng không được
trái pháp luật và đạo đức ã hội.

Thứ ba, người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. Việc quy định nguyên
tắc giao kết hợp đồng nhằm đảm bảo sự thỏa thuận của các bên phù hợp với ý chí thực
của họ, hướng đến những lợi ích chính đáng của các bên, đồng thời không âm hại đến
những lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ. Theo quy định của Bộ luật dân sự, việc giao
kết hợp đồng nói chung và hợp đồng kinh doanh thương mại nói riêng phải tuân theo
các nguyên tắc: tự do giao kết nhưng không trái pháp luật và đạo đức ã hội: Tự
nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng. Những hành vi cưỡng
ép, đe dọa, lừa dối để giao kết hợp đồng… là lý do dẫn đến hợp đồng bị coi là vô hiệu.
Thứ tư, nếu pháp luật có quy định về hình thức của hợp đồng thì phải tn theo
quy định này. Thơng thường đó là quy định hợp đồng phải được lập thành văn bản
55


hoặc văn bản hợp đồng phải được công chứng, chứng thực.Trong trường hợp này, hình
thức của hợp đồng là điều kiện có hiệu lực, khi giao kết các bên phải tuân theo hình
thức được pháp luật quy định. Để hợp đồng thương mại có hiệu lực, hợp đồng phải
được ác lập theo những hình thức được pháp luật thừa nhận.
** Những vấn đề cần lưu ý trong soạn thảo hợp đồng thương mại:
a) Thông tin ác định tư cách chủ thể của các bên:
Doanh nghiệp và các cá nhân, tổ chức khác có quyền tham gia ký kết hợp đồng thương
mại, nhưng để ác định được quyền hợp pháp đó và tư cách chủ thể của các bên thì
cần phải có tối thiểu các thơng tin sau:
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp: Tên, Trụ sở, Giấy phép thành lập và người đại
diện.Các nội dung trên phải ghi chính ác theo Quyết định thành lập hoặc Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy phép đầu tư của doanh nghiệp. Các bên nên uất
trình, kiểm tra các văn bản, thơng tin này trước khi đàm phán, ký kết để đảm bảo hợp
đồng ký kết đúng thẩm quyền.
- Đối với cá nhân: Tên, số chứng minh thư và địa chỉ thường trú. Nội dung này ghi
chính ác theo chứng minh thư nhân dân hoặc hộ chiếu hoặc hộ khẩu và cũng nên
kiểm tra trước khi ký kết.

b) Tên gọi hợp đồng:
Tên gọi hợp đồng thường được sử dụng theo tên loại hợp đồng kết hợp với tên
hàng hóa, dịch vụ. Ví dụ: tên loại là hợp đồng mua bán, còn tên của hàng hố là i
măng, ta có Hợp đồng mua bán + i măng hoặc Hợp đồng dịch vụ + khuyến mại. Hiện
nhiều doanh nghiệp vẫn cịn thói quen sử dụng tên gọi “HỢP ĐỒNG KINH TẾ” theo
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế (1989) nhưng nay Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã hết hiệu
lực, nên việc đặt tên này khơng cịn phù hợp. Bộ luật dân sự năm 2005 đã dành riêng
Chương 18 để quy định về 12 loại hợp đồng thông dụng, Luật thương mại năm 2005
cũng quy định về một số loại hợp đồng, nên chúng ta cần kết hợp hai bộ luật này để
đặt tên hợp đồng trong thương mại cho phù hợp.
c) Căn cứ ký kết hợp đồng:
Phần này các bên thường đưa ra các căn cứ làm cơ sở cho việc thương lượng,
ký kết và thực hiện hợp đồng; có thể là văn bản pháp luật điều chỉnh, văn bản uỷ
quyền, nhu cầu và khả năng của các bên. Trong một số trường hợp, khi các bên lựa
chọn một văn bản pháp luật cụ thể để làm căn cứ ký kết hợp đồng thì được em như
đó là sự lựa chọn luật điều chỉnh. Ví dụ: một doanh nghiệp Việt Nam ký hợp đồng
mua bán hàng hố với một doanh nghiệp nước ngồi mà có thoả thuận là: Căn cứ vào
Bộ luật dân sự 2005 và Luật thương mại 2005 của Việt Nam để ký kết, thực hiện hợp
đồng thì hai luật này sẽ là luật điều chỉnh đối với các bên trong quá trình thực hiện hợp
đồng và giải quyết tranh chấp (nếu có). Do đó cũng phải hết sức lưu ý khi đưa các văn
bản pháp luật vào phần căn cứ của hợp đồng, chỉ sử dụng khi biết văn bản đó có điều
chỉnh quan hệ trong hợp đồng và cịn hiệu lực.
d) Hiệu lực hợp đồng:
Nguyên tắc hợp đồng bằng văn bản mặc nhiên có hiệu lực kể từ thời điểm bên
sau cùng ký vào hợp đồng, nếu các bên không có thỏa thuận hiệu lực vào thời điểm
khác; Ngoại trừ một số loại hợp đồng chỉ có hiệu lực khi được công chứng, chứng thực
theo quy định của pháp luật, như: hợp đồng mua bán nhà, hợp đồng chuyển nhượng dự
56



