Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh bo ly khăm xay nước cộng hoà dân chủ nhân dân lào hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.55 KB, 116 trang )

1
MỞ ÐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một quốc gia dân tộc muốn phát triển cần phải có các nguồn lực của
sự phát triển kinh tế như: tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học công nghệ,
con người. Trong các nguồn lực đó thì nguồn lực con người là quan trọng nhất,
có tính chất quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Một đất nước cho dù
có tài nguyên phong phú, máy móc kỹ thuật hiện đại nhưng dân trí thấp, khơng
có nguồn nhân lực có trình độ, khơng có khả năng khai thác nguồn lực đó thì
khó có khả năng đạt được sự phát triển như mong muốn.
Trong thời đại ngày nay, con người được coi là "một nguồn" tài
nguyên đặc biệt, một nguồn lực của sự phát triển kinh tế. Bởi vậy, việc phát
triển nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị trí trọng tâm trong hệ thống
phát triển các nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con người là yếu tố góp phần
đảm bảo cho sự phát triển phồn vinh, thịnh vượng của mỗi quốc gia dân tộc.
Đầu tư cho con người phải mang tính chiến lược và đó là cơ sở chắc chắn cho
sự phát triển bền vững.
Sau 25 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Nhân dân Cách
mạng Lào, đất nước Lào đã có những bước phát triển vượt bậc trên tất cả các
lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, an ninh - quốc phòng. Kinh tế
phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên, vị thế
nước Lào trên trường quốc tế khơng ngừng được cải thiện…
Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ IX (2011) Đảng Nhân dân Cách
mạng Lào đã đề ra đường lối phát triển kinh tế - xã hội đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Để triển khai đường lối của Đảng vào thực tiễn,
Chính phủ Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào đã xây dựng và vạch ra chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011- 2020, xác định các phương
hướng, mục tiêu cơ bản lâu dài, những nhiệm vụ kinh tế - xã hội tầm vĩ mô,


2


dài hạn phát triển đất nước. Đồng thời, cũng xác định phương tiện, biện pháp
để thực hiện thành công các phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ đó. Phấn đấu
đến năm 2020 xây dựng nước Lào trở thành một nước ổn định vững chắc về
chính trị, an ninh, an tồn về xã hội, đảm bảo giữ vững tốc độ phát triển kinh
tế liên tục, nâng cao đời sống của nhân dân gấp ba lần so với hiện nay. Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội quốc gia giai đoạn 2011-2020 là “Chủ trương
phát triển kinh tế cơ bản” của Đảng. Đây là một thử thách to lớn đối với
Đảng, Nhà nước và nhân dân các bộ tộc Lào trong sự nghiệp xây dựng phát
triển đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tỉnh Bo Ly Khăm Xay trong tiến trình đổi mới cũng đã đạt được
những thành tựu đáng khích lệ. Tăng trưởng kinh tế ln ở mức cao, với tốc
độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn năm 2006-2010 đạt được 9,57%
/năm, thu nhập bình quân đầu người đạt được 1.070 USD, bằng 8,56 triệu
kíp/người/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: tỷ trọng
nông nghiệp giảm dần, công nghiệp - xây dựng và dịch vụ tăng lên. Bo Ly
Khăm Xay còn là tỉnh có truyền thống lịch sử, văn hố, có tiềm năng về đất
đai và lao động. Đặc biệt, việc điều chỉnh, mở rộng địa giới hành chính tỉnh
Bo Ly Khăm Xay mở ra triển vọng lớn để các huyện phát triển nhanh, tồn
diện và hiệu quả hơn.
Tuy nhiên nếu phân tích, đánh giá một cách khách quan thì những
thành tựu mà tỉnh Bo Ly Khăm Xay đạt được vẫn chưa tương xứng với
tiềm năng, thế mạnh hiện có của tỉnh. Về cơ bản Bo Ly Khăm Xay vẫn là
một tỉnh nghèo, kinh tế kém phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm.
Kinh tế của tỉnh chủ yếu là sản xuất nơng nghiệp, thu ngân sách cịn ở mức
thấp, kết cấu hạ tầng cịn thấp kém, thu nhập bình qn đầu người thấp, chỉ
đạt được 1.070 USD bằng 8,56 triệu kíp/người/năm, thấp hơn mức thu
nhập bình quân của cả nước. Đời sống vật chất, tinh thần của người dân
còn gặp nhiều khó khăn…



3
Nguyên nhân của thực trạng trên có thể kể đến xuất phát điểm của
kinh tế tỉnh thấp kém, công tác quản lý, điều hành kinh tế còn nhiều hạn chế,
chưa khai thác được tiềm năng, thế mạnh cũng như những cơ hội. Song hạn
chế về nguồn nhân lực được coi là một trong những nguyên nhân chủ yếu, bởi
nhân tố con người nói chung, nguồn nhân lực nói riêng ln là nhân tố quan
trọng hàng đầu đối với mọi quá trình phát triển.
Xuất phát từ thực trạng trên tơi chọn đề tài “Nguồn nhân lực trong
phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bo Ly Khăm Xay nước Cộng hoà Dân chủ
Nhân dân Lào hiện nay” làm luận văn thạc sĩ Triết học, chuyên ngành chủ
nghĩa xã hội khoa học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nguồn nhân lực là một chủ đề không mới. Một mặt, do nhân lực là
nhân tố quan trọng của mọi quá trình phát triển, mặt khác, nguồn nhân lực
cịn là nhân tố quyết định chất lượng, hiệu quả của mọi hoạt động, vì thế,
nguồn nhân lực trở thành đối tượng nghiên cứu của rất nhiều ngành khoa học
và là vấn đề dành được sự quan tâm đặc biệt của các nhà lãnh đạo quản lý ở
hầu khắp các bộ, ban, ngành chức năng và địa phương.
Về sách tham khảo có:
- “Phát triển nguồn nhân lực - kinh nghiệm thế giới và thực tiễn ở Việt
Nam” của PGS. Trần Văn Hùng, Lê Ái Lâm (Viện Kinh tế thế giới), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996. Tác giả sách đã giới thiệu khái quát về vai
trò của nguồn lực ở một nước trên thế giới dưới tác động của giáo dục - đào
tạo, đồng thời nêu bật vai trò của giáo dục - đào tạo trong việc phát triển
nguồn nhân lực ở Việt Nam.
- “Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt Nam” của TS Hữu
Dũng, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội, 2003. Tác giả đã trình bày có tính hệ
thống một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến phát triển, phân bổ, sử
dụng nguồn lực con người trong phát triển nền kinh thị trường định hướng xã



