Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã ở tỉnh Phú Thọ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (459.93 KB, 119 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII khẳng
định: "Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng gắn liền với
vận mệnh của Đảng, của đất nước, của chế độ, là khâu then chốt trong công
tác xây dựng Đảng" [18, tr. 33].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc. Vì vậy huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng" [39, tr. 269].
Cấp xã (xã, phường, thị trấn) là một cấp trong hệ thống hành chính
bốn cấp của Nhà nước Việt Nam, là nền tảng của hệ thống chính trị. Cấp xã
giữ một vai trò, vị trí hết sức quan trọng, là nơi trực tiếp thực hiện đường lối,
chính sách, pháp luật và nhiệm vụ cấp trên giao, là cấp chính quyền trực tiếp
chăm lo đến đời sống của nhân dân, là cầu nối giữa nhà nước với nhân dân.
Qua từng thời kỳ lịch sử, chính quyền cấp xã không ngừng được xây
dựng và củng cố, bảo đảm cho chính quyền nhà nước vững mạnh từ cơ sở.
Cán bộ là một yếu tố quan trọng nhất trong việc xây dựng và củng cố
chính quyền cấp xã vững mạnh. Đồng thời muốn xây dựng và củng cố chính
quyền cấp xã vững mạnh thì phải xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ năng lực và
phẩm chất để thực hiện sự nghiệp đổi mới mà Đảng ta đã khởi xướng.
Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa IX về đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ
sở xã, phường, thị trấn nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước đã xác
định từ nay đến năm 2005, cần tập trung giải quyết mấy vấn đề cơ bản và bức
xúc trong đó ghi rõ:
Xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở có năng lực tổ chức và vận
động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà
1
nước, công tâm, thạo việc, tận tuỵ với dân, biết phát huy sức dân,
không tham nhũng, không ức hiếp dân; trẻ hóa đội ngũ, chăm lo
công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính
sách đối với cán bộ cơ sở [20, tr. 167-168].


Thực tế cho thấy, ở những xã chính quyền vững mạnh là do có đội ngũ
cán bộ mạnh và những xã yếu kém thì thường cũng bắt đầu yếu kém từ khâu
cán bộ. Trong những năm gần đây, đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã trong
cả nước nói chung và tỉnh Phú Thọ nói riêng đã có những mặt tiến bộ rõ nét.
Thực hiện Nghị quyết 09 ngày 14 tháng 8 năm 1997 của Hội đồng
nhân dân (HĐND) tỉnh Phú Thọ về xây dựng chính quyền cơ sở trong sạch,
vững mạnh, đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã được quan tâm đào tạo, bồi
dưỡng kiến thức nhiều mặt, nhất là kiến thức quản lý nhà nước. Theo đó năng
lực lãnh đạo, năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ của cán bộ chính quyền
cấp xã không ngừng được nâng cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của
tình hình và nhiệm vụ mới, góp phần tạo nên chuyển biến trên tất cả các mặt
đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, an ninh, quốc phòng trên địa bàn
tỉnh.
Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ mới của đất nước, của địa phương
thì đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã còn nhiều bất cập. Trong năm 2001, Ủy
ban nhân dân (UBND) tỉnh đã tổ chức thi chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn
giỏi tỉnh Phú Thọ lần thứ nhất. Qua cuộc thi cho thấy trình độ năng lực của
đội ngũ chủ tịch UBND cấp xã còn nhiều hạn chế bất cập, nhất là sự hiểu biết
về pháp luật liên quan đến quản lý nhà nước ở cấp xã, phường, thị trấn cũng
còn nhiều hạn chế. Do những hạn chế đó, nên trong quá trình quản lý khi gặp
những tình huống, những vụ việc rắc rối không đề ra được phương án giải
quyết tối ưu. Cũng thông qua cuộc thi cho thấy có sự chênh lệch cả về nhận
thức, năng lực giữa chủ tịch UBND các xã miền núi so với các xã, phường,
thị trấn đồng bằng, thành phố, thị xã. Đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã của
2
tỉnh hầu hết chưa qua đào tạo cơ bản, chủ yếu là qua các lớp bồi dưỡng ngắn
ngày. Những lúng túng, va vấp, vi phạm trong công việc là điều khó tránh
khỏi. Đây là một vấn đề rất lớn đặt ra cho Phú Thọ về đào tạo để nâng cao
trình độ năng lực cho đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã. Bên cạnh những
hạn chế do trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã, một bộ

phận không nhỏ cán bộ do tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, đã có biểu
hiện suy thoái về phẩm chất, đạo đức, sống xa dân, quan liêu, hách dịch, cửa
quyền, mất dân chủ, tham nhũng, lãng phí, lợi dụng chức quyền làm trái các
nguyên tắc quản lý, bán và sang nhượng đất trái phép, thậm chí bớt xét tham ô
tiền của nhà nước, bị truy tố trước pháp luật... gây tổn hại không nhỏ đến uy
tín và làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Tình
trạng khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện đông người vẫn còn. Bên cạnh đó, hoạt
động của các đại biểu HĐND cấp xã còn nhiều hạn chế. Năng lực, trình độ
của các đại biểu HĐND cấp xã không đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của
nhiệm vụ mà nhân dân giao cho.
Trong bối cảnh trên, cần có một sự nghiên cứu toàn diện về đội ngũ
cán bộ chính quyền cấp xã để có giải pháp nâng cao trình độ năng lực của đội
ngũ cán bộ chính quyền cấp xã ở tỉnh Phú Thọ. Từ những phân tích nêu trên
tác giả lựa chọn đề tài: "Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền
cấp xã ở tỉnh Phú Thọ hiện nay" để làm luận văn thạc sĩ. Đây là vấn đề cấp
bách, phù hợp với yêu cầu cải cách nền hành chính nhà nước hiện nay, phù
hợp với thực tiễn của địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã từ
năm 1991 đến nay đã được các nhà nghiên cứu khoa học xã hội và các nhà
hoạt động chính trị quan tâm dưới nhiều góc độ khác nhau như: Học viện
3
Hành chính Quốc gia năm 1991, đã công bố một cuốn sách về: "Cải cách bộ
máy quản lý hành chính nhà nước và xây dựng đội ngũ công chức nhà nước".
Có nhiều công trình khoa học, các luận văn thạc sĩ, cử nhân nghiên
cứu về bộ máy chính quyền cấp xã trong đó có bàn về đội ngũ cán bộ chính
quyền cấp xã. Đáng chú ý là các công trình sau đây: Giáo sư Hồ Văn Thông:
"Tình hình các tổ chức chính trị ở nông thôn nước ta" được in trong cuốn sách
"Kinh tế xã hội nông thôn Việt Nam ngày nay", tập 2, Nxb Tư tưởng văn hóa,
Hà Nội 1991; Lê Đình Chếch: "Về nhà nước xã hội chủ nghĩa và công tác cán