án bất động sản, hợp đồng chuyển giao công nghệ… Các bên phải hết sức lưu ý điều
này bởi vì hợp đồng phải có hiệu lực mới phát sinh trách nhiệm pháp lý, ràng buộc các
bên phải thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng.
Liên quan đến hiệu lực thi hành của hợp đồng thương mại thì vấn đề người đại
diện ký kết (người ký tên vào bản hợp đồng) .Thơng thường đối với doanh nghiệp thì
người đại diện được ác định rõ trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy
phép đầu tư. Cùng với chữ ký của người đại diện cịn phải có đóng dấu (pháp nhân)
của tổ chức, doanh nghiệp đó.
e) Điều khoản định nghĩa:
Điều khoản định nghĩa được sử dụng với mục đích định nghĩa (giải thích) các
từ, cụm từ được sử dụng nhiều lần hoặc cần có cách hiểu thống nhất giữa các bên hoặc
các ký hiệu viết tắt. Điều này thường không cần thiết với những hợp đồng mua bán
hàng hóa, dịch vụ thông thường phục vụ các nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Nhưng nó
rất quan trọng đối với hợp đồng thương mại quốc tế, hợp đồng chuyển giao công nghệ,
hợp đồng tư vấn giám sát ây dựng; bởi trong các hợp đồng này có nhiều từ, cụm từ có
thể hiểu nhiều cách hoặc từ, cụm từ chuyên môn chỉ những người có hiểu biết trong
lĩnh vực đó mới hiểu. Ví dụ: “pháp luật”, “hạng mục cơng trình”, “quy chuẩn ây
dựng”. Do vậy để việc thực hiện hợp đồng được dễ dàng, hạn chế phát sinh tranh chấp
các bên phải làm rõ (định nghĩa) ngay từ khi ký kết hợp đồng chứ không phải đợi đến
khi thực hiện rồi mới cùng nhau bàn bạc, thống nhất cách hiểu. Mặt khác khi có tranh
chấp, kiện tụng ảy ra thì điều khỏan này giúp cho những người ét ử hiểu rõ những
nội dung các bên đã thỏa thuận và ra phán quyết chính ác.
f) Điều khoản cơng việc:
Trong hợp đồng dịch vụ thì điều khoản công việc (dịch vụ) mà bên làm dịch vụ
phải thực hiện là không thể thiếu. Những công việc này khơng những cần ác định một
cách rõ ràng, mà cịn phải ác định rõ: cách thức thực hiện, trình độ chuyên môn, kinh
nghiệm của người trực tiếp thực hiện công việc, kết quả sau khi thực hiện dịch vụ. Ví
dụ: trong Hợp đồng tư vấn và quản lý dự án, không những cần ác định rõ công việc
tư vấn, mà còn phải ác định rõ: cách thức tư vấn bằng văn bản, tư vấn theo quy chuẩn
ây dựng của Việt Nam, người trực tiếp tư vấn phải có chứng chỉ tư vấn thiết kế ây

dựng, số năm kinh nghiệm tối thiểu là 5 năm, đã từng tham gia tư vấn cho dự án có
quy mơ tương ứng. Có như vậy thì chất lượng của dịch vụ, kết quả của việc thực hiện
dịch vụ mới đáp ứng được mong muốn của bên thuê dịch vụ. Nếu không làm được
điều này bên thuê dịch vụ thường thua thiệt và tranh chấp ảy ra trong q trình thực
hiện hợp đồng là khó tránh khỏi.
g) Điều khoản chất lượng hàng hoá:
Chất lượng hàng hoá kết hợp cùng với tên hàng sẽ giúp các bên ác định được
hàng hoá một cách rõ ràng, chi tiết. Trên thực tế, nếu điều khoản này không rõ ràng thì
rất khó thực hiện hợp đồng và rất dễ phát sinh tranh chấp. Dưới góc độ pháp lý “chất
lượng sản phẩm, hàng hố là: tổng thể những thuộc tính, những chỉ tiêu kỹ thuật,
những đặc trưng của chúng, được ác định bằng các thơng số có thể đo được, so sánh
được phù hợp với các điều kiện hiện có, thể hiện khả năng đáp ứng nhu cầu của ã hội
và của cá nhân trong những điều kiện sản uất, tiêu dùng ác định, phù hợp với công
dụng của sản phẩm hàng hoá”

57


Nói chung chất lượng sản phẩm, hàng hố được thể hiện thông qua các chỉ tiêu
kỹ thuật và những đặc trưng của chúng. Muốn ác định được chất lượng hàng hố thì
tuỳ theo từng loại hàng hố cụ thể để ác định, dựa vào các chỉ tiêu về cơ lý, các chỉ
tiêu về hố học hoặc các đặc tính khác của hàng hố đó.
Nếu các bên thoả thuận chất lượng hàng hoá theo một tiêu chuẩn chung của một
quốc gia hay quốc tế thì có thể chỉ dẫn tới tiêu chuẩn đó mà khơng cần phải diễn giải
cụ thể.
h) Điều khoản số lượng (trọng lượng):
Điều khoản này thể hiện mặt lượng của hàng hoá trong hợp đồng, nội dung cần
làm rõ là: đơn vị tính, tổng số lượng hoặc phương pháp ác định số lượng. Ví dụ:
Trong hợp đồng mua bán đá ây dựng để ác định số lượng các bên có thể lựa chọn
một trong các cách sau: theo trọng lượng tịnh (kilôgam, tạ, tấn), theo mét khối, theo

