Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Luận văn Nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Kon Tum pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (711.81 KB, 101 trang )





1




Luận văn
Nguồn nhân lực cho phát
triển kinh tế - xã hội ở tỉnh
Kon Tum




2
Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, NNL là nhân
tố trung tâm, có vai trò quyết định đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
NNL vừa là nguồn lực to lớn, vừa là động lực tăng năng suất lao động, nâng
cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ, của doanh nghiệp và của toàn
bộ nền kinh tế, lại vừa là yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững; chỉ có NNL mới có khả năng tiếp thu và áp dụng tiến độ khoa học kỹ
thuật, công nghệ mới, công nghệ cao, sử dụng hiệu quả các nguồn lực vật chất
khác trong xã hội, trở thành lực lượng xung kích đi đầu trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập. Phát triển, phân bổ hợp lý và sử dụng
hiệu quả NNL trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là


một trong những giải pháp đột phá nhằm thực hiện thắng lợi chiến lược phát
triển cả ở cấp cơ sở, địa phương và cấp quốc gia, góp phần thực hiện chiến
lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tạo ra sự tăng trưởng bền vững của
Việt Nam trong thế kỷ XXI.
Là tỉnh nằm ở phía Bắc Tây Nguyên, tại ngã ba Đông Dương - giáp với
hai nước Lào và Campuchia, Kon Tum có vai trò quan trọng trong các cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trước đây cũng như trong
công cuộc xây dựng đất nước, phát triển kinh tế hiện nay.
Với cơ cấu dân số trẻ, lại giàu tiềm năng kinh tế rừng, môi trường và
sinh thái nhưng Kon Tum vẫn là một trong những tỉnh nghèo nhất cả nước.
Mặt bằng văn hóa và trình độ dân trí thấp, số người chưa biết chữ và chưa tốt
nghiệp tiểu học chiếm tỷ lệ cao (30,65%), phân bố dân cư và NNL chưa phù
hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội (tỷ lệ lao động trong nông nghiệp
là 77,21%, công nghiệp xây dưng là 6,39% và thương mại - dịch vụ là




3
16,387%). Khả năng áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn
nhiều hạn chế, tỷ lệ lao động qua đào tạo mới chỉ đạt 21%, sản xuất hàng hóa
chưa phát triển, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn [8].
Do vậy, việc phát triển NNL đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho người dân, sớm đưa khoa học công nghệ vào trong
sản xuất, nâng cao hiệu quả, tạo ra năng lực cạnh tranh, thúc đẩy nhanh quá
trình phát triển kinh tế - xã hội, góp phần ổn định chính trị - xã hội đang là
vấn đề cấp thiết đối với tỉnh Kon Tum hiện nay.
Cho nên, vấn đề " Nguồn nhõn lực cho phỏt triển kinh tế - xó hội ở
tỉnh Kon Tum " được chọn làm đề tài luận văn tốt nghiệp Cao học kinh tế
chuyên ngành Kinh tế chính trị.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề NNL và vai trò của NNL cho phát triển kinh tế - xã hội đã được
nhiều công trình, bài viết đăng tải- tiêu biểu như:
- “Nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt
Nam”, TS. Đoàn Văn Khái (2005), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
- “Vấn đề phát triển con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá”, Phạm Minh Hạc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội -1996.
- " Sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta", Trần Kim Hải, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh,1999.
- “Xây dựng nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thành
phố Đà Nẵng”, Vương Quốc Được, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,1999.
- " Nguồn nhân lực cho công nghiệp, hóa hiện đại hóa ở tỉnh Đắk
Nông", Đinh Khắc Đính, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, 2007.




4
Ngoài ra, cũng có nhiều bài viết đăng trên nhiều tạp chí đề cập đến
NNL cho phát triển kinh tế - xã hội, nhưng nhìn chung, các công trình nghiên
cứu đã được công bố đó, chủ yếu chỉ đề cập đến NNL chất lượng cao cho các
khu công nghiệp, các thành phố lớn,… và do vậy việc nghiên cứu vấn đề "
NNL cho phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Kon Tum " trên phương diện kinh
tế chính trị như đề tài luận văn đã nêu là không trùng lắp.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Đề ra phương hướng và giải pháp chủ yếu phát triển NNL đáp ứng yêu

cầu phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Kon Tum.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn vai trò của NNL cho phát triển
kinh tế- xã hội của một địa phương miền núi Tây nguyên.
- Trên cơ sở phân tích thực trạng NNL của tỉnh Kon - Tum thời gian
qua, luận văn đề xuất phương hướng và giải pháp phát triển NNL cho phát
triển kinh tế- xã hội ở tỉnh Kon Tum trong giai đoạn đến 2015.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn chú trọng nghiên cứu vai trò, mối quan hệ giữa NNL với phát
triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Kon Tum.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu NNL Kon Tum giai đoạn từ 2001
đến nay và đề xuất các giải pháp cho giai đoạn đến năm 2015.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên nền tảng của phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử, luận văn sử dụng các phương pháp chủ yếu, đặc trưng của kinh tế chính trị
học như: trừu tượng hóa khoa học, tổng hợp, phân tích, so sánh v.v




5
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn khái quát hóa đặc điểm NNL và vai trò của NNL cho phát
triển kinh tế - xã hội ở một tỉnh nghèo miền núi, từ đó đề xuất phương hướng,
giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội Kon Tum
từ nay đến 2010 và định hướng đến 2015.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn

gồm 3 chương, 9 tiết.























6




Chương 1

Lý luận chung về nguồn nhân lực cho phát triển
kinh tế - xã hội ở miền núi

1.1. Đặc điểm cơ bản của nguồn nhân lực ở miền núi
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, NNL mà nòng
cốt là đội ngũ tri thức là nhân tố trung tâm có vai trò quyết định đối với sự
tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Do đó, việc nhận rõ nội dung, tính
chất, đặc điểm của sự phát triển và sử dụng hiệu quả NNL là vấn đề lý luận
đặc biệt quan trọng, vì thế NNL đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều
ngành khoa học khác nhau, và đã có nhiều phương cách khác nhau được sử
dụng để nâng cao chất lượng NNL phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội.
Theo Liên hợp quốc thì “NNL là tất cả những kiến thức, kỹ năng kinh
nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển
của mỗi cá nhân và của cả đất nước” [44, tr.8].
Theo Tổng cục thống kê Việt Nam, NNL gồm những người đủ 15 tuổi
trở lên có việc làm và những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao
động nhưng đang thất nghiệp, đang đi học, đang làm nội trợ trong gia đình
không có nhu cầu làm việc, những người thuộc các tình trạng khác như nghỉ
hưu trước tuổi [37].
Theo các tác giả của cuốn "Nguồn lực và động lực phát triển trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam" do GS. TSKH Lê
Du Phong chủ biên thì "Nguồn lực con người được hiểu là tổng hoà trong thể