bộ chính quyền cấp xã ở Hải Hưng", Luận văn thạc sĩ triết học, Hà Nội, 1994;
Nguyễn Thị Hải: "Về đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã ở
Thái Bình trong điều kiện cải cách nền hành chính nhà nước", Hà Nội, 2001.
Trong điều kiện cải cách hành chính nhà nước, vấn đề đội ngũ cán bộ
chính quyền cấp xã được đặc biệt quan tâm. Một số đề tài khoa học, công
trình nghiên cứu đề cập trực tiếp đến vấn đề này và hoàn chỉnh hơn. Chẳng
hạn: Phó giáo sư, tiến sĩ Bùi Tiến Quý "Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động
của chính quyền địa phương trong giai đoạn hiện nay ở nước ta", Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội 2000; Tiến sĩ Thang Văn Phúc và tiến sĩ Chu Văn Thành
đồng chủ biên: "Chính quyền cấp xã và quản lý nhà nước cấp xã" của Viện
Khoa học Tổ chức Nhà nước, Ban Tổ chức Cán bộ chính phủ, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2000; Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hiến chủ biên "Các giải pháp
thúc đẩy cải cách hành chính ở Việt Nam" của Học viện Hành chính Quốc gia,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001; Tiến sĩ Nguyễn Văn Sáu và giáo sư Hồ
Văn Thông chủ biên: "Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay" của Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001; Thạc
sĩ Phạm Đức Thăng: "Mấy suy nghĩ về việc củng cố tổ chức Đảng và chính
quyền cấp xã hiện nay", Thông tin Chính trị học, số 1(8)/2001; Phó giáo sư,
tiến sĩ Hoàng Chí Bảo: "Một số vấn đề xử lý nạn quan liêu, tham nhũng như
4
một tình huống chính trị", Thông tin Chính trị học, số 2 (9)/2001; Tiến sĩ
Nguyễn Văn Sáu và Giáo sư Hồ Văn Thông chủ biên: "Thực hiện quy chế dân
chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay", Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003; Phó giáo sư,
tiến sĩ Nguyễn Đăng Dung: "Tổ chức chính quyền nhà nước ở địa phương",
Nxb Đồng Nai, 1997.
Ngoài ra, một số bài viết, nghiên cứu được đăng trên các Tạp chí
Thông tin Chính trị học, Tạp chí Quản lý nhà nước, Nhà nước pháp luật như:
Tiến sĩ Lê văn Hòe: "Về hoàn thiện tổ chức bộ máy hệ thống chính trị ở các
tỉnh miền núi ", Đề tài độc lập cấp nhà nước: "Các giải pháp đổi mới hoạt

động của hệ thống chính trị các tỉnh miền núi", Hà Nội, 2002.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nêu trên đều đề cập vấn đề đội
ngũ cán bộ của chính quyền cấp xã, hoặc là ở dạng chung nhất hoặc đặt nó
nằm trong phạm vi nghiên cứu tổ chức hoạt động của bộ máy chính quyền cấp
xã nói chung, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu có hệ thống dưới góc
độ một luận văn khoa học về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền
cấp xã ở một tỉnh cụ thể như đề tài luận văn lựa chọn ở đây. Tuy nhiên, trong
các công trình đã được công bố có những nội dung liên quan đến đề tài sẽ
được tác giả luận văn tham khảo có kế thừa, chọn lọc.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là đề xuất những phương hướng, giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã của tỉnh Phú Thọ
trong giai đoạn hiện nay.
- Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ
thể sau đây:
5
+ Phân tích cơ sở lý luận về cán bộ chính quyền cấp xã và chất lượng
đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã. Trong đó hệ thống hóa những quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng, Nhà nước ta
về đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã; khái niệm và những tiêu chí đánh giá,
những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã.
+ Phân tích thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã
tỉnh Phú Thọ, qua đó nêu ra những vấn đề tồn tại cần khắc phục cũng như
phân tích các nguyên nhân hạn chế đến chất lượng đội ngũ cán bộ chính
quyền cấp xã ở Phú Thọ.
+ Đề xuất các phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng, đội ngũ
cán bộ chính quyền cấp xã ở Phú Thọ nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi
mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân ở nước ta hiện nay.

4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Quan niệm về chính quyền cấp xã còn nhiều ý kiến khác nhau. Luận
văn nghiên cứu đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã chỉ tập trung vào đội ngũ
cán bộ của HĐND và UBND cấp xã.
- Luận văn nghiên cứu đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã ở Phú Thọ
nhưng chỉ giới hạn từ thời kỳ tái lập tỉnh Phú Thọ năm 1997 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, của Đảng và Nhà nước ta về nhà nước, pháp luật xã hội chủ nghĩa
(XHCN), về cán bộ, về chính quyền cấp xã và đội ngũ cán bộ chính quyền cấp
xã.
6
- Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của triết học Mác -
Lênin, kết hợp các phương pháp lịch sử - thực tiễn; phân tích tổng hợp, điều
tra xã hội học; thống kê, so sánh...
6. Đóng góp mới của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về chất
lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã. Đặc biệt
làm rõ đặc điểm của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã ở một tỉnh trung du,
miền núi như tỉnh Phú Thọ.
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng về chất lượng đội ngũ cán bộ chính
quyền cấp xã của tỉnh Phú Thọ, luận văn đề xuất các phương hướng, giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã, đáp ứng nhiệm
vụ cách mạng hiện nay đối với một tỉnh trung du miền núi, có nhiều dân tộc,
đa dạng các loại hình kinh tế như tỉnh Phú Thọ.
- Luận văn có thể làm tư liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến
vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