toa e, toa tàu, hay theo khoang thuyền.
Đối với hợp đồng mua bán hàng hố quốc tế thì cần phải quy định cụ thể cách
ác định số lượng và đơn vị đo lường bởi hệ thống đo lường của các nước là có sự
khác biệt. Đối với những hàng hố có số lượng lớn hoặc do đặc trưng của hàng hoá có
thể tự thay đổi tăng, giảm số lượng theo thời tiết thì cũng cần quy định một độ dung
sai (tỷ lệ sai lệch) trong tổng số lượng cho phù hợp.
j) Điều khoản giá cả:
Các bên khi thoả thuận về giá cả cần đề cập các nội dung sau: đơn giá, tổng giá
trị và đồng tiền thanh toán. Về đơn giá có thể ác định giá cố định hoặc đưa ra cách
ác định giá (giá di động). Giá cố định thường áp dụng với hợp đồng mua bán loại
hàng hố có tính ổn định cao về giá và thời hạn giao hàng ngắn. Giá di động thường
được áp dụng với những hợp đồng mua bán loại hàng giá nhạy cảm (dễ biến động) và
được thực hiện trong thời gian dài. Trong trường hợp này người ta thường quy định
giá sẽ được điều chỉnh theo giá thị trường hoặc theo sự thay đổi của các yếu tố tác
động đến giá sản phẩm.
Ví dụ: Trong hợp đồng mua bán sắt ây dựng (sắt cây phi 16), hai bên đã ác định giá
là: 200.000 đồng/cây nhưng loại thép cây này được sản uất từ nguyên liệu thép nhập
khẩu và giá thép nhập khẩu bên bán không làm chủ được nên đã bảo lưu điều khoản
này là: “Bên bán có quyền điều chỉnh giá tăng theo tỷ lệ % tăng tương ứng của giá
thép nguyên liệu nhập khẩu.”
k) Điều khoản thanh toán:
Phương thức thanh toán là cách thức mà các bên thực hiện nghĩa vụ giao, nhận
tiền khi mua bán hàng hoá. Căn cứ vào đặc điểm riêng của hợp đồng, mối quan hệ, các
điều kiện khác mà các bên có thể lựa chọn một trong ba phương thức thanh toán sau
đây cho phù hợp:
Phương thức thanh toán trực tiếp: khi thực hiện phương thức này các bên trực
tiếp thanh tốn với nhau, có thể dùng tiền mặt, séc hoặc chuyển khoản. Các bên có thể
trực tiếp giao nhận hoặc thông qua dịch vụ chuyển tiền của Bưu Điện hoặc Ngân hàng.
Phương thức này thường được sử dụng khi các bên đã có quan hệ buôn bán lâu dài và
tin tưởng lẫn nhau, với những hợp đồng có giá trị khơng lớn.

Phương thức nhờ thu và tín dụng chứng từ (L/C) là hai phương thức được áp
dụng phổ biến đối với việc mua bán hàng hoá quốc tế, thực hiện phương thức này rất
58


thuận tiện cho cả bên mua và bên bán trong việc thanh toán, đặc biệt là đảm bảo được
cho bên mua lấy được tiền khi đã giao hàng. Về thủ tục cụ thể thì Ngân hàng sẽ có
trách nhiệm giải thích và hướng dẫn các bên khi lựa chọn phương thức thanh toán này.
Lưu ý: Việc thanh toán trực tiếp trong các hợp đồng mua bán hàng hoá giữa các
thương nhân Việt Nam với nhau hoặc với cá nhân, tổ chức khác trên lãnh thổ Việt
Nam chỉ được sử dụng đồng tiền Việt Nam chứ không được sử dụng các đồng tiền của
quốc gia khác, đồng tiền chung Châu Âu (ngoại tệ), theo Điều 4, Điều 22 – Pháp lệnh
ngoại hối – 2013.
l) Điều khoản phạt vi phạm:
Phạt vi phạm là một loại chế tài do các bên tự lựa chọn, nó có ý nghĩa như một
biện pháp trừng phạt, răn đe, phòng ngừa vi phạm hợp đồng, nhằm nâng cao ý thức tôn
trọng hợp đồng của các bên. Khi thoả thuận các bên cần dựa trên mối quan hệ, độ tin
tưởng lẫn nhau mà quy định hoặc không quy định về vấn đề phạt vi phạm. Thông
thường, với những bạn hàng có mối quan hệ thân thiết, tin cậy lẫn nhau, uy tín của các
bên đã được khẳng định trong một thời gian dài thì họ khơng quy định (thoả thuận)
điều khoản này. Còn trong các trường hợp khác thì nên có thoả thuận về phạt vi phạm.
Mức phạt thì do các bên thoả thuận, có thể ấn định một số tiền phạt cụ thể hoặc
đưa ra cách thức tính tiền phạt linh động theo % giá trị phần hợp đồng vi phạm. Theo
Bộ luật dân sự (Điều 422): “Phạt vi phạm là sự thoả thuận giữa các bên trong hợp
đồng, theo đó bên vi phạm có nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm;
mức phạt vi phạm do các bên thoả thuận”. Nhưng theo Luật thương mại (Điều 301) thì
quyền thoả thuận về mức phạt vi phạm của các bên bị hạn chế, cụ thể: “Mức phạt đối
với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên
thoả thuận trong hợp đồng nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi
phạm”. Do vậy, các bên khi thoả thuận về mức phạt phải căn cứ vào quy định của Luật

