Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn miền núi tỉnh bắc kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 105 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thanh niên là lực lượng lao động xã hội to lớn, có mặt trong tất cả các
giai cấp và tầng lớp xã hội, là lực lượng xung kích đảm nhận những cơng việc
khó khăn, gian khổ, địi hỏi sức khoẻ, trí tuệ và khả năng sáng tạo. Thanh niên
đến tuổi lao động là nguồn nhân lực quan trọng đối với phát triển kinh tế xã
hội của đất nước. Để đảm nhận sứ mệnh quan trọng này, thanh niên phải được
trau dồi bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, được đào tạo nâng cao trình độ
học vấn, trình độ chun mơn, kỹ năng nghề nghiệp. Trong khi đó, thanh niên
nơng thơn miền núi - lực lượng đơng đảo, có vai trị quyết định sự nghiệp đổi
mới, cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp và xây dựng nông thôn mới
lại đang là lực lượng cịn nhiều hạn chế. Trình độ, năng lực thực tiễn của đa số
thanh niên nông thôn miền núi chưa theo kịp sự phát triển chung.
Tỉnh Bắc Kạn hiện có 86.025 thanh niên (độ tuổi từ 16 đến 30 tuổi),
chiếm 29,28% dân số và 41,88% tổng số lao động của địa phương, trong đó
thanh niên nơng thơn có 72.968 người, chiếm 84,82% tổng số thanh niên.
Trong số thanh niên nông thơn miền núi của tỉnh có 91,85% là thanh niên dân
tộc thiểu số sinh sống tại các xã miền núi, vùng cao, điều kiện kinh tế - xã hội
đặc biệt khó khăn.
Nhìn chung, đời sống vật chất, tinh thần của thanh niên nông thôn miền
núi từng bước được cải thiện, trình độ học vấn, trình độ chun mơn kỹ thuật
từng bước được nâng lên. Đại bộ phận thanh niên tin tưởng vào sự lãnh đạo
của Đảng và công cuộc đổi mới đất nước, có ý chí vươn lên, tích cực học tập
nâng cao trình độ học vấn, tay nghề. Tuy vậy, thanh niên nông thôn miền núi
Bắc Kạn cũng đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Một bộ phận
thanh niên nông thôn thiếu việc làm, việc làm không ổn định, thu nhập thấp.
Số thanh niên có trình độ tay nghề cao chiếm tỷ lệ rất thấp, chất lượng nguồn
nhân lực trẻ còn nhiều hạn chế so với yêu cầu phát triển của địa phương. Một



2
bộ phận khác ngại khó khăn, thiếu ý chí vươn lên thốt nghèo, trơng chờ vào
sự hỗ trợ của nhà nước. Số thanh niên vi phạm pháp luật và mắc các tệ nạn xã
hội vẫn có chiều hướng gia tăng.
Theo kết quả điều tra dân số và nhà ở 01/4/2009 của Ban chỉ đạo Tổng
điều tra dân số và nhà ở tỉnh Bắc Kạn, số người trong độ tuổi lao động trên
toàn tỉnh là 205.417 người, lao động thanh niên chiếm 45,02% tổng số lao
động trong độ tuổi [4]. 5 năm qua, số thanh niên được học nghề là 7.965
người, 15.600 thanh niên được giải quyết việc làm. Tổ chức Đồn đã giúp
trên 3.000 thanh niên nơng thơn miền núi có việc làm thơng qua vay vốn phát
triển kinh tế; tổ chức tư vấn nghề nghiệp và xuất khẩu lao động cho trên 2.000
thanh niên. Nhiều thanh niên được tổ chức Đồn định hướng đã có nghề
nghiệp và việc làm ổn định, xuất hiện nhiều thanh niên nông thôn làm kinh tế
giỏi, thu nhập cao [12].
Tuy nhiên, số thanh niên nơng thơn được tạo việc làm cịn thấp, tồn
tỉnh hiện cịn khoảng 3.200 thanh niên nơng thơn miền núi, dân tộc thiểu số
chưa có việc làm. Nhiều thanh niên có tâm lý dễ thoả mãn, tự ty do thiếu kiến
thức, kỹ năng, hạn chế về trình độ chun mơn, đặc biệt là kiến thức và trình
độ tay nghề đã ảnh hưởng không nhỏ đến giải quyết việc làm.
Dự báo trong những năm tới, việc phát triển các ngành nghề mới,
chuyển đổi cơ cấu ngành nghề trong lao động trên địa bàn tỉnh ngày càng
tăng, nhu cầu đào tạo nghề để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trẻ là rất
cần thiết, đáp ứng được thị trường lao động trong và ngồi tỉnh, phục vụ xuất
khẩu lao động, góp phần giảm nghèo nhanh và bền vững cho địa phương.
Chính vì vậy, giải quyết việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu và nguyện
vọng thiết thực của thanh niên nông thôn miền núi, bổ sung nguồn nhân lực
phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp và
xây dựng nơng thơn mới, góp phần giảm nghèo nhanh và bền vững cho tỉnh
miền núi Bắc Kạn là vấn đề có ý nghĩa chính trị, kinh tế, xã hội quan trọng và



3
cấp thiết. Từ thực trạng đó cùng với kiến thức được học tập, tìm hiểu qua thực
tiễn cơng tác, học viên lựa chọn đề tài “Giải quyết việc làm cho thanh niên
nông thôn miền núi tỉnh Bắc Kạn” làm luận văn tốt nghiệp với mong muốn
được tìm hiểu sâu sắc vấn đề này, đề xuất những giải pháp khả thi nhằm đẩy
mạnh giải quyết việc làm cho thanh niên nông thơn miền núi Bắc Kạn.
2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài
Giải quyết việc làm cho người lao động nói chung, cho thanh niên nơng
thơn miền núi nói riêng là mối quan tâm của Đảng, Nhà nước, các cấp, ngành,
đoàn thể và toàn xã hội. Thời gian qua, Nhà nước đã ban hành một số chính
sách cụ thể nhằm tạo cơ chế cho thanh niên tham gia học nghề và tạo việc
làm. Các Bộ, ngành Trung ương đã có một số cơng trình nghiên cứu về giải
quyết việc làm cho người lao động. Một số luận văn thạc sỹ đã đề cập đến đề
tài giải quyết việc làm cho người lao động sau khi thu hồi đất, cho người sau
cai nghiện, bộ đội xuất ngũ, thanh niên ... Có thể đề cập đến các đề tài như:
Đề tài cấp Nhà nước 70A.02.02 “Sử dụng nguồn lao động và giải
quyết việc làm ở Việt Nam”, Trần Đình Hoan, Lê Mạnh Khoa, Nxb Sự thật,
Hà Nội, 1991.
Đề tài cấp Nhà nước KX.04.04 “Luận cứ khoa học cho chính sách giải
quyết việc làm ở nước ta khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần”, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Hà Nội, 1991.
Tiến sĩ Nguyễn Thị Thơm (chủ biên): Thị trường lao động Việt Nam,
thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
Tiến sĩ Nguyễn Hữu Dũng: “Chiến lược việc làm và đào tạo nghề thời
kỳ 2001 - 2010”, Tạp chí Lao động Xã hội, 2001; “Giải quyết vấn đề lao động
và việc làm trong q trình đơ thị hố, cơng nghiệp hố nơng nghiệp, nơng
thơn”, Tạp chí Lao động xã hội số 246, 2004.
Đặc biệt, học viên có tiếp cận và tham khảo 3 luận văn thạc sỹ có liên
quan đến đề tài nghiên cứu: “Giải pháp hỗ trợ việc làm cho thanh niên ngoại