gồm 3 chương, 8 tiết.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ
1.1. CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ VÀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của chính quyền cấp xã
a) Khái niệm chung về chính quyền cấp xã
Trong hệ thống hành chính nước ta, chính quyền xã - phường - thị trấn
(gọi chung là cấp xã) là chính quyền cấp thấp nhất trong hệ thống chính
quyền 4 cấp hoàn chỉnh: Trung ương, tỉnh, huyện, xã.
Tính đến 19 tháng 4 năm 2002, nước ta có 10.579 đơn vị hành chính
xã, phường, thị trấn, trong đó có 8.964 xã, 573 thị trấn, 1.042 phường. Dưới
xã, phường, thị trấn có các cộng đồng dân cư tự quản; dưới xã có thôn, làng,
ấp, bản, buôn. Dưới phường, thị trấn có tổ dân phố, ở một số thành phố, thị xã
giữa phường và tổ dân phố có cụm dân cư, giữa xã và thôn có khu hành
chính. Số lượng xã, phường, thị trấn trong những năm qua không ổn định.
Cùng với quá trình chia tách các tỉnh, huyện, việc thành lập mới các xã,
phường, thị trấn diễn ra ở hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Chỉ trong vòng
7 năm từ 1995 đến 2002 đã tăng 357 đơn vị trong đó có 59 xã, 213 phường và
85 thị trấn. Chính quyền cấp xã là nơi trực tiếp thực hiện nhiệm vụ cụ thể
quản lý hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực chính trị, an ninh, quốc
phòng, kinh tế, văn hóa, xã hội ở cơ sở, đảm bảo các chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống, nâng cao mọi mặt đời
sống của nhân dân. Sự trong sạch vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả
8
của chính quyền cấp xã đóng vai trò rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động
quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ công phục vụ nhân dân.

Trong quá trình xây dựng, hoàn thiện bộ máy nhà nước, Đảng và nhân
dân ta luôn dành sự quan tâm đối với chính quyền cấp xã. Cùng với việc hoàn
thiện thể chế, chính sách đãi ngộ và đầu tư cơ sở vật chất, Đảng và Nhà nước
luôn chăm lo xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất đạo đức, trình
độ năng lực của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã.
Chính quyền cấp xã là cấp chính quyền gần dân nhất, là cầu nối trực
tiếp giữa hệ thống chính quyền cấp trên với nhân dân, hàng ngày tiếp xúc,
nắm bắt và phản ánh tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Cấp xã có vai trò rất
quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn
dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển
kinh tế- xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư.
Chính quyền được hiểu là bộ máy điều khiển, quản lý công việc của
nhà nước và hoạt động của nó mang tính chất quyền lực của Nhà nước, bằng
phương thức tác động của Nhà nước. Cấp xã là đơn vị cấp dưới cùng, vì thế
Chính quyền cấp xã chỉ bao gồm HĐND và UBND. Qua đó có thể hiểu, chính
quyền cấp xã là một cấp cuối cùng trong hệ thống chính quyền 4 cấp của Việt
Nam, là nơi trực tiếp thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước, các mục tiêu kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng ở cơ sở, thực
hiện việc quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn.
Từ những phân tích trên đây, có thể nêu khái quát khái niệm chính
quyền cấp xã như sau: Chính quyền cấp xã bao gồm HĐND và UBND là cấp
thấp nhất trong hệ thống chính quyền 4 cấp ở Việt Nam, thực hiện quyền lực
nhà nước ở địa phương, có chức năng thay mặt nhân dân địa phương, căn cứ
vào nguyện vọng của nhân dân địa phương, quyết định và tổ chức thực hiện
9
những vấn đề có liên quan đến phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh,
quốc phòng và đời sống của nhân dân địa phương, theo Hiến pháp, pháp luật
và các mệnh lệnh, quyết định của cấp trên.
b) Đặc điểm của chính quyền cấp xã

Chính quyền cấp xã có những đặc điểm sau:
Một là: Chính quyền cấp xã có HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước
ở địa phương và UBND do HĐND bầu ra là cơ quan chấp hành của HĐND,
cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Vì thế, chính quyền cấp xã là cấp
trực tiếp thực hiện nhiệm vụ cụ thể về quản lý hành chính nhà nước trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng ở cơ sở, là cầu nối trực
tiếp giữa nhà nước và nhân dân, xử lý trực tiếp, kịp thời những yêu cầu hàng
ngày của nhân dân.
Hai là: Chính quyền cấp xã khác với chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện:
Tổ chức bộ máy chính quyền cấp xã chỉ bao gồm cơ quan quyền lực nhà nước
là HĐND là cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân ở địa
phương và UBND là cơ quan chấp hành của HĐND và là cơ quan hành chính
nhà nước ở địa phương, không có các cơ quan tư pháp: Viện kiểm sát nhân
dân và Tòa án nhân dân.
Ba là: Chính quyền cấp xã là nơi trực tiếp tiếp xúc với nhân dân; cán
bộ chính quyền cấp xã là người hàng ngày trực tiếp giải quyết những vấn đề
liên quan đến mọi quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân đảm bảo theo đúng
đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, các văn bản pháp
luật của cấp trên. UBND còn có trách nhiệm rất nặng nề phải quản lý mọi mặt
đời sống của nhân dân địa phương cho nên trong hoạt động mang nhiều tính
chất hành chính địa phương.
10
Bốn là: Trong hoạt động của chính quyền cấp xã, giữa HĐND và
UBND khó tách biệt nhau về các lĩnh vực thẩm quyền và UBND có ưu thế
vượt trội: Chính quyền cấp xã được coi là một cấp chính quyền hoàn chỉnh,
bao quát toàn diện đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng ở
địa bàn cơ sở. Nội dung các nghị quyết của HĐND và quyết định của UBND
nhìn chung là giống nhau, chỉ khác ở chỗ: HĐND quyết định biện pháp, còn
UBND tổ chức thực hiện. Trong khi đó, tổ chức bộ máy của HĐND không đủ
sức hoạt động độc lập mà chủ yếu dựa vào bộ máy của UBND để soạn thảo