thương mại để lựa chọn mức phạt trong phạm vi từ 8% trở uống, nếu các bên thoả
thuận mức phạt lớn hơn (ví dụ 12%) thì phần vượt quá (4%) được coi là vi phạm điều
cấm của pháp luật và bị vô hiệu.
Các trường hợp vi phạm bị áp dụng chế tài phạt các bên cũng có thể thoả thuận
theo hướng cứ vi phạm các thoả thuận trong hợp đồng là bị phạt hoặc chỉ một số vi
phạm cụ thể mới bị phạt. Ví dụ: thoả thuận là: “Nếu bên bán vi phạm về chất lượng
hàng hố thì sẽ bị phạt 6% giá trị phần hàng hố khơng đúng chất lượng. Nếu hết thời
hạn thanh tốn mà bên mua vẫn khơng trả tiền thì sẽ bị phạt 5% của số tiền chậm trả”.
m) Điều khoản bất khả kháng:
Bất khả kháng là sự kiện pháp lý nảy sinh ngoài ý muốn chủ quan của các bên,
ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện hợp đồng đã ký. Đó là các sự kiện thiên nhiên
hay chính trị ã hội như: bão, lũ lụt, hạn hán, động đất, núi lửa, chiến tranh, bạo động,
đình cơng, khủng hoảng kinh tế. Đây là các trường hợp thường gặp làm cho một hoặc
cả hai bên không thể thực hiện được hoặc thực hiện khơng đúng các nghĩa vụ của
mình. Khi một bên vi phạm hợp đồng do gặp sự kiện bất khả kháng thì pháp luật
khơng buộc phải chịu trách nhiệm về tài sản (không bị phạt vi phạm, không phải bồi
thường thiệt hại).
Trên thực tế, nếu không thoả thuận rõ về bất khả kháng thì rất dễ bị bên vi
phạm lợi dụng bất khả kháng để thoái thác trách nhiệm dẫn đến thiệt hại cho bên bị vi
59


phạm. Trong điều khoản này các bên cần phải định nghĩa về bất khả kháng và quy
định nghĩa vụ của bên gặp sự kiện bất khả kháng. Ví dụ: Điều khoản bất khả kháng:
- Định nghĩa “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện ảy ra một cách khách quan không thể
lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần
thiết và khả năng cho phép;
- Bên gặp sự kiện bất khả kháng phải thông báo ngay cho bên kia biết và phải cung
cấp chứng cứ chứng minh sự kiện bất khả kháng đó là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới
việc vi phạm hợp đồng”.

n) Điều khoản giải quyết tranh chấp:
Đối với việc lựa chọn giải quyết tại Trọng tài hay tại Tồ án thì thoả thuận phải phù
hợp với quy định của pháp luật, cụ thể:
Trường hợp thứ nhất: Hợp đồng mua bán hàng hoá giữa các thương nhân với
các tổ chức, cá nhân khác không phải là thương nhân khi có tranh chấp thì do Tồ án
có thẩm quyền giải quyết. Các bên không thể lựa chọn Trọng tài để giải quyết theo
Điều 1, Điều 7, Điều 10 Pháp lệnh Trọng tài ngày 25/02/2003 và Điều 2 Nghị Định số:
25/NĐ-CP ngày 15/01/2004.
Trường hợp thứ hai: Hợp đồng mua bán hàng hố giữa thương nhân với thương
nhân khi có tranh chấp thì các bên có quyền lựa chọn hình thức giải quyết tại Trọng tài
hoặc tại Tồ án; nếu có sự tham gia của thương nhân nước ngồi thì các bên cịn có thể
lựa chọn một tổ chức Trọng tài của Việt Nam hoặc lựa chọn một tổ chức Trọng tài của
nước ngồi để giải quyết.
Khi các bên lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp tại Trọng tài thì thoả
thuận phải nêu đích danh một tổ chức Trọng tài cụ thể, ví dụ: “Mọi tranh chấp phát
sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này sẽ được giải quyết tại Trung tâm trọng tài
quốc tế bên cạnh Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam”. Nếu chỉ thoả thuận
chung chung là: “trong q trình thực hiện hợp đồng nếu có tranh chấp sẽ được giải
quyết tại Trọng tài” thỏa thuận này vô hiệu.
Riêng đối với hợp đồng mua bán hàng hố giữa thương nhân Việt Nam với
thương nhân nước ngồi thì các bên cịn phải quan tâm đến việc lựa chọn luật áp dụng
khi giải quyết tranh chấp là: luật của bên mua, luật của bên bán hay luật quốc tế (các
cơng ước quốc tế – ví dụ: Cơng ước Viên năm 1980 về mua bán hàng hoá). Đây là vấn
đề hết sức quan trọng, để tránh những thua thiệt do thiếu hiểu biết pháp luật của nước
ngoài hay pháp luật quốc tế thì thương nhân Việt Nam nên chọn luật Việt Nam để áp
dụng cho hợp đồng thương mại.
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƢƠNG
Câu 1: Phân biệt hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại
Câu 2: Các lưu ý trong soạn thảo hợp đồng thương mại
Câu 3: Phân biệt bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm hợp đồng


60


61


Chƣơng 5:MỘT SỐ HỢP ĐỒNG THÔNG DỤNG TRONG KINH DOANH
Mã chƣơng MH11-05
Giới thiệu
Kiến thức về hợp đồng tương đối khá nhiều và chi tiết, nó vận dụng linh hoạt
khác nhau cho từng loại hợp đồng, để em ét cách vận dụng vào từng hợp đồng cụ
thể như thế nào, chúng ta sẽ em ét các hợp đồng kinh doanh thường gặp để thấy các
dẫn chứng cụ thể được quy định trong hợp đồng có tính pháp lý như thế nào, những
lưu ý thường gặp khi soạn thảo hợp đồng kinh doanh
Mục tiêu
- Kiến thức: khái niệm và giải thích được về việc ký kết và thực hiên hợp đồng trong
kinh doanh, giới thiệu một số hợp đồng thông dụng cụ thể trong kinh doanh về đại lý,
đấu giá, đấu thầu, quảng cáo, khuyến mãi, nhượng quyền thương mại.
- Kỹ năng: phân tích và áp dụng luật trong hợp đồng kinh doanh.
- Năng lực tự chủ và trách nhiệm: có tinh thần tự học và làm việc nhóm tốt, tự sắp sếp
hoàn thành các nhiệm vụ được giao.
Nội dung chƣơng
1. Hợp đồng mua bán hàng hố:
1.1. Khái niệm
Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao
hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh tốn; bên mua có
nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa
thuận. Hợp đồng mua bán hàng hóa có bản chất chung của hợp đồng, nó là sự thỏa
thuận nhằm ác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua

bán.
Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa:
+ Là hợp đồng ƣng thuận – tức là nó được coi là giao kết tại thời điểm các bên thỏa
thuận ong các điều khoản cơ bản, thời điểm có hiệu lực của HĐ khơng phụ thuộc vào
thời điểm bàn giao hàng hóa, việc bàn giao hàng hóa chỉ được coi là hành động của
bên bán nhắm thực hiện nghĩa vụ của HĐ mua bán đã có hiệu lực.
+ Có tính đền bù – bên bán khi thực hiện nghĩa vụ giao hàng hóa cho bên mua thì sẽ
nhận từ bên mua một lợi ích tương đương với giá trị hàng hóa theo thỏa thuận dưới
dạng khoản tiền thanh toán.
+ Là hợp đồng song vụ – mỗi bên trong HĐ mua bán hàng hóa đều bị ràng buộc bởi
nghĩa vụ đối với bên kia, đồng thời lại cũng là bên có quyền địi hỏi bên kia thực hiện
nghĩa vụ đối với mình. Trong HĐ mua bán hàng hóa tồn tại hai nghĩa vụ chính mang
tính chất qua lại và liên quan mật thiết với nhau: nghĩa vụ của bên bán phải bàn giao
hàng hóa cho bên mua và nghĩa vụ của bên mua phải thanh toán cho bên bán.
1.2. Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá
Về chủ thể, HĐ mua bán hàng hóa được thiết lập giữa các chủ thể chủ yếu là
thương nhân. Luật thương mại 2005 quy định thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế
được thành lập hợp pháp; cá nhân hoạt động thương mai một cách độc lập, thường
un và có đăng ký kinh doanh. Ngồi ra, các tổ chức, cá nhân khơng phải là thương
nhân cũng có thể trở thành chủ thể của HĐ mua bán hàng hóa. Theo khoản 3 Điều 1
Luật thương mại, hoạt động của bên chủ thể không phải là thương nhân và không
62


nhằm mục đích lợi nhuận trong quan hệ mua bán hàng hóa phải tuân theo Luật thương
mại khi chủ thể này lựa chọn áp dụng Luật thương mại.
1.3. Ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá
1.3.1. Đề nghị giao kết hợp đồng
Lời đề nghị giao kết hợp đồng mua bán là những điều khoản do một bên đưa ra
cho phía bên kia. Lời đề nghị này mới chỉ thể hiện ý chí, nguyện vọng của một bên

trong quan hệ hợp đồng và phải được chấp nhận bởi các bên còn lại mới hình thành sự
nhất chí thỏa thuận chung.
Đề nghị giao kết hợp đồng phải có các điều khoản chủ yếu như đối tượng của
hợp đồng mà cụ thể ở đây là hàng hóa hay địa điểm giao hàng hoặc phương thức thanh
toán; phải thể hiện mong muốn ràng buộc trách nhiệm đồng thời hướng đến một chủ
thể hoặc một số chủ thể nhất định và phải tuân theo hình thức pháp luật quy định.
Đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ thời điểm chủ thể phía bên kia
nhận được đề nghị. Cụ thể là thời điểm đề nghị được chuyển đến nơi cư trú của bên
được đề nghị hoặc được đưa vào hệ thống thông tin của bên được đề nghị.
Hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng do bên đề nghị ấn định. Bên đề nghị phải chịu
trách nhiệm về lời đề nghị của mình.
Theo quy định của pháp luật, đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt hiệu lực theo
một trong các trường hợp:
+ Bên nhận được đề nghị trả lời không chấp thuận;
+ Hết thời hạn trả lời chấp nhận mà bên được đề nghị không trả lời;
+ Bên đề nghị thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực;
+ Bên đề nghị thơng báo về việc hủy bỏ đề nghị có hiệu lực;
+ Theo thỏa thuận của bên đề nghị và bên nhận được đề nghị trong thời hạn chờ bên
được đề nghị trả lời.
1.3.2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Là sự trả lời của bên được đề nghị đối với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn
bộ nội dung của đề nghị. Thời hạn trả lời chấp nhậ giao kết hợp đồng được ác định
khác nhau trong các trường hợp sau:
– Trong thời hạn bên đề nghị yêu cầu. Nếu thơng báo đến chậm vì lý do khách quan
mà bên đề nghị biết thì thơng báo chấp nhận vẫn có hiệu lực trừ trường hợp bên đề
nghị trả lời ngay khơng đồng ý với chấp thuận đó.
– Nếu bên đề nghị nhận được trả lời khi đã hết thời hạn thì chấp nhận này được coi là
đề nghị mới của bên chậm trả lời.
– Khi các bên trực tiếp giao tiếp với nhau (kể cả trường hợp qua điện thoại hay
phương tiện khác như fa , internet…) thì bên được đề nghị phải trả lời ngay là có chấp

nhận hay không chấp nhận, trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận về thời hạn trả lời.
1.3.3. Thời điểm giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Thời điêm giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa là khác nhau đối với các hợp
đồng giao kết với hình thức khác nhau:
– Đối với hợp đồng giao kết trực tiếp bằng văn bản thì thời điểm giao kết hợp đồng là
thời điểm bên sau cùng ký tên vào văn bản.
– Đối với hợp đồng được giao kết gián tiếp bằng văn bản thì hợp đồng được giao kết
khi bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng.
– Đối với hợp đồng giao kết bằng lời nói: thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm các
bên đã thỏa thuận về nội dung hợp đồng.