4
thành Hà Nội”, luận văn thạc sỹ Kinh doanh và Quản lý của Nguyễn Thị Kim
Hoa, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2008; “Việc làm
cho thanh niên trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá ở Việt Nam”,
luận văn thạc sỹ Kinh tế của Đặng Thị Phương Thảo, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2010; “Giải quyết việc làm cho người lao động
trên địa bàn tỉnh Bến Tre”, luận văn thạc sỹ Kinh doanh và Quản lý của Đồn
Hải Nam, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2008.
Các cơng trình khoa học trên đây đã tiếp cận và giải quyết những khía
cạnh khác nhau của vấn đề lao động, thị trường lao động, việc làm và giải
quyết việc làm cả về lý luận và thực tiễn; đề xuất nhiều giải pháp giải quyết việc
làm cho người lao động nói chung và cho lao động thanh niên nói riêng. Tuy vậy
trong giới hạn về thời gian, điều kiện tìm hiểu, nghiên cứu thơng tin cịn hạn chế,
học viên chưa được tiếp cận với cơng trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu
về giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn miền núi với đặc thù là thanh
niên dân tộc thiểu số. Là một tỉnh miền núi vùng cao với số thanh niên nông
thôn, thanh niên dân tộc thiểu số chiếm trên 85% tổng số thanh niên, tỉnh Bắc
Kạn cũng chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu về vấn đề này.
Các công trình nghiên cứu khoa học trên đây cũng gợi mở cho học viên
một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu và giải quyết:
Thứ nhất, các cơng trình này chưa đi sâu nghiên cứu về lao động thanh
niên với tư cách là một lực lượng lao động đặc thù, đang có sự phát triển và
từng bước hồn thiện về thể chất, tâm lý và nhân cách; chưa tính đến bộ phận
vị thành niên (người dưới 18 tuổi) trong số lao động thanh niên. Do đó cần
nghiên cứu sâu tính đặc thù này để đề xuất những giải pháp giải quyết việc
làm phù hợp với lao động thanh niên.
Thứ hai, đặc trưng của thanh niên nông thôn miền núi là người dân tộc
thiểu số, trình độ dân trí thấp, phong tục tập qn cịn lạc hậu, có thói quen

sống dựa vào thiên nhiên và được sự hỗ trợ của nhà nước nên có tâm lý trơng


5
chờ, ỷ lại, ngại phấn đấu vươn lên. Thêm vào đó, thanh niên nơng thơn miền
núi có tâm lý gắn bó, khơng muốn rời q hương đi làm ăn xa, nhiều thanh
niên còn hạn chế trong tiếp cận với khoa học kỹ thuật và cơng nghệ mới. Do
đó, giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn miền núi cần nghiên cứu sâu
sắc vấn đề này để có lộ trình thích hợp.
Thứ ba, giải quyết việc làm cho thanh niên nơng thơn miền núi phải
tính đến phát triển nguồn nhân lực tại chỗ để phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hố nơng nghiệp và xây dựng nơng thơn mới; đồng thời phát
huy nội lực, nhất là nguồn nhân lực trẻ để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội
ở những địa bàn đặc biệt khó khăn.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề giải quyết
việc làm cho thanh niên nông thôn miền núi.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Thứ nhất, hệ thống hoá và làm sáng tỏ cả lý luận và nhận thức về giải
quyết việc làm cho thanh niên và thanh niên nông thôn miền núi.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng về giải quyết việc làm cho thanh
niên nông thôn miền núi tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2006 - 2011.
Thứ ba, đề xuất phương hướng, giải pháp đẩy mạnh giải quyết việc làm
cho thanh niên nông thôn miền núi tỉnh Bắc Kạn đến năm 2015 và định
hướng đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm cho thanh
niên nông thôn miền núi.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Giải quyết việc làm cho thanh niên là đề tài rộng, phạm vi nghiên cứu
liên quan đến nhiều đối tượng thanh niên ở nhiều vùng, miền, lĩnh vực. Tuy


6
nhiên, luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm cho thanh
niên nông thôn miền núi tỉnh Bắc Kạn, giai đoạn 2006 - 2011 và đề xuất giải
pháp cho vấn đề này đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên quan điểm duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; những quan điểm, chủ trương của
Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và chính sách,
pháp luật của nhà nước về giải quyết việc làm cho người lao động nói chung
và cho thanh niên nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Ngồi các phương pháp phổ biến trong nghiên cứu khoa học nói chung,
nghiên cứu khoa học xã hội và nghiên cứu kinh tế nói riêng như: phương pháp
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp khái quát hoá, trừu tượng hoá,
luận văn chú trọng sử dụng phương pháp nghiên cứu tình hình, tổng kết thực
tiễn, phương pháp lịch sử lô gic, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh ...
6. Dự kiến những đóng góp mới của đề tài
Thứ nhất, hệ thống những vấn đề lý luận về vai trị, vị trí của thanh niên
nông thôn miền núi và ý nghĩa của vấn đề giải quyết việc làm cho thanh niên
nông thôn miền núi trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước và xây dựng nơng thơn mới.
Thứ hai, đánh giá có căn cứ thực trạng giải quyết việc làm cho thanh
niên nông thôn miền núi tỉnh Bắc Kạn.
Thứ ba, đề ra những giải pháp có tính khả thi về giải quyết việc làm cho

thanh niên nông thôn miền núi nhằm phát huy nguồn lực con người trong phát
triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Kạn. Những giải pháp này cũng có thể áp dụng với
những địa phương có điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế, xã hội tương đồng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết, phần
kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.


7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
CHO THANH NIÊN NÔNG THÔN MIỀN NÚI
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO
THANH NIÊN NÔNG THÔN MIỀN NÚI

1.1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1.1. Khái niệm việc làm, việc làm cho thanh niên
Việc làm là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá sự phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia, mỗi địa phương. Phân tích động thái thay đổi
của việc làm cho phép đánh giá tác động của chuyển đổi kinh tế và đề xuất
các chính sách việc làm phù hợp, tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương.
Theo tổ chức lao động quốc tế ILO, khái niệm việc làm chỉ được đặt ra
trong mối quan hệ với lực lượng lao động. Khi đó, việc làm được chia thành
hai loại: loại có trả cơng và loại khơng được trả cơng nhưng vẫn có thu nhập.
Tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13 của các nhà thống kê lao động (ILO.1993), tổ
chức này đã thống nhất định nghĩa: “Việc làm có thể định nghĩa như một tình
trạng trong đó có sự trả cơng bằng tiền hoặc hiện vật, do có một sự tham gia
tích cực, có tính cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất”. Theo khái niệm
này, người có việc làm là người làm việc để được trả công bằng tiền hoặc

bằng hiện vật, hoặc tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm
vì lợi ích hay vì thu nhập của gia đình mà khơng được nhận tiền cơng hoặc
hiện vật.
Tuy nhiên, quan niệm về việc làm trên mang ý nghĩa rất rộng, bao trùm
mọi hoạt động lao động của con người. Theo quan niệm này, cả những hoạt
động hợp pháp hay bất hợp pháp, cả những hành vi vi phạm đạo đức xã hội bị
ngăn cấm ở quốc gia này sẽ được coi là việc làm ở quốc gia khác. Chẳng hạn