các nghị quyết. Theo Điều 5, Luật tổ chức HĐND và UBND (sửa đổi): "Hội
đồng nhân dân cấp xã có Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân" [35, tr. 7].
Đối với cấp tỉnh và cấp huyện: "Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có
Thường trực Hội đồng nhân dân và các ban của Hội đồng nhân dân" [35, tr. 7].
Với cơ cấu tổ chức như trên, các ban của HĐND cấp tỉnh và cấp huyện có khả
năng soạn thảo các nghị quyết, thức hiện chức năng quyết định các biện pháp,
chủ trương về các vấn đề thuộc thẩm quyền của HĐND cấp tỉnh, cấp huyện.
Trong khi đó, ở cấp xã, do không có bộ máy giúp việc, đại biểu HĐND lại kiêm
nhiệm, việc chuẩn bị các kỳ họp hoàn toàn dựa vào bộ máy của UBND và
mỗi năm chỉ họp từ 3 - 4 lần. Trong điều kiện đó, hoạt động của UBND sẽ có ưu
thế vượt trội hơn, dễ lấn át HĐND, dễ lâm vào tình trạng "vừa đá bóng, vừa thổi
còi".
Năm là: Các đơn vị hành chính cấp xã, được hình thành trên nền tảng
những địa điểm quần cư, nó liên kết dân cư trong một khối liên hoàn thống
nhất. Mọi vấn đề của địa phương đều liên quan chặt chẽ với nhau và cần phải
được giải quyết trên cơ sở kết hợp hài hòa các lợi ích: Nhà nước, dân cư và
giữa dân cư với nhau. Chính quyền ở đây không chỉ là cơ quan cai trị- quản lý
mà còn là cơ quan thể hiện lợi ích chung của dân cư.
11
Trong khi tổ chức quyền lực nhà nước ở cấp trung ương có việc phân
chia, hoặc phân công phân nhiệm một cách rạch ròi giữa lập pháp, hành pháp
và tư pháp. Cấp tỉnh, cấp huyện cũng có cơ quan tư pháp - Viện kiểm sát nhân
dân và Tòa án nhân dân. Riêng cấp xã, trong cơ cấu tổ chức bộ máy chính
quyền chỉ có HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương và UBND
là cơ quan chấp hành của HĐND và là cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương, thậm chí UBND cấp xã, phường, thị trấn trong nhiều trường hợp còn
phải kiêm nhiệm luôn cả chức năng tư pháp (xét xử, hòa giải).
1.1.2. Vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã
C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh đều đánh
giá rất cao vai trò của đội ngũ cán bộ. Có đường lối đúng đắn nhưng thiếu đội

ngũ cán bộ có phẩm chất và năng lực thì cách mạng cũng khó thành công.
Cán bộ có vai trò quyết định thắng lợi của cách mạng.
C. Mác, Ph. Ăngghen là người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa
học, là lãnh tụ vĩ đại đầu tiên của phong trào cách mạng vô sản trên thế giới
đã đưa ra những tư tưởng, quan điểm cơ bản về tầm quan trọng của việc xây
dựng đội ngũ cán bộ. Song do điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, chưa có một đảng
vô sản nào giành được chính quyền nên Mác và Ăngghen chưa thể bàn cụ thể
về cán bộ và công tác cán bộ trong điều kiện Đảng cầm quyền. Nhưng chính
các ông đã trực tiếp bắt tay vào việc tuyển chọn, xây dựng đội ngũ cán bộ cho
tổ chức cộng sản có tính quốc tế đầu tiên là "Ủy ban thông tin cộng sản".
Trong Đại hội "Liên đoàn những người cộng sản", Mác và Ăngghen đã nêu rõ
nguyên tắc tổ chức một đảng cách mạng của giai cấp vô sản là phải lựa chọn
cho mình những đại biểu công nhân giác ngộ nhất, tiêu biểu nhất theo phương
châm: Cần phải sàng lọc từng người một.
V.I. Lênin là người đã vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của chủ
nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử cụ thể của nước Nga. Trong tác phẩm "Những
nhiệm vụ bức thiết của phong trào chúng ta", khi nói về vai trò của người lãnh
12
đạo phong trào cách mạng, Người đã chỉ rõ: "Trong lịch sử, chưa hề có một
giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong
hàng ngũ của mình những lãnh đạo chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ
khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào" [30, tr. 473].
Tổng kết những năm đầu của cách mạng (1917-1922), V.I. Lênin đã
khẳng định: "Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay
đó là then chốt; nếu không thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là
mớ giấy lộn" [33, tr. 449].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá: "Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc" [39, tr. 269]; "công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt
hay kém".
Quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và qua thực tiễn cách

mạng ở các nước, các Đảng cộng sản và công nhân quốc tế đều chứng minh
và khẳng định vai trò quan trọng của cán bộ và công tác cán bộ.
Tính đến 19/4/2002, nước ta có 10.579 đơn vị hành chính cấp xã. Trong
kỳ bầu cử ngày 14/11/1999, tổng số đại biểu HĐND xã, phường, thị trấn được
bầu là 227.000 đại biểu.
Tổng số cán bộ xã, phường, thị trấn được hưởng sinh hoạt phí và phụ
cấp hàng tháng từ các nguồn ngân sách và kinh phí khác nhau trong toàn quốc
khoảng 2 triệu người, bình quân mỗi xã, phường, thị trấn có khoảng 190 cán
bộ. Cán bộ chuyên trách bình quân mỗi xã có 22 người. Đại biểu HĐND bình
quân mỗi xã có 22 đại biểu; cán bộ cấp thôn tổng số có khoảng 480.000
người; cán bộ y tế, giáo dục mầm non khoảng 200.000 người. Cán bộ không
chuyên trách (như cán bộ phụ trách công tác dân số, Hội người cao tuổi, Hội
chữ thập đỏ, cán bộ hoạt động văn hóa - thông tin...) có khoảng 780.000
người. Có thể thấy, số lượng cán bộ cấp xã là quá lớn, và xu hướng còn mở
rộng thêm chứ không tinh giảm được do công việc dồn xuống cấp dưới quá
13
nhiều, và nhiều ngành cũng như cấp tỉnh, huyện đều muốn có cán bộ của
mình ở cơ sở cấp xã.
Trong hệ thống chính trị ở cơ sở có cán bộ chuyên trách và không
chuyên trách:
Cán bộ chuyên trách là những cán bộ phải dành phần lớn thời gian lao
động, làm việc tại công sở để thực hiện chức trách được giao, bao gồm: Cán
bộ giữ chức vụ qua bầu cử gồm: Cán bộ chủ chốt của cấp ủy đảng, HĐND,
UBND, những người đứng đầu Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị xã hội. Cán bộ chuyên môn được UBND tuyển chọn gồm trưởng
công an, xã đội trưởng, cán bộ văn phòng, địa chính, tài chính - kế toán, tư
pháp, văn hóa - xã hội. Số lượng cán bộ chuyên trách do Chính phủ quy định.
Tổng số cán bộ chuyên trách ở một xã, phường, thị trấn tối thiểu là 17 người,
tối đa là 25 người (chưa kể kiêm nhiệm).
Cán bộ chuyên trách ở cấp xã có chế độ làm việc và được hưởng

