Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh ắt ta pư cộng hoà dân chủ nhân dân lào trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.5 KB, 124 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử đó chứng minh, sự tồn vong hay hưng thịnh của mỗi quốc gia,
dân tộc đều phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ những người lãnh đạo, trong đó
đặc biệt là những người giữ cương vị chủ chốt. V.I Lênin chỉ rõ: “Trong lịch
sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó khơng đào
tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu
tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” [12, tr.473].
Khi đề cập đến vai trị cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Cán bộ là
cái gốc của mọi công việc”, “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán
bộ tốt hay kém” [24, tr.269,240].
Đảng NDCM Lào luôn khẳng định cán bộ là nhân tố quyết định sự
thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và
chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Như vậy, trong tất cả
các giai đoạn cách mạng, cán bộ có vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng đối với
công tác xây dựng Đảng, xây dựng HTCT và thắng lợi của cách mạng. Mỗi
giai đoạn cách mạng cần có đội ngũ cán bộ có chất lượng tốt, đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ, điều này phụ thuộc và được quyết định bởi công tác cán bộ.
Trong giai đoạn thực hiện đường lối đổi mới hiện nay với nhiều thời cơ
và thách thức, đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải có bản lĩnh chính trị, phẩm chất
đạo đức, năng lực phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Bước vào thời
kỳ này, toàn Đảng, toàn dân ra sức phấn đấu từng bước, thực hiện mục tiêu:
độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Mục tiêu đó được tiến hành trong bối cảnh quốc tế
có những diễn biến hết sức phức tạp và khó lường; thuận lợi và khó khăn, thời
cơ và thách thức đan xen và tác động lẫn nhau, đặt ra những yêu cầu và đòi
hỏi rất cao đối với đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ của Đảng.
Công tác cán bộ của Đảng NDCM Lào nói chung có một vị trí quan
trọng, trong đó việc nâng cao chất lượng ĐNCBCCCH ở Lào lại càng đặc biệt



2
quan trọng vì: cấp huyện có vị trí quan trọng trong tổ chức thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng vào hiện thực cuộc sống, là cầu nối giữa tỉnh,
Trung ương với cấp cơ sở (cụm bản, bản và các cơ sở sản xuất kinh doanh
trên địa bàn cấp huyện).
Đối với tỉnh Ắt Ta Pư, thời gian qua, công tác cán bộ đã được các cấp
uỷ quan tâm và ĐNCBCCCH đã được bố trí, sắp xếp một cách tương đối hợp lý,
về cơ bản đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Tuy vậy, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo,
tổ chức thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phịng an ninh và cơng tác xây dựng Đảng trong thời kỳ mới, đội ngũ cán bộ, đặc biệt là
những người giữ cương vị chủ chốt đã bộc lộ những bất cập và hạn chế. Đó là
hệ quả những yếu kém trong một số khâu của công tác cán bộ.
Hiện nay, tỉnh Ắt Ta Pư đang bước vào thời kỳ đổi mới, ra sức thực
hiện nhiệm vụ đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tập trung phát triển công
nghiệp, dịch vụ, xây dựng kết cấu hạ tầng, triển khai nhiều dự án trọng điểm
của tỉnh. Yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới hết sức nặng nề, đòi hỏi các
huyện phải chuẩn bị nguồn nhân lực, nhất là ĐNCBCC có chất lượng tốt, đủ
phẩm chất, năng lực, trí tuệ, đảm đương các cơng việc được giao.
Từ nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác cán bộ trong thời
kỳ mới, cũng như thực tiễn và những vấn đề đặt ra về công tác cán bộ hiện
nay của tỉnh Ắt Ta Pư, tôi chọn và thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ: "Chất
lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Ắt Ta Pư Cộng hoà Dân
chủ Nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay".
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những năm qua, Đảng NDCM Lào đã ra nhiều nghị quyết về công tác
tổ chức cán bộ như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII ngày 18-21/3/2006
nêu ra vấn đề đánh giá, kiểm tra, phân loại đội ngũ cán bộ, đảng viên, thực
hiện kỷ luật, ngoài ra trong Điều lệ Đảng cũng nêu ra vấn đề về chất lượng,
tiêu chuẩn và khen thưởng đội ngũ cán bộ, đảng viên từ Trung ương xuống cơ



3
sở. Liên quan đến vấn đề này Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 37, 38 năm 1995
và số 01, 02, 03 và 04 năm 2003 về việc quản lý đảm bảo cán bộ, việc đánh
giá, phân loại cán bộ các cấp hằng năm.
Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng nhân dân cách mạng
Lào, tháng 3 năm 2011, đề ra bốn chính sách đột phá để hoàn thành kế hoạch
giảm nghèo, đưa đất nước CHDCND Lào thốt khỏi tình trạng kém phát triển và
tiến lên không ngừng, đây là một quyết sách quan trọng của Đại hội IX.
Một trong bốn đột phá đó được Đảng NDCM Lào tổng kết thành bài
học là đột phá về phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là bồi dưỡng tạo nguồn
cán bộ. Thực trạng đội ngũ cán bộ Lào hiện nay đặt ra yêu cầu khách quan
phải có bước đột phá và tập trung vào ba mặt quan trọng là: đủ về số lượng;
nâng cao về chất lượng; chính sách, chế độ đối với cán bộ, nhất là chế độ
tuyển chọn, sử dụng và quản lý cán bộ hiệu quả hơn.
Với vị trí, vai trị và tính chất quan trọng của đội ngũ cán bộ, nhất là
cán bộ chủ chốt, nên đến nay có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về cán bộ và
công tác cán bộ của Đảng. Kết quả nghiên cứu của nhiều cơng trình đã được
cơng bố trên các sách, báo, tạp chí và trong các báo cáo tại hội thảo khoa học,
các luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ.
Các đề tài khoa học, sách:
- Đề tài khoa học cấp Nhà nước giai đoạn (1991-1995): “Xác định cơ
cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi
mới”; mã số KX.05 do PGS, TS Trần Xuân Sầm làm chủ nhiệm, đã nghiệm
thu và in thành sách.
- Đề tài khoa học cấp Nhà nước giai đoạn (1996-2000): “Luận cứ khoa
học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhằm đáp ứng u cầu của
sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước”, mã số KHXH.05.03 do
PGS, TS Nguyễn Phú Trọng làm chủ nhiệm, đã nghiệm thu và in thành sách.
- Đề tài khoa học cấp bộ, năm 2001, do TS Nguyễn Văn Sáu làm chủ