8
việc hành nghề mại dâm, kinh doanh sòng bạc bị cấm ở Việt Nam nhưng lại
được phép hoạt động nếu đủ điều kiện ở các nước như Thái Lan, Colombia …
Như vậy, khái niệm trên chỉ mang tính khái quát và là cơ sở để nghiên cứu
vấn đề việc làm chung cho các nước trên thế giới.
Việc làm thể hiện mối quan hệ của con người với những chỗ làm việc
cụ thể, là giới hạn xã hội cần thiết mà ở đó lao động diễn ra. Việc làm là điều
kiện cần thiết để thoả mãn nhu cầu xã hội về lao động, là nội dung hoạt động
chính của con người. Xét về góc độ kinh tế, việc làm thể hiện mối quan hệ
giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, giữa yếu tố con người và yếu tố vật chất
trong quá trình sản xuất. Việc làm gắn liền với quá trình tạo ra thu nhập hay
tăng thu nhập cho cá nhân, hộ gia đình và đóng góp cho phúc lợi xã hội. Xét
về góc độ xã hội, việc làm không chỉ là hoạt động kinh tế đơn thuần mà còn là
hoạt động sáng tạo của con người nhằm phục vụ xã hội. Thơng qua lao động
giúp con người hồn thiện nhân cách, cống hiến những giá trị vật chất và tinh
thần cho xã hội. Xét về góc độ chính trị, việc làm là một trong những nhân tố
quyết định sự ổn định của mỗi quốc gia, mỗi thể chế chính trị. Khơng một nhà
nước, một thể chế chính trị nào không gắn tạo việc làm cho người lao động
với việc củng cố quyền lực và địa vị chính trị của mình. Như vậy, việc làm là
vấn đề vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính chính trị - xã hội.
Điều 13, chương II, Bộ luật Lao động của Nước Cộng hoà xã hội chủ

nghĩa Việt Nam chỉ rõ: “Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp
luật cấm đều được thừa nhận là việc làm” [17, tr.16]. Như vậy, theo Bộ luật
này, những hoạt động được gọi là việc làm phải thoả mãn hai tiêu chí cơ bản:
Thứ nhất, hoạt động đó phải là hoạt động có ích và phải tạo ra thu nhập
một cách trực tiếp cho cá nhân người lao động hoặc tạo ra thu nhập gián tiếp
cho gia đình và xã hội.
Thứ hai, hoạt động đó khơng bị pháp luật ngăn cấm. Điều này chỉ rõ
tính pháp lý của việc làm, được pháp luật bảo hộ.


9
Như vậy, quan niệm về việc làm của pháp luật Việt Nam rõ ràng hơn so
với quan niệm của tổ chức ILO. Hoạt động có ích, hợp pháp tạo ra thu nhập
không giới hạn về phạm vi, ngành nghề, được coi là việc làm. Điều này hoàn
toàn phù hợp với sự phát triển của thị trường lao động Việt Nam trong q
trình đổi mới và hội nhập. Với tính chất pháp lý của “việc làm”, người lao
động được đặt vào vị trí chủ thể, họ có quyền tự do tìm việc làm, thuê lao
động, tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật.
Hai điều kiện trên có quan hệ mật thiết với nhau, là điều kiện cần và đủ
để một hoạt động được thừa nhận là việc làm. Theo đó, nếu một hoạt động tạo
ra thu nhập nhưng bị pháp luật cấm như: buôn bán trái phép chất ma tuý, buôn
bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới, hành nghề mại dâm … thì khơng được
thừa nhận là việc làm. Ngược lại, một hoạt động có ích, tn thủ đúng pháp
luật nhưng không tạo ra thu nhập như: hoạt động cứu trợ nhân đạo, từ thiện
cũng không được gọi là việc làm có gắn với thu nhập.
Quan niệm về việc làm cho thanh niên cũng không tách khỏi quan
niệm chung về việc làm. Tuy nhiên, với tư cách là một lực lượng lao động đặc
thù về thể chất và tâm lý, việc làm cho thanh niên nhấn mạnh đến sự phù hợp
của công việc với thể chất và tâm lý của lao động thanh niên, trong đó có tính
đến xu hướng phát triển của đối tượng này.

Trong khi nói tới khái niệm việc làm, cần đề cập tới một số khái niệm
có liên quan đến lĩnh vực này như: khái niệm nghề, lực lượng lao động, lực
lượng lao động xã hội, thất nghiệp.
“Nghề là một dạng xác định của hoạt động lao động trong hệ thống
phân công lao động xã hội; là tổng hợp những kiến thức và kỹ năng lao động
mà con người tiếp thu được do kết quả của đào tạo chun mơn và tích luỹ
trong cơng việc” [30, tr.85]. Nghề có những đặc trưng cơ bản đó là cơng việc
chun làm; là phương tiện sinh sống của con người; nghề bao gồm cả lao
động trí óc và lao động chân tay; phù hợp với yêu cầu và có ích cho xã hội.


10
Khi mô tả về nghề thường đề cập đến các yếu tố: đối tượng lao động,
công cụ lao động, quá trình cơng nghệ, tổ chức lao động, u cầu tâm, sinh lý
đối với người hành nghề. Trình độ nghề là thước đo mức độ phức tạp về kiến
thức, kỹ năng, kỹ xảo của lao động, phản ánh đặc điểm, tính chất và yêu cầu
về trình độ kỹ thuật, trình độ tổ chức sản xuất, tổ chức lao động trong mỗi
thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, muốn có việc làm phải có nghề,
muốn có thu nhập cao phải giỏi nghề.
“Người trong độ tuổi lao động” là những người có quyền lợi và nghĩa
vụ về lao động theo quy định của pháp luật. Pháp luật mỗi nước quy định
người trong độ tuổi lao động khác nhau. Pháp luật Việt Nam quy định “người
trong độ tuổi lao động là những người từ 15 đến 60 tuổi (đối với nam) và từ
15 đến 55 tuổi (đối với nữ)” [17, tr.12]. Người trong độ tuổi lao động được
chia thành hai nhóm: những người thuộc lực lượng lao động xã hội và những
người ngoài lực lượng lao động xã hội.
Lực lượng lao động xã hội là những người trong độ tuổi lao động, đang
làm việc hoặc đang có nhu cầu tìm việc làm. Những người ngoài lực lượng
lao động xã hội là những người trong độ tuổi lao động nhưng bị ốm đau, tàn
tật, mất sức lao động và những người khơng có nhu cầu tìm việc làm.