7
thống nhất hữu cơ giữa năng lực xã hội của con người (thể lực, trí lực, nhân
cách) và tính năng động của con người. Tính thống nhất đó được thể hiện ở

quá trình biến nguồn lực con người thành vốn con người [34, tr.14 ].
Một số nhà khoa học tham gia đề tài, “Con người Việt Nam - mục tiêu
và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội” chương trình khoa học - công
nghệ cấp Nhà nước mã số KX - 07 do GS, TS KH Phạm Minh Hạc làm chủ
nhiệm thì cho rằng: “nguồn lực con người được hiểu là số dân và chất lượng
con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và
phẩm chất” [17, tr.328]. Còn gần đây, trong dịp gặp gỡ các nhà doanh nghiệp,
các nhà khoa học - công nghệ các tỉnh, thành phố phía Bắc nguyên Thủ tướng
Phan Văn Khải đã khẳng định: "Nguồn lực con người bao gồm cả sức lao
động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống của dân tộc ta” [22].
Tiến sỹ Đoàn Văn Khái lại cho rằng trong thực tế, khái niệm “nguồn
nhân lực” ngoài nghĩa rộng như “nguồn lực con người”, thường còn hiểu theo
nghĩa hẹp là nguồn lao động, có khi còn được hiểu là lực lượng lao động.
Khái niệm “tài nguyên con người” được sử dụng với ý nghĩa nhấn mạnh
phương diện khách thể của con người, coi con người như một nguồn tài nguyên,
một loại của cải quý giá cần được khai thác hơp lý, có hiệu quả, nhất là tiềm
năng trí tuệ, và cho rằng "Nguồn lực con người là khái niệm chỉ số dân, cơ cấu
dân số và nhất là chất lượng con người với tất cả đặc điểm và sức mạnh của nó
trong sự phát triển xã hội” [7, tr.260].
Theo quan điểm của một số nhà khoa học khác thì nguồn nhân lực được
xem là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất, tinh thần, sức
khỏe và trí tuệ, năng lực phẩm chất, thái độ và phong cách lao động.
Do có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nên NNL có nội hàm rất rộng,
nhưng có thể cụ thể hóa và phân loại các yếu tố cấu thành NNL theo các
nhóm sau đây:




8

- NNL trước hết gắn với con người- sức khỏe, trí tuệ, số lượng cùng với
các đặc trưng về chất lượng như trình độ văn hóa, kỹ thuật, kinh nghiệm nghề
nghiệp, thái độ và phong cách làm việc. Được biểu hiện ra là người lao động,
là lực lượng lao động, là nguồn lao động (đội ngũ lao động hiện có và sẽ có
trong tương lai gần). Từ khía cạnh này, có thể hiểu khai thác, sử dụng có hiệu
quả NNL trước tiên là tạo việc làm và khai thác hợp lý nguồn lao động. Đồng
thời khái niệm NNL cũng phản ánh quy mô dân số thông qua số lượng dân cư
và tốc độ tăng dân số của một nước trong một thời kỳ nhất định tham gia vào
phát triển kinh tế -xã hội .
- NNL có tính cụ thể- xác định cho một quốc gia, vùng lãnh thổ, địa
phương (tỉnh, thành phố …). Vì vậy, NNL bao giờ cũng mang sắc thái riêng, đặc
thù cho mỗi quốc gia, dân tộc đó nó, có tính lịch sử - cụ thể.
- NNL là phạm trù pháp lý, nó được phản ánh trên phương diện môi
trường pháp luật, thể chế và các chính sách tạo động lực để con người phát triển,
phát huy tài năng và sức sáng tạo của mình.
- NNL là phạm trù kinh tế, nó được xem xét với tư cách là một nguồn lực-
nội tại, cơ bản trong hệ thống các nguồn lực của sự phát triển xã hội. Là một
nguồn lực, như các nguồn lực khác (tài nguyên thiên nhiên, vốn, công nghệ…),
con người tạo ra sức mạnh và tham gia vào quá trình thúc đẩy sự phát triển của
một quốc gia, dân tộc. Song, khác với các nguồn lực khác ở chỗ, có nó, các
nguồn lực khác mới phát huy được tác dụng và có ý nghĩa tích cực đối với phát
triển xã hội, vì thế nó là nguồn lực xuất phát, khởi động của mọi nguồn lực phi
nhân lực.
Do con người là lực lượng sản xuất hàng đầu, là yếu tố quan trọng nhất,
quyết định sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất, quyết định quá
trình sản xuất nên nó quyết định năng suất lao động và tiến bộ xã hội. Trong
lý thuyết về tăng trưởng kinh tế, với tư cách là một yếu tố cơ bản của quá
trình sản xuất, một nguồn lực chủ yếu để phát triển kinh tế - xã hội, con người





9
còn được nhìn nhận như là một phương tiện chủ yếu, đảm bảo tốc độ tăng
trưởng sản xuất và dịch vụ.
- Trên phương diện xã hội, con người là tế bào xã hội, mọi sự phát triển
của xã hội trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa đều do con
người quyết định. Song con người chinh phục cải biến tự nhiên không phải
chỉ với tư cách là những cá nhân riêng lẻ, mà với tư cách là con người xã hội
là những thành viên trong cộng đồng xã hội. Do vậy, sự phát triển của con
người bao giờ cũng mang tính chỉnh thể, thống nhất, nhưng cũng hết sức phức
tạp và đa dạng. Chính sự phức tạp và đa dạng đó trong tiến trình phát triển
lịch sử xã hội đã tạo nên tính không đồng đều trong sự phát triển kinh tế - xã
hội ở các nước, các khu vực, các châu lục khác nhau. Điều này nó ảnh hưởng
đến các giá trị truyền thống, đạo lý xã hội của các quốc gia dân tộc, hình
thành nên bản sắc văn hóa, phong tục, tập quán, truyền thống… của mỗi vùng
lãnh thổ, mỗi nền kinh tế khác nhau.
- NNL hiện nay không thể tách rời với vấn đề quốc tế. Thực tế cho thấy
xu hướng toàn cầu hóa kinh tế đã lôi cuốn mọi quốc gia vào vòng xoáy của
nó, dù đó là quốc gia tiên tiến hay lạc hậu, phát triển hay chậm phát triển.
Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra những thời cơ và thách thức mới, ở đâu nắm được
thời cơ, vượt qua được thách thức sẽ phát triển nhanh hơn, ngược lại sẽ bị tụt
hậu xa hơn. Vì vậy, phát triển NNL phải đảm bảo có đủ khả năng thích nghi
được với xu thế thời đại, phát huy được tính tự tôn dân tộc, quyết tâm làm cho
đất nước phát triển, sánh vai với các nước trên thế giới.
Tuy có nhiều cách tiếp cận khác nhau, với những nội hàm khác nhau,
trên phương diện kinh tế chính trị và để đáp ứng yêu cầu luận văn thì NNL
được hiểu là tổng hòa thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao
động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm
lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra





10
của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của
đất nước.
1.1.2. Đặc điểm cơ bản của nguồn nhân lực ở miền núi
Thứ nhất, về quy mô.
Nguồn nhân lực ở miền núi có quy mô nhỏ, mật độ dân số thấp so với
mật độ dân số trung bình của cả nước. ở Tây Bắc 62 người/ km
2
, Tây Nguyên
68 người/km
2
, Đông Bắc 160 người/ km
2
. Năm 2004, trong tổng NNL của cả
nước vùng Tây Nguyên chiếm tỷ lệ 5,6%, Tây Bắc 3,2%,…nhưng ở miền núi
lại có tốc độ tăng dân số cao, ngoài việc tăng dân số tự nhiên thì ở khu vực
này dân số tăng về cơ học rất lớn. Đây vừa tiềm năng vừa là thách thức trong
quá trình phát triền triển kinh tế - xã hội trên địa bàn này.
Thứ hai, về cơ cấu.
Nguồn nhân lực miền núi bị quy định với cấu trúc dân tộc- nghĩa là
được phân bố theo hình thức cư trú dân tộc. Từ trong lịch sử, mỗi dân tộc đã
sớm tạo riêng cho mình một vùng cư trú. Phạm vi cư trú của từng dân tộc
không phân định theo ranh giới hành chính, thực tế đã cho thấy sự có mặt của
cư dân các thành phần dân tộc không ngừng thay đổi trên địa bàn và có sự đan
xen.
Ngoài ra, phân bố NNL theo ngành ở các vùng lãnh thổ chịu sự tác động

của cơ cấu kinh tế ngành và cơ cấu lao động của từng vùng. Chuyển dịch cơ
cấu lao động theo vùng lãnh thổ phụ thuộc vào định hướng xây dựng cơ cấu
ngành và đã được Nhà nước quan tâm, có những chính sách đầu tư phát triển.
Hiện nay, quá trình cơ cấu lại lao động theo ba nhóm ngành (nông- lâm- ngư
nghiệp, công nghiệp - xây dựng và dịch vụ) ở miền núi chậm hơn so với cả
nước và khu vực đồng bằng- điều đó được phản ánh ở cơ cấu lao động năm
2004 theo 3 nhóm ngành của các vùng như sau:




11
- ở vùng Tây Bắc, lao động nông, lâm, ngư nghiệp chiếm tỷ trọng rất
lớn với 85, 6%, trong khi lao động công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng rất
thấp 4% và lao động dịch vụ cũng có tỷ lệ thấp 10,4% [38, tr106]. Vùng
Tây Bắc đang nằm trong tình trạng cơ cấu lao động rất lạc hậu, các ngành
công nghiệp và dịch vụ phát triển chưa đáng kể, mức sống của dân cư thấp
hơn các vùng khác.
- Lao động nông nghiệp vùng Đông Bắc chiếm tỷ trọng lớn 75,8%, lao
động công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng thấp hơn 9,1%, và lao động lao
động dịch vụ chiếm tỷ trọng 15,1%.
- Cơ cấu lao động của vùng Đông Bắc cũng nằm trong tình trạng như vùng
Tây Bắc, các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ kém phát triển. Tăng
trưởng kinh tế thấp, các nguồn lực hạn chế (lao động lành nghề, vốn, hạ tầng cơ
sở…), nên chưa tạo được động lực cho phân công lại lao động.
- ở vùng Tây Nguyên, tỷ trọng lao động nông, lâm là 74,1%, lao động
công nghiệp và xây dựng 7,4%, lao động dịch vụ 18,5%- cơ cấu lao động
như vậy cũng rất lạc hậu.
Tỷ trọng lao động làm việc ở nông, lâm, ngư nghiệp ở các vùng này có
xu hướng giảm xuống, nhưng rất chậm, từ năm 1996 đến năm 2004 thì ở Tây

Nguyên giảm 6,3%, Tây Bắc giảm 5,1% [38, tr107]. Nguyên nhân là do các
điều kiện về địa lý, tự nhiên của các vùng này khó khăn, điểm xuất phát cho
quá trình CNH,HĐH thấp; các nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế
còn hạn hẹp: thiếu vốn, công nghệ, lao động chuyên môn kỹ thuật …; NNL
chất lượng thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH.
Thứ ba, về chất lượng nguồn nhân lực.
Tình trạng thể lực của NNL ở miền núi vẫn còn kém về chiều cao và cân
nặng so với đồng bằng, đặc biệt là tình trạng thiếu dinh dưỡng cũng như điều
kiện chăm sóc y tế còn nhiều hạn chế, đội ngũ y- bác sỹ vừa thiếu về số lượng




12
vừa yếu về chất lượng, cơ sở hạ tầng chưa được đảm bảo, đời sống văn hóa tinh
thần của các tầng lớp nhân dân còn nghèo nàn và còn nhiều bất cập.
Trình độ văn hóa của NNL ở miền núi thấp, số lao động chưa biết chữ ở
nước ta hiện nay chủ yếu tập trung ở khu vực này, cụ thể là: số người không biết
chữ ở Tây Bắc cao nhất là 20,0%, Tây Nguyên là 11,4% Đây chính là khó
khăn lớn trong khai thác tiềm năng giàu có của địa phương cho phát triển kinh tế
- xã hội và nâng cao mức sống của các tầng lớp dân cư.
Nhìn chung, chất lượng NNL ở miền núi là rất thấp, chưa đáp ứng được
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương đặc biệt là quá trình CNH,
HĐH. Mặc dù trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đầu tư,
xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho phát triển NNL này, nhưng hiện nay so với
các tỉnh đồng bằng, trình độ học vấn NNL ở miền núi còn rất thấp, tỷ lệ mù chữ
và tái mù chữ cao, trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề thấp, lực lượng lao
động tập trung chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp, ở nông thôn và hầu hết chưa
qua đào tạo. Bên cạnh đó, NNL ở miền núi, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số
ở đây còn chịu ảnh hưởng nặng của những tư tưởng, tâm lý, thói quen của người