chính sách chế độ về cơ bản như cán bộ, công chức nhà nước; khi không còn
là cán bộ chuyên trách mà chưa đủ điều kiện để hưởng chế độ hưu trí, được
tiếp tục tự đóng bảo hiểm xã hội hoặc hưởng phụ cấp một lần theo chế độ
nghỉ việc. Cán bộ, công chức cơ sở có đủ điều kiện được thi tuyển vào ngạch
công chức ở cấp trên.
Theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ,
công chức, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2003, tại điểm g và h khoản 1,
Điều 1 quy định: Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm
kỳ trong thường trực HĐND, UBND; Bí thư, Phó bí thư Đảng ủy; người đứng
đầu tổ chức chính trị - xã hội xã, phường, thị trấn và những người được tuyển
dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã
được gọi là cán bộ công chức nhà nước trong biên chế, được hưởng lương từ
ngân sách nhà nước và các nguồn thu sự nghiệp theo quy định của pháp luật.
14
Cán bộ chính quyền cấp xã là bộ phận lớn nhất và rất quan trọng trong
đội ngũ cán bộ của bộ máy chính quyền ở nước ta. Họ vừa là người đại diện
của nhân dân trong quản lý hành chính nhà nước ở địa phương, vừa là người
trực tiếp tổ chức thực hiện quyền hành pháp và quản lý hành chính nhà nước,
cũng như thực hiện các nhiệm vụ quản lý và phát triển kinh tế, văn hóa - xã
hội, giáo dục, y tế, an ninh, quốc phòng ở địa phương. Cán bộ chính quyền
cấp xã đã có nhiều đóng góp, trưởng thành trong sự nghiệp bảo vệ và xây
dựng tổ quốc qua các thời kỳ cách mạng trước đây và hiện nay, họ vẫn phát
huy được những ưu điểm của mình.
Tuy nhiên, đứng trước những nhiệm vụ to lớn của giai đoạn đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, trước những hoàn cảnh
và tình thế mới, đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã cũng bộc lộ nhiều điểm
bất cập cần phải nghiên cứu khắc phục.
Trước hết, đó là mâu thuẫn giữa số lượng ngày một tăng của đội ngũ
cán bộ chính quyền cấp xã nhưng chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ. Đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã tuy rất đông về số lượng nhưng không

đủ sức đảm đương được những công việc trong những điều kiện và tình hình
mới của đất nước.
Theo quy định tại Nghị định số 174/CP của Chính phủ ban hành ngày
29/9/1994, cơ cấu của UBND xã, phường, thị trấn gồm có: 1 chủ tịch, 1 phó
chủ tịch và 5 ủy viên ủy ban. Với khoảng 1 vạn đơn vị hành chính cấp xã, đội
ngũ cán bộ chính quyền cấp xã có số lượng khoảng 70.000 người.
Nghị định số 50/CP ngày 26/7/1995 quy định, ngoài số ủy viên ủy
ban đã nêu trên, các chức danh khác được bố trí phù hợp với yêu cầu của từng
địa phương theo các mức sau đây:
- Dưới 5.000 dân: 12 cán bộ.
- Từ 5.000 dân đến dưới 10.000 dân: 14 cán bộ.
15
- Từ 10.000 dân đến dưới 15.000 dân: 16 cán bộ.
- Từ 15.000 dân đến dưới 20.000 dân: 18 cán bộ.
- Trên 20.000 dân trở lên tối đa không quá 20 cán bộ.
Trừ số cán bộ làm công tác đoàn thể, số cán bộ chính quyền cấp xã
gồm chủ tịch UBND và các thành viên của ủy ban dao động từ 7 đến 13
người tùy theo từng loại xã.
Đến Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ban hành ngày 23/01/1998, quy
định số lượng cán bộ chính quyền cấp xã như sau:
- Xã dưới 10.000 dân: 17-19 cán bộ.
- Xã từ 10.000 dân đến 20.000 dân: 19-21 cán bộ.
- Xã trên 20.000 dân, cứ thêm 3.000 dân thêm 1 cán bộ, tối đa không
quá 25 cán bộ.
Như vậy, nếu trừ số cán bộ làm công tác đoàn thể, số lượng cán bộ
làm công tác chính quyền cấp xã đã tăng lên ở từng loại xã từ 3 đến 5 người
và nếu lấy bình quân mỗi xã có khoảng 20 cán bộ, thì tổng số cán bộ chính
quyền cấp xã trong cả nước sẽ vào khoảng 212.000 người. So với đội ngũ
công chức hành chính trong toàn quốc từ cấp huyện đến Trung ương hiện có
khoảng 200.000 người, thì đội ngũ cán bộ làm công tác chính quyền ở cấp xã

