Tải bản đầy đủ (.doc) (147 trang)

Luận văn thạc sĩ luật học -Pháp luật quốc tế với vấn đề khủng bố quốc tế một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (531.79 KB, 147 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khủng bố là một trong những loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm, trực
tiếp xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người và đe doạ nghiêm trọng
đến an ninh, trật tự xã hội của quốc gia và cộng đồng quốc tế. Trên thực tế, hoạt
động khủng bố đã tồn tại từ lâu trong xã hội lồi người tuy nhiên đến nay nó mới
trở thành một trong những chiến lược chủ chốt của chủ nghĩa cực đoan.
Trong những năm qua, hoạt động khủng bố quốc tế ngày càng gia tăng
với nhiều hình thức, thủ đoạn tinh vi và mức độ ngày càng nghiêm trọng. Sự
kiện ngày 11 tháng 9 năm 2001 là hành vi điển hình của hoạt động khủng bố
quốc tế. Sự kiện này đã làm cho tất cả các quốc gia chú ý hơn đến vấn đề an
ninh đồng thời nó đã mở ra một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên của chủ nghĩa
khủng bố quốc tế và cùng với đó là kỷ nguyên của sự hợp tác quốc tế chống
khủng bố. Sau sự kiện ngày 11 tháng 9 năm 2001 và sau cuộc tấn công vào
Afghanistan, chủ nghĩa khủng bố không hề thun giảm, thậm chí nó cịn bột
phát và trở nên táo tợn hơn. Các vụ tấn công khủng bố liên tiếp xảy ra, gây
bất ổn ở nhiều nơi, đe doạ hồ bình và an ninh thế giới. Chủ nghĩa khủng bố
đã và đang làm cho nhiều quốc gia, chính phủ trên thế giới phải đau đầu. Cho
đến thời điểm hiện tại, hoạt động khủng bố đã trở thành vấn đề tồn cầu,
khơng chỉ xâm hại đến sự ổn định của một quốc gia, một chính phủ mà cịn đe
doạ nghiêm trọng đến hồ bình và an ninh quốc tế.
Trong thực tiễn, khủng bố thường nhằm vào các mục tiêu quân sự,
chính trị để gây tiếng vang lớn; các mục tiêu kinh tế để giảm bớt sức mạnh
kinh tế của đối phương; các hệ thống thông tin để gây thiệt hại về cơ sở vật
chất, gián đoạn thông tin, thậm chí là nhằm vào các mục tiêu dân sự, ám sát
thủ lĩnh phe đối lập hoặc gây ra các cuộc khủng bố trước hoặc sau các cuộc
bầu cử nhằm phá hoại uy tín của các ứng cử viên sáng giá. Chủ nghĩa khủng
bố hiện nay đã không chỉ giới hạn trong một quốc gia mà còn lan rộng ra các

1



khu vực và tồn cầu với quy mơ phá hoại ngày càng lớn và thủ đoạn ngày
càng tinh vi hơn. Tội phạm khủng bố đang trở thành thách thức lớn đối với
hồ bình, an ninh quốc tế, do đó, hợp tác đấu tranh chống khủng bố là một
trong những mối quan tâm hàng đầu của toàn nhân loại. Chống khủng bố là
nhiệm vụ của tất cả các quốc gia trên thế giới. Muốn giải quyết được vấn đề
khủng bố quốc tế cần phải có sự nỗ lực chung của tồn nhân loại, sự hợp tác
chặt chẽ của tất cả các quốc gia, các tổ chức quốc tế, các tổ chức chính trị xã
hội và mọi cơng dân.
Đứng trước thách thức của hoạt động khủng bố, Liên hợp quốc đã có
những nỗ lực quan trọng trong việc xây dựng khung pháp lý quốc tế về chống
khủng bố để thu hút và tăng cường sự hợp tác giữa các quốc gia trong khuôn
khổ đa phương cùng đấu tranh ngăn chặn các hoạt động này. Cho đến nay, đã có
14 Cơng ước và Nghị định thư quốc tế và nhiều Nghị quyết của Hội đồng Bảo
an Liên hợp quốc… liên quan đến chống khủng bố được xây dựng, ban hành.
Việc xây dựng, ban hành các điều ước quốc tế về chống khủng bố nêu
trên đã khẳng định sự thành công của Liên hợp quốc trên lĩnh vực xây dựng
pháp luật quốc tế và góp phần định hướng hồn thiện hệ thống pháp luật của
các quốc gia về phòng, chống khủng bố. Trên cơ sở các văn bản pháp lý quốc
tế về chống khủng bố, các quốc gia ký kết hoặc tham gia Công ước và Nghị
định thư có trách nhiệm nội luật hố những quy phạm pháp lý quốc tế, ban
hành các văn bản pháp luật và áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm đấu tranh
chống khủng bố có hiệu quả.
Mặc dù đến nay, cộng đồng quốc tế đã xây dựng được 14 Công ước và
Nghị định thư quốc tế cũng như nhiều Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên
hợp quốc liên quan đến chống khủng bố quốc tế và đã có sự hợp tác của nhiều
quốc gia trong việc chống khủng bố nhưng do tính chất nguy hiểm, thủ đoạn
tinh vi và phạm vi hoạt động xuyên quốc gia của tội phạm khủng bố nên hoạt
động đấu tranh chống khủng bố quốc tế vẫn chưa thực sự đạt được hiệu quả