sản xuất nhỏ và các phong tục tập quán cũ, lạc hậu. Đây cũng là nguyên nhân
trực tiếp ảnh hưởng đến quá trình phát triển NNL của địa phương.
Thứ tư, về nguồn gốc nguồn nhân lực.
Dân số ở miền núi thường rất thưa thớt, chủ yếu là đồng bào các dân
tộc thiểu số sống từ lâu đời trong vùng cư trú riêng, mối giao lưu giữa các dân
tộc với nhau còn rất hạn chế.
Sự gia tăng dân số về tự nhiên phổ biến là ở cộng đồng các dân tộc bản
địa sống nơi đây. Trước ngày đất nước giải phóng, đời sống kinh tế - xã hội
khép kín trong cộng đồng từng làng còn rất lạc hậu và thấp kém, do vậy tỷ lệ
sinh cũng nhiều nhưng tỷ lệ tử cũng cao. Đồng bào các dân tộc sinh đẻ một
cách tự do, số trẻ em tồn tại phát triển trưởng thành rất ít. Có nhiều nguyên




13
nhân làm tỷ lệ tử vong cao, nhưng có lẽ chính yếu nhất vẫn là do điều kiện tự
nhiên trước đây còn quá khắc nghiệt, gây ốm đau bệnh tật; trình độ kinh tế -
xã hội thấp kém… cũng ảnh hưởng nhất định đến sự gia tăng dân số tự nhiên
ở địa bàn này. Từ sau ngày giải phóng, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước ta đã dành sự quan tâm đặc biệt đối với đồng bào các dân tộc thiểu số.
Trong tình hình chung đó, các dân tộc ít người có sự phát triển, tăng lên
nhanh chóng. Sức khỏe người dân cũng được chăm sóc tốt hơn, hạn chế tỷ lệ
tử vong ở mức thấp nhất, nâng cao tỷ lệ sinh. Đặc biệt là chính sách dân số kế
hoạch hóa gia đình đã thực sự xâm nhập và phát huy tác dụng tích cực tạo sự
gia tăng dân số tự nhiên trong vùng đồng bào các dân tộc một cách hợp lý.
Sự gia tăng dân số cơ học được tăng nhanh từ sau ngày thống nhất. Do
thực hiện chính sách kinh tế mới của Đảng và Nhà nước ta nhằm phân bố hợp
lý lực lượng lao động giữa các vùng trong cả nước, đã tạo được động lực xây
dưng phát triển kinh tế – xã hội và an ninh quốc phòng ở miền núi nói riêng

và của cả nước nói chung.
Thứ năm, về tập quán dân cư.
Hoạt động kinh tế chủ yếu dựa trên phương thức sản xuất truyền thống.
Nguồn thu nhập chính cho người dân ở đây, đặc biệt là đồng bào các dân tộc
thiểu số chủ yếu từ nương rẩy, nghề thủ công… Các kỹ thuật sản xuất còn lạc
hậu, thành quả lao động thấp phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên.
Tín ngưỡng nông nghiệp đa thần, coi trọng việc thờ thần lúa là nét đặc
thù phổ biến. ở các dân tộc miền núi, đều có một quan niệm chung là trong
đời sống của họ có một lực lượng vô hình có ảnh hưởng quyết định đến đời
sống con người, lực lượng ấy được quy tụ ở khái niệm chung là Yàng (thần
linh). Người Bana tin rằng cuộc sống của họ bị chi phối bởi lực lượng siêu
nhiên, từ việc ốm đau đến việc sản xuất không phải tự thân con người mà do
thần linh ma quỷ quyết định. Trong các vị thần được đồng bào hay nhắc tới




14
phải kể đến thần sấm sét (BôkLaib) có hình dạng con dê xồm hoặc ông già hai
tay đầy lông lá ngủ suốt mùa khô, thức dậy khi mùa mưa tới, điều khiển mưa
thuận gió hòa, trừng trị những người loạn luân. Một vị thần quan trọng khác
là thần lúa (Yang Xri bang Yang Đai) chuyên ban phát lúa cho con người…
Nhìn chung phong tục tập quán của người dân ở đây mang đậm tính
truyền thống lạc hậu. Đặc biệt là đồng bào các dân tộc thiểu số sống trên địa
bàn miền núi có nền văn hóa rất đa dạng, phong phú và mang đậm bản sắc
dân tộc của mình, cho dù có sự giao thoa văn hóa giữa các dân tộc với nhau.
Tuy nhiên, do nhiều dân tộc cư trú ở những địa bàn xa xôi, hiểm trở, tách biệt,
không thuận lợi cho phát triển nên việc bảo lưu, giữ gìn bản sắc văn hóa của
các dân tộc, việc loại bỏ những phong tục tập quán cổ hủ, lạc hậu và việc tiếp
thu những giá trị mới, tiến bộ cũng gặp nhiều khó khăn.

1.1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực ở miền núi
Chất lượng nguồn nhân lực là một chỉ tiêu tổng hợp về con người, chịu
tác động tổng hòa của nhiều yếu tố, có những yếu tố thuộc về truyền thống, sự
vận động của xã hội nhưng chủ yếu là do quá trình giáo dục, đào tạo, việc
làm, thu nhập, năng suất lao động, quan hệ xã hội mà hình thành nên. Những
nhân tố tổng hợp chủ yếu ảnh hưởng đến nguồn nhân lực miền núi là:
Thứ nhất, tác động của sự phát triển kinh tế - xã hội đến chất lượng
nguồn nhân lực.
- Tác động này trước hết được thể hiện ở trình độ của nền kinh tế tác
động đến chất lượng NNL, vì đó là cơ sở để xác định tiền lương, thu nhập, cải
thiện mức sống và nâng cao dân trí của các tầng lớp dân cư cũng như người
lao động. Khi thu nhập được nâng cao các hộ gia đình mới cải thiện được chế
độ dinh dưỡng, mới có điều kiện tài chính để chi trả cho các dịch vụ giáo dục,
đào tạo, chăm sóc y tế. Do đó sức khoẻ, trình độ văn hoá, trình độ chuyên