không phải là nhỏ. Ngoài số đó ra còn có 227.000 người là đại biểu HĐND và
hàng trăm ngàn các trưởng thôn, trưởng bản, trưởng các cụm dân cư, những
người đang được chính quyền cấp xã trao những quyền hạn nhất định về quản
lý hành chính, tạo thành một đội ngũ cán bộ đông đảo ở cấp xã trong toàn
quốc.
Việc quy định số lượng cán bộ chính quyền cấp xã tính theo quy mô
dân số là chủ yếu, và quy định mức tối thiểu là 17 người và mức tối đa không
quá 25 người là chưa thực sự phù hợp với tình hình thực tế. Cụ thể là đối với
16
xã, phường, thị trấn quá ít dân cư (dưới 1.000 người) thì biên chế cho 17
người là nhiều; còn đối với xã, phường, thị trấn có quá đông dân cư (trên
30.000) mà lại có địa hình tự nhiên và tình hình kinh tế - xã hội phức tạp thì
biên chế tối đa theo quy định là ít. Do đó, phát sinh tư tưởng muốn chia tách
thêm đơn vị hành chính để giảm nhẹ công việc, lại được tăng thêm biên chế
cán bộ. Đối với chức danh trưởng thôn, trưởng khu hành chính... nếu làm
kiêm thêm chức danh bí thư chi bộ thì mức sinh hoạt phí chỉ được tính tăng
thêm 1,5 lần (nếu làm nguyên chức danh trưởng thôn, trưởng khu hành chính,
bí thư chi bộ... thì được hưởng mức phụ cấp là 80.000/tháng. Nếu làm kiêm
cả hai chức danh thì được hưởng mức phụ cấp là 120.000/tháng). Do đó chưa
kích thích được họ làm kiêm nhiệm cả hai chức danh. Hầu hết các xã,
phường, thị trấn đều có tình trạng tách riêng hai chức danh trưởng thôn,
trưởng khu hành chính... và bí thư chi bộ để tăng thêm cán bộ và giảm nhẹ
công việc.
Phần lớn các bộ, ngành đều muốn có chân rết của mình xuống tận cơ
sở để tiện cho việc chỉ đạo, liên hệ, và yêu cầu cần có thêm chức danh trong
cơ cấu chính quyền và hợp thức hóa các chức danh đó. Ý muốn này bắt gặp
sự yếu kém về năng lực của cán bộ cấp xã, sự lúng túng trong chỉ đạo của bộ
máy chính quyền đã dẫn tới sự tăng nhanh số lượng cán bộ ở cấp xã trong
những năm qua, làm cho cơ cấu đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã phình to,
tạo gánh nặng cho ngân sách và làm giảm hiệu quả hoạt động của chính

quyền cấp xã. Bình quân mỗi xã có khoảng 190 cán bộ, trong đó có 90 cán bộ
nằm trong diện quy định của Chính phủ, 100 cán bộ do các bộ ngành ở Trung
ương và tỉnh quy định. Ở một số xã, số lượng cán bộ được chi trả hàng tháng
dưới các hình thức sinh hoạt phí, hoạt động phí, phụ cấp từ các nguồn ngân
sách và kinh phí khác nhau lên tới 250 đến 280 định suất.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo được nhân dân
nhiệt liệt hưởng ứng và hăng hái thực hiện, đã thu được những thành tựu rất
17
quan trọng. Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Đảng ta
đã chỉ ra 4 nguy cơ lớn của đất nước: Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so
với nhiều nước trong khu vực và toàn thế giới; nguy cơ chệch hướng xã hội
chủ nghĩa; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ "diễn biến
hòa bình" của các thế lực thù địch. Đồng thời, Hội nghị nhận định "Công tác
cán bộ vẫn là một khâu yếu. Đội ngũ cán bộ nhìn chung chưa ngang tầm đòi
hỏi của nhiệm vụ" [13, tr. 21].
Cán bộ quyết định mọi công việc. Trong hệ thống các cơ quan quản lý
hành chính nhà nước, cán bộ chính quyền cấp xã có vị trí hết sức quan trọng.
Họ là những người quán triệt quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước đưa vào cuộc sống, biến chủ trương, đường lối của
Đảng, pháp luật của Nhà nước thành hiện thực. Cán bộ chính quyền cấp xã có
vai trò to lớn và trách nhiệm hết sức nặng nề trong hệ thống quản lý nhà nước.
Cán bộ chính quyền cấp xã được Nhà nước trao cho thẩm quyền quản lý nhà
nước ở địa phương. Do phải thường xuyên tiếp xúc với nhân dân, trực tiếp
giáo dục, động viên và tổ chức nhân dân thực hiện pháp luật, thực hiện quyền
và nghĩa vụ công dân. Cán bộ chính quyền cấp xã, ngoài phẩm chất chính trị,
cần phải có trình độ, năng lực nhất định và cần nhất là phải tạo dựng được uy
tín trong cộng đồng dân cư.
1.2. KHÁI NIỆM CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHÍNH QUYỀN CẤP
XÃ VÀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ

1.2.1. Khái niệm chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã
Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Nxb Đà Nẵng xuất bản
năm 2000 định nghĩa: "Chất lượng: Cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con
người, một sự vật, sự việc" [46, tr. 144].
18
Khi đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã, một vấn
đề đặt ra là hiểu cho đúng thế nào là chất lượng của đội ngũ cán bộ. Chất
lượng của đội ngũ cán bộ được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau:
Chất lượng của đội ngũ cán bộ được thể hiện thông qua hoạt động của
bộ máy chính quyền cấp xã, ở việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của
chính quyền cấp xã.
Chất lượng của đội ngũ cán bộ được đánh giá dưới góc độ phẩm chất
đạo đức, trình độ năng lực và khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao cũng
như hiệu quả công tác của họ.
Chất lượng của đội ngũ cán bộ là chỉ tiêu tổng hợp chất lượng của
từng cán bộ. Đối với đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã, muốn xác định chất
lượng cao hay thấp ngoài việc đánh giá phẩm chất đạo đức phải có hàng loạt
chỉ tiêu đánh giá trình độ năng lực và sự tín nhiệm của nhân dân địa phương.
Chẳng hạn, các lớp đào tạo huấn luyện đã qua; bằng cấp (kể cả ngoại ngữ, tin
học) về chuyên môn, kỹ thuật, quản lý nhà nước, pháp luật v.v...; độ tuổi;
thâm niên công tác v.v...
Chất lượng của đội ngũ cán bộ còn được đánh giá dưới góc độ khả
năng thích ứng, xử lý các tình huống phát sinh của người cán bộ, công chức
đối với công vụ được giao.
Công vụ là một hoạt động gắn liền với công chức, là một loại lao động
đặc thù để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước; thi hành pháp luật - đưa
pháp luật vào đời sống; quản lý và sử dụng có hiệu quả công sản và ngân sách
Nhà nước phục vụ nhiệm vụ chính trị.
Từ những góc độ khác nhau nêu trên, có thể đưa ra khái niệm chất
lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã như sau: Chất lượng đội ngũ cán