4
hội chủ nghĩa ở Việt Nam; đồng thời đề xuất các chính sách và giải pháp
nhằm phát triển, phân bổ hợp lý và sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam.
- “Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam” TS. Bùi Thị
Ngọc Lan, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Tác giả đã phân tích rõ vị
trí, vai trị, chức năng của nguồn lực trí tuệ - bộ phận trung tâm, làm nên chất
lượng và sức mạnh ngày càng tăng của nguồn nhân lực và là tài sản vô giá
của mỗi quốc gia, dân tộc và toàn nhân loại. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất
những phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy hiệu quả nguồn lực
trí tuệ Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
- Danh Sơn (1997), “Mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực khoa
học công nghệ với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội”, Nghiên cứu kinh tế,
(23). Trên cơ sở đó tác giả đề xuất lý luận và thực tiễn phát triển nguồn nhân
lực khoa học công nghệ nhằm phát huy mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
hiện nay.
- Mai Quốc Chính (1999), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu CNH-HÐH đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trên cơ sở
đó tác giả đã khái quát nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đồng thời đã đáp
ứng u cầu cơng nghiệp hố, hiện đại hố trong sự phát triển nguồn nhân lực
của đất nước hiện nay.
Về luận văn, luận án có:
- Thạc sỹ Lê Văn Hùng (2006), Nguồn nhân lực chất lượng cao cho
phát triển kinh tế xã hội ở thành phố Ðà Nẵng, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh. Tác giả đã trình bày những lý luận và thực tiễn nguồn nhân lực
chất lượng cao cho phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố có hiệu quả. Đồng
thời đề xuất những thực trạng và giải pháp nguồn nhân lực chất lượng cao cho
sự phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Đà Nẵng.



5
- Thạc sỹ Trương Tuấn Dũng (2009), Nguồn nhân lực cho phát triển
kinh tế ở tỉnh Hồ Bình, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Trên cơ sở
đó tác giả đã đề xuất lý luận và thực tiễn cho phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh.
Đồng thời đã phân tích đánh giá thực trạng và giải pháp của nguồn nhân lực
cho phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh.
- Thạc sỹ Đa Von Nu Tha Vông (2011), Nguồn lực con người trong sự
phát nghiệp công nghiệp hố, hiện đại hố ở Thủ đơ Viêng Chăn, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó tác giả làm rõ thực trạng
nguồn nhân lực con người ở Thủ đô Viêng Chăn trong thời kỳ cơng nghiệp
hố, hiện đại hố. Đồng thời nêu bật xây dựng một số quan điểm và giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực con người trong sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hố ở Thủ đơ Viêng Chăn.
- “Phát huy nhân tố con người trong quá trình phát triển kinh tế - xã
hội ở Thành phố Viêng Chăn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ triết học của Sĩ Sổm
Phon Vơng Pha Chăn. Tác giả đã trình bày những lý luận chung về nhân tố
con người và tầm quan trọng của việc phát huy nhân tố con người trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội ở Lào hiện nay. Trên cơ sở làm rõ thực trạng
của việc phát huy nhân tố con người ở thành phố Viêng Chăn, tác giả đã đề
xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nhân tố con
người ở thành phố Viêng Chăn.
Ngồi ra, cịn có những cơng trình, bài viết trên các báo, tạp chí
chun ngành, nhưng nhìn chung các cơng trình nghiên cứu về chủ đề này đã
được công bố chủ yếu tập trung vào giải quyết vấn đề nguồn nhân lực hoặc
chất lượng nguồn nhân lực cho một ngành hoặc một lĩnh vực cụ thể nào đó
hoặc nghiên cứu nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cơng cuộc
cơng nghiệp hố, hiện đại hố nói chung, hoặc tiếp cận vấn đề theo từng khía
cạnh riêng biệt và theo thời gian, không gian nhất định.

Trên địa bàn tỉnh Bo Ly Khăm Xay cho đến nay chưa có cơng trình
nào đề cập đến nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bo Ly


6
Khăm Xay một cách đầy đủ, tồn diện. Vì vậy, đề tài nghiên cứu không bị
trùng lắp với các công trình đã cơng bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích thực trạng nguồn nhân lực tỉnh Bo Ly Khăm Xay,
đề xuất một số giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trong giai đoạn mới.
3.2. Nhiệm vụ
- Khái quát những vấn đề lý luận chung về nguồn nhân lực, chất lượng
nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực của tỉnh Bo Ly Khăm
Xay từ năm 2006 đến nay.
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bo Ly Khăm Xay thời gian tới.
4. Ðối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Ðối tượng nghiên cứu: số lượng, chất lượng, cơ cấu của nguồn
nhân lực, vai trò đối với phát triển kinh tế - xã hội, các nhân tố ảnh hưởng đến
sự vận động và phát triển của nguồn nhân lực.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu thực trạng và vai trò
của nguồn nhân lực tỉnh Bo Ly Khăm Xay trong phát triển kinh tế - xã hội từ
năm 2006 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chính sách pháp luật của
nhà nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào về nguồn lực con ngưòi.

5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn: Luận văn kết hợp giữa
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử với phương pháp cơ bản: lơgíc với lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh,
điều tra xã hội học…


7
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Làm rõ thêm vai trò của nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã
hội trong điều kiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở nước Cộng hồ Dân chủ
Nhân dân Lào.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá nguồn nhân lực trên địa bàn tỉnh Bo Ly
Khăm Xay trong thời gian qua, rút ra được những thành tựu cũng như những
hạn chế và nguyên nhân.
- Ðề xuất một số phương hướng, giải pháp chủ yếu, đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bo Ly Khăm Xay trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực trong
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bo Ly Khăm Xay. Đồng thời là nguồn tài
liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng dạy về nguồn nhân lực trong trường
chính trị tỉnh Bo Ly Khăm Xay.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 6 tiết.