nhiệm: “Nâng cao tổ chức hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt


4
cấp huyện ở phía Bắc nước ta trong tình hình hiện nay”; Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.
Các bài đăng trên tạp chí:
- Chu Văn Rỵ (1997): “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp,
trước mắt là người đứng đầu”, Tạp chí Cộng sản, số 5.
- Lê Kim Việt (1999): “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng u cầu của
thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước”, Tạp chí Cộng sản, số 24.
- TS Nguyễn Trọng Điều (2001): “Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ - công chức nhà nước”, Tạp chí Cộng sản, số 16.
- TS Ngơ Kim Ngân (2002): “Công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ
chốt của hệ thống chính trị - một số giải pháp chủ yếu”, Tạp chí Lịch sử
Đảng, số 6.
- Y Vêng (2010): “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ
sở”, Tạp chí Cộng sản, số 809.
- Khăm Phăn Vông Pha Chăn (2010): “Những vấn đề đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong hệ thống chính trị đổi mới hiện nay”,
Tạp chí Kor Sang Phar (Tạp chí Xây dựng Đảng), số 106.
- Sổm Pha Văn Sút Thị Phông (2011): “Nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ của Tồ án nhân dân Thủ đơ Viêng Chăn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
chính trị trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Kor sang Phar (Tạp chí Xây dựng
Đảng), số 116.
- Bài: “Sửa đổi công tác cán bộ”, Tạp chí Kor sang Phar (Tạp chí Xây
dựng Đảng), số 11 năm 1994.
- Bài: “Chủ tịch Cay Sỏn Phôm Vi Hản nói về tiêu chuẩn cán bộ”, Tạp
chí Kor Sang Phar (Tạp chí Xây dựng Đảng), số 72 năm 2007.
Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ:

- Luận văn Thạc sĩ khoa học chính trị của Lê Thu Hà (1993): “Cơng tác
bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Quảng Nam - Đà
Nẵng”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.


5
- Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Mậu Dựng (1996): “Xây dựng đội ngũ
cán bộ chủ chốt của Đảng bộ các cấp ở Tây Nguyên hiện nay”, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Hồng Tân (2000): “Xây dựng đội ngũ cán
bộ lãnh đạo chủ chốt cấp quận ở thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hố”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Luận án Tiến sĩ lịch sử của Nguyễn Thái Sơn (2002): “Xây dựng đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hố, hiện đại hố đất nước”, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh.
- Luận án Tiến sĩ của Đệt Tạ Kon Phi La Phăn Đệt (2004): “Xây dựng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các ban, ngành ở thành phố Viêng Chăn
trong giai đoạn cách mạng hiện nay”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
- Luận văn Thạc sĩ của Lít Thị Đệt Xay Nhạ Chắc (2001): “Xây dựng
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Xa Văn Nạ Khết, nước Cộng hoà
dân chủ nhân Lào”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Luận văn Thạc sĩ của Trần Thọ (2007): “Xây dựng đội ngũ cán bộ
thuộc diện Ban thường vụ Thành uỷ Đà Nẵng quản lý giai đoạn hiện nay”,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Luận văn Thạc sĩ của Vi Lay Văn Pheng Sa Vắt (2008): “Chuẩn hố
cán bộ thuộc diện Ban Bí thư Trung ương Đảng quản lý ở nước Cộng hoà
dân chủ nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay”, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.

- Luận văn Thạc sĩ của Vi Lặt Sút Ni Chăn (2009): “Chất lượng đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Thủ đơ Viêng Chăn, nước Cộng hồ Dân
chủ Nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh.


6
Ngồi ra, có nhiều luận án, luận văn, bài giảng và bài viết có liên quan
đến lĩnh vực này, tuy nhiên chưa có cơng trình nào đi sâu nghiên cứu về chất
lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Ắt Ta Pư. Cho nên tác giả đã
chọn đề tài này làm luận văn khoa học.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất
những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp huyện đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của các huyện ở tỉnh Ắt Ta Pư
trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ vị trí, vai trị, đặc điểm đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở
tỉnh Ắt Ta Pư. Đưa ra quan niệm về chất lượng đội ngũ cán bộ cấp huyện và
tiêu chí đánh giá.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở
tỉnh Ắt Ta Pư và các hoạt động tạo nên chất lượng đó, chỉ ra ưu điểm, khuyết
điểm, nguyên nhân và rút ra những kinh nghiệm.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Ắt Ta Pư đến năm 2020.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở
tỉnh Ắt Ta Pư.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn khảo sát, nghiên cứu chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
huyện ở tỉnh Ắt Ta Pư và các hoạt động để tạo nên chất lượng đội ngũ cán bộ
chủ chốt này, từ năm 2006 đến nay.
- Phương hướng và giải pháp được đưa ra trong luận văn có giá trị đến
năm 2020.


7
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng
NDCM Lào về cán bộ và công tác cán bộ.
5.2. Cơ sở thực tiễn
Luận văn kế thừa có chọn lọc các cơng trình nghiên cứu khoa học, kết
hợp điều tra, khảo sát, phân tích, tổng kết thực tiễn về chất lượng đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Ắt Ta Pư.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thể hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin; đồng thời sử dụng phương pháp lơgíc và lịch sử; phân tích, tổng
hợp điều tra, khảo sát, tổng kết thực tiễn.
6. Những đóng góp về khoa học và ý nghĩa của luận văn
- Quan niệm về chất lượng cán bộ và ĐNCBCCCH ở tỉnh Ắt Ta Pư.
- Kinh nghiệm về hoạt động tạo nên chất lượng ĐNCBCCCH ở tỉnh Ắt
Ta Pư trong thời gian qua.
- Những giải pháp chủ yếu, khả thi nâng cao chất lượng ĐNCBCCCH ở
tỉnh Ắt Ta Pư đến năm 2020.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham
thảo phục vụ cho công tác cán bộ của tỉnh Ắt Ta Pư cũng như các huyện.

Đồng thời, kết quả đó cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công
tác giảng dạy và nghiên cứu về công tác cán bộ ở các địa phương của Lào.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục;
luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


8
Chương 1
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP HUYỆN
Ở TỈNH ẮT TA PƯ CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. CẤP HUYỆN Ở TỈNH ẮT TA PƯ CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN
LÀO VÀ VỊ TRÍ, VAI TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP HUYỆN

1.1.1. Vị trí, vai trò và đặc điểm cấp huyện ở tỉnh Ắt Ta Pư
1.1.1.1. Khái quát về tỉnh Ắt Ta Pư Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào
- Đặc điểm vị trí, địa lý tự nhiên.
Ắt Ta Pư là một tỉnh phía Đơng Nam Lào giáp với hai nước là Việt
Nam và Cămpuchia, có tổng diện tích 10.320 km 2, chiếm 4,32% tổng diện
tích của CHDCND Lào. Phía Bắc giáp với tỉnh Xê Koong, phía Tây giáp với
tỉnh Chăm Pa Sắc, phía Đơng giáp với tỉnh Kon Tum của Việt Nam còn ở phía
Nam giáp với tỉnh Ra Ta Na Ki Li và Xiêng Tenh của Cămpuchia.
Ắt Ta Pư nằm ở vị trí giao thông thuận lợi với các tỉnh trong nước và
quốc tế thông qua hệ thống giao thông đường bộ ra biên giới và đường thuỷ ra
sông Xê Koong... đây là một trong những nhân tố thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội của tỉnh trong tương lai. Độ cao trung bình so với mực nước biển khoảng
860-1200 m nơi thấp nhất là 78 m; nơi cao nhất là 1.500 m ở huyện Xan Xay.
Theo tính chất địa lý tự nhiên của tỉnh có thể chia làm ba vùng khác như sau:
Vùng miền núi: là dãy núi Phu Luổng (dãy Trường Sơn) có tổng diện
tích 690.000 ha, độ cao 800 - 1.500 m với độ dốc trung bình là 150C.
Vùng trung du: có tổng diện tích khoảng hơn 120.000 ha, có độ cao

trung bình 300 -1000 m.
Vùng đồng bằng: có tổng diện tích khoảng 222.000 ha, có độ cao từ 78300 m nằm giữa vùng dãy núi Phu Luổng và trung du, là một trong 7 đồng
bằng của Lào và có 7 dịng sơng chạy qua là: Xê Koong, Xê Ka Mản, Xê
Piên, Xê Khăm Pho, Xê Năm Nọi, Xê Sụ và Nặm Kông.