63


1.3.4. Nội dung cơ bản cần thỏa thuận
Pháp luật thương mại hiện hành không bắt buộc các bên phải thỏa thuận nhưng
nội dung nào trong hợp đồng. Tuy nhiên, các nội dung cơ bản mà các bên phải nêu rõ
trong hợp đồng đó là: đối tượng hợp đồng (đó là loại hàng hóa gì); các vấn đề về giá
cả, chất lượng, số lượng hàng hóa; thời điểm, địa điểm giao hàng hàng và phương thức
thanh toán…
2. Hợp đồng đại lý
2.1. Khái niệm
Tại điều 166 Luật thương mại 2005 quy định : “Đại l thương mại là hoạt động
thư ng mại, theo đó bên giao đại l và bên đại l thoả thuận việc bên đại l nhân danh
ch nh mình mua, bán hàng hoá cho bên giao đại l hoặc cung ứng dịch vụ của bên
giao đại l cho khách hàng để hưởng thù lao.”
Hợp đồng đại lý là sự thỏa thuận, trong đó một bên (bên đại lý) nhân danh
chính mình để thực hiện việc mua, bán hàng hóa cho bên kia (bên giao đại lý) để
hưởng thù lao.
2.2. Các hình thức đại lý

Luật Thương mại quy định những hình thức đại lý là: Đại lý bao tiêu; Đại lý
độc quyền; Tổng đại lý; Hình thức đại lý do các bên thỏa thuận
Thứ 1. Đại lý bao tiêu là hình thức đại lý mà bên đại lý thực hiện việc mua, bán
trọn vẹn một khối lượng hàng hoá hoặc cung ứng đầy đủ một dịch vụ cho bên giao đại
lý.
Thứ 2. Đại lý độc quyền là hình thức đại lý mà tại một khu vực địa lý nhất định
bên giao đại lý chỉ giao cho một đại lý mua, bán một hoặc một số mặt hàng hoặc cung
ứng một hoặc một số loại dịch vụ nhất định.
Thứ 3. Tổng đại lý mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ là hình thức đại lý mà
bên đại lý tổ chức một hệ thống đại lý trực thuộc để thực hiện việc mua bán hàng hoá,
cung ứng dịch vụ cho bên giao đại lý.
Tổng đại lý đại diện cho hệ thống đại lý trực thuộc. Các đại lý trực thuộc hoạt
động dưới sự quản lý của tổng đại lý và với danh nghĩa của tổng đại lý.
Thứ 4. Các hình thức đại lý khác mà các bên thỏa thuận.
2.3. Hợp đồng đại lý
Đặc điểm hợp đồng đại lý
Thứ nhất, chủ thể của hợp đồng là các thương nhân.
Theo Điều 167 Luật thương mại 2005 quy định về bên giao đại lý và bên đại lý:
1. Bên giao đại lý là thương nhân giao hàng hoá cho đại lý bán hoặc giao tiền mua
hàng cho đại lý mua hoặc là thương nhân uỷ quyền thực hiện dịch vụ cho đại lý cung
ứng dịch vụ.
2. Bên đại lý là thương nhân nhận hàng hoá để làm đại lý bán, nhận tiền mua hàng để
làm đại lý mua hoặc là bên nhận uỷ quyền cung ứng dịch vụ.
Thứ hai, bên đại lý phải dùng chính danh nghĩa của mình để thực hiện việc mua
bán hàng hóa cho bên giao đại lý.
Trong quan hệ hợp đồng, do bên giao đại lý thực hiện việc mua, bán hàng hóa cho
mình thơng qua bên đại lý nên bắt buộc phải có quyền kinh doanh những hàng hóa đó,
hay nói cách khác là phải có ngành, nghề kinh doanh phù hợp với hàng hóa đại lý.
64



Thứ ba, chủ sở hữu hàng hóa là bên giao đại lý, đại lí chỉ là người được bên giao
đại lý giao việc định đoạt hàng hóa.
Trong quan hệ đại lý mua bán hàng hóa, bên đại lý chỉ giao hàng hóa cho bên đại lý
bán hàng mà khơng chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên đại lý (bên giao đại lý chỉ
chuyển quyền chiếm hữu hàng hóa cho bên đại lý).
Thứ tư, đây là một dạng của hợp đồng dịch vụ.
Trong quan hệ hợp đồng, lợi ích bên đại lý được hưởng chính là thù lao đại lý
mà ét dưới khía cạnh pháp lý thì khoản tiền này chính là thù lao dịch vụ mà bên giao
đại lý phải thanh toán cho bên đại lý do sử dụng dịch vụ mua bán hàng hóa của bên đại
lý.
2.4. Quyền và nghĩa vụ các bên trong hợp đồng đại lý
 Quyền của bên giao đại lý:
1.

Ấn định giá mua, giá bán hàng hoá, giá cung ứng dịch vụ đại lý cho khách hàng;