15
môn kỹ thuật, các mối quan hệ xã hội của dân cư sẽ góp phần làm cho NNL
được nâng cao được cải thiện về mặt chất lượng.
Có thể lấy ví dụ điển hình là các nước có nền kinh tế đạt trình độ cao thì
tỷ lệ người đi học văn hoá, chuyên môn - kỹ thuật thường cao hơn các nước
có nền kinh tế trình độ thấp. Năm 1999, tỷ lệ học sinh được tuyển vào các
trường phổ thông trung học của một số nước có trình độ nền kinh tế phát triển
cao như: Hàn Quốc đạt 98%, Malaixia - 100%, Singapo - 100% trong khi
các nước có trình độ kinh tế phát triển thấp như Campuchia - 22%, Pa- Pua-
Niu Ghi-nê - 21%, Pakixtan -29% [38. tr54].
Ngoài ra, trong một nền kinh tế trình độ cao thì có cơ cấu kinh tế hợp lý
và sử dụng phần lớn công nghệ hiện đại, các thành tựu khoa học và công nghệ

hiện đại, được cập nhật đưa vào cuộc sống. Chính vì vậy, NNL của nền kinh
tế trình độ cao đa số là lao động qua đào tạo chuyên môn - kỹ thuật; hệ thống
giáo dục, đào tạo phải hướng tới không ngừng nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế.
- Tăng trưởng đầu tư tác động tới chất lượng NNL.
Tăng trưởng đầu tư vào nền sản xuất xã hội luôn có mối quan hệ với
tăng số việc làm cho NNL. Nếu với mức đầu tư cao cho các chỗ làm việc có
thu nhập cao, công nghệ hiện đại thì còn tăng được số lượng các chỗ làm việc
có thu nhập cao. Khi việc làm, thu nhập của người lao động đảm bảo và không
ngừng nâng cao thì tất nhiên có sự tác động tích cực đến đời sống vật chất, tinh
thần của dân cư và người lao động, do đó mà chất lượng NNL được nâng lên.
Ngoài ra, tăng trưởng đầu tư còn kéo theo sự đổi mới công nghệ và có
tác động tích cực đến chất lượng NNL. Sự phát triển kinh tế - xã hội với đặc
trưng là thực hiện quá trình đổi mới công nghệ sản xuất- kinh doanh và quản
lý từ đó bắt buộc Nhà nước, cơ quan, doanh nghiệp, hộ gia đình phải đầu tư
tài chính nhiều hơn vào việc nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn- kỹ thuật




16
cho NNL . Chỉ có như vậy, trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế cũng như trong
từng doanh nghiệp, cơ quan, hộ gia đình mới nâng cao được hiệu quả hoạt
động lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh, và người lao động mới có cơ
hội tìm được việc làm trên thị trường lao động theo mong muốn. Quá trình
này thực sự có mối quan hệ chặt chẻ với hoàn thiện và là động lực mạnh mẽ
thúc đẩy nâng cao chất lượng NNL quốc gia.
- Tác động của chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến chất lượng NNL.
Tăng trưởng và phát triển kinh tế có mối quan hệ mật thiết với thúc đẩy
quá trình phân công lại lao động theo ngành nghề ở phạm vi toàn bộ nền kinh

tế, từng vùng từng địa phương. Đây cũng là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo xu hướng tăng tỷ trọng GDP của các ngành công nghiệp - xây dựng và
dịch vụ, giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp. Đối với lao động thì chuyển
dịch cơ cấu kinh tế có tác động thúc đẩy tỷ trọng lao động trong ngành nông
nghiệp giảm xuống và tăng tỷ trọng lao động làm việc trong các ngành công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
- Tác động của tăng trưởng kinh tế đối với khả năng nâng cao đầu tư
của Chính phủ cho giáo dục, đào tạo.
Tăng trưởng kinh tế là cơ sở để Chính phủ các quốc gia nâng cao năng
lực tài chính để tăng đầu tư cho các chương trình mục tiêu về giáo dục, đào
tạo, chăm sóc sức khỏe y tế, phát triển hoạt động văn hóa, thể thao. Nhờ đó
mà quy mô giáo dục, đào tạo được mở rộng, chăm sóc sức khỏe dân cư và
người lao động được cải thiện, đời sống tinh thần được nâng cao. Các yếu tố
này có tác động tích cực đến trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật, sức khỏe
dân cư và người lao động được cải thiện, đời sống tinh thần được nâng cao.
Các yếu tố này có tác động tích cực đến trình độ học vấn, chuyên môn kỹ
thuật - kỹ thuật, sức khỏe của dân cư, người lao động và cũng có nghĩa là tác
động tích cực đến chất lượng NNL.




17
Đối với khu vực miền núi nói chung cũng như ở Kon Tum nói riêng,
xuất phát điểm kinh tế thấp, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, nhất
là vùng dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa. Sản xuất nông nghiệp là chủ yếu,
áp dụng khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất còn nhiều hạn chế. Tăng trưởng
kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật
nuôi chưa thích ứng kịp thời với nhu cầu của thị trường, sản phẩm của công
nghiệp chế biến phần lớn là sơ chế, sản phẩm thô, sức cạnh tranh trên thị

trường không cao. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm chưa đáp ứng được
nhu cầu đổi mới của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hiện nay, trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Kon Tum thì nông, lâm nghiệp
vẫn còn chiếm tỷ trọng cao; công nghiệp và xây dựng còn nhỏ bé, manh mún;
thương mại và dịch vụ chưa phát triển. Năm 2005 cơ cấu kinh tế của tỉnh là:
Nông nghiệp 77,21%; công nghiệp, xây dựng 6,39%; thương mại dịch vụ
16,38%; GDP bình quân đầu người đạt 289 USD. Tình hình kinh tế đó là
nhân tố tác động hạn chế đến sự phát triển nguồn nhân lực của Kon Tum, làm
cho nó thiếu về số lượng, thấp về chất lượng so với yêu cầu của CNH, HĐH.
Thứ hai, tác động của tình trạng dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe đến
chất lượng NNL.
Dinh dưỡng cần thiết cho con người, gồm rất nhiều yếu tố từ lương thực,
thực phẩm mà cơ thể cần hấp thụ để duy trì sức khỏe tốt cho các lứa tuổi khác
nhau. Thiếu dinh dưỡng của các hộ gia đình là do nguồn lực tài chính hạn
hẹp, ăn uống thiếu hợp lý dẫn đến thiếu các chất lipit, protein, gluxit, các vi
chất dinh dưỡng khác. Thiếu dinh dưỡng dẫn đến thể trạng ốm yếu, khả năng
miễn dịch kém, dễ mắc các bệnh truyền nhiễm, suy giảm nghiêm trọng khă
năng làm việc và tác động tiêu cực đến chất lương NNL.
Suy dinhh dưỡng của bà mẹ trong thời kỳ mang thai; sự thiếu thốn
lương thực, thực phẩm trong thời kỳ sinh nở và lúc nuôi con nhỏ đều là nguy