8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

1.1. KHÁI NIỆM NGUỒN NHÂN LỰC VÀ NGUỒN NHÂN LỰC TRONG
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

1.1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực
Trong những thập kỷ gần đây, cách mạng khoa học kỹ thuật đã phát triển
nhanh chưa từng thấy. Diện mạo của tồn xã hội, đất nước, con người trên quy
mơ tồn cầu đang có nhiều biến đổi một cách sâu sắc. Thực tế cũng đang chỉ ra
rằng, dù có những biến đổi sâu sắc đến đâu thì con người vẫn là vấn đề trung
tâm của mọi quá trình phát triển. Trong thời kỳ này thuật ngữ nguồn nhân lực
cũng đã xuất hiện và phổ biến rộng rãi. Nguồn nhân lực (Human Resouce) là
tổng thể các tiềm năng lao động của con người, của một vùng lãnh thổ, một địa
phương đã được chuẩn bị huy động vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước hoặc một vùng, một địa phương cụ thể.
Là nguồn lực con người, yếu tố quan trọng năng động nhất của sự phát
triển kinh tế - xã hội. Ở nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào thời gian gần
đây, thuật ngữ nguồn nhân lực xuất hiện khá phổ biến, tuy nhiên cho đến nay
vẫn cịn có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn nhân lực, tuỳ thuộc vào
phương diện của nguồn nhân lực được nhấn mạnh trong khi định nghĩa.
Trong lý thuyết phát triển, nguồn nhân lực được hiểu như nguồn lực
con người của một quốc gia, của vùng lãnh thổ, một ngành và là nguồn lực
của các bộ phận, có khả năng huy động để tham gia vào quá trình phát triển
kinh tế và xã hội như các nguồn lực vật chất, tài chính.
Dưới góc độ quản trị học, nguồn nhân lực được hiểu là nguồn nhân sự
và các vấn đề nhân sự trong một tổ chức cụ thể, nghĩa là toàn thể đội ngũ cán
bộ, công nhân viên của tổ chức với tư cách là khách thể trung tâm của nhà


9
quản trị, vừa là chủ thể của hoạt động và là động lực phát triển của các doanh
nghiệp nói riêng và tổ chức nói chung.

Như vậy, cách tiếp cận theo lý thuyết phát triển thì nội hàm của nguồn
nhân lực rộng hơn, còn cách tiếp cận theo quản trị học thì nội hàm của nguồn
nhân lực được đề cập hẹp hơn và cụ thể hơn.
Theo quan niệm của Liên Hợp quốc thì: “nguồn nhân lực là tất cả
những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con
người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước”.
Theo quan điểm của Ngân hàng thế giới thì: nguồn nhân lực là tồn bộ
vốn của con người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… của mỗi
cá nhân…
Theo quan niệm của các nhà khoa học thuộc chương trình khoa học
-cơng nghệ cấp nhà nước: “Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của
sự phát triển kinh tế - xã hội” thì nguồn nhân lực được hiểu là dân số và chất
lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng
lực và phẩm chất, thái độ và phong cách làm việc [2, tr.328].
Ở Việt Nam: "Phát triển nguồn nhân lực" đã được các nhà khoa học
nêu ra khá nhiều trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Theo GS.VS.TS Phạm Minh Hạc đã cho rằng: phát triển nguồn nhân
lực được hiểu về cơ bản là gia tăng giá trị cho nguồn nhân lực trên các mặt
như đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, tâm hồn và thể lực; là cho nguồn nhân lực trở
thành nguồn lực người lao động có năng lực phẩm chất mới và cao, đáp ứng
được yêu cầu to lớn của sự phát triển kinh tế - xã hội [2, tr.285].
TS. Nguyễn Hữu Dũng cho rằng: phát triển nguồn lực con người được
hiểu là "quá trình làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực
ngày càng đáp ứng tốt hơi yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội" [3, tr.13].
Theo tác giả, quá trình này bao gồm sự phát triển về thể lực, trí lực,
khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tay nghề, tính năng động xã hội và


10
sức sáng tạo của con nguời. Trong đó, nền văn hố truyền thống, lịch sử dân

tộc góp phần quan trọng hun đúc lên bản lĩnh, ý chí của mỗi người.
Cịn ở nước Cơng hồ Dân chủ Nhân dân Lào cũng có nhiều nhà
nghiên cứu đã đưa ra khái niệm nguồn nhân lực. Theo tập thể tác giả của
Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước “Con người bộ tộc Lào mục
tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội”, Nghị quyết Trung ương
Đảng lần thứ IX của Đảng và Nhà nước Lào về nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm một lần; Đại hội Đảng bộ lần thứ V của tỉnh Bo Ly Khăm Xay
năm 2010-2015 thì: nước Cộng hồ Dân chủ Nhân dân Lào đã coi trọng,
“nguồn nhân lực được sở hữu là số dân và chất lượng con người gồm cả thể
chất, tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực phẩm chất, thái độ và phong cách
làm việc” [39, tr.18]. Khái niệm này đề cập khá đầy đủ về nguồn nhân lực nó
vừa mang tính tổng thể, nhưng cũng rất cụ thể và đặc biệt được đề cập về mặt
số lượng cũng như chất lượng của nguồn nhân lực là theo sáng kiến lãnh đạo
của Chủ tịch Kay Sỏn Phôm Vi Hản đã cho rằng Đảng Nhân dân cách mạng
Lào phải đột phá và đổi mới.
Đại hội lần thứ IX của Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã đề ra:
Nguồn lực là động lực của sự phát triển trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân
Lào, chúng ta phải quán triệt, nắm vững, chủ động, triển khai, cụ thế
hố chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của mình, do đó phải tập
trung sức lực tổ chức thực hiện có hiệu quả nhằm tạo bước 4 đột phá
trong việc phát triển thực tế của sự phát triển kinh tế - xã hội. Tính
thống nhất và tính đặc thù đó được biểu hiện trong quá trình biến
nguồn lực con người thành vốn con người [39, tr.20-21].
Ngoài các khái niệm về nguồn lực được nêu trên cịn có nhiều khái
niệm khác về nguồn nhân lực như nguồn nhân lực là một hệ thống các yếu tố
cả vật chất và tinh thần đã và đang có khả năng tạo ra sức mạnh cho sự phát
triển trong những điều kiện thích hợp…