9
Tổng diện tích đất đai tự nhiên của tỉnh là 1.320.000 ha (đất đang sử dụng
là 250.000 ha, chiếm 24,22% đất tự nhiên của tỉnh) trong đó diện tích ruộng
nước 21.600 ha, ruộng thuỷ lợi 672 ha và diện tích vườn, nương, bãi 1.350 ha.
Đất chưa sử dụng còn rất lớn. Trong 250.000 ha đất chưa sử dụng có 227.000 ha
đất đồng bằng dọc theo sông Xê Koong, Xê Ka Mản... Là một tỉnh miền núi có
đồng bằng ít, đất phù hợp với các loại cây trồng nông nghiệp và cây công nghiệp
như: điều, chè, cà phê, cao su, thầu dầu, quế, bạch đàn, ngô, các loại hoa màu.
Ắt Ta Pư có nhiều tiềm năng về lâm nghiệp, đất rừng chiếm tới 70%
diện tích tự nhiên, là loại đất phù hợp với nhiều loại cây có điều kiện xây
dựng hệ thống rừng phòng hộ và tạo các vùng kinh tế hàng hố có giá trị cao.
Rừng Ắt Ta Pư có nhiều loại gỗ quý hiếm và có giá trị sử dụng cao như: tếch,
hương, lim, trầm hoa, cẩm lai, sao, trắc, sa mu, táu, sến, vàng tâm, dổi, de,
chò chỉ... và các loại luồng tre, nứa lớn nhất toàn quốc. Có diện tích khoảng
608.984,87 ha là đồng cỏ có thể sử dụng cho chăn nuôi đại gia súc.
- Đặc điểm dân cư, thành phần dân tộc.
Theo số liệu thống kê (năm 2011) dân cư của tỉnh là 126.292 người.
Toàn tỉnh gồm có 5 huyện, có 26 khu vực cơ sở (gọi là cục bản phát triển); có
147 bản làng, trong đó có 5 bản làng lớn (tổng số bản làng đã giảm xuống so
với năm 2010, bởi các bản làng nhỏ đã sáp nhập thành một bản làng lớn), 22.921
hộ gia đình, trong đó nữ 65.243 người, mật độ dân số 12 người/ km 2, phân bố
không đồng đều giữa vùng cao và vùng thấp, giữa thành thị và nông thơn.
Trong tỉnh có 11 dân tộc anh em: Lào Lùm, Brâu, Ôi, Chênh, A Lặc, Ta
Liêng, Xụ, Yẹ, Ta Ội, Nha Hấn và Sa Đăng. Trong đó dân tộc Lào Lùm chiếm

85% trên dân cư toàn tỉnh.
Tổng số lao động trong tỉnh năm 2011 là 46.142 người, chiếm 36,53%
so với dân cư của tỉnh. Những năm gần đây, tuy số người lao động trong các
ngành đã bắt đầu có sự thay đổi lớn, nhưng về mặt chất lượng, trình độ học
vấn, kỹ thuật, tay nghề còn nhiều hạn chế.


10
- Tình hình kinh tế - xã hội.
+ Thành tựu kinh tế của tỉnh những năm qua
Thực hiện đường lối đổi mới, những năm qua, Đảng bộ và nhân dân các
dân tộc trong tỉnh đã tích cực phấn đấu thực hiện tốt mục tiêu, yêu cầu được
đề ra trong Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX và các
nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Ắt Ta Pư. Nhờ vậy, tình hình chính trị ổn định,
kinh tế - xã hội từng bước phát triển, sản xuất hàng hoá, dịch vụ được cải
thiện, lượng thu hút vốn đầu tư nước ngoài ngày càng tăng, đời sống nhân dân
từng bước được cải thiện, tốc độ tăng trưởng kinh tế được tăng lên, cụ thể là:
• Tốc độ tăng trưởng kinh tế (2010-2011) tăng 13%/năm, trong đó:
- Nơng - lâm nghiệp tăng 10,02%, chiếm 47% GDP.
- Công nghiệp tăng 5,53%, chiếm 36% GDP.
- Dịch vụ tăng 9,59%, chiếm 17% GDP.
• GDP tính bình qn đầu người năm 2011 là 881 USD/năm, so với
năm 2010 là 638 USD/năm tăng 38,08%.
Theo số liệu tổng kết 6 tháng đầu năm 2012 của Ban Thường vụ tỉnh
uỷ, tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng 13,5%/năm, trong đó:
- Nơng - lâm nghiệp tăng 6,1%; chiếm 31% GDP.
- Công nghiệp tăng 6,2%; chiếm 38% GDP.
- Dịch vụ tăng 5,5%; chiếm 31%GDP.
Trong năm 2011 chính quyền tỉnh đã cấp giấy phép đầu tư của nhà
nước gồm 113 dự án với tổng số vốn đầu tư là 35,64 tỷ kíp, trong đó có vốn

đầu tư trong nước 28,02 tỷ kíp và vốn đầu tư nước ngồi 7,62 tỷ kíp. Ngồi có
sự đầu tư của nhà nước, chính quyền tỉnh cịn cấp giấy phép kinh doanh cho
các cơng ty trong nước và ngồi gồm 15 cơng ty với tổng số vốn đầu tư
253.600.000 USD, trong đó có đầu tư của trong nước gồm7 công ty với tổng
số vốn đầu tư 3.200.000 USD và đầu tư của nước ngoài gồm 8 công ty với
tổng số vốn đầu tư 250.400.000 USD được phân bổ vào các lĩnh vực như:


11
công nghiệp chế biến gỗ - thực phẩm và trồng cây cơng nghiệp như: cao su,
điều, mía, cọ dầu...
Qua 26 năm thực hiện đường lối đổi mới, chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
tăng trưởng GDP của tỉnh Ắt Ta Pư mặc dù có cao hơn so với trước đây
nhưng giá trị tuyệt đối và giá trị GDP bình quân đầu người cịn thấp (năm
1986, GDP bình qn đầu người 145 USD/người/năm, tới năm 2011 đạt 881
USD/người/năm). Nhìn chung vẫn là một trong những tỉnh nghèo của nước.
+ Về trình độ giáo dục, văn hoá và y tế
Giáo dục - đào tạo được củng cố và phát triển khá toàn diện ở các cấp
học, hệ thống trường học phổ thông, dạy nghề, trường dân tộc nội trú. Trong
năm 2011, toàn tỉnh có 240 trường học, tăng 1,70% do với năm 2010, với
1.083 phòng học, 1.289 giáo viên, 32.600 học sinh - sinh viên. Hiện nay, Ắt
Ta Pư có 19 trường mầm non, 190 trường tiểu học, 19 trường trung học cơ sở,
9 trường trung học phổ thông, 1 trường dân tộc nội trú, 1 trường trung cấp dạy
nghề cấp cơ sở, 1 trường cao đẳng kinh tế dân lập.
Đến nay, Ắt Ta Pư đã có 58 nhà văn hố (một dạng trụ sở của người
dân các bản làng người bộ tộc ít người của Lào có kiểu dáng và tính chất sinh
hoạt cộng đồng giống như nhà rông của dân tộc Êđê, Tây Ngun, Việt Nam),
có 24 bản làng văn hố, có 17.618 gia đình văn hố.
Cơng tác y tế và bảo vệ chăm sóc sức khoẻ nhân dân được coi trọng.
Tồn tỉnh Ắt Ta Pư có 6 bệnh viện, trong đó 1 bệnh viện cấp tỉnh 70 giường

bệnh, 1 bệnh viện thuộc Cục tham mưu Quân đội tỉnh, 4 bệnh viện huyện 80
giường bệnh, 30 trạm y tế cấp cơ sở cấp bản với 86 giường bệnh, 3 phòng
khám bệnh ngoài giờ của dân lập, 30 tiệm bán thuốc, 152 quỹ cấp thuốc của
các bản làng. Tồn tỉnh có 288 nhân viên, nữ 212 nhân viên, y tế có thể phục
vụ tại các trạm y tế cấp cơ sở. Công tác bảo vệ chăm sóc sức khoẻ, vận động
bảo vệ phục hồi sức khoẻ đã đi xuống cấp cơ sở bản làng. Đến nay, 77% hộ
dân toàn tỉnh đã được sử dụng nước sạch. Theo báo cáo 6 tháng đầu năm


12
2012, tỉnh Ắt Ta Pư sẽ có thêm 1 bệnh viện 200 giường bệnh do cơng ty
Hồng Anh Gia Lai xây dựng và sẽ được sử dụng công khai vào tháng 12 tới.
Ngồi ra, trong đầu năm 2012 cịn được xây dựng 5 trạm y tế cấp cơ sở cấp
bản với 14 giường bệnh.
- Hệ thống chính trị và tình hình quốc phịng, an ninh
+ Hệ thống chính trị
Trên cơ sở những quy định của Trung ương Đảng, từ Đại hội IV đến
Đại hội VIII, tỉnh Ắt Ta Pư tiếp tục củng cố, cụ thể hoá chức năng, nhiệm vụ
của từng tổ chức trong HTCT cơ sở sát với tình hình của Đảng bộ, khắc phục
tình trạng trùng lắp, chồng chéo nhiệm vụ. Đồng thời, Tỉnh uỷ Ắt Ta Pư chỉ
đạo cấp uỷ đảng và các tổ chức trong HTCT kiểm điểm, đánh giá việc xây
dựng và thực hiện quy chế hoạt động, qua đó phát huy tính chủ động, sáng
tạo, vừa giữ được mối quan hệ mật thiết, đồng bộ, gắn kết nhiều mặt hoạt
động của các tổ chức trên nguyên tắc: Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý,
nhân dân làm chủ. Tỉnh Ắt Ta Pư chú trọng đổi mới, nâng cao năng lực, hiệu
quả hoạt động của chính quyền và các đồn thể chính trị - xã hội, phát huy
dân chủ để nhân dân tham gia xây dựng và thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính
trị, chú trọng thực hiện có hiệu quả cải cách hành chính, trước hết là thể chế
hố các thủ tục hành chính, giảm bớt thủ tục rườm rà, chống gây phiền hà cho
dân. Đồng thời, đội ngũ cán bộ các cấp cũng dần được nâng cao về nhận thức,

lý luận và năng lực thực tiễn.
Với nỗ lực của mình, những năm qua, hoạt động của HTCT ở Ắt Ta Pư
có nhiều tiến bộ. Phương thức lãnh đạo, lề lối làm việc của các cấp uỷ đảng
và tổ chức cơ sở đảng từng bước được đổi mới, cải tiến; việc nắm và thực
hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng ngày càng đạt hiệu quả cao hơn.
+ Tình hình quốc phịng - an ninh
Trong 5 năm vừa qua, tỉnh Ắt Ta Pư đã giữ vững an ninh chính trị, trật
tự an tồn xã hội, củng cố nền quốc phịng tồn dân, thế trận an ninh nhân


13
dân. Vì vậy, đã tạo điều kiện thuận lợi và có bước đi mới, mang lại những
chuyển biến mạnh mẽ trong các hoạt động xúc tiến thương mại, thu hút đầu tư
trong nước và nước ngoài; đẩy mạnh xã hội hoá về du lịch, phát triển du lịch
gắn với phát triển kinh tế - xã hội.
- Đặc điểm văn hoá
+ Về lịch sử và chính trị, trong lịch sử cách mạng Lào, nhiều chiến
cơng và thành tích cách mạng của nhân dân lao động các bộ tộc Lào dưới sự
lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân Lào đều diễn ra ở tỉnh Ắt Ta Pư.
Trước cách mạng, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân các bộ tộc gặp
rất nhiều khó khăn, chủ yếu là do phương thức sản xuất lạc hậu, sự bóc lột
của giai cấp thống trị và chiến tranh liên miên. Sau cách mạng 1975 đến nay
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân Ắt Ta Pư đã được cải thiện rất nhiều.
Ngày nay, cùng với cả nước, nhân dân các bộ tộc tỉnh Ắt Ta Pư đang tự xây
dựng cho mình một cuộc sống ấm no, độc lập, hồ bình và trung lập dưới sự
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
Người dân Ắt Ta Pư dù sống ở thấp, ở lưng chừng núi hay trên rẻo cao,
đều có một tâm hồn giản dị mộc mạc, cuộc sống tự nhiên trong sáng như đất
trời của họ. Cuộc sống của con người bao đời nay gắn bó với thiên nhiên, với
lễ hội, với phong tục và tập quán sản xuất tự cấp, tự túc, khơng bon chen, xơ

bồ. Tâm lý thích lễ hội và chùa chiền là một trong những đặc điểm văn hoá
của nhân dân tỉnh Ắt Ta Pư. Từ khi lọt lòng đến khi qua đời, cuộc sống của
người dân Ắt Ta Pư có truyền thống đều gắn với chùa. Bên cạnh nền văn hoá
mang bản sắc chung của nhân dân là Phật giáo và lễ hội, chùa chiền thì mỗi
dân tộc, bộ tộc ở tỉnh Ắt Ta Pư cũng có những nét văn hoá riêng như tục gọi
hồn của dân tộc Lào Lùm, dân tộc Brau, dân tộc Ôi, dân tộc Ta Liêng, dân tộc
Chênh, dân tộc La Vên... Sự đa dạng các sắc thái văn hoá đã làm cho đời sống
tinh thần của nhân dân tỉnh Ắt Ta Pư càng trở nên phong phú mang đậm bản
sắc dân tộc.