18
cơ bệnh tật và sự khiếm khuyết trong quá trình phát triển thể lực và tinh thần
của trẻ em, ảnh hưởng đến khả năng học tập, khả năng làm việc của NNL
tương lai.
Đối với các nước nghèo thường lâm vào cái vòng luẫn quẫn là: Đói
nghèo => suy dinh dưỡng => ít cơ hội việc làm => năng suất lao động thấp

=> đói nghèo.
Rõ ràng, tình trạng suy dinh dưỡng thường là vấn đề của người nghèo.
Nghèo đói và chất lượng NNL thấp luôn có mối quan hệ cùng chiều và có sự
tác động qua lại lẫn nhau. Do đó để nâng cao chất lượng NNL cần phải giảm
đói nghèo, nâng cao đời sống cho nhân dân.
- Ngoài vấn đề dinh dưỡng, sự phát triển, tính hiệu quả của hệ thống y tế
và khả năng tiếp cận của người dân với hệ thống này có ảnh hưởng trực tiếp
đến sức khỏe các thế hệ của NNL. Đó là vấn đề đảm bảo cho thế hệ tương lai
có thể lực, tinh thần khỏe mạnh, nâng cao tuổi thọ, sức khỏe dân cư.
Tuy nhiên, đối với khu vực miền núi cũng như ở Kon Tum nói riêng thì
vấn đề an toàn dinh dưỡng và đảm bảo cho mọi người, mọi gia đình mọi dân
tộc sinh sống trên địa bàn được ăn uống đầy đủ về số lượng, cân đối về chất
lượng đảm bảo vệ sinh để có sức khỏe tốt, thể lực và trí lực phát triển là chưa
đảm bảo. Bữa ăn chủ yếu là lương thực chưa đảm bảo cơ cấu hợp lý giữa
lương thực và thực phẩm, chưa đủ dinh dưỡng trong bữa ăn; tỷ lệ trẻ em suy
dinh dưỡng còn cao 2,76% năm 2005. cơ sở mạng lưới y tế vẫn còn thiếu và
chưa đồng bộ, năng lực đội ngũ y, bác sỹ còn hạn chế, bất cập… Tình trạng
này ảnh hưởng rất lớn chất lượng NNL và hiệu quả sử dụng NNL của miền
núi nói chung và của tỉnh Kon Tum nói riêng.
Thứ ba, trình độ phát triển giáo dục và đào tạo có ảnh hưởng quyết định
đến chất lượng NNL.




19
Mức độ phát triển của giáo dục, đào tạo là một trong những yếu tố quan
trọng nhất ảnh hưởng đến chất lượng NNL, vì nó không chỉ quyết định trình
độ văn hóa, chuyên môn- kỹ thuật của người lao động mà còn tác động đến
sức khỏe, tuổi thọ của người dân, thông qua các yếu tố thu nhập, nhận thức và

xử lý thông tin kinh tế, xã hội, thông tin khoa học … Các tác động chính của
phát triển giáo dục, đào tạo đối với chất lượng NNL bao gồm:
- Mức độ phát triển của giáo dục và đào tạo càng cao thì quy mô NNL có
trình độ chuyên môn - kỹ thuật càng mở rộng bởi vì giáo dục và đào tạo là
nguồn gốc cơ bản để nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo chuyên môn- kỹ
thuật của nền kinh tế. Trong điều kiện hệ thống giáo dục và đào tạo phát triển
phổ biến tại các địa phương, nông thôn, thành thị, miền núi, đồng bằng, hải
đảo thì việc tiếp cận các dịch vụ giao dục, đào tạo của dân cư rất thuận tiện,
giảm được chi phí. Do đó, khả năng nâng cao quy mô NNL qua đào tạo là rất
hiện thực và đó cũng là một trong những giải pháp để cải thiện chất lượng
NNL của các địa phương, vùng và quốc gia.
- Mức độ phát triển của giáo dục và đào tạo càng cao thì càng có khả
năng nâng cao chất lượng theo chiều sâu của NNL. Điều này thể hiện ở chỗ,
một trong những tiêu chí của phát triển giáo dục, đào tạo là nâng cao chất
lượng đầu ra (học sinh, sinh viên tốt nghiệp ra trường) và trong một nền giáo
dục, đào tạo có trình độ phát triển cao thì chất lượng của đầu ra được đảm
bảo, đáp ứng được thị trường lao động và của xã hội. Đây chính là yêu cầu
đang đặt ra bức xúc với NNL nước ta. Và để nâng cao chất lượng đầu ra của
giáo dục và đào tạo thì yêu cầu đặt ra là phải không ngừng nâng cao trình độ
của hệ thống giáo dục, đào tạo ngang tầm với các nước tiên tiến trên thế giới.
- Giáo dục đào tạo đem lại những lợi ích to lớn lâu dài cho cá nhân và xã
hội, kinh nghiệm phát triển kinh tế của các nước ( Anh, Pháp, Mỹ, Canađa,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapo, Malaixia …) đã chứng tỏ đầu tư cho giáo dục




20
và đào tạo đem lại tỷ suất lợi nhuận và hiệu quả xã hội thường cao hơn so với
đầu tư vào các ngành kinh tế khác.