2. Ấn định giá giao đại lý;
3. Yêu cầu bên đại lý thực hiện biện pháp bảo đảm theo quy định của pháp luật;
4. Yêu cầu bên đại lý thanh toán tiền hoặc giao hàng theo hợp đồng đại lý;
5. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện hợp đồng của bên đại lý.
 Nghĩa vụ của bên giao đại lý:
1. Hướng dẫn, cung cấp thông tin, tạo điều kiện cho bên đại lý thực hiện hợp đồng
đại lý;
2. Chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa của đại lý mua bán hàng hóa, chất
lượng dịch vụ của đại lý cung ứng dịch vụ;
3. Trả thù lao và các chi phí hợp lý khác cho bên đại lý;
4. Hồn trả cho bên đại lý tài sản của bên đại lý dùng để bảo đảm (nếu có) khi kết
thúc hợp đồng đại lý;
5. Liên đới chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm pháp luật của bên đại lý, nếu

nguyên nhân của hành vi vi phạm pháp luật đó có một phần do lỗi của mình gây ra.
 Quyền của bên đại lý:
1. Giao kết hợp đồng đại lý với một hoặc nhiều bên giao đại lý, trừ trường hợp quy
định tại khoản 7 Điều 175 của Luật này;
2. Yêu cầu bên giao đại lý giao hàng hoặc tiền theo hợp đồng đại lý; nhận lại tài sản
dùng để bảo đảm (nếu có) khi kết thúc hợp đồng đại lý;
3. Yêu cầu bên giao đại lý hướng dẫn, cung cấp thơng tin và các điều kiện khác có
liên quan để thực hiện hợp đồng đại lý;
4. Quyết định giá bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho khách hàng đối với đại lý bao
tiêu;
5. Hưởng thù lao, các quyền và lợi ích hợp pháp khác do hoạt động đại lý mang lại.
 Nghĩa vụ của bên đại lý:
65


1. Mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho khách hàng theo giá hàng hóa, giá
cung ứng dịch vụ do bên giao đại lý ấn định;
2. Thực hiện đúng các thỏa thuận về giao nhận tiền, hàng với bên giao đại lý;
3. Thực hiện các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định của
pháp luật;
4. Thanh toán cho bên giao đại lý tiền bán hàng đối với đại lý bán; giao hàng mua
đối với đại lý mua; tiền cung ứng dịch vụ đối với đại lý cung ứng dịch vụ;
5. Bảo quản hàng hoá sau khi nhận đối với đại lý bán hoặc trước khi giao đối với
đại lý mua; liên đới chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa của đại lý mua bán
hàng hóa, chất lượng dịch vụ của đại lý cung ứng dịch vụ trong trường hợp có lỗi do
mình gây ra;
6. Chịu sự kiểm tra, giám sát của bên giao đại lý và báo cáo tình hình hoạt động đại
lý với bên giao đại lý;
7. Trường hợp pháp luật có quy định cụ thể về việc bên đại lý chỉ được giao kết hợp
đồng đại lý với một bên giao đại lý đối với một loại hàng hóa hoặc dịch vụ nhất

định thì phải tuân thủ quy định của pháp luật đó.
3. Hợp đồng đấu giá và đấu thầu hàng hoá
3.1. Đấu giá hàng hoá
Đấu giá hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó người bán hàng tự mình
hoặc thuê người tổ chức đấu giá thực hiện việc bán hàng hố cơng khai để chọn người
mua trả giá cao nhất.

Đặc điểm
Hoạt động đấu giá hàng hóa mang những đặc điểm riêng biệt so với các hoạt
động thương mại khác như sau:
Thứ nhất, là một hoạt động bán hàng đặc biệt. Trong đó người bán hàng tự
mình hoặc th người tổ chức đấu giá (thương nhân kinh doanh dịch vụ đấu giá) thực
hiện việc bán hàng hóa cơng khai tại một địa điểm và trong thời gian đã thông báo
trước để người muốn mua đến trả giá. Quyền mua hàng hóa sẽ thuộc về người trả giá
cao nhất.
Thứ hai, đối tượng bán đấu giá là hàng hóa được phép lưu thông trên thị trường.
Nhưng thông thường người ta chỉ tổ chức đấu giá hàng hóa có đặc thù về tính chất
cũng như giá trị sử dụng. Đây là những loại hàng hóa khó ác định giá trị thực, người
mua có thể trả giá cao hơn hay thấp hơn giá khởi điểm tùy thuộc vào phương thức đấu
giá trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh.
Thứ ba, hình thức của quan hệ đấu giá có thể tồn tại dưới dạng:
– Hợp đồng dịch vụ đấu giá (hợp đồng ủy quyền được ác lập giữa người bán với
người kinh doanh dịch vụ đấu giá có ghi nhận quyền nghĩa vụ và trách nhiệm của các
bên)
– Văn bản đấu giá hàng hóa (hợp đồng mua bán hàng hóa, được ác lập giữa người
bán, người mua hàng hóa và tổ chức đấu giá).
 Chủ thể tham gia hoạt động đấu giá
Theo quy định tại Điều 186 và 187 Luật Thương mại 2005, những chủ thể tham
gia hoạt động đấu giá hàng hóa được ác định gồm:
66



– Người tổ chức đấu giá là thương nhân có đăng ký kinh doanh dịch vụ đấu giá hoặc là
người bán hàng của mình trong trường hợp người bán hàng tự tổ chức đấu giá.
– Người bán hàng là chủ sở hữu hàng hoá, người được chủ sở hữu hàng hố uỷ quyền
bán hoặc người có quyền bán hàng hố của người khác theo quy định của pháp luật.
– Người tham gia đấu giá hàng hoá là tổ chức, cá nhân đăng ký tham gia cuộc đấu giá.
– Người điều hành đấu giá là người tổ chức đấu giá hoặc người được người tổ chức
đấu giá uỷ quyền điều hành bán đấu giá.
 Phương thức thực hiện
Theo quy định tại Điều 185 Luật thương mại 2005, Việc đấu giá hàng hoá được
thực hiện theo một trong hai phương thức sau đây:
– Phương thức trả giá lên là phương thức bán đấu giá, theo đó người trả giá cao nhất
so với giá khởi điểm là người có quyền mua hàng;
– Phương thức đặt giá uống là phương thức bán đấu giá, theo đó người đầu tiên chấp
nhận ngay mức giá khởi điểm hoặc mức giá được hạ thấp hơn mức giá khởi điểm là
người có quyền mua hàng.
 Hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hoá
Hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hoá phải được lập thành văn bản hoặc
bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương như điện báo, fa , tele , …
Lưu ý:
– Trường hợp hàng hoá được đấu giá là đối tượng cầm cố, thế chấp thì hợp đồng dịch
vụ tổ chức đấu giá phải được sự đồng ý của bên nhận cầm cố, thế chấp và bên bán phải
thông báo cho các bên tham gia đấu giá về hàng hóa đang bị cầm cố, thế chấp.
– Trường hợp trong hợp đồng cầm cố, thế chấp có thoả thuận về việc bán đấu giá mà
người cầm cố, thế chấp vắng mặt khơng có lý do chính đáng hoặc từ chối giao kết hợp
đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hố thì hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá được giao
kết giữa người nhận cầm cố, thế chấp với người tổ chức đấu giá.
Đấu thầu hàng hoá
Đấu thầu hàng hố, dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên mua