Khái niệm “lực lượng lao động” được sử dụng ở Việt Nam có khác so
với khái niệm lực lượng lao động trên đây. Theo Tổng cục Thống kê Việt
Nam, “lực lượng lao động” (còn gọi là dân số hoạt động kinh tế) là những
người từ 15 tuổi trở lên đang làm việc và có thu nhập từ việc làm đó” [28,
tr.24]. Như vậy lực lượng lao động bao gồm cả những người trên 60 tuổi (đối
với nam) và trên 55 tuổi (đối với nữ) hiện đang làm việc và có thu nhập từ
việc làm đó. Những người thất nghiệp khơng thuộc lực lượng lao động. Trong
khi đó, khái niệm “lực lượng lao động xã hội” bao gồm cả những người có
việc làm và những người thất nghiệp.
Khái niệm “lực lượng lao động xã hội” trùng với khái niệm “lực lượng
lao động trong độ tuổi” được sử dụng trong các cuộc tổng điều tra dân số và


11
việc làm của Tổng cục Thống kê Việt Nam. Theo Tổng cục này, “lực lượng
lao động trong độ tuổi lao động” là những người từ 15 đến 60 tuổi (đối với
nam) và từ 15 đến 55 tuổi (đối với nữ) đang làm việc hoặc khơng có việc làm
nhưng có nhu cầu tìm việc làm.
Bên cạnh đó, pháp luật Việt Nam qui định về những người ngoài lực
lượng lao động cũng giống như các nước khác. Theo đó, dân số trong độ tuổi
lao động nhưng khơng làm việc do khơng có nhu cầu tìm việc làm khơng
thuộc những người thất nghiệp. Đó là: học sinh, sinh viên đang học tại các
trường, những người làm nội trợ trong gia đình, những người tàn tật, người
mắc bệnh khơng có khả năng lao động, người nghỉ hưu đang hưởng lương của
bảo hiểm xã hội, người có khả năng lao động nhưng khơng có nhu cầu tìm
việc làm.
Thất nghiệp là một trong những vấn đề trọng tâm của kinh tế học hiện
đại. Thất nghiệp gia tăng sẽ gây lãng phí nguồn nhân lực, làm chậm tốc độ
tăng trưởng kinh tế, đe doạ sự tăng trưởng bền vững và ảnh hưởng tiêu cực về
mặt xã hội. Tổ chức Lao động Quốc tế ILO đã xây dựng một định nghĩa

chung cho tất cả các nước, tạo tiền đề vững chắc cho sự so sánh. Theo đó, thất
nghiệp được tính bằng số người đang tìm việc tích cực trong vịng 4 tuần qua
và có thể nhận một việc làm ngay lập tức (trong vịng 2 tuần). Nhóm này cũng
bao gồm các sinh viên chính quy đang tìm việc làm một cách tích cực và có
thể tiếp nhận một việc làm. Định nghĩa này được dùng trong hầu hết các cuộc
điều tra mẫu với mức độ tin cậy là 95%.
Việt Nam quan niệm về thất nghiệp một cách cụ thể hơn. Theo đó,
người thất nghiệp là những người từ 15 tuổi trở lên mà trong tuần nghiên cứu
thoả mãn đồng thời cả ba điều kiện: sẵn sàng làm việc, đã có những bước cụ
thể để tìm việc làm nhưng khơng có việc làm. Nhóm này bao gồm cả những
người hiện không làm việc nhưng đang chuẩn bị khai trương một hoạt động
kinh doanh hoặc nhận một công việc mới sau thời kỳ tham chiếu; hoặc những


12
người trong tuần nghiên cứu luôn sẵn sàng làm việc nhưng khơng tìm kiếm
việc làm do ốm đau tạm thời, do bận việc riêng, do thời tiết xấu hoặc đang
chờ thời vụ.
Trong khi đó, người có việc làm là người đang làm việc tại một thời
điểm nhất định, không phụ thuộc vào việc làm của họ có được trả cơng hay
không được trả công như: làm công ăn lương, tự làm kinh tế trong gia đình, là
xã viên hợp tác xã hoặc lao động tự do. Thiếu việc làm là người có việc làm
nhưng do ngun nhân khách quan ngồi ý muốn của người lao động, họ phải
làm việc không hết thời gian theo luật định, hoặc làm những công việc có thu
nhập thấp, khơng đủ sống ở mức tối thiểu và muốn tìm thêm việc làm bổ sung.
Dù tiếp cận và phân loại thế nào đi nữa thì thanh niên vẫn là bộ phận
quan trọng cấu thành lực lượng lao động của một quốc gia. Đó là bộ phận
được đào tạo với trình độ học vấn, trình độ chuyên mơn phù hợp, có cơ hội về
việc làm. Hơn nữa thanh niên có nhu cầu lớn cho học hành, tiêu dùng, lập gia
đình và những hồi bão khác, do vậy họ vẫn là đối tượng khao khát và có nhu

cầu bức xúc về việc làm. Song giải quyết việc làm cho lao động nói chung và
thanh niên nơng thơn nói riêng là bài tốn khơng đơn giản và khơng phải lúc
nào cũng có đáp số.
1.1.1.2. Khái niệm giải quyết việc làm và giải quyết việc làm cho
thanh niên
Trong nền kinh tế thị trường, giải quyết việc làm thông qua quan hệ
cung - cầu và quy luật cạnh tranh trên thị trường lao động. Các quy luật này
có khả năng điều tiết việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực lao động của xã
hội. Kinh tế thị trường có mặt tích cực là bảo đảm quyền tự do lựa chọn việc
làm của người lao động và chọn người làm việc của người sử dụng lao động,
kích thích tính tích cực, năng động, sáng tạo của cả hai chủ thể này, điều
chỉnh một cách linh hoạt nhu cầu lao động xã hội. Tuy nhiên, mặt tiêu cực của
cơ chế này là tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường lao động, dễ dàng


13
loại bỏ những đối tượng yếu thế như: người khuyết tật, người dân tộc thiểu số
thiếu kiến thức, kỹ năng, chủ sản xuất kinh doanh nhỏ tiềm lực yếu… càng
khoét sâu khoảng cách phân hoá giàu nghèo trong xã hội.
Giải quyết việc làm cho người lao động là việc tạo cho người lao động
từ chỗ thất nghiệp hoặc thiếu việc làm, việc làm khơng đầy đủ trở thành người
có việc làm và có thu nhập từ việc làm đó. Có thể phân tích một số khía cạnh
liên quan đến giải quyết việc làm như sau:
Giải quyết việc làm là tạo ra chỗ làm việc mới cho người lao động có
nhu cầu về việc làm và có khả năng đáp ứng yêu cầu của việc làm đó. Khi
người lao động hội tụ đủ những điều kiện này, họ tham gia làm việc và có thu
nhập từ việc làm đó.
Giải quyết việc làm là hỗ trợ người lao động tìm được việc làm phù hợp
với nhu cầu và khả năng của họ như: cung cấp thông tin về cơ hội việc làm,
hỗ trợ đào tạo nghề và nâng cao kỹ năng cho người lao động, tổ chức ngày

hội hoặc các sàn giao dịch việc làm để người lao động gặp gỡ người sử dụng
lao động ...
Giải quyết việc làm còn là khuyến khích, tạo điều kiện cho người lao
động tự tìm việc làm hoặc tự tạo việc làm phù hợp với điều kiện, với khả năng
và trình độ của bản thân.
Giải quyết việc làm chủ yếu hướng vào đối tượng thất nghiệp, những người
chưa có việc làm và đang mong muốn được làm việc, trong đó đặc biệt nhấn
mạnh đến lực lượng thanh niên - đối tượng mới gia nhập thị trường lao động.
Đối với một quốc gia có cơ cấu “dân số vàng”, có lực lượng lao động
dồi dào như nước ta, giải quyết việc làm cho người lao động là vấn đề quan
trọng và cấp bách hàng đầu. Điều 13, chương II, Bộ luật Lao động của Nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ rõ: “Giải quyết việc làm, đảm bảo
cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm
của Nhà nước, của các doanh nghiệp và toàn xã hội”.