11

Có thể thấy rằng, mặc dù có những tiếp cận khác nhau trong việc đưa
ra khái niệm nguồn nhân lực, song nhìn chung những khái niệm trên có sự
thống nhất với nhau, đó là nguồn nhân lực là nguồn lực con người. Nguồn
nhân lực là nguồn lực của mọi nguồn lực, là nội lực phát triển của tất cả các
quốc gia. Đó là nguồn lực có trí tuệ, có khả năng phục hồi, tự tái sinh và tự
phát triển, đồng thời vừa là chủ thể, vừa là khách thể của quá trình phát triển
kinh tế - xã hội.
Trên cơ sở các khái niệm nêu trên, có thể hiểu: “Nguồn nhân lực là
toàn bộ lực lượng lao động của một quốc gia, một địa phương
hay một lĩnh vực hoạt động, với những năng lực hoạt động thể
chất, tinh thần, trình độ nghề nghiệp, kỹ năng, kinh nghiệm và
phong cách, phẩm chất nhất định đang và sẽ tham gia vào quá
trình sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội”.
- Nội hàm của khái niệm này đề cập đến nhiều khía cạnh:
Một là, đề cập đến số lượng nguồn nhân lực. Nó bao gồm tồn bộ dân
cư có cơ thể phát triển bình thường, có khả năng lao động. Nó bao gồm những
người có việc làm và những người thất nghiệp. Nó là nguồn lực cung cấp sức
lao động cho xã hội. Những người không nằm trong lực lượng lao động bao
gồm: những người đang đi học, về hưu, quá ốm đau không làm việc được
hoặc không đi tìm việc nữa.
Hai là, nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng quyết định đến sự phát
triển kinh tế - xã hội, là khả năng lao động của xã hội. Nó cũng là đối tượng
của phát triển kinh tế - xã hội.
Ba là, nguồn nhân lực được đề cập nó bao gồm tổng hợp các cá nhân
cụ thể, mối quan hệ giữa các cá nhân trong quá trình lao động, là tổng thể các
yếu tố về vật chất và tinh thần của các cá nhân được huy động vào quá trình
phát triển kinh tế - xã hội.


12

Bốn là, nguồn nhân lực có sự khác biệt với các nguồn lực vật chất
khác, nó là tổng thể các yếu tố tạo nên sức mạnh của con người và cộng đồng
xã hội, nó bao gồm số lượng, chất lượng và cơ cấu dân số có thể huy động
vào quá trình sản xuất kinh doanh.
- Các chỉ tiêu đánh giá về nguồn nhân lực
Theo cách hiểu chung nhất, nguồn nhân lực được cấu thành bởi hai
yếu tố cơ bản là số lượng và chất lượng nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực
được xem xét đánh giá trên hai bình diện: số lượng, chất lượng con người,
bao gồm cả về thể chất lẫn tinh thần, sức khoẻ, năng lực, phẩm chất. Số lượng
và chất lượng quan hệ chặt chẽ với nhau tạo nên sức mạnh phát triển của
nguồn nhân lực. Một trong hai yếu tố đó mà khơng hợp lý, chất lượng con
người khơng cao thì vai trị của nguồn nhân lực sẽ bị hạn chế, ảnh hưởng
không tốt tới sự phát triển kinh tế - xã hội, số lượng không đủ đáp ứng yêu
cầu thì cũng gây cản trở cho phát triển kinh tế - xã hội.
Xây dựng phát triển nguồn nhân lực nói chung, nguồn nhân lực cho
phát triển kinh tế - xã hội nói riêng cần phải chú ý tồn diện đến các yếu tố
đó, cần phải phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng để có thể
đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Cụ thể là:
- Về số lượng nguồn nhân lực:
Số lượng nguồn nhân lực như trên đã được đề cập, là bộ phận dân số
trong độ tuổi lao động theo quy định của Luật Lao động và có khả năng tham
gia lao động. Số lượng là yếu tố quan trọng đầu tiên của nguồn nhân lực, nếu
một quốc gia khơng có số lượng đủ mức cần thiết thì không thể phát huy sức
mạnh của nguồn nhân lực, không thể đảm bảo cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy, trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực nhất thiết phải quan
tâm đến xây dựng và phát triển về số lượng nguồn nhân lực, lực lượng lao
động cho đất nước, phục vụ cho nhu cầu phát triển của xã hội.


13
Số lượng nguồn nhân lực không phải được xác định một cách tuỳ tiện,

theo hướng càng nhiều càng tốt và phát triển một cách tự phát mà phải dựa
trên quy mơ dân số, cơ cấu độ tuổi, giới tính và sự phân bố dân cư theo khu
vực, vùng lãnh thổ và định hướng phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển nguồn
nhân lực phải đảm bảo là tạo ra nguồn nhân lực với số lượng và chất lượng
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời đảm bảo
cho sự phát triển toàn diện của mỗi cá nhân.
Ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, số lượng nguồn nhân lực được
xác định bao gồm tổng số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động.
Nó bao gồm những người có việc làm và những người thất nghiệp nhưng
trong độ tuổi lao động. Số lượng nguồn nhân lực đóng vai trị vơ cùng quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Lào,
thì tính đến "hết năm 2010 dân số của cả nước là 6.256.197 triệu người, trong
đó dân số trong độ tuổi lao động là 652.000 người, nhìn chung dân số và số
người trong độ tuổi lao động tăng trong giai đoạn 2006-2010. Tuy nhiên, tốc
độ tăng dân số có xu hướng tăng dần qua các năm, xu thế sinh cũng tiếp tục
tăng và đã đạt được mức sinh thay thế" [29, tr.12]. Hiện nay, nước Cộng hồ
Dân chủ Nhân dân Lào có 135 trường dậy nghề, đào tạo được 79.128 người
so với tỷ lệ 15,14% trên một năm, đặc biệt năm 2010 người có việc làm là
556.661 người [28].
Như vậy, các chỉ tiêu về số lượng có quan hệ mật thiết với các chỉ tiêu
về quy mô dân số, cơ cấu dân số và tốc độ tăng dân số, chỉ tiêu về việc làm
của đất nước nói chung, của từng vùng, từng địa phương nói riêng.
Hiện nay nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào đang được thể hiện
hai người trong độ tuổi lao động mới phải nuôi một người, cơ cấu dân số này
vẫn được duy trì trong vài thập kỷ tới, nếu nước Lào có chính sách cơ cấu dân
số hợp lý. Đây là cơ cấu rất thuận lợi cho việc phát triển nguồn nhân lực cả
chất lượng và số lượng. Tuy nhiên, ở nước Lào hiện nay vấn đề việc làm là