hàng hố, dịch vụ thơng qua mời thầu (gọi là bên mời thầu) nhằm lựa chọn trong số
các thương nhân tham gia đấu thầu (gọi là bên dự thầu) thương nhân đáp ứng tốt nhất
các yêu cầu do bên mời thầu đặt ra và được lựa chọn để ký kết và thực hiện hợp đồng
(gọi là bên trúng thầu) – Điều 214 Luật thương mại 2005.
 Đặc điểm
Thứ nhất, về đối tượng của hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ. Là các loại
hàng hóa thương mại được phép lưu thông trên thị trường và dịch vụ thương mại được
phép thực hiện theo quy định pháp luật.
Thứ hai, đấu thầu là một giai đoạn tiền hợp đồng. Mục đích của hoạt động này
là giúp bên mời thầu có thể tìm ra chủ thể có khả năng cung cấp hàng hóa, dịch vụ có
chất lượng tốt nhất với giá cả họp lý nhất. Sau khi chọn lựa được đối tác, các bên sẽ
tiến hành ký kết hợp đồng.
Thứ ba, về chủ thể tham gia. Bao gồm: một bên mời thầu và bên nhà thầu (số
lượng tùy thuộc vào hình thức đấu thầu được bên mời thầu sử dụng).
3.2.

67


Thứ tư, về hình thức pháp lý. Hình thức pháp lý của quan hệ đấu thầu hàng hóa,
dịch vụ là hồ sơ mời thầu và hồ sơ dự thầu.
– Hồ sơ mời thầu là văn bản pháp lý do bên mời thầu lập và được cơ quan có thẩm
quyền phê duyệt, trong đó thể hiện đầy đủ những yêu cầu kỹ thuật, tài chính và thương
mại của hàng hóa cần mua sắm, dịch vụ cần sử dụng và những điều kiện khác của gói
thầu.
– Hồ sơ dự thầu thể hiện năng lực và mức độ đáp ứng của bên dự thầu trước yêu cầu
trong hồ sơ mời thầu. Những hồ sơ này là căn cứ pháp lý để ác lập, thay đổi, chấm
dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ đấu thầu hàng hóa, dịch vụ.
 Hình thức đấu thầu
Theo quy định tại Điều 215 Luật thương mại 2005, Việc đấu thầu hàng hoá, dịch vụ

được thực hiện theo một trong hai hình thức sau đây:
– Đấu thầu rộng rãi là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu không hạn chế số lượng các
bên dự thầu;
– Đấu thầu hạn chế là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu chỉ mời một số nhà thầu
nhất định dự thầu.
Việc chọn hình thức đấu thầu rộng rãi hoặc đấu thầu hạn chế do bên mời thầu quyết
định.
 Phương thức đấu thầu
Phương thức đấu thầu được quy định tại Điều 216 Luật Thương mại 2005, bao
gồm 2 phương thức:
– Đấu thầu một túi hồ sơ: Trong trường hợp này, bên dự thầu nộp hồ sơ dự thầu gồm
đề uất về kỹ thuật, đề uấ t về tài chính trong một túi hồ sơ theo yêu cầu của hồ sơ
mời thầu và việc mở thầu được tiến hành một lần.
– Đấu thầu hai túi hồ sơ: Trong trường hợp đấu thầu theo phương thức đấu thầu hai túi
hồ sơ thì bên dự thầu nộp hồ sơ dự thầu gồm đề uất về kỹ thuật, đề uất về tài chính
trong từng túi hồ sơ riêng biệt được nộp trong cùng một thời điểm và việc mở thầu
được tiến hành hai lần. Hồ sơ đề uất về kỹ thuật sẽ được mở trước.
Lưu ý: Bên mời thầu có quyền lựa chọn phương thức đấu thầu và phải thông báo trước
cho các bên dự thầu.
4. Quy định của pháp luật về quảng cáo, khuyến mãi.
4.1. Quảng cáo
 Khái niệm về quảng cáo thương mại
Theo Luật Quảng cáo năm 2012 định nghĩa về quảng cáo: “Quảng cáo là việc
sử dụng các phư ng tiện nhằm giới thiệu đến cơng chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ
có mục đ ch sinh lợi hay sản phẩm, dịch vụ khơng có mục đ ch sinh lợi. Tổ chức, cá
nhân kinh doanh dịch vụ, hàng hóa, sản phẩm được giới thiệu, trừ tin thời sự. Ch nh
sách xã hội. Thông tin cá nhân”
Theo Luật Thương mại năm 2005 “Quảng cáo thư ng mại là hoạt động xúc
tiến thư ng mại của thư ng nhân để giới thiệu với khách hàng về hoạt động kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ của mình”.


68


×