bộ chính quyền cấp xã là chỉ tiêu tổng hợp đánh giá phẩm chất đạo đức, trình
19
độ, năng lực và khả năng thích ứng, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao
của họ.
Để đánh giá đúng thực trạng và xác định các giải pháp nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã cần phải xác định rõ
những tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ, cũng như hiểu rõ những
yếu tố tác động đến chất lượng của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã.
1.2.2. Những tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ
Chất lượng của đội ngũ cán bộ được xác định trên cơ sở tiêu chí về
phẩm chất đạo đức, trình độ năng lực phù hợp với vị trí, vai trò, chức năng
nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và của đội ngũ cán bộ
chính quyền cấp xã nói riêng, về khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Về phẩm chất đạo đức: Người cán bộ muốn xác lập được uy tín của
mình trước nhân dân, trước hết đó phải là người cán bộ có phẩm chất đạo đức
tốt. Xây dựng các tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ, công chức và hình
thành ở họ các phẩm chất đạo đức tương ứng với vị trí, vai trò, chức năng
nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ là việc làm cần thiết và cấp bách, nhất là trong
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước hiện nay. Trong bối cảnh nền kinh tế thị
trường đang có sự chuyển biến nhanh chóng và xã hội xuất hiện nhiều vấn đề
hết sức phức tạp, trong đó phải kể đến trình độ dân trí ngày một nâng cao, và
sự đòi hỏi của xã hội đối với đội ngũ cán bộ cũng ngày một cao hơn. Thêm
vào đó công tác quản lý xã hội cũng đòi hỏi người cán bộ phải tạo lập cho
mình một uy tín nhất định đối với nhân dân.
Việc nâng cao phẩm chất, đạo đức ở người cán bộ, công chức đã được
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm từ rất sớm. Nhất là sau khi cách mạng thành
công, ngoài việc lãnh đạo, quản lý đất nước, trước những khó khăn phải
chống thù trong, giặc ngoài, Bác vẫn chăm lo việc giáo dục đạo đức cho
người cán bộ, công chức trong các cơ quan chính quyền nhà nước non trẻ.
20

Người đã xác định: "Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy" và Người nhấn
mạnh: "Cán bộ là những người đem chính sách của Chính phủ, của Đoàn thể
thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực
hiện được" [39, tr. 54]. Người cán bộ tốt ở đây phải là người có đủ cả năng lực
trình độ lẫn đạo đức cách mạng. Bác yêu cầu: "Một người cán bộ tốt phải có
đạo đức cách mạng" [39, tr. 223]. Và muốn có đạo đức cách mạng, mỗi người
cán bộ - theo Bác, phải có được các phẩm chất trí, tín, nhân, dũng, liêm. Khi
điều kiện và tình hình cách mạng thay đổi, trong khi nói chuyện với anh, chị
em công chức ở Thủ đô, Bác đã nhắc nhở: "Chúng ta phải cố gắng thực hiện
cần, kiệm, liêm, chính". Theo Bác:
Trước hết là cần, tức là tăng năng suất trong công tác, bất kỳ
là công tác gì.
Kiệm tức là không lãng phí thì giờ, của cải của mình và của
nhân dân.
Liêm tức là không tham ô và luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của
công và của nhân dân.
Chính tức là việc phải thì dù nhỏ cũng làm, việc trái thì dù
nhỏ cũng tránh [41, tr. 392].
Bác nói: "Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền
hành. Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chímh thì dễ trở nên hủ bại,
biến thành sâu mọt của dân" [39, tr. 104]. Ngay từ những ngày đầu xây dựng
chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Mình có quyền dùng người thì
phải dùng những người có tài năng, làm được việc. Chớ vì bà con bầu bạn,
mà kéo vào chức nọ, chức kia. Chớ vì sợ mất địa vị mà dìm những kẻ có tài
năng hơn mình" [39, tr. 105].
21
Về trình độ năng lực: Năng lực là một khái niệm rộng, tùy thuộc vào
môi trường và trách nhiệm, vị thế của mỗi người, mỗi cán bộ trong những
điều kiện cụ thể.
Năng lực là những phẩm chất tâm lý mà nhờ chúng con người tiếp thu

tương đối dễ dàng những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và tiến hành một hoạt
động nào đấy một cách có kết quả.
Năng lực là tổng hợp các đặc điểm phẩm chất tâm lý phù hợp với
những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định bảo đảm cho hoạt động
đó đạt được kết quả. Năng lực hình thành một phần dựa trên cơ sở tư chất tự
nhiên của cá nhân, và một phần lớn dựa trên quá trình đào tạo, giáo dục và
hoạt động thực tiễn, cũng như tự rèn luyện của cá nhân.
Năng lực ở con người có nhiều cấp độ khác nhau, ở cấp độ cao thì đó
là tài năng - thiên tài. Cần phân biệt sự kém hiểu biết với sự thiếu năng lực.
Trong những điều kiện bên ngoài như nhau, ở những con người khác nhau có
thể tiếp thu những kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo với nhịp độ khác nhau. Có
người tiếp thu nhanh chóng; có người phải tốn nhiều thì giờ và sức lực; ở
người này có thể ở mức điêu luyện, ở người khác chỉ ở mức trung bình. Khi
xem xét bản chất của năng lực, cần chú ý ba dấu hiệu cơ bản:
Một là, năng lực là sự khác biệt nhau về phẩm chất tâm lý cá nhân làm
cho người này khác người kia.
Hai là, năng lực là những khác biệt có liên quan đến hiệu quả của việc
thực hiện một hoạt động nào đó chứ không phải bất cứ những sự khác biệt
chung chung nào.
Ba là, năng lực không phải được đo bằng những kiến thức, kỹ năng và
kỹ xảo đã được hình thành ở một người nào đó. Năng lực chỉ làm cho việc
tiếp thu các kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo trở nên dễ dàng hơn.
22
Có thể hiểu, năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên
sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Năng lực là những phẩm chất tâm
lý, sinh lý tạo cho con người có khả năng hoàn thành một hoạt động nào đó
với chất lượng cao. Mỗi con người có khả năng trong một hoạt động nhất
định nào đấy có ích cho xã hội. Nghiên cứu năng lực con người là nghiên cứu
sức lực dự trữ của con người trong lao động hay là tiềm năng của con người
đối với lao động.