14
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục chỉ rõ: “Giải
quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định
và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính
đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân” [9]. Do đó có thể thấy giải quyết
việc làm vấn đề cần thiết, cấp bách, mang tính chiến lược của mỗi quốc
gia, mỗi địa phương.
Căn cứ vào mục đích nghiên cứu sẽ có nhiều cách tiếp cận vấn đề giải
quyết việc làm. Phạm vi nghiên cứu của đề tài này có thể đưa ra khái niệm:
Giải quyết việc làm là tạo ra các chỗ làm việc phù hợp với trình độ, khả năng
của người lao động, đáp ứng nhu cầu của người lao động, người sử dụng lao
động và yêu cầu phát triển của đất nước.
Với khái niệm trên, giải quyết việc làm không chỉ là nhiệm vụ của nhà
nước mà còn là trách nhiệm của người lao động, người sử dụng lao động, các

tổ chức chính trị, xã hội và của tồn xã hội. Trong đó, nhà nước có vai trị,
trách nhiệm rất quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, ban hành các
cơ chế, chính sách tạo việc làm, hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng sản xuất,
tạo thêm nhiều việc làm mới cho người lao động.
Từ những quan niệm chung về giải quyết việc làm cho người lao động,
có thể đưa ra cách tiếp cận về giải quyết việc làm cho thanh niên với tư cách
là một lực lượng lao động đặc thù như sau:
Thứ nhất, giải quyết việc làm cho thanh niên là tạo ra chỗ làm việc phù
hợp với lứa tuổi, trình độ, tay nghề và sức khoẻ của lao động thanh niên. Ở độ
tuổi từ 16 đến 30, thanh niên đang trong giai đoạn phát triển và dần hoàn
thiện về thể chất, tâm lý và nhân cách. Thanh niên có thể được đào tạo nghề
hoặc chưa qua đào tạo, do đó trình độ và tay nghề cũng chưa ổn định. Giải
quyết việc làm cho lao động thanh niên phải quan tâm đến sự phù hợp này,
phải tính đến khả năng phát triển của thanh niên trong tương lai cả về thể
chất, trí tuệ và tâm lý.


15
Bộ Luật Lao động đã dành riêng Chương XI, mục I để quy định về “lao
động chưa thành niên”. Điều 119 của Bộ luật này chỉ rõ: “Người lao động
chưa thành niên là người dưới 18 tuổi”. Như vậy, một bộ phận thanh niên từ
16 đến dưới 18 tuổi được xếp vào đối tượng lao động chưa thành niên. Điều
121 của Bộ luật này nhấn mạnh:
Người sử dụng lao động chỉ được sử dụng lao động chưa thành niên
vào những công việc phù hợp với sức khoẻ để bảo đảm sự phát
triển thể lực, trí lực, nhân cách và có trách nhiệm quan tâm chăm
sóc người lao động chưa thành niên về các mặt lao động, tiền
lương, sức khoẻ, học tập trong quá trình lao động. Cấm sử dụng lao
động chưa thành niên làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm
hoặc tiếp xúc với các chất độc hại theo danh mục do Bộ Lao động,

Thương binh & Xã hội và Bộ Y tế ban hành [17, tr.98].
Thứ hai, giải quyết việc làm cho thanh niên phải tính đến yếu tố gia
nhập thị trường lao động thường xuyên, liên tục của lực lượng này hàng năm.
Vấn đề này nếu không được tính tốn đầy đủ, cộng với một tỷ lệ lao động thất
nghiệp do mất việc làm và một lượng lao động chưa tìm được việc làm hàng
năm sẽ tạo áp lực lớn về giải quyết việc làm cho người lao động của Nhà
nước và xã hội.
Thứ ba, trong giải quyết việc làm cho thanh niên, vấn đề tự tìm việc
làm và tự tạo việc làm sẽ khó khăn hơn các đối tượng lao động khác. Nguyên
nhân chủ yếu là thanh niên đang trong giai đoạn phát triển, muốn khẳng định
bản thân nhưng tâm lý chưa ổn định, chưa tự chủ về bản thân mà cần có sự
định hướng nghề nghiệp từ phía gia đình, nhà trường, Đồn Thanh niên, Hội
Liên hiệp Thanh niên. Thêm vào đó, thanh niên cịn thiếu kiến thức, thiếu
kinh nghiệm, thiếu vốn … nên trong giai đoạn đầu của thời kỳ này, thanh niên
khó có khả năng tự tạo việc làm ổn định cho bản thân.
Thứ tư, giải quyết việc làm cho thanh niên phải gắn với đào tạo thường
xuyên, liên tục, góp phần bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng


16
phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Bất kỳ lĩnh vực
nào, người lao động cũng phải trải qua quá trình đào tạo, bồi dưỡng, đào tạo
lại để phù hợp với yêu cầu công việc. Với lao động thanh niên, điều này càng
có ý nghĩa hơn. Do đó, đào tạo nghề, nâng cao tay nghề và kỹ năng lao động
gắn với giải quyết việc làm cho thanh niên nơng thơn là xu hướng tích cực
trong giai đoạn hiện nay.
1.1.2. Đặc điểm nông thôn miền núi, thanh niên nông thôn miền núi
và cung - cầu lao động thanh niên tác động tới giải quyết việc làm
1.1.2.1. Đặc điểm nông thôn miền núi tác động tới giải quyết việc làm
Nông thôn là khái niệm dùng để chỉ vùng, khu vực hành chính phân

biệt với thành phố, thị xã, là khu vực lãnh thổ rộng lớn nằm ngoài thành thị.
Đây là địa bàn cư trú của 70,4% dân số Việt Nam (tính đến 2009), ở đó người
dân chủ yếu sinh sống bằng nghề nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp.
Nơng thơn miền núi là địa bàn có độ cao từ 200 m trở lên so với mặt
nước biển. Địa hình chủ yếu ở khu vực này là đồi, núi cao, có nhiều sơng suối
với độ dốc lớn, giao thơng đi lại khó khăn. Khí hậu nơi đây chia làm 4 mùa rõ
rệt, trong đó mùa mưa thường xảy ra lũ quét, lũ ống gây sạt lở đất, mùa đông
thời tiết lạnh kéo dài ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống và sản xuất của
nhân dân, nhất là ngành chăn nuôi và trồng trọt.
Là khu vực rộng lớn, đất đai, khí hậu, tài ngun thiên nhiên phong
phú, nơng thơn miền núi có nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển một nền
nông nghiệp “sạch” với những cây trồng, vật nuôi đặc sản, có giá trị kinh tế
cao. Địa bàn này cũng có thế mạnh về phát triển lâm nghiệp với nghề trồng
rừng, khai thác và chế biến gỗ, lâm sản. Ngành cơng nghiệp khai thác và chế
biến khống sản cũng có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển.
Khu vực nông thôn miền núi là địa bàn cư trú chủ yếu của đồng bào
dân tộc thiểu số. Mật độ dân cư thấp, trình độ dân trí khơng cao, phong tục tập
quán, tâm lý làng xã ở một số nơi còn nặng nề. Dân cư ở địa bàn sống phụ