14
1.1.1.2. Đặc điểm, vị trí, vai trị và chức năng, nhiệm vụ của cấp
huyện ở tỉnh Ắt Ta Pư
- Đặc điểm của cấp huyện
Theo Hiến pháp nước CHDCND Lào thì nền hành chính phần làm bốn
cấp: cấp cơ sở bản (làng), cấp trên cơ sở là huyện, cấp tiếp theo là tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương (huyện, tỉnh, thành phố gọi là cấp địa phương) và
cuối cùng là cấp Trung ương.
Vì vậy, cấp huyện là cấp thứ ba trong hệ thống hành chính, cấp huyện
có nhiệm vụ lãnh đạo toàn diện và trực tiếp các mặt đời sống xã hội của cơ
sở; đồng thờ, cấp huyện vừa là cấp quán triệt, chủ trương đường lối của Đảng
và pháp luật của Nhà nước. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng và chính
sách, pháp luật của Nhà nước có được thực hiện tốt hay không là do cơ sở
quyết định.
Mặt khác, cấp cơ sở thông qua cấp huyện để phản ánh lên cấp tỉnh và
Trung ương những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn cần phải giải quyết hoặc
những vấn đề khơng cịn phù hợp để cấp trên nghiên cứu, điều chỉnh, bổ sung
vào chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước
kịp thời, phù hợp với điều kiện khách quan của thực tiễn diễn ra ở cơ sở. Bởi

vì, cấp huyện là cấp trực tiếp của cơ sở, sâu sát cơ sở nhất.
Thực tiễn cho thấy, sự phát triển các mặt của tỉnh Ắt Ta Pư đều gắn chặt
với huyện. Hưởng ứng công cuộc đổi mới đang diễn ra khắp cả nước, mọi địa
bàn, nó thật sự có đi vào cuộc sống nhân dân hay khơng thì có một phần
huyện đóng vai trị tạo nên. Từ Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khoá VI) có
bàn về cấp huyện là: huyện là đơn vị lập kế hoạch và ngân sách. Đến Hội nghị
Trung ương lần thứ 8 (khoá VI) của Đảng NDCM Lào đã ra quy định tổ chức
thực hiện và sau đó có Quy định số 21 của Bộ Chính trị về lấy huyện là đơn vị
lập kế hoạch, ngân sách và tổ chức thực hiện có đạt được hiệu quả tốt. Sau đó
thủ tướng Chính phủ CHDCND Lào đã ra Hướng dẫn số 01/TT, ngày


15
11/3/2000 về việc tổ chức thực hiện nội dung: “Xây dựng tỉnh thành đơn vị
chiến lược, huyện là đơn vị lập kế hoạch và ngân sách và bản (làng) là đơn vị
tổ chức thực hiện”.
Cấp huyện có mối quan hệ trực tiếp với tỉnh và Trung ương, là địa bàn
có điều kiện để kế hợp các ngành, các đơn vị kinh tế, văn hoá do Trung ương
hoặc địa phương trực tiếp quản lý thành một cơ cấu kinh tế lãnh thổ nằm
trong cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Địa bàn cấp huyện rất thuận lợi cho
việc hình thành cơ cấu kinh tế kết hợp nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ trong
tổng thể phát triển và phân bố lực lượng sản xuất theo vùng kinh tế. Hơn nữa cấp
huyện còn là địa bàn thuận lợi để kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế và quốc phòng,
an ninh. Cấp huyện là một cấp kế hoạch và ngân sách quan trọng; đồng thời là
cấp thực hiện quản lý theo lãnh thổ kết hợp quản lý theo ngành.
- Vị trí, vai trị của cấp huyện
Cấp huyện có vị trí, vai trị rất quan trọng trong việc chỉ đạo, hướng dẫn
trực tiếp các cụm bản, bản thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và chính
sách, pháp luật của Nhà nước ở địa phương cơ sở, đặc biệt là chỉ đạo phát
triển kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội, quốc phịng và an ninh trên địa bàn

huyện, cụm bản và bản.
Cấp huyện có vị trí, vai trị giải quyết những vấn đề diễn ra trong tình
hình mới hiện nay. Vì hiện nay, khi chuyển từ chế độ tập trung bao cấp sang
phát triển sản xuất hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa. Huyện là địa bàn có vị trí quan
trọng nhiều mặt trong nền kinh tế quốc dân; địa bàn huyện rất thuận tiện cho
việc hình thành cơ cấu kinh tế kết hợp nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ trong
tổng thể phát triển và phân bố lực lượng sản xuất theo vùng kinh tế.
Hiện nay, yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội đang
quy định vị trí, vai trị của cấp huyện. Có nguyên nhân lịch sử, nhất là nền sản
xuất nhỏ, trình độ kinh tế, văn hố, xã hội có sự chênh lệch đáng kể. Việc đưa


16
miền núi tiến kịp miền xuôi không hề giản đơn trong việc thực hiện cơ chế
hiện nay. Với vị trí đó phương hướng xây dựng huyện hiện nay khơng phải là
xây dựng kế hoạch và dự toán ngân sách mà xây dựng cho được đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Ắt Ta Pư có khả năng, có năng lực, có đạo đức
phẩm chất cách mạng và đồng thời huyện phải phát triển, củng cố sắp xếp,
xác định cho đúng chức năng nhiệm vụ của huyện trong hệ thống bốn cấp
hiện nay để khai thác, sử dụng tiềm năng ở mọi địa bàn khác nhau nhằm đáp
ứng yêu cầu công cuộc đổi mới.
- Chức năng của cấp huyện
+ Quản lý hành chính theo ranh giới, lãnh thổ và các hoạt động của
Đảng, Nhà nước, của các ngành chức năng trực thuộc và các cụm bản, bản
theo nhiệm vụ được Chính phủ phân cấp.
+ Quản lý trực tiếp và toàn diện các cụm bản, bản trên địa bàn và chịu
sự lãnh đạo, chỉ đạo về mọi mặt của cấp tỉnh và Trung ương.
+ Cụ thể hoá chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật
của Nhà nước, nghị quyết, chủ trương và nhiệm vụ của tỉnh phù hợp với điều

kiện, hoàn cảnh cụ thể ở địa phương; lãnh đạo, chỉ đạo các ngành cấp cơ sở,
các đoàn thể và toàn dân thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh trên địa bàn, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chiến lược
là xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.
- Nhiệm vụ của cấp huyện
+ Nghiên cứu, xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch
ngân sách tài chính hằng năm trình Ban lãnh đạo huyện thơng qua trước khi
trình Ban lãnh đạo tỉnh phê duyệt.
+ Tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch ngân
sách Nhà nước và công tác quốc phòng - an ninh của huyện; chống và phòng
chống các hiện tượng tiêu cực; theo dõi, kiểm tra các dự án đầu tư của Trung
ương và tỉnh đặt ra tại huyện mình.