Năng lực thể hiện ở chỗ, con người làm việc tốn ít sức lực, ít thời
gian, của cải, mà kết quả lại tốt. Việc phát hiện ra năng lực của con người
thường căn cứ vào những dấu hiệu sau: Sự hứng thú đối với công việc nào đó;
sự dễ dàng tiếp thu kỹ năng nghề nghiệp; hiệu suất lao động trong lĩnh vực
đó.
Năng lực có năng lực chung và năng lực chuyên môn, giữa chúng có
mối quan hệ ảnh hưởng, tương hỗ lẫn nhau. Năng lực chung cho phép con
người có thể thực hiện có kết quả những hoạt động khác nhau như hoạt động
học tập, lao động... Năng lực chuyên môn cho phép người ta làm tốt một loại
công việc nào đó như âm nhạc, hội họa, văn học, toán học...
Năng lực con người thường gắn liền với sở thích của người ấy. Con
người có sở thích, hứng thú về một hoạt động nào đấy thường nói lên năng
lực của người đó về mặt hoạt động đó. Năng lực không chỉ thể hiện trong
những hoạt động lao động trí óc thuần túy mà thể hiện cả trong hoạt động thể
lực. Năng lực phát triển trong quá trình hoạt động. Người lười biếng, trốn
tránh hoạt động lao động trí óc cũng như lao động chân tay thì năng lực
không thể phát triển được.
Đối với cán bộ chính quyền cấp xã, năng lực thường bao gồm những
tố chất cơ bản về đạo đức cách mạng, về tinh thần phục vụ nhân dân, về trình
23
độ kiến thức pháp luật, kinh tế, văn hóa, xã hội... Sự am hiểu và nắm vững
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, thành thạo nghiệp vụ chuyên
môn, kỹ thuật xử lý thông tin... để giải quyết các vấn đề đặt ra trong quản lý
nhà nước một cách khôn khéo, minh bạch, dứt khoát, hợp lòng dân và không
trái pháp luật. Người cán bộ quản lý phải được đào tạo sâu về nghề mình phụ
trách, phải am hiểu công việc chuyên môn do mình phụ trách, phải có kinh
nghiệm hoạt động thực tiễn. Đồng thời, người cán bộ phải có sự ham mê, yêu
nghề, chịu khó học hỏi, tích lũy kinh nghiệm. Người cán bộ phải có khả năng
thu thập thông tin, chọn lọc thông tin, khả năng quyết định đúng đắn, kịp thời.
Vì vậy, việc nâng cao nhận thức, trình độ hiểu biết và năng lực tổ chức thực

hiện cho cán bộ chính quyền cấp xã là vấn đề quan trọng và bức xúc trong
mục tiêu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã.
Về khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao: Đội ngũ cán bộ chính
quyền cấp xã của nước ta hiện nay đông nhưng không mạnh. Do những hạn
chế về trình độ văn hóa, trình độ nghiệp vụ quản lý nhà nước, quản lý kinh
tế... đã dẫn tới hạn chế trong năng lực quản lý điều hành công việc, lúng túng
trong việc lập kế hoạch, trong việc xử lý tình huống khi kế hoạch đưa ra
không phù hợp thực tiễn. Xây dựng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã vừa
phù hợp với công cuộc đổi mới của đất nước, vừa thuận theo ý Đảng, lòng
dân, trẻ hóa đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã là nhu cầu, là đòi hỏi khách
quan của sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới, làm cho đội ngũ
cán bộ tràn đầy sức sống. Đội ngũ cán bộ không được trẻ hóa thì thiếu sức
sống, bảo thủ. Nơi nào mà các cán bộ cấp trên biết lựa chọn và dìu dắt, có
nhiều cán bộ mới ở đó công việc tiến triển tốt. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
chỉ rõ: "... cán bộ mới, vì công tác chưa lâu, kinh nghiệm còn ít, có nhiều
khuyết điểm. Nhưng họ lại có những ưu điểm hơn cán bộ cũ; họ nhanh nhẹn
hơn, thường giầu sáng kiến hơn" [39, tr. 237]. Đội ngũ cán bộ không được tri
24
thức hóa và chuyên môn hóa thì không thể hoàn thành nhiệm vụ. Cán bộ có tư
cách, tác phong tốt, phải toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân, dám nói thật,
dám bảo vệ cái đúng, đấu tranh chống những tiêu cực, quan liêu, tham nhũng
trong đội ngũ cán bộ. Có mối quan hệ tốt với các đồng nghiệp và quần chúng
nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc.
Vì vậy, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng"; Người yêu cầu: "...
Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quý
báu, phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi người có ích cho công việc
của chúng ta" [38, tr. 32].
Con người ta không phải là thánh hiền, ai có thể nói mình không có
sai lầm, nhưng cần tránh định kiến sẵn. Dùng một cán bộ lão thành, cũng có

thể có những ý kiến nhưng nhìn chung về cơ bản vẫn tương đối dễ dàng thông
qua; nhưng đề bạt một cán bộ trung niên hay thanh niên thì thường hay có
những cái nhìn khắt khe hơn, việc thông qua khó khăn hơn và nhất là thường
cho rằng cán bộ trẻ chưa có đóng góp nhiều cho đất nước.
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói
đến vấn đề cán bộ cũ và cán bộ mới. Đảng càng phát triển thì cần đến cán bộ
mới càng nhiều. Theo quy luật tự nhiên, khi cán bộ cũ già đi, "nếu không có
cán bộ mới thế vào, thì ai gánh vác công việc của Đảng" [39, tr. 237].
Tài năng của một con người không phải là bất biến suốt đời, mà là
một quá trình vận động như mũi tên bay. Khoa học nghiên cứu và thấy rằng
đường cong tuổi tác của những người làm công tác quản lý nói chung thì ở
độ tuổi 50 là tuổi đỉnh cao. Khi nói về phẩm chất, năng lực của người cán
bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói: Người có đức mà không có tài thì làm
việc gì cũng khó, người có tài mà không có đức thì vô dụng. Nhưng chữ
25

×