17
thuộc nhiều vào thiên nhiên do tập quán săn bắt động vật hoang dã, hái lượm
sản vật sẵn có từ tự nhiên đã tồn tại hàng nghìn đời nay. Thêm vào đó, đồng
bào các dân tộc thiểu số được hưởng một số chính sách hỗ trợ của nhà nước
dành cho vùng khó khăn, miền núi, biên giới, hải đảo nên có tâm lý trơng chờ,
ỷ lại, thiếu động lực phấn đấu vươn lên.
Địa bàn nông thôn miền núi cũng là khu vực có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất
trong cả nước. Lao động nông thôn miền núi chủ yếu là lao động thủ cơng ở
trình độ thấp, số lao động đã qua đào tạo, nhất là đào tạo nghề còn chiếm tỷ lệ
rất thấp. Do đó nơng thơn miền núi là khu vực có trình độ phát triển kinh tế xã hội thấp nhất của cả nước.

Bên cạnh đó, địa bàn nông thôn miền núi cũng tiềm ẩn những nhân tố
gây mất ổn định chính trị - xã hội. Vấn đề dân tộc, tôn giáo diễn biến phức
tạp. Các thế lực thù địch tăng cường lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền,
tự do tín ngưỡng, tự do tơn giáo gây chia rẽ trong đồng bào, nhằm làm cho
nhân dân khơng n tâm lao động sản xuất, mất lịng tin vào Đảng và Nhà
nước ta, tạo sự mất ổn định trong đời sống chính trị - xã hội để thực hiện âm
mưu chống phá. Do vậy nếu khơng có những chính sách phát triển kinh tế - xã
hội đặc thù, hỗ trợ người dân tạo việc làm, xố đói, giảm nghèo, cải thiện đời
sống thì sẽ khơng giải quyết được tận gốc vấn đề bảo vệ chủ quyền lãnh thổ
và vấn đề cơng bằng trong chính sách phát triển các vùng, miền và ưu tiên các
dân tộc thiểu số.
1.1.2.2. Đặc điểm thanh niên nông thôn miền núi tác động tới giải
quyết việc làm
Về ưu điểm, thanh niên nông thôn miền núi thật thà, cả tin, hiền lành,
dễ giáo dục vì họ sống gần gũi với thiên nhiên, phương thức tạo thu nhập khá đơn
giản. Phần đông thanh niên nông thôn miền núi cần cù, chịu khó, có khả năng chịu
đựng khó khăn gian khổ cao vì họ đã quen với những điều kiện khó khăn và buộc
phải đương đầu với những vất vả trong cuộc sống ngay từ thời thơ ấu.


18
Bên cạnh đó, thanh niên nơng thơn miền núi cũng đứng trước khơng ít
hạn chế. Trình độ học vấn của đối tượng này nhìn chung cịn thấp, vì vậy khả
năng tiếp cận khoa học kỹ thuật khơng cao, khó tiếp cận các ngành nghề mới,
ngại làm các cơng việc địi hỏi khả năng tư duy. Năng lực tổ chức làm kinh tế
của thanh niên nông thôn miền núi cũng ở trình độ rất thấp, điều này cản trở
quá trình giải quyết việc làm và tham gia tích cực vào cơng cuộc cơng nghiệp
hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn.
Trình độ chuyên môn, kỹ thuật của phần đông thanh niên nơng thơn
miền núi cịn thấp, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn khá khiêm tốn, ý thức kỷ

luật của nhiều thanh niên nông thôn miền núi chưa cao. Do đó thanh niên
nơng thơn miền núi khó có cơ hội tìm được việc làm ở những ngành nghề có
thu nhập cao. Cũng do việc tiếp cận thông tin chưa thuận lợi và rộng rãi nên
cơ hội tiếp cận với việc làm và tự tạo việc làm của thanh niên nông thôn miền
núi cũng hạn chế hơn các đối tượng khác. Điều này đòi hỏi các cấp ngành
phải quan tâm, tạo điều kiện cung cấp thơng tin chính thống, định hướng nghề
nghiệp, việc làm một cách đầy đủ và đồng bộ để thanh niên nơng thơn miền
núi có sự lựa chọn nghề nghiệp, việc làm phù hợp với điều kiện của gia đình,
khả năng của bản thân và đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lược của địa
phương, đất nước.
Nhiều thanh niên nơng thơn miền núi cịn có tâm lý dễ thoả mãn với
hiện tại nên thiếu động lực vươn lên trong cuộc sống. Sự tự ty, ỷ lại, thiếu
năng động, sáng tạo cũng làm cho thanh niên nông thôn miền núi ngại “bươn
chải” với cuộc sống như phần đông thanh niên miền xuôi. Đối tượng này cũng
không thường xuyên được rèn luyện bản lĩnh nên dễ dao động, dễ thay đổi,
khó kiên trì theo đuổi đến cùng mục tiêu đã chọn.
Thêm vào đó, một bộ phận thanh niên nơng thơn miền núi cịn chịu ảnh
hưởng nặng nề của các phong tục, tập quán lạc hậu như xây dựng gia đình và
sinh con sớm, kết hơn cận huyết... Do đó, chất lượng dân số và chất lượng


19
nguồn nhân lực không cao. Một số thanh niên nhận thức mơ hồ, lệch lạc về
kinh tế thị trường cùng với sự nông nổi của tuổi trẻ dễ dẫn đến thất bại trong
sản xuất kinh doanh và dễ bị kẻ xấu lợi dụng.
1.1.2.3. Đặc điểm cung, cầu lao động thanh niên tác động tới giải
quyết việc làm
Xét về cung lao động, thanh niên là lực lượng trẻ, có tiềm năng lao
động rất lớn, thể hiện ở thể chất, trí tuệ và tinh thần của từng cá nhân. Cộng
đồng thanh niên đang độ sung sức, phát triển nhanh. Tuy nhiên, lao động