17
+ Bảo đảm việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật và các quy định của
Nhà nước và tạo sự thuận lợi việc quản lý các cơ quan liên quan để bảo đảm
việc tạo nguồn thu tại huyện của mình cho đúng và kịp thời.
+ Thúc đẩy, khuyến khích và tạo điều kiện cho Mặt trận Lào xây dựng
Tổ quốc, các cơ quan tổ chức quần chúng, tổ chức xã hội, mọi thành phần
kinh tế và nhân dân các dân tộc tham gia vào việc phát triển kinh tế - xã hội
tại huyện của mình.
+ Đề nghị thành lập, giải thể bản và bộ máy của cơ quan hành chính
huyện và tổ chức thực hiện việc quản lý dân số tại huyện của mình.
+ Báo cáo tình hình tồn diện của huyện cho tỉnh trưởng một cách
thường xuyên.
+ Quan hệ, hợp tác với nước ngồi theo giao phó của tỉnh.
+ Hướng dẫn, chỉ đạo việc thi hành các chủ trương, chính sách, thi hành
pháp luật, ban hành các quyết định, chỉ thị, nghị quyết và tổ chức thực hiện.
+ Tổ chức tuyên truyền giáo dục pháp luật, kiểm tra việc chấp hành

Hiến pháp, pháp luật ở cơ sở. Tổ chức chỉ đạo công tác thi hành án, công tác
kiểm tra, thanh tra Nhà nước. Tổ chức tiếp dân, giải quyết kịp thời những tố
cáo, khiếu nại của nhân dân; quyết định xử lý vi phạm hành chính theo quy
định của pháp luật.
+ Xây dựng chính quyền vững mạnh, thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà
nước đối với các tổ chức kinh tế; quản lý hành chính. Tổ chức việc bầu cử
Quốc hội theo quy định của pháp luật. Quản lý công tác tổ chức, biên chế, lao
động, tiền lương theo phân cấp của tỉnh và Chính phủ. Xét, cấp và thu hồi
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong phạm vi được giao.
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ chung của cấp huyện do Nhà nước quy
định và đặc điểm cụ thể của địa phương, chức năng, nhiệm vụ của cấp huyện
ở tỉnh Ắt Ta Pư; tỉnh Ắt Ta Pư có 5 đơn vị hành chính cấp huyện. Về mặt tổ
chức cấp huyện ở tỉnh Ắt Ta Pư có 5 đảng bộ. Trong đó, có Ban Chấp hành
đảng bộ, Ban Thường vụ cấp uỷ và thường trực cấp uỷ.


18
Giúp việc cho Ban Chấp hành Đảng bộ (cấp uỷ) là các ban đảng: Ban
Tuyên giáo, Ban Tổ chức, Uỷ ban kiểm tra, Văn phòng cấp huyện.
Cấp huyện ở Lào nói chung và tỉnh Ắt Ta Pư nói riêng là lãnh đạo
huyện và lãnh đạo huyện uỷ là cùng một người, đó là chế độ kiêm chức; nghĩa
là huyện trưởng kiêm bí thư huyện uỷ.
1.1.2. Quan niệm, vị trí, vai trò và đặc điểm của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp huyện ở tỉnh Ắt Ta Pư
1.1.2.1. Quan niệm, vị trí, vai trị đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện
ở tỉnh Ắt Ta Pư
* Quan niệm về đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện
- Khái niệm cán bộ
Trong Đại từ điển tiếng Việt, “cán bộ” được định nghĩa là:
1. Người làm việc trong cơ quan nhà nước: cán bộ nhà nước.

2. Người giữ chức vụ, phân biệt với người bình thường, khơng giữ
chức vụ, trong cơ quan tổ chức nhà nước: cán bộ tổ chức, cán bộ đại
đội [39, tr.249].
Trong Từ điển tiếng Việt, khái niệm “cán bộ” được hiểu là:
1. Người làm cơng tác có nghiệp vụ, chuyên môn trong cơ quan nhà
nước. Cán bộ nhà nước, cán bộ khoa học, cán bộ chính trị.
2. Người làm cơng tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức,
phân biệt với người thường, khơng có chức vụ [38, tr.109].
Nhìn chung, theo nhiều nhà nghiên cứu của Việt Nam, thuật ngữ cán bộ
xuất hiện trong đời sống xã hội ở Việt Nam từ khi có phong trào cách mạng
theo con đường chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là danh xưng để chỉ một lớp
người là những chiến sĩ cách mạng, lớp người mới, sẵn sàng chịu đựng gian
khổ, hy sinh, gắn bó với nhân dân. Trong q trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bàn nhiều về cán bộ và công tác cán bộ,
Người chỉ rõ: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính


19
phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của
dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho
đúng” [23, tr.269].
Ở Lào, thuật ngữ cán bộ xuất hiện trong đời sống xã hội của Lào từ khi
phong trào cách mạng Lào có tổ chức, Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm
nền tảng tư tưởng, nó được dùng làm tên gọi cho người đi làm cách mạng, mà
nhân dân thường gọi những người đó là cán bộ Lào ít-xạ-lạ và được sử dụng
rất nhiều ở vùng giải phóng của Mặt trận Lào yêu nước. Trong bản báo cáo
của Tổng bí thư Cay Sỏn Phơm Vi Hản trước Đại hội thành lập Đảng Nhân
dân Lào ngày 22 tháng 3 năm 1955 (Đảng NDCM Lào hiện nay), từ cán bộ
đã ghi vào trong chính sách cơ bản và chương trình hành động trước mắt của
Đảng như sau: Tích cực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trước hết là phải quan tâm

cán bộ là công nhân - nông dân, dân tộc ít người [32, tr.07].
Sau ngày giải phóng giành được độc lập hồn tồn trên cả nước, chính
quyền về tay nhân dân, thành lập nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào vào
ngày 02 tháng 12 năm 1975, từ đó Đảng trở thành đảng cầm quyền, từ cán bộ
được sử dụng một cách phổ biến trên cả nước và dường như thay hoàn toàn
cho từ “viên chức” đã được gọi trong chế độ bù nhìn Viêng Chăn. Kể từ đó
cho đến nay, trong xã hội đã hiểu danh từ cán bộ là danh xưng cho tất cả
những người làm việc trong bộ máy cơ quan Đảng, chính quyền, Mặt trận, các
tổ chức đồn thể chính trị - xã hội, các nhà máy, xí nghiệp nhà nước, lực
lượng vũ trang. Cách hiểu như thế xuất phát từ chỗ, các đối tượng này có
điểm chung là những người được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
Hiện nay, để phù hợp với pháp luật, Chính phủ đã ban hành hai nghị
định về Quy chế quản lý cơng chức CHDCND Lào, đó là Nghị định số
171/TTg, ngày 11 tháng 11 năm 1993 và sau đó đã được sửa đổi, bổ sung
thành Nghị định số 82/TTg, ngày 19 tháng 5 năm 2003, về cơ bản đã quy định
tương đối rõ cán bộ - công chức CHDCND Lào, tại điều 2 viết:


20
Cơng chức của Cộng hồ dân chủ nhân dân Lào là công dân Lào đã
được biên chế và được bổ nhiệm cho làm công việc thường xuyên
tại các cơ quan bộ máy của Đảng, Nhà nước, cơ quan tổ chức đoàn
thể cấp Trung ương, cấp địa phương và cơ quan đại diện CHDCND
Lào tại nước ngoài, mà được hưởng lương và tiền trợ cấp từ ngân
sách của Nhà nước [67, tr.02].
Dù cách dùng, cách hiểu trong các trường hợp ở lĩnh vực cụ thể có khác
nhau, nhưng về cơ bản có thể thấy những đặc trưng cơ bản của cán bộ là:
1. Bao hàm nghĩa chính của nó là khung, là nịng cốt;
2. Có tác động, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của tổ chức, đơn vị đó;
3. Có liên quan đến hoạt động lãnh đạo, quản lý, chỉ huy.

Như vậy, có thể hiểu một cách chung nhất, cán bộ là khái niệm chỉ
những người có chức trách, vai trò nòng cốt trong một tổ chức, cơ quan, đơn
vị có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ trong
lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng sự phát triển của
tổ chức và được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
- Quan niệm về đội ngũ cán bộ chủ chốt
Quan niệm về đội ngũ cán bộ chủ chốt, đến thời điểm hiện nay cịn có
nhiều quan niệm khác nhau. Thời gian gần đây ở một số văn kiện của Đảng
NDCM Lào đã dần dần có sự phân loại cán bộ trong hệ thống chính trị; điều
đó cũng để làm rõ chức trách nhiệm vụ, dễ dàng trong quản lý, sử dụng, đào
tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, thực hiện chính sách cán bộ, kỷ luật, khen
thưởng,...đối với cán bộ. Về vấn đề này trong một số văn bản của Đảng
NDCM Lào cũng đã đề cập như: Quy định số 02/BCT, ngày 17/10/2006 về
công tác quản lý cán bộ, Quyết định của Bộ Chính trị số 123/BCT, ngày
23/8/2007 về quy hoạch, bồi dưỡng và đào tạo cán bộ chủ chốt, cán bộ kế cận.
Trên thực tế công tác cán bộ ở Lào hiện nay chưa có văn bản hoặc cơng văn
nào làm căn cứ để phân loại cán bộ chủ chốt một cách hồn thiện; chính vì


21
điều đó mới khơng làm rõ được nội dung, thực chất, nội hàm và ngoại diên
của các khái niệm về cán bộ, nhất cán bộ chủ chốt các cấp; cho nên đã ảnh
hưởng đến việc tiêu chuẩn hoá từng chức danh cán bộ; khó tìm ra nội dung và
phương pháp đào tạo, bổ nhiệm, sử dụng, bổ nhiệm một cách hợp lý và khó
trong việc đánh giá một cách đúng đắn “đức”, “tài” của từng cán bộ. Vì thế,
cần làm rõ khái niệm cán bộ chủ chốt, nhất là cán bộ chủ chốt cấp huyện ở
tỉnh Ắt Ta Pư CHDCND Lào.
- Quan niệm về đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện
Theo Quy định số 02/BCT, ngày 17/10/2006 về công tác quản lý cán
bộ, thì đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện gồm các chức danh: Bí thư huyện

uỷ, huyện trưởng, phó bí thư huyện uỷ, huyện uỷ viên, bí thư, phó bí thư, uỷ
viên trong cấp uỷ cơ sở và đảng bộ trực thuộc quản lý của Ban thường vụ tỉnh
uỷ và Ban thường vụ huyện uỷ.
Như vậy, ĐNCBCCCH ở tỉnh Ắt Ta Pư là những người có chức trách,
vai trò nòng cốt trong bộ máy tổ chức của HTCT cấp huyện.
* Vị trí, vai trị đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện
Cán bộ là nhân tố quyết định việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng. Cán bộ là bộ phận đặc biệt quan trọng, là trung tâm của nhân tố con
người. Trong những nhân tố tạo nên sự phát triển không ngừng của xã hội, nhân tố
con người giữ vị trí trọng tâm, quyết định đối với các nhân tố khác. Con người là
vốn quý nhất, là chủ thể sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần của xã hội.
Con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển xã hội.
Cán bộ chủ chốt trước hết là những người cán bộ lãnh đạo, nhưng là
người cán bộ lãnh đạo quan trọng nhất trong các người lãnh đạo. Đó là những
người trực tiếp xây dựng và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách do
cấp trên giao phó và thực hiện chiến lược, kế hoạch cấp mình đề ra trong
những từng thời kỳ cách mạng. Đó là những người chịu trách nhiệm về kết
quả hoạt động của cấp uỷ hoặc tổ chức cơ quan mà họ đứng đầu.


22
Khi nói về vị trí, vai trị của cán bộ lãnh đạo đối với sự nghiệp cách
mạng, C.Mác và Ph.Ăngghen là người đầu tiên nêu ra quan điểm khoa học về
cán bộ, hai ông khẳng định: “Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con
người sử dụng lực lượng thực tiễn [18, tr.181].
C.Mác và Ph.Ăngghen đã có những kết luận sâu sắc và tồn diện về vị
trí, vai trị của cán bộ trọng sự nghiệp cách mạng vô sản. Theo hai ông, cán bộ
lãnh đạo là những người tiêu biểu cho phong trào cách mạng. Họ có trí thức
của thời đại, có trình độ nhận thức cao, biết kết hợp, vận dụng lý luận cách
mạng với thực tiễn để tổ chức phong trào cách mạng của quần chúng. Họ là

những người trung thành tuyệt đối với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và dân tộc; có trách nhiệm cao với nhiệm vụ cách mạng và chịu
sự giám sát của quần chúng, do đó được quần chúng tin yêu.
V.I. Lênin là người kế thừa và phát triển sáng tạo tư tưởng C.Mác và
Ph.Ăngghen về vị trí vai trò của cán bộ lãnh đạo và làm tấm gương về hoạt
động lý luận và thực tiễn. Người khẳng định vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng
của cán bộ và việc đào tạo cán bộ trong điều kiện Đảng lãnh đạo đấu tranh
giành chính quyền và trong cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc. V.I. Lênin viết: “Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành
được quyền thống trị nếu nó khơng đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình
những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng lãnh đạo, tổ
chức phong trào” [13, tr.473]. Khi đã giành được chính quyền, Người yêu cầu
đội ngũ cán bộ phải dũng cảm, nỗ lực gấp trăm lần trong nội chiến để học những
điều sơ đẳng nhất của công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Người chỉ ra
nhiệm vụ quan trọng của công tác cán bộ của Đảng: “Nghiên cứu con người tìm
những cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay đó là then chốt; nếu khơng thế thì tất cả mọi
mệnh lệnh và quyết định chỉ là mớ giấy lộn” [16, tr.449].
Khi có đường lối đúng thì cán bộ là nhân tố quan trọng, quyết định
thắng lợi việc tổ chức thực hiện đường lối đó. Đảng cầm quyền xây dựng chủ