2


cao. Do vậy, việc nghiên cứu pháp luật quốc tế về chống khủng bố, tìm ra
những điểm bất cập của hệ thống pháp luật này có vai trị quan trọng trong
việc xây dựng các quy định, đề ra các giải pháp mới phù hợp với thực trạng
hoạt động khủng bố quốc tế hiện nay để có thể trừng trị, hạn chế và ngăn
ngừa các hành vi khủng bố quốc tế.
Đối với Việt Nam, vấn đề chống khủng bố cũng luôn là vấn đề được
Đảng và Nhà nước quan tâm. Trên cơ sở nhận thức sâu sắc mối nguy cơ và
thảm hoạ tiềm tàng của các hành động khủng bố, trong Hội nghị cấp cao
ASEAN lần thứ VII tại Brunei ngày 05 tháng 11 năm 2001, Thủ tướng Phan
Văn Khải đã từng tuyên bố: “Việt Nam cho rằng cần kiên quyết lên án và
chống lại các hành động khủng bố dưới mọi hình thức”. Để thể hiện quyết
tâm chống khủng bố quốc tế, trong những năm qua, Việt Nam đã gia nhập
nhiều điều ước quốc tế liên quan đến lĩnh vực chống khủng bố và ban hành
nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh vấn đề này. Tuy nhiên, pháp luật về chống
khủng bố của Việt Nam còn thiếu và chưa đồng bộ. Một số quy định của các
Công ước quốc tế liên quan đến vấn đề chống khủng bố mà Việt Nam đã ký
kết và tham gia chưa được nội luật hoá đầy đủ trong các văn bản quy phạm
pháp luật Việt Nam. Vì vậy, cần thiết phải nghiên cứu pháp luật về chống
khủng bố quốc tế để xây dựng và hoàn thiện pháp luật chống khủng bố của
Việt Nam, khắc phục những điểm bất cập trong hệ thống pháp luật của Việt
Nam hiện nay.
Từ chủ trương của Đảng và Nhà nước, yêu cầu của thực tiễn và yêu cầu
hoàn thiện pháp luật Việt Nam, việc nghiên cứu, hệ thống hoá các văn bản
pháp luật quốc tế liên quan đến khủng bố, phân tích, chỉ ra những điểm hạn
chế của pháp luật Việt Nam về chống khủng bố để hoàn thiện hơn nữa pháp
luật Việt Nam là cần thiết. Vì lý do đó tơi chọn đề tài "Pháp luật quốc tế với
vấn đề khủng bố quốc tế: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" làm luận văn

tốt nghiệp của mình.

3


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có một số tác giả nghiên cứu về đề tài chống khủng bố trong pháp
luật quốc tế. Trong đó có thể kể đến một số cơng trình khoa học sau:
- Đề tài khoa học cấp Bộ “Những giải pháp cơ bản phịng, chống khủng
bố ở Việt Nam trong tình hình hiện nay” do TS. Bùi Trung Thành, Học viện
An ninh nhân dân làm chủ nhiệm, nghiệm thu năm 2004;
- Đề tài khoa học cấp Bộ “Khủng bố và giải pháp phòng, chống khủng
bố ở nước ta hiện này” do PGS. TS. Hồng Cơng Tư, Phó Tổng cục trưởng
Tổng cục I, Bộ Công an làm Chủ nhiệm, nghiệm thu năm 2007;
- Sách Khủng bố và chống khủng bố của tác giả Nam Hồng, Nxb Lao
động, Hà Nội năm 2001;
- Sách Pháp luật về chống khủng bố của một số nước trên thế giới do
Phạm Văn Lợi (chủ biên), Nxb Tư pháp, Hà Nội;
- Công Phương Vũ (2003), Khủng bố quốc tế - Cơ sở pháp lý quốc tế
ngăn ngừa và trừng trị khủng bố quốc tế, Luận văn tốt nghiệp đại học, chuyên
ngành Luật Quốc tế tại Trường Đại học Luật Hà Nội, 2003.
Tuy nhiên, các cơng trình kể trên nghiên cứu vấn đề khủng bố và chống
khủng bố một cách khái quát và sơ lược trên một phạm vi nhất định (như:
nghiên cứu về khái niệm khủng bố, các tổ chức khủng bố); chỉ đưa ra các giải
pháp để phòng, chống khủng bố nói chung hoặc phịng, chống khủng bố xảy
ra trên một địa bàn nhất định; chưa phản ánh toàn diện và đầy đủ về khủng bố
quốc tế và vấn đề chống khủng bố quốc tế. Hơn nữa, các cơng trình được
nghiên cứu từ những năm trước đây nên chưa cập nhật được những thay đổi
trong pháp luật chống khủng bố cho đến thời điểm hiện tại. Đến nay, chưa có
một cơng trình tập hợp, hệ thống hố một cách toàn diện hệ thống pháp luật