thanh niên đang trong độ tuổi phát triển và chưa trưởng thành, nên cung lao
động thanh niên có một số điểm yếu: Lao động mới tăng thêm đều ở độ tuổi
thanh niên nhưng chủ yếu là lao động chưa qua đào tạo nghề. Số lao động
thanh niên đã qua đào tạo nhưng khi tham gia thị trường lao động phải có thời
gian nhất định để làm quen, thích nghi với công việc và phải tiếp tục được
đào tạo nâng cao. Kinh nghiệm tích luỹ của lao động thanh niên trong thực
tiễn cịn hạn chế. Trong đó, thanh niên nơng thơn miền núi là đối tượng hạn
chế hơn về trình độ, nhận thức, năng lực hoạt động thực tiễn, số thanh niên
được đào tạo chiếm tỷ lệ thấp nên khó khăn hơn trong tìm kiếm việc làm.
Trên thị trường lao động thanh niên, yếu tố cung là rất lớn. Khi thanh
niên bước vào tuổi lao động chỉ có một trong hai khả năng để lựa chọn: tiếp
tục đi học hoặc tham gia ngay vào thị trường lao động. Lúc này, phản ứng của
cung với cầu lao động thanh niên là rất thấp, thậm chí có thể coi đường cung
lao động thanh niên là một đường nằm ngang (độ co giãn bằng 0). Tiền lương
được hình thành trên thị trường lao động do tác động của cung - cầu lao động.
Tuy nhiên do thanh niên chủ yếu là trình độ tay nghề thấp, kinh nghiệm chưa
nhiều nên đa số chấp nhận mức thu nhập thấp, cung lao động thanh niên
không phải lúc nào cũng là đại lượng đồng biến với tiền lương (nghĩa là
đường cung không co giãn với mức tiền lương, tiền công).
Xét về cầu lao động, cầu lao động thanh niên có hai loại: Cầu bù đắp là
cầu thay thế chỗ làm việc trống do người lao động cũ vì lý do nào đó rời khỏi


20
nơi làm việc. Cầu mở rộng là cầu tăng thêm do chỗ làm việc mới được tạo ra
như: đầu tư mở rộng sản xuất, thành lập mới doanh nghiệp... Nhìn chung cầu
lao động thanh niên là một đường nghịch biến trong tương quan giữa cầu lao
động thanh niên và tiền công, tiền lương.
Trạng thái cân bằng cung - cầu lao động trên thị trường lao động thanh
niên chỉ là tạm thời, trạng thái mất cân bằng là phổ biến. Thanh niên thường

khó khăn trong tìm kiếm việc làm trên thị trường lao động chủ yếu là do:
cung lao động rất lớn trong khi cầu lao động thanh niên lại rất chọn lọc; thanh
niên, nhất là thanh niên nông thôn miền núi thiếu sự chuẩn bị trong đào tạo
nghề nghiệp; thiếu sự ăn khớp hoặc bất cập giữa hệ thống đào tạo với yêu cầu
của thị trường lao động; lao động thanh niên chưa đủ thời gian để tích luỹ
kinh nghiệm nên khó có được những vị trí làm việc tốt. Thêm vào đó, hệ
thống thơng tin thị trường lao động, tư vấn hướng nghiệp và việc làm, giới
thiệu và cung ứng lao động còn nhiều bất cập, mới đáp ứng được khoảng 10%
nhu cầu của lao động thanh niên; hiện tượng tiêu cực, lừa đảo người lao động
vẫn còn nhiều.
1.1.3. Vai trò của vấn đề giải quyết việc làm cho thanh niên nông
thôn miền núi
Thứ nhất, giải quyết việc làm cho thanh niên nơng thơn miền núi góp
phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cho khu vực nông thơn miền núi,
địa bàn rộng, có trình độ phát triển thấp, do đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của
cả nước nói chung. Khi thanh niên có việc làm, có thu nhập thì thu nhập của bản
thân thanh niên và hộ gia đình sẽ tăng, kích thích tăng tiêu dùng, do đó làm tăng
tổng cầu. Theo lý thuyết kinh tế, tổng cầu tăng trong ngắn hạn sẽ làm cho sản
lượng của nền kinh tế tăng, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn miền núi là yếu
tố cơ bản để nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân nói chung và thanh niên nói riêng, từng bước làm giảm khoảng cách


21
chênh lệch về mức sống và điều kiện sống của khu vực nông thôn miền núi so
với khu vực đồng bằng, thành thị.
Thứ ba, giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn miền núi là yếu
tố quyết định sự thành cơng của cơng cuộc xố đói, giảm nghèo bền vững ở
địa bàn nông thôn miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; đồng thời

là nhân tố quyết định thành công của công cuộc xây dựng nông thôn mới ở
nước ta. Hiện nay, thanh niên là lao động chính trong nhiều gia đình, là lực
lượng lao động có nhận thức và trình độ cao hơn các đối tượng lao động khác
ở nông thôn, miền núi, là lực lượng chủ yếu tiếp thu khoa học, kỹ thuật, công
nghệ mới phục vụ cho phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Thứ tư, giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn miền núi là nhân tố
quan trọng góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trẻ phục vụ công cuộc
xây dựng nơng thơn mới, cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nông thôn
và hội nhập quốc tế. Giải quyết việc làm gắn với dạy nghề và đào tạo nâng cao
trình độ cho lao động trẻ mới gia nhập thị trường là yếu tố quan trọng để giải bài
toán nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội địa phương, đất nước.
Thứ năm, giải quyết việc làm cho thanh niên nơng thơn miền núi góp
phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị xã hội, hạn chế những tác động
xấu về mặt xã hội do tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm gây ra như: uống
rượu, đánh bạc, trộm cắp, nghiện các chất ma tuý ... Đồng thời tăng cường
tình đồn kết giữa các dân tộc, góp phần giữ vững an ninh quốc phòng ở
những địa bàn trọng điểm, nhất là miền núi, biên giới, hải đảo.
1.2. NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM VÀ CÁC
NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN NÔNG
THÔN MIỀN NÚI

1.2.1. Nội dung giải quyết việc làm cho thanh niên
nơng thơn miền núi
1.2.1.1. Về phía Nhà nước và các cơ quan quản lý nhà nước


22
Nhà nước có vai trị quan trọng và trách nhiệm chủ yếu trong giải quyết
việc làm cho người lao động, trong đó có thanh niên và thanh niên nơng thơn
miền núi. Nhà nước vừa là chủ sử dụng một lực lượng lao động lớn của xã

hội, vừa là chủ thể quản lý, điều tiết cung - cầu lao động trên thị trường. Nội
dung giải quyết việc làm của nhà nước tập trung vào các vấn đề chủ yếu:
Thứ nhất, Nhà nước tạo dựng môi trường, luật pháp, ban hành cơ chế
chính sách về giải quyết việc làm cho người lao động nói chung và cho thanh
niên nơng thơn miền núi nói riêng. Mỗi doanh nghiệp, mỗi người lao động
đều cần một mơi trường an tồn, ổn định để phát triển và đều bị điều chỉnh
bởi khuôn khổ pháp luật nhất định. Nhà nước có trách nhiệm cung cấp cho xã
hội những yếu tố này.
Chính sách việc làm là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, mục tiêu,
công cụ nhằm sử dụng lực lượng lao động và tạo việc làm cho thanh niên.
Đây là sự thể chế hoá pháp luật của nhà nước về lĩnh vực lao động và việc
làm. Hệ thống các chính sách này có quan hệ và tác động đến việc ổn định và
gia tăng việc làm cho xã hội như: khuyến khích phát triển những ngành nghề
có khả năng thu hút nhiều lao động; chính sách tài chính, tín dụng, đất đai,
chính sách dạy nghề, xuất khẩu lao động; chương trình mục tiêu quốc gia về
giải quyết việc làm có tính đến đặc thù của khu vực nông thôn miền núi ...
Thứ hai, tạo lập môi trường kinh tế đảm bảo nhu cầu về việc làm và
giải quyết việc làm cho lao động thanh niên. Để làm được điều này, Nhà nước
cần xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với những nội dung, giải
pháp tầm vĩ mô, chú trọng tới những ngành, lĩnh vực có lợi thế so sánh và có
khả năng thu hút nhiều lao động; cần tính đến những ngành, lĩnh vực tạo ra
giá trị gia tăng cao, làm cơ sở cho việc hoạch định các chính sách về việc làm
và giải quyết việc làm.
Bên cạnh đó, cần tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng giảm tỷ trọng lao động trong ngành nông - lâm nghiệp, tăng tỷ trọng