Giáo dục đào tạo đem lại nhiều lợi ích to lớn cho cá nhân và xã hội: đối
với cá nhân giáo dục đem lại cho họ kiến thức, kỹ năng, phẩm chất, thái độ…
trên nền tảng đó, để tăng cơ hội việc làm, thu nhập cao hơn, thích nghi với
những thay đổi nghề nghiệp…; đối với xã hội giáo dục và đào tạo góp phần
cải thiện sức khỏe nâng cao tuổi thọ của người dân, góp phần nâng cao trình
độ văn hóa cơ bản là tiền đề để tiếp thu tri thức, tăng thêm sức mạnh cho con
người, để tận dụng các cơ hội trong lao động sáng tạo, tạo ra thu nhập cao góp
phần nâng cao mức sống vật chất và tinh thần, chống suy dinh dưỡng, cải
thiện sức khỏe của dân cư và NNL. Giáo dục còn có ý nghĩa quan trọng trong
việc nâng cao năng lực cho toàn dân trong tiếp thu và vận dụng tri thức:
Trong nền kinhh tế hiện đại ngày nay, kinh tể tri thức ngày càng giữ vai trò
chủ đạo. Sức cạnh tranh sẽ xoay quanh tâm điểm là hàm lượng khoa học và
công nghệ, chất xám quyết định giá trị sản phẩm.
ở miền núi trình độ học vấn của dân cư thấp, tỷ lệ mù chữ cao nhất là
vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, một nơi còn duy trì luật
tục, tập quán lạc hậu trong đời sống cộng động, trình độ học vấn thấp nên hạn
chế áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất …Đó là trở ngại lớn cho việc
phát triển kinh tế, xã hội của địa phương. Do vây, ở miền núi cần có những
chính sách phát triển giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
mới khai thác được tiềm năng thế mạnh hiện có của địa phương góp phần
phát triển nhanh kinh tế - xã hội.
Thứ tư, các chính sách của Chính phủ và chất lượng NNL.
Vai trò của chính phủ có tầm quan trọng rất lớn đối với nâng cao chất
lượng NNL quốc gia. Chính phủ hoạch định các chính sách tạo môi trường
pháp lý cho phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo cả chiều rộng và chiều
sâu. Ngoài các chính sách của Chính phủ về kinh tế - xã hội hướng vào





21
đảm bảo không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, chống suy
dinh dưỡng, bảo vệ sức khỏe của dân cư và người lao động… thì các chính
sách có tác động trực tiếp đến chất lượng NNL gồm: luật giáo dục; chính
sách xã hội hóa giáo dục; chính sách phát triển các cơ sở giáo dục đào tạo
chất lượng cao đạt chuẩn khu vực và quốc tế; chính sách cải tạo nội dung,
phương pháp giáo dục, đào tạo; chính sách phát triển đội ngũ giáo viên
giảng viên; chính sách đầu tư cho giáo dục, chính sách quản lý giáo dục
đào tạo; chính sách tiền lương, thu nhập, bảo hiểm xã hội…Do vây, bằng
hệ thống chính sách của chính phủ nhà nước đã tạo được môi trường pháp
lý cho sự hoạt động, phát triển, hoặc kìm hãm sự phát triển NNL của một
quốc gia.
Thứ năm, truyền thống dân tộc và sự phát triển của nền văn hóa.
Văn hoá là tổng thể những tư tưởng, tình cảm, tập quán, thói quen trong
tư duy, lối sống và ứng xử của mỗi người và cộng đồng, đó là yếu tố tinh thần
trong chất lượng NNL.
Mỗi dân tộc, quốc gia đều có nền văn hóa riêng, mang bản sắc riêng có
giá trị độc đáo riêng. Văn hóa và truyền thống dân dộc là nhân tố quan trọng
để hình thành và phát triển văn minh của nhân loại đó chính là môi trường
lành mạnh cho phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
Môi trường văn hoá là cơ sở phát triển con người, việc tạo lập môi
trường văn hoá phù hợp với yêu cầu CNH là nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả,
thời gian và định hướng đúng đắn sự hình thành và phát triển NNL của miền
núi. Truyền thống lịch sử và nền văn hoá của mỗi địa phương cũng bồi đắp và
kết tinh trong mỗi con người và cả cộng động dân tộc, hun đúc nên bản lĩnh, ý
chí, tác phong của con người trong lao động.
ở miền núi Việt Nam có nền văn hóa rất đa dạng đây cũng là những thế
mạnh của từng địa phương, do đó đòi hỏi con người nơi đây phải biết kế thừa
và phát huy những giá trị truyền thống quý báu, càng phải năng động sáng





22
tạo, tìm ra những thế mạnh, cách đi và mô hình phù hợp với hoàn cảnh đặc
thù của từng địa phương. Phát triển nguồn nhân lực ngày nay không chỉ làm
gia tăng về số lượng, đồng bộ về cơ cấu lực lượng lao động, mà phải coi trọng
nâng cao chất lượng trong đó bao hàm cả việc khơi dậy, vun bồi và phát triển
những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của mỗi tộc người và cộng đồng
các dân tộc.
- Thứ sáu, tốc độ tăng dân số ảnh hưởng đến NNL.
Tốc độ và quy mô dân số ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng, chất lượng
của NNL. Một trong những nguyên nhân cản trở tốc độ tăng trưởng và phát
triển kinh tế là quy mô dân số đông, tốc độ dân số gia tăng lớn. Dân số gia
tăng làm tăng nhân khẩu ăn theo trên một lao động, làm chậm tốc độ tăng
GDP/người, gây sức ép về nhu cầu việc làm và các vấn đề xã hội khác. Theo
số liệu của Tổ chức dân số Liên Hiệp quốc thì khi dân số tăng 1%, muốn đảm
bảo công ăn việc làm, thu nhập như trước phải gia tăng 3% GDP.
ở miền núi nói chung cũng như Kon Tum nói riêng tốc độ tăng dân số
bình quân còn cao giai đoạn 2002 - 2005 vẫn là 2,1% so với cả nước 1,47%
[41]. Tốc độ dân số tăng đây cũng là lực lượng lao động to lớn và quan trọng
chuẩn bị bổ sung vào lực lượng lao động tương lai. Tuy nhiên việc tốc độ tăng
dân số cao cũng đem lại nhiều bài toán nan giản về lao động việc làm trong
tương lai.
Mức độ gia tăng tương đối cao của lực lượng lao động trong bối cảnh tỷ
lệ thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ thời gian nhàn rỗi ở nông thôn tương đối cao
như hiện nay đang đặt ra những vấn đề lớn cần giải quyết, trong khi đó chất
lượng lao động thấp thể hiện ở chỗ tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật trong tổng lực lượng lao động thấp và cơ cấu lực lượng lao động bất hợp
lý.