14
một trong những vấn đề còn nhiều phức tạp và không dễ giải quyết, đặc biệt
trong điều kiện nền kinh tế tồn cầu nói chung và của nước Lào nói riêng
đang gặp những bất lợi.
- Về chất lượng nguồn nhân lực:
Chất lượng nguồn nhân lực là một trong những phạm trù có nội dung
rộng lớn, nói lên trình độ tồn diện của nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn
nhân lực là nói lên năng lực thể chất và năng lực tinh thần, trình độ chun
mơn của các thành viên cấu thành nguồn nhân lực của xã hội, đất nước và của
địa phương.
Theo Viện Chiến lược Phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong Báo
cáo nghiên cứu đề tài khoa học cấp bộ (2006) về: Nguồn nhân lực chất lượng
cao. Hiện trạng phát triển, sử dụng và các giải pháp tăng cường thì chất lượng
nguồn nhân lực là tổng thể năng lực về trí lực, thể lực và khí chất (khí lực)
của một tập hợp nhóm nhiều người trong mối tương quan với khả năng đáp
ứng yêu cầu phát triển bản thân con người và phát triển kinh tế - xã hội.
Những khả năng này được hình thành và phát triển thông qua giáo dục - đào
tạo nghề nghiệp, chăm sóc sức khoẻ và q trình lao động.
Như vậy, có thể thấy rằng, chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện
thông qua một số nội dung chủ yếu như: thể lực, trí lực, văn hố, vật chất,
trình độ chun mơn, phẩm chất, năng lực. Do đó, xét chất lượng nguồn
nhân lực không thể không xét đến những điều kiện phát triển con người
như: Đảm bảo dinh dưỡng, chăm sóc sức khoẻ, giáo dục - đào tạo, lao động
và việc làm gắn với tiến bộ kỹ thuật, trả công lao động và các mối quan hệ
xã hội khác.
Thời gian gần đây, ở Cộng hồ Dân chủ Nhân dân Lào cịn xuất hiện
thuật ngữ nguồn nhân lực chất lượng cao, "nó thường được hiểu là nguồn
nhân lực được đào tạo một cách căn bản, có hệ thống, có khả năng tiếp thu,
ứng dụng và sáng tạo, phát minh ra những tri thức khoa học mới, đáp ứng tốt,



15
đảm nhiệm xuất sắc yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trên các lĩnh vực". Về mặt hình
thức nếu xét về bằng cấp thì nguồn nhân lực chất lượng cao bao gồm những
người được đào tạo một cách bài bản, có hệ thống và có bằng cấp. Tuy nhiên
trên thực tế khơng phải tất cả những người có bằng cấp cao đều được coi là
lao động chất lượng cao [24, tr.12].
Chất lượng nguồn nhân lực thường được đề cập dưới các khía cạnh sau:
Một là, thể lực hay năng lực, thể chất của nguồn nhân lực.
Đây là tiêu chí quan trọng đầu tiên về chất lượng nguồn nhân lực.
Tiêu chí về thể lực là tiêu chí phản ánh về tình trạng sức khoẻ của con
người, của dân cư, đó là trạng thái thoải mái về thể chất lẫn tinh thần và xã
hội của con người. Tiêu chí về tình trạng sức khoẻ của con người, của dân cư
là vấn đề rất quan trọng trong chất lượng nguồn nhân lực.
Các tiêu chí cơ bản phản ánh sức khoẻ gồm: Thể lực, chiều cao, cân
nặng, bệnh tật, tuổi thọ. Sức khoẻ là nhân tố tác động trực tiếp đến cả số
lượng và chất lượng nguồn nhân lực. Người lao động có sức khoẻ tốt có thể
mang lại lợi ích kinh tế - xã hội nhiều hơn nhờ việc huy động sức mạnh, sự
bền bỉ, dẻo dai và tập trung trí tuệ cao trong khi thực hiện công việc. Nếu sức
khoẻ không tốt, không đáp ứng u cầu thì đó là chất lượng nguồn nhân lực
thấp, khơng đáp ứng u cầu của q trình phát triển kinh tế - xã hội. Yếu tố
thể lực được hình thành và phát triển bằng con đường di truyền (giống nịi),
ni dưỡng và luyện tập, rèn luyện thân thể (thể dục, thể thao và các hoạt
động lao động sản xuất).
Trong những năm qua, mặc dù Đảng và Nhà nước Lào đã có nhiều
chính sách nhằm cải thiện tình trạng sức khoẻ của người dân như chính sách
tăng trưởng kinh tế, y tế, dân số, thể thao... song nhìn chung chất lượng dân
số, các yếu tố về thể lực con người rất thấp, đặc biệt cho đến nay vẫn có tới
1,33% dân số bị tàn tật với các mức độ khác nhau, có 6,88% dân số bị thiểu
năng về trí tuệ, khơng đủ khả năng tự sinh hoạt và nuôi sống bản thân. Trẻ vị



16
thành niên không chỉ thấp bé, nhẹ cân mà yếu cả về sức mạnh và cơ bắp...
Đây là những vấn đề hết sức hạn chế của nguồn nhân lực nước Cộng hoà Dân
chủ Nhân dân Lào.
Chỉ số phát triển con người cũng là một tiêu chí quan trọng để đánh
giá chất lượng nguồn nhân lực. Chỉ số tổng hợp nhất là chỉ số phát triển con
người (Human Development Index - HDI), được xác định từ 3 chỉ tiêu: tuổi
thọ (tính từ khi sinh ra), trình độ giáo dục (tính tổng hợp theo tỷ lệ biết chữ của
người lớn và cả tỷ lệ đi học tiểu học,trung học, đại học), mức sống (đo bằng giá
trị GDP tính bình qn đầu người thực tế theo sức mua tương đương).
Hai là, trí lực, được biểu hiện ở trình độ học vấn, trình độ chun
mơn kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp.
Tiêu chí về trí lực biểu hiện ở trình độ học vấn, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, chuyên môn kỹ thuật của người lao động là tiêu chí rất quan trọng
đánh giá về chất lượng nguồn nhân lực.
Như vậy, yếu tố trí lực được hình thành và phát triển thơng qua con
đường giáo dục - đào tạo, kinh nghiệm và thực tế lao động sản xuất. Các
tiêu chí cụ thể biểu hiện trình độ học vấn của người lao động là tiêu chí
quan trọng phản ánh chất lượng nguồn nhân lực. Đó là sự hiểu biết của
người lao động đối với những kiến thức về tự nhiên, xã hội, trình độ học
vấn được thể hiện bằng sự biết chữ, trình độ học vấn theo nhóm tuổi, theo
các cấp trong giáo dục phổ thơng, giáo dục nghề nghiệp của từng quốc gia
và của từng địa phương. Trình độ chun mơn kỹ thuật là sự hiểu biết các
kỹ năng thực hành về chuyên môn kỹ thuật và nghiệp vụ nào đó của người
lao động, đó là năng lực nắm bắt và vận dụng khoa học - kỹ thuật trong
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong đề án nghiên cứu cụ thể về giáo dục - đào tạo và phân tích
nguồn nhân lực Lào do UNESCO, UNDP và Bộ Giáo dục - Thể thao thực