23
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng là
phải bằng mọi cách tạo ra những cán bộ chính trị tài giỏi, những nhà chính trị
chuyên nghiệp. Người nhấn mạnh: “Muốn thắng giai cấp tư sản thì phải tạo
lấy những nhà chính trị giai cấp thực sự của mình, những nhà chính trị vô
sản” [15, tr.80-81].
Vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng, quan điểm của các nhà kinh
điển chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam và Đơng
Dương, Hồ Chí Minh ln khẳng định cán bộ là một trong những vấn đề có ý

nghĩa quyết định đối với thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, đối với công tác
xây dựng Đảng. Người viết: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”; “công
việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [24, tr.269,273].
Đối với vấn đề này, Chủ tịch Cay Sỏn Phôm Vi Hản, lãnh tụ kiệt xuất
của cách mạng Lào đã chỉ rõ vai trò của cán bộ là:
Muốn thực hiện được đường lối, chính sách của Đảng phải có một lực
lượng cán bộ vững mạnh. Cán bộ là vốn quý nhất của Đảng, là người
lãnh đạo nhân dân, là người phục tùng nhân dân, là cầu nối giữa Đảng
với quần chúng. Sau khi Đảng đã có đường lối, chính sách đúng đắn,
mọi công việc cách mạng của Đảng tốt hay kém, sẽ thắng lợi hay thất
bại đều do cán bộ của Đảng là người quyết định [56, tr.68-69].
Trong bài diễn văn trước Hội nghị cán bộ toàn quốc ngày 07 tháng 8
năm 1975, Chủ tịch Khăm Tày Xỉ Phăn Đon, có đoạn nói:
Vấn đề cán bộ, nó gắn trực tiếp với sự củng cố năng lực lãnh đạo
của Đảng, nếu có cán bộ giỏi và tốt sẽ nâng cao vai trò và uy tín của
Đảng, thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, ngăn chặn các
hiện tượng quan liêu, cửa quyền, tham nhũng và các hiện tượng tiêu
cực khác; có cán bộ tốt mới có được tổ chức mạnh, đảm bảo sự đoàn
kết thống nhất trong Đảng và tập hợp đoàn kết giữa các tầng lớp
người và các bộ tộc, phát huy được những tiềm năng của toàn dân


24
trong việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước [63, tr.126].
Trong các kỳ đại hội Đảng NDCM Lào, đều đề ra phương hướng, chiến
lược cán bộ và khẳng định vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ cho mỗi giai
đoạn cách mạng của Lào; mỗi đại hội đều được bổ sung và làm rõ thêm quan
điểm về cán bộ, nhất là cán bộ trong hàng ngũ cán bộ của Đảng trong thời kỳ
đổi mới. Đối với vấn đề này được Đại hội VIII khẳng định: “Thực tiễn đã

khẳng định rằng, cán bộ có vai trị quan trọng, quyết định kết quả được, mất
của việc tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước” [61, tr.79].
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, đó là giai đoạn phát triển đất nước
theo hướng mở rộng, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, nhưng phải giữ
vững độc lập chủ quyền quốc gia, giữ vững quyền lãnh đạo của Đảng NDCM
Lào và đưa đất nước đi theo hướng xã hội chủ nghĩa, thì vai trị cán bộ của
Đảng và Nhà nước càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Họ là đội quân
quyết định nhất sinh mệnh của Đảng, Nhà nước và chế độ.
Tóm lại, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, đội ngũ cán bộ của mỗi cấp, mỗi
ngành, mỗi tổ chức đều có vai trị quan trọng, to lớn trong sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
Từ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của cán bộ, nhất là cán bộ lãnh
đạo, quản lý chủ chốt các ngành, các cấp đối với công tác xây dựng Đảng
trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu cao và đối với thắng lợi của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã coi cán bộ là vốn quý của Đảng, của nhân dân, của đất nước và dân tộc.
Ngay từ khi cách mạng cịn phơi phai với mn vàn khó khăn, thử thách,
Người đã dạy một cách dễ hiểu rằng: “Cán bộ là tiền vốn của tồn thể, có vốn
mới làm ra lãi, khơng có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn” [24, tr.367].
Từ nhận thức sâu sắc và đánh giá cao vị trí, vai trị của cán bộ, Người chỉ ra


25
mục tiêu, nhiệm vụ của công tác cán bộ, vai trị của cán bộ có chất lượng tốt,
xứng đáng với vị trí, vai trị đó. Đồng thời, khẳng định tầm quan trọng của
công tác cán bộ, Người nhấn mạnh: “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của
Đảng” [24, tr.269].
CNH, HĐH là giai đoạn phát triển tất yếu của mọi quốc gia, nhằm
chuyển từ nền kinh tế kém phát triển lên nền kinh tế tiên tiến, hiện đại. Song,

công việc ấy, phải qua hằng chục năm, thậm chí lâu hơn nữa. Đối với nước
Lào, điểm xuất phát rất thấp kém, lại trải qua chiến tranh ác liệt của thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ để lại nhiều hậu quả rất nặng nề, thì hồn tồn cơng việc
đó, lại càng phải qua một quá trình lâu dài, gian khổ, phải vượt qua nhiều khó
khăn, thách thức. Điều đó phải có đội ngũ cán bộ tương xứng đáp ứng yêu cầu
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Nhìn năm gần đây, tình hình chính trị, kinh tế thế giới và khu vực có
nhiều biến đổi nhanh chóng và phức tạp. Với sự phát triển như vụ bão của
khoa học, công nghệ, sự giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng và gia tăng, các
nước đang có điều kiện rất thuận lợi có thể rút ngắn quá trình CNH, HĐH.
Quốc gia nào lựa chọn cho mình một chiến lược CNH, HĐH đúng đắn, tận
dụng được lợi thế, vượt qua khó khăn, thách thức sẽ có cơ hội vươn lên thành
những nước cơng nghiệp mới, có nền kinh tế phát triển. Ngược lại, nước nào
bỏ lỡ thời cơ sẽ bị tụt hậu ngày càng xa so với các nước khác. Điều đó địi hỏi
rất cao đối với đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ
chốt các ngành, các cấp, vai trò của những cán bộ này và công tác cán bộ lại
càng quan trọng hơn.
Trong điều kiện mở cửa, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế
phải trao đổi và học tập, áp dụng kinh nghiệm tốt của các nước phát triển trên
thế giới và trong khu vực, phù hợp với điều kiện thực tế ở Lào; trong đó, vấn
đề xây dựng đội ngũ cán bộ quan chức nhà nước của một số nước cần được
quan tâm nghiên cứu.


×