23
Trong khi đó, thị trường sức lao động chưa phát triển, chất lượng giáo
dục, đào tạo và dạy nghề còn thấp dẫn đến một loạt vấn đề mâu thuẫn liên
quan đến giải quyết việc làm, đến việc phát triển chất lượng của lực lượng lao
động, hay nói đúng hơn là phát triển NNL ở miền núi chưa đáp ứng được nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội của khu vực miền núi nói riêng cũng như CNH,
HĐH đất nước. Do đó, tăng trưởng dân số phù hợp với mức tăng trưởng của
sức sản xuất xã hội, trong đó phù hợp với tăng chất lượng của NNL sẽ giúp
kinh tế phát triển ổn định.
1.2. Vai trò của nguồn nhân lực đối với phát triển kinh tế - xã hội
1.2.1. Nguồn nhân lực là tiền đề quyết định phát triển kinh tế - xã hội
Trong bất cứ hình thái kinh tế xã hội nào, con người đều là nhân tố
trung tâm của quá trình sản xuất. Tuy nhiên ở mỗi giai đoạn phát triển lịch sử
nhận thức về vai trò của nhân tố con người đối với tăng trưởng và phát triển
lại không hoàn toàn giống nhau. Vào giai đoạn đầu của cuộc cách mạng công
nghiệp, người ta cho rằng, điều kiện tự nhiên thuận lợi chính là yếu tố quan
trọng nhất của sự phát triển. Hướng ưu tiên tìm kiếm các nguồn lực để phát
triển kinh tế - xã hội thường nhằm vào sự phong phú về tài nguyên thiên
nhiên. Vai trò nhân tố con người bị che lấp bởi các lợi thế tuyết đối về điều
kiện tự nhiên.
Bước vào giai đoạn tiếp theo của cuôc cách mạng này trong những năm
60, với những thành tựu nổi bật của khoa học và kỹ thuật khi đó, người ta tin
rằng có thể đạt được năng suất lao động cao và sự phát triển mạnh mẻ nhờ
vào quá trình tự động hóa. Tiến bộ kỹ thuật được coi như chiếc gậy thần, có
thể dựa vào đó để giải quyết mọi vấn đề xã hội. Với ý nghĩa đó, công nghệ
được coi là trung tâm.

Sau đó, người ta dần dần nhận thức ra rằng, khai thác tài nguyên đến
mức độ nào đó cũng sẽ bị cạn kiệt. Đề cao kỹ thuật quá mức dẫn đến "chủ




24
nghĩa kỹ trị" trong nền kinh tế làm tha hóa con người và lãng phí tiềm năng
sáng tạo của con người. Con người bị "rô bốt hóa" trở thành cái xác không
hồn. Mô hình phát triển dựa trên kỹ thuật thuần túy đã đe dọa trực tiếp đến sự
phát triển bền vững về kinh tế và xã hội. Do vậy, việc phải thay đổi căn bản
chiến lược phát triển đã trở thành đòi hỏi cấp bách của các nước.
Vào những năm 90, khi cuộc cách mạng khoa học và công nghệ bước
sang giai đoạn mới, việc áp dụng kỹ thuật tin học, các công nghệ thông tin và
những sản phẩm phần mềm tự động hóa làm cho quá trình sản xuất mang tính
sáng tạo nhiều hơn. người ta không chỉ sản xuất để thõa mãn nhu cầu mà còn
tạo ra nhu cầu để sản xuất, chất lượng sản phẩm được coi trọng hơn số lượng,
hàm lượng trí tuệ và khoa học trong sản phẩm ngày càng tăng, đầu vào vật
chất ngày càng giảm … Tình hình đó đòi hỏi phải khai thác và sử dụng các
nguồn lực có khả năng sáng tạo. Mô hình sản xuất lấy con người làm trung
tâm xuất hiện, chiếm ưu thế và dần dần trở nên phổ biến. Hướng ưu tiên đầu
tư vào con người đã được nâng lên "quốc sách hàng đầu", được coi là hướng
chính trong chiến lược phát triển ở hầu hết mọi quốc gia trên thế giới.
Đề cao vai trò của yếu tố con người cũng là nét nổi bật trong tư tưởng
kinh tế của chủ nghĩa Mác. Với tư tưởng chủ đạo: chỉ có lao động mới tạo ra
giá trị và là nguồn gốc của mọi của cải trong xã hội, các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác - Lênin đánh giá rất cao vai trò yếu tố con người. Mác đã
khẳng định " Trong tất cả những công cụ sản xuất, thì lực lượng sản xuất
hùng mạnh nhất là bản thân giai cấp cách mạng"[28, tr.257]. Hơn nữa, C.Mác
còn coi sự kết hợp chặt chẽ giữa phát triển sản xuất và phát triển con người là

"một trong những biện pháp mạnh nhất để cải biến xã hội" [29, tr 52].
Như vậy C. Mác đã khẳng định con người là yếu tố có vai trò nhất,
quyết định nhất trong lực lượng sản xuất của xã hội, mà hơn nữa, con người
đóng vai trò chủ thể hoạt động của quá trình lịch sử. Con người vừa là điểm
khởi đầu vừa là điểm kết thúc; đồng thời vừa là trung tâm của mọi biến đổi




25
lịch sử, là chủ thể chân chính của các quá trình xã hội. Thông qua hoạt động
hoạt động sản xuất vật chất, con sáng tạo ra lịch sử của chính mình, lịch sử xã
hội loại người. Cũng vấn đề này, V.I. Lênin viết: "Lực lượng sản xuất chủ yếu
của nhân loại, là công nhân"[25, tr.430]. Giống như C.Mác,V.I. Lênin đặt con
người vào vị trí hàng đầu, số 1; các ông đều coi con người phải là người công
nhân, giai cấp tiến tiến, nghĩa là đều nhấn mạnh đến "chất lượng" của lao
động - lực lượng sản xuất. Tiêu chí ngày càng đóng vai trò quan trọng trong
việc xếp hạng các nước trên thế giới là sự phát triển con người. Một đất nước chỉ
được coi là phát triển khi ở đó con người được đảm bảo, chất lượng sống của
con người ngày càng cao, năng lực sáng tạo của con người ngày càng phát triển.
Không chỉ cho đến nay chúng ta mới nhận thấy điều đó, mà ngay từ
những buổi đầu tiến hành sự nghiệp cách mạng của mình, Đảng ta nhiều lần
khẳng định, con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc của mọi người,
mọi nhà được Đảng ta đặt lên vị trí hàng đầu và coi đó là nhiệm vụ trung tâm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập và rèn luyện Đảng ta - đã luôn
nhắc nhở, căn dặn chúng ta là:
"Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì có hại đến dân, ta phải hết sức tránh"[30, tr.56-57]. "Vì lợi ích mười
năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì ta phải trồng người" [31, tr.222] và
"Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ

nghĩa" [32, tr.310]. Khi nói đến con người với tư cách "người chủ xã hội" là
cái "vốn quý nhất", là lực lượng xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội,
Người không chỉ nói đến trí tuệ, tài năng, sức khỏe của con người, mà còn nói
tới nhiều yếu tố khác ở con người, trong đó có những giá trị xã hội được kết
tinh trong bản thân từng con người thông qua hoạt động thực tiễn cách mạng
và cải tạo xã hội.
Quán triệt quan điểm đó của Đảng và thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ

×