23
lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ. Tiếp tục dịch chuyển lao động,
nhất là lao động thanh niên từ lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực công

nghiệp và dịch vụ. Nhà nước cần tạo điều kiện để phát huy tối đa các thành
phần kinh tế, mở mang các ngành kinh tế, có chiến lược cụ thể đối với từng
vùng kinh tế và hình thành các dự án phát triển kinh tế - xã hội, tạo việc làm
cho lao động thanh niên.
Thứ ba, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong giải quyết việc làm, trong đó
có việc cung cấp lao động là thanh niên nông thôn miền núi cho các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi tại Việt Nam và đưa thanh niên nông thôn
miền núi, thanh niên dân tộc thiểu số đi lao động có thời hạn tại các thị trường
ổn định về chính trị, có thu nhập cao, phù hợp với điều kiện sống và sinh hoạt
của thanh niên nông thôn miền núi.
Thứ tư, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp ở địa phương có
trách nhiệm cụ thể hố các chính sách do nhà nước ban hành để triển khai trên
địa bàn. Hội đồng nhân dân ban hành nghị quyết về tạo việc làm cho lao động
trên địa bàn, giao Uỷ ban nhân dân ban hành các chương trình, kế hoạch, đề
án về giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn miền núi phù hợp với điều
kiện địa phương.
Uỷ ban nhân dân các cấp huy động các nguồn lực trên địa bàn đầu tư
cho chương trình giải quyết việc làm đối với thanh niên nông thôn miền núi;
đồng thời chỉ đạo tăng cường sự phối hợp giữa các sở, ban, ngành của địa
phương với các đồn thể chính trị - xã hội, các tập thể và cá nhân trong giải
quyết việc làm cho thanh niên nơng thơn miền núi.
1.2.1.2. Về phía các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức
xã hội nghề nghiệp
Các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp cần xác định rõ
chức năng, nhiệm vụ trong việc tham gia giải quyết việc làm cho thanh niên
nói chung và thanh niên nơng thơn miền núi nói riêng.


24
Trước hết, cần quán triệt các quan điểm, chủ trương, chính sách của

Đảng và Nhà nước về dạy nghề và giải quyết việc làm cho thanh niên, thanh
niên nông thôn miền núi; tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho
thanh niên về nghề nghiệp, việc làm nhằm làm thay đổi định hướng giá trị xã
hội và định hướng nghề nghiệp cho lao động trẻ, khuyến khích thanh niên học
nghề và phát triển nghề nghiệp trong một xã hội học tập suốt đời. Đồng thời,
tích cực tuyên truyền, phổ biến các chế độ, chính sách về học nghề và giải
quyết việc làm cho thanh niên.
Bên cạnh đó, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp
cần làm nịng cốt trong việc vận động thanh niên nơng thơn miền núi tích cực
tham gia học nghề và tự tạo việc làm, tham gia phát triển kinh tế tại địa
phương, tham gia xuất khẩu lao động, góp phần nâng cao thu nhập, xố đói
giảm nghèo, cải thiện đời sống, xây dựng nguồn nhân lực trẻ có chất lượng
cho địa phương, đất nước.
Các tổ chức đồn thể cũng có thể tham gia vào các chương trình mục
tiêu quốc gia về giáo dục, đào tạo, về dạy nghề và giải quyết việc làm nhằm
tạo bước đột phá trong đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động nơng
nghiệp, nơng thơn theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố và hội nhập
quốc tế. Gắn dạy nghề với giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn miền
núi, thanh niên dân tộc thiểu số theo chương trình giảm nghèo nhanh và bền
vững các vùng đặc biệt khó khăn.
Các tổ chức đồn thể cũng cần phối hợp chặt chẽ với các bộ, ban,
ngành, các cơ quan chức năng và các địa phương trong triển khai hiệu quả
chính sách hỗ trợ thanh niên học nghề và giải quyết việc làm, nhất là thanh
niên nông thôn miền núi, thanh niên dân tộc thiểu số, thanh niên nghèo. Đồng
thời tổ chức các hoạt động cung cấp dịch vụ việc làm khơng vì mục tiêu lợi
nhuận giúp lao động trẻ tìm việc làm sau khi được đào tạo nghề.


25
1.2.1.3. Về phía bản thân thanh niên nơng thơn miền núi với tư cách

là người lao động
Trong điều kiện hiện nay, để có cơ hội tiếp cận việc làm phù hợp với
năng lực, trình độ và có điều kiện thăng tiến trong sự nghiệp, bản thân thanh
niên phải nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường lao động, phải trở
thành chủ thể năng động và sáng tạo trong quá trình tham gia vào thị trường
lao động, phải tự chủ, tự chịu trách nhiệm về chính tương lai và sự nghiệp của
mình. Điều này địi hỏi thanh niên phải nâng cao trình độ học vấn đáp ứng
yêu cầu việc làm.
Bản thân thanh niên nông thôn miền núi phải thấy rõ những khó khăn,
hạn chế của mình trong cạnh tranh trên thị trường lao động với lực lượng lao
động nói chung và chính lao động thanh niên các vùng miền khác. Do đó, mỗi
thanh niên nơng thơn miền núi phải chủ động trong lựa chọn nghề nghiệp,
tích cực tham gia học nghề phù hợp với năng lực, điều kiện của bản thân và
nhu cầu nguồn nhân lực của địa phương, đất nước để lập nghiệp và phát triển
nghề nghiệp.
Bên cạnh đó, thanh niên nơng thơn miền núi cần chủ động tìm kiếm
phương thức giải quyết việc làm cho bản thân bằng cách tự tạo việc làm và
tìm kiếm việc làm phù hợp. Thanh niên nơng thơn miền núi có thể tự tạo việc
làm trên cơ sở phát triển kinh tế hộ gia đình, sản xuất kinh doanh dịch vụ, làm
kinh tế trang trại, kinh tế hợp tác, mở doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đây là cách
thức tiếp cận giải quyết việc làm tích cực và chủ động nhất vì nó hướng vào
tạo cầu lao động.
Ngồi ra, thanh niên nơng thơn miền núi có thể học nghề để làm thêm
lúc nơng nhàn góp phần tăng thu nhập, học nghề phi nơng nghiệp để thốt ly
sản xuất nơng lâm nghiệp hoặc đi lao động có thời hạn tại nước ngồi.
1.2.1.4. Về phía cá nhân, tổ chức sử dụng lao động


×