hiện đã phân loại trình độ chun mơn kỹ thuật như sau: Trên đại học, đại học


17
và cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật có bằng, cơng nhân
kỹ thuật khơng có bằng. Sự phân chia này góp phần cho thấy, chất lượng cụ
thể của nguồn nhân lực, cho chúng ta dễ dàng nhận diện được thực trạng
nguồn nhân lực. Đó là sự phân loại trình độ chun mơn kỹ thuật của người
lao động phù hợp với thực tiễn phát triển nguồn nhân lực của Lào.
Nếu xét về trình độ làm việc có thể chia nguồn nhân lực thành 3 bậc:
Thứ nhất, nhân lực làm việc ở mức độ bậc cao trong các ngành nghề
như lao động quản lý, chuyên gia, nhà nghiên cứu.
Thứ hai, nhân lực làm việc ở mức độ lao động bậc trung trong các
ngành nghề như lao động kỹ thuật, lao động làm cơng việc vận hành máy
móc, thiết bị, sửa chữa.
Thứ ba, nhân lực làm việc ở mức độ lao động bậc thấp trong các
ngành nghề như nhân viên tạp vụ, phục vụ...
Thời gian qua, nhờ chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn của
Đảng và Nhà nước Cộng hồ Dân chủ Nhân dân Lào nên trí lực của người
dân Lào được nâng lên đáng kể.
Tính đến hết năm 2010, có 17/17 tỉnh, cả nước được cơng nhận đạt
chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học. Bình quân tuyển mới khối cao đẳng và
đại học giai đoạn 2005-2010 tăng 13,21%/năm. Công tác giáo dục
chuyên nghiệp và đào tạo nghề phát triển mạnh mẽ, số lượng tuyển mới
tiếp tục tăng, bình quân tuyển mới khối trung cấp chuyên nghiệp giai
đoạn này tăng 13,21%/năm, trong 5 năm tuyển mới và dạy nghề khoảng
122.026 người. Chất lượng học sinh tốt nghiệp trường dạy nghề từng
bước đáp ứng với yêu cầu của thị trường lao động, khoảng 2,23% học
sinh tìm được việc làm đúng ngành nghề đào tạo sau khi ra trường. Tỷ
lệ lao động đang làm việc qua đào tạo tăng khá, năm 2010 có tới 1,33%

lao động qua đào tạo, tỷ lệ tăng lao động một năm là 2,23%. Và so với
công trình lao động 5 năm là tăng lên 6,88%... [27, tr.60].


18
Tuy nhiên, công tác giáo dục - đào tạo của nước Cộng hồ Dân chủ
Nhân dân Lào cịn nhiều hạn chế như: tỷ trọng đào tạo sơ cấp và ngắn hạn
chiếm trên 80%. Cơ cấu lực lượng lao động được đào tạo còn bất hợp lý. Điều
này thấy rõ, nếu đem so sánh cơ cấu đào tạo của Lào với cơ cấu đào tạo (được
coi là hợp lý) của một số nước khác thì có sự khác biệt rất lớn. Chẳng hạn
ngành nông nghiệp chiếm tới 73%, công nghiệp - xây dựng chiếm 9,3% và
dịch vụ chiếm 16,9%. Trong đó tổng số lực lượng lao động nhưng chỉ chiếm
gần 15,14% số người được đào tạo. Công tác giáo dục - đào tạo chưa gắn kết
chặt chẽ giữa đào tạo và sử dụng lao động. Nhìn chung tỷ lệ lao động được
đào tạo của nước Lào còn thấp hơn so với một số nước trong khu vực như
Việt Nam, Malaixia, Thái Lan... Trầm trọng hơn, trình độ chun mơn kỹ
thuật giữa khu vực thành thị và khu vực nơng thơn có sự chênh lệch rất lớn.
Đặc biệt ở các tỉnh miền núi, các nơng - lâm trường, trình độ văn hố, trình độ
kỹ thuật của cơng nhân thấp hơn nhiều so với các nơi khác.
Ba là, phẩm chất đạo đức, phong cách, truyền thống văn hoá của
nguồn nhân lực và những kỹ năng mềm của nguồn nhân lực.
Tiêu chí này bao gồm: Tập quán, thói quen, phong cách, đạo đức, lối
sống, truyền thống, văn hố dân tộc có ảnh hưởng lớn đến tác phong lao động,
ý thức chấp hành kỷ luật lao động, tinh thần thái độ trong cơng việc, nó có thể
hàm chứa cả ý thức dân tộc.
Ở Cộng hồ Dân chủ Nhân dân Lào do đặc điểm của điều kiện tự
nhiên, đặc điểm phát triển sản xuất kinh doanh nên tác phong làm việc vẫn
còn mang nặng lao động nơng nghiệp, tác phong làm việc cơng nghiệp cịn
nhiều hạn chế. Đại bộ phận người lao động hiện nay của Lào chưa được đào
tạo về kỷ luật lao động công nghiệp. Phần lớn trong số họ là lao động xuất

thân từ nơng nghiệp hoặc nơng thơn, cịn mang nặng tác phong sản xuất của
một nền nông nghiệp tiểu nông, tuỳ tiện về giờ giấc và hành vi. Người lao
động chưa được trang bị các kiến thức và kỹ năng làm việc theo nhóm, khơng


19
có khả năng hợp tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát huy sáng kiến và chia sẻ
kinh nghiệm làm việc. Điều này có thể thấy rất rõ ở các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngồi phải mất hàng tháng chỉ để đào tạo tác phong lao động cho
công nhân mới được tuyển. Nhiều vụ việc đình cơng hoặc mâu thuẫn chủ thợ tại các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi có nguồn gốc ban đầu từ
những vụ vi phạm kỷ luật lao động, từ ý thức kỷ luật lao động kém của bản
thân người lao động...
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, công tác tuyên truyền, quản lý
lao động được tăng cường, đặc biệt là sức ép cạnh tranh của thị trường lao
động nên sự hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật của người lao động đã
được nâng lên. Thói quen làm việc tuân thủ nhưng quy định, có kỷ luật đã có
bước tiến bộ, đặc biệt trong các doanh nghiệp có quy mơ lớn. Trong những
năm qua, các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp và cộng đồng xã hội đã
tăng cường đào tạo kỹ năng mềm cho người lao động. Có thể nói rằng, chất
lượng nguồn nhân lực của Lào ngày càng được nâng cao, có thể thích ứng tốt
với u cầu cơng việc.
Tất cả những yếu tố này góp phần khơng nhỏ tạo nên hành vi, thái độ
của nguồn nhân lực trong hoạt động và điều đó tác động ảnh hưởng không
nhỏ đến nguồn nhân lực.
Trong các nhân tố cấu thành chất lượng nguồn nhân lực thì thể lực là
nền tảng, là cơ sở để phát triển trí tuệ, là phương tiện để chuyển tải tri thức
của con người vào thực tiễn, trí tuệ, trình độ học vấn là yếu tố quan trọng nhất
quyết định đến chất lượng nguồn nhân lực vì nó khơng chỉ là cơ sở để đào tạo
chất lượng kỹ năng nghề nghiệp, mà còn là yếu tố hình thành nhân cách và lối
sống của mỗi con người. Tất cả yếu tố đó tạo thành vốn con người, vốn nguồn

nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực. Các tiêu chí về chất lượng và số lượng
có quan hệ mật thiết với nhau hợp nên tính chỉnh thể thống nhất của nguồn


20
nhân lực. Các tiêu chí này tốt sẽ đảm bảo sự phát triển hợp lý, hài hoà và tất
nhiên sẽ tạo ra nguồn nhân lực mạnh.
- Về cơ cấu nguồn nhân lực:
Cơ cấu nguồn nhân lực thể hiện như tỷ lệ nam/nữ trong tổng lực lượng
lao động, cơ cấu đào tạo, cơ cấu lao động trong các ngành nghề, lĩnh vực, cơ
cấu lứa tuổi trong tổng lực lượng lao động... Cơ cấu lao động là yếu tố quyết
định đến phát triển bền vững nguồn nhân lực. Nếu một quốc gia có cơ cấu lao
động hợp lý sẽ tạo điều kiện cho phát triển nguồn nhân lực và có khả năng
thực hiện được mục tiêu toàn dụng lao động, nếu cơ cấu lao động bất hợp lý
sẽ hạn chế phát triển nguồn nhân lực và tất nhiên sẽ gây ra lãng phí nguồn
nhân lực.
Mỗi thời kỳ khác nhau, mỗi lĩnh vực, mỗi địa phương khác nhau thì
yêu cầu về các tiêu chí của nguồn nhân lực cũng khác nhau. Trong quá trình
đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, việc cụ thể hoá các nội dung số lượng, chất lượng
cho phù hợp là yêu cầu đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển nguồn
nhân lực của Lào cũng như của mỗi ngành, mỗi lĩnh vực, mỗi địa phương.
1.1.2. Vai trò của nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội
Con người có vai trị quyết định đối với mọi quá trình phát triển kinh
tế - xã hội. Trong lĩnh vực kinh tế và sản xuất, V.I Lênin đã khẳng định: Lực
lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại là công nhân, là người lao động.
Nghiên cứu các lĩnh vực hoạt động của con người, đặc biệt là hoạt động kinh
tế và tổ chức nhiều lý thuyết về quản lý đã rút ra kết luận: Quản lý cần hướng
về con người, chăm lo và phát triển nguồn tài nguyên quan trọng này để từ đó

tạo ra nội lực và ngoại lực phát triển mạnh mẽ thúc đẩy các tổ chức phát triển
nhanh và bền vững với hiệu suất cao. Tuy nhiên, cách thức tác động vào con
người, quản lý con người từ xưa đến nay vốn rất khác nhau. Điều này không


21
chỉ do bối cảnh của thời đại đòi hỏi mà cịn xuất phát từ những ngun nhân
quan trọng hơn, đó là quan điểm triết học và chính trị học của giai cấp cầm
quyền. Vì vậy muốn nhìn nhận đầy đủ và sâu sắc về nguồn nhân lực cần phải
xem xét một cách khách quan, khoa học và cơ bản có liên quan đến nó. Trước
hết là quan niệm về bản chất con người. C.Mác đã khẳng định: “trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hồ các mối quan hệ xã hội.
Quan hệ xã hội tạo nên tính người, chi phối mọi chức năng hoạt động và hành
vi của con người, nó phân biệt con người với tất cả các loại động vật khác”.
Con người vừa là chủ thể của lịch sử, chủ thể của những biến đổi về
kinh tế - xã hội, vừa là khách thể của nhiều bộ mơn khoa học khác nhau. Xét
từ góc độ hiệu quả hoạt động thì con người có liên quan tới các khía cạnh cụ
thể như: cá nhân, nhân lực, nguồn nhân lực, hiệu suất lao động xã hội. Với
những đặc điểm của con người nói chung và nguồn nhân lực nói riêng, như
vậy, có thể khái quát vai trò của nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã
hội ở một quốc gia như sau:
+ Nguồn nhân lực là nhân tố quyết định đến năng lực cạnh tranh của
quốc gia
Thực tiễn và lý luận đã chứng minh rằng, sự giàu có hay khả năng
cạnh tranh của một quốc gia ngày nay khơng cịn đơn thuần phụ thuộc vào sự
sẵn có của các nguồn tài nguyên thiên nhiên mà phần lớn phụ thuộc vào
nguồn nhân lực. Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) đã coi nguồn nhân lực chất
lượng cao là một trong tám nhân tố quan trọng xác định năng lực cạnh tranh
tổng thể của nền kinh tế. Hơn thế nữa nguồn nhân lực còn được (WEF) coi là
một nhân tố có trọng số lớn nhất, nghĩa là nhân tố quan trọng nhất trong tổng

số các nhân tố quy định năng lực cạnh tranh của một quốc gia.
Nguồn nhân lực không chỉ đơn thuần là một trong những nguồn lực
sản xuất mà cịn là nguồn lực có khả năng quyết định việc tổ chức, sử dụng
các nguồn lực khác, là chủ thể quyết định của tất cả các hoạt động sản xuất


22
kinh doanh. Các nguồn lực tự nhiên chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng nếu
khơng có con người khai thác trong q trình lao động thì sẽ trở thành vơ
dụng. Chỉ có con người mới có khả năng nhận biết được các quy luật của tự
nhiên, quy luật kinh tế, quy luật sản xuất kinh doanh, quy luật phát triển kinh
tế - xã hội... Quan trọng hơn, nguồn nhân lực biết vận dụng một cách sáng tạo
các quy luật này trong hoạt động kinh tế - xã hội để sử dụng một cách có hiệu
quả các nguồn lực khác.
+ Nguồn nhân lực đóng vai trị quyết định đến tăng trưởng kinh tế
Trong ba nhân tố chủ yếu của tăng trưởng là lao động, vốn, tài
nguyên thì yếu tố lao động với tri thức cơng nghệ cao đóng vai trị quyết
định nhất đến tăng trưởng kinh tế. Vốn là yếu tố vật chất đầu vào quan
trọng, có tác động trực tiếp tới tăng trưởng kinh tế. Vốn sản xuất có liên
quan trực tiếp tới tăng trưởng kinh tế là vốn vật chất, nó là tồn bộ tư liệu
vật chất được tích trữ lại của nền kinh tế, bao gồm: nhà máy, thiết bị, máy
móc, nhà xưởng và các trang thiết bị được sử dụng như yếu tố đầu vào của
quá trình sản xuất. Vai trò của vốn đối với tăng trưởng kinh tế được các nhà
kinh tế đánh giá khá cao. Tuy nhiên nó chủ yếu thể hiện tính chất tăng
trưởng theo chiều rộng.
Lao động là yếu tố đầu vào không thể thiếu của quá trình sản xuất, là
yếu tố đặc biệt quan trọng. Trước đây, người ta chỉ quan niệm lao động là yếu
tố đầu vào giống như vốn, được xác định bằng số lao động của mỗi quốc gia
và được tính bằng đầu người hay thời gian lao động. Nhưng trong mơ hình
tăng trưởng hiện đại gần đây đã nhấn mạnh đến khía cạnh phi vật chất của lao

động gọi là vốn con người, đó là lao động có kỹ năng sản xuất, lao động có
thể vận hành máy móc phức tạp, lao động có sáng kiến và phương pháp mới
trong hoạt động kinh tế. "Trong 5 năm sự đóng góp vốn trong nước và ngồi
nước là 1.022 cơng trình, đạt được 11,01 tỷ USD; trong nước là 2,2 tỷ USD.
Trong đó là tiền vốn của nhà máy thuỷ điện là 3,44 tỷ USD đã chiếm 31,24%,


23
tiền vốn của mỏ quặng là 2,88 tỷ USD và chiếm 25,85%, tiền vốn của dịch vụ
là 1,48 tỷ USD và chiếm 13,44% và tiền các cơng trình vốn khác… là đạt
được 29,15%" [29, tr.20, 62].


24
Bảng 1.1: Tỷ lệ đầu tư vốn của các công trình nhân tố đầu vào tăng
trưởng nội bộ trong nước và nước ngoài năm 2005-2010
Đơn vị: %
Tiểu tiết
Năm
Tổng số đầu tư

Tổng số đầu tư tất cả
USD

Sự đầu tư nội bộ
trong nước USD

Sự đầu tư của
nước ngồi USD


11,01

2,2

8,81

2005-2006

2,70

0,4

2,3

2006-2007

1,14

0,2

0,94

2007-2008

1,22

0,3

0,92


2008-2009

4,31

0,9

3,41

2009-2010

1,64

0,3

1,34

Tỷ trọng đóng góp vốn các nhân tố đầu vào của ngành đối với tăng
trưởng GDP: % USD
Tống số vốn đầu tư

11,01

99,68%

Đóng góp vốn đầu tư của nhà máy thuỷ điện

3,44

31,24%


Đóng góp vốn đầu tư của mỏ quặng

2,88

25,85%

Đóng góp vốn đầu tư của dịch vụ

1,48

13,44%

Đóng góp vốn đầu tư của các cơng trình khác

3,21

29,15%

Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Bảng 1.2: Tỷ trọng đóng góp vốn các nhân tố đầu vào của ngành đối với
tăng trưởng GDP: vốn, lao động, tài nguyên, nhân tố tổng hợp
Đơn vị: %
Giai đoạn
2000 - 2005

Giai đoạn
2005 - 2010

Giai đoạn 2010
- 2013


Đóng góp của vốn

31,1

32,6

29,9

Đóng góp của lao động

29,02

31,35

33.24

Đóng góp của tài nguyên, nhân tố
tổng hợp

15,41

22,4

25,1

Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Tiến bộ công nghệ là yếu tố tác động ngày càng mạnh đến tăng trưởng
kinh tế. Yếu tố công nghệ được thể hiện dưới dạng những thành tựu kiến thức,
tức là nắm bắt kiến thức khoa học, nghiên cứu đưa ra các nguyên lý, thử



25
nghiệm về cải tiến sản phẩm, quy trình cơng nghệ hay thiết bị kỹ thuật, sự áp
dụng phổ biến các kết quả nghiên cứu, thử nghiệm vào thực tế nhằm nâng cao
trình độ phát triển chung của sản xuất. Vai trị của cơng nghệ đã được đánh
giá rất cao đối với tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, khoa học công nghệ cũng
do con người tạo ra.
Tài nguyên cũng là nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Trước
kia các nhà kinh tế đã đánh giá rất cao vai trò của yếu tố đầu vào này. Tuy
nhiên, hiện nay các mơ hình tăng trưởng kinh tế hiện đại khơng nói đến nhân
tố tài nguyên với tư cách là một biến số của hàm tăng trưởng. Mặc dù vậy, tài
nguyên vẫn là nhân tố không thể thiếu được trong tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế còn phải chịu ảnh hưởng của các nhân tố khác
như sự ổn định chính trị - xã hội, sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật, chất
lượng kết cấu hạ tầng...
Tóm lại, trong các nhân tố làm tăng trưởng kinh tế thì nguồn nhân lực
là yếu tố quan trọng, quyết định nhất.
Thực tế cho thấy, nhiều quốc gia rất nghèo về tài nguyên nhưng đất
nước lại rất phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, trong khi nhiều quốc gia
khác có nguồn tài nguyên dồi rào như I-Rắc, Cô-oét và các nước Châu phi
nhưng kinh tế - xã hội lại phát triển rất chậm. Sở dĩ các quốc gia có sự phát
triển rất ngoạn mục vì họ có nguồn nhân lực chất lượng cao. Qua đó cho thấy,
nguồn nhân lực với tư cách là một trong những nguồn lực sản xuất, có vai trị
quan trọng nhất trong tất cả các nguồn lực.
Thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường
Trên phương diện toàn xã hội, với tư cách là một bộ phận của dân số,
nguồn nhân lực là đối tượng tham gia tiêu dùng các sản phẩm hàng hố, dịch
vụ đầu ra của q trình sản xuất. Nó là đối tượng của sản xuất kinh doanh, tất
cả quá trình sản xuất kinh doanh đều hướng vào con người, nó là một trong

những động lực kích thích, thúc đẩy sản xuất phát triển, là một thị trường tiêu


×