quốc tế về chống khủng bố. Chính vì vậy, trong luận văn của mình tác giả sẽ
đề cập đến quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa khủng bố; đưa ra
nhận thức chung về khủng bố; khái quát khung pháp lý quốc tế và văn bản

4


pháp luật quốc gia về chống khủng bố và đưa ra một số giải pháp để hoàn
thiện quy định của pháp luật quốc tế cũng như pháp luật Việt Nam trong lĩnh
vực phịng, chống khủng bố quốc tế.
3. Mục đích của luận văn
Luận văn hướng đến tập hợp, hệ thống hoá những quy định của pháp
luật quốc tế về chống khủng bố để đưa đến một cái nhìn tổng quan về hệ
thống pháp luật liên quan đến khủng bố quốc tế; đánh giá hệ thống pháp luật
quốc tế về phòng, chống khủng bố, trên cơ sở đó đưa ra giải pháp để hoàn
thiện khung pháp lý quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống khủng bố; đồng thời,
đưa ra những kiến nghị để hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về chống
khủng bố, đề xuất những điều ước quốc tế về chống khủng bố Việt Nam nên
ký kết và tham gia trong thời gian tới.
4. Nhiệm vụ của luận văn
Luận văn tập trung vào việc giải quyết những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, khái quát những vấn đề lý luận về khủng bố như khái niệm,
nguyên nhân dẫn đến khủng bố, đặc điểm của tội phạm khủng bố.
Thứ hai, tập hợp, khái qt hố, đưa đến cái nhìn tổng quan về hệ thống
pháp luật quốc tế về phòng, chống khủng bố.
Thứ ba, phân tích một số quy định cơ bản của một số Công ước quốc tế
về chống khủng bố; phân tích cơ chế triển khai, giám sát việc thực hiện các
khung pháp lý này.
Thứ tư, nêu và phân tích một số hạn chế trong pháp luật quốc tế và
pháp luật Việt Nam về khủng bố và đưa ra một số giải pháp góp phần hồn

thiện quy định của pháp luật quốc tế và Việt Nam trong lĩnh vực phòng,
chống khủng bố quốc tế.
5. Phương pháp tiếp cận vấn đề
Để tài nghiên cứu được tiếp cận theo phương pháp duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử - phương pháp luận của khoa học pháp lý nói chung và

5


khoa học luật quốc tế nói riêng. Bên cạnh đó, tác giả cũng sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khác như: phương pháp phân tích - tổng hợp,
phương pháp so sánh luật học, phương pháp đối chiếu và các phương pháp
nghiên cứu truyền thống và hiện đại khác…
6. Nội dung
Luận văn được kết cấu thành 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về khủng bố quốc tế.
Chương 2: Khái quát khung pháp lý quốc tế về phòng, chống khủng bố.
Chương 3: Một số giải pháp góp phần hồn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả cơng tác phịng, chống khủng bố ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHỦNG BỐ QUỐC TẾ
1.1. Khái niệm khủng bố quốc tế và nguyên nhân dẫn đến khủng bố
quốc tế
1.1.1. Khái niệm khủng bố quốc tế
Khủng bố là một hiện tượng xã hội phức tạp, mang tính tiêu cực và
đang trở thành mối đe doạ đối với loài người trong thế kỷ XXI. Do mức độ

ảnh hưởng của nó tới hồ bình và an ninh quốc tế nên khủng bố đang là một
trong những vấn đề được các nhà khoa học trên thế giới quan tâm nghiên cứu
dưới nhiều góc độ khác nhau để tìm ra biện pháp đấu tranh có hiệu quả.
Dưới góc độ chính trị, xã hội, trong những điều kiện, bối cảnh lịch sử
khác nhau, nhận thức về chủ nghĩa khủng bố cũng có những điểm khác biệt
nhất định.
Chủ nghĩa khủng bố đã xuất hiện ngay từ thời kỳ đầu của lịch sử nhân
loại. Nhà sử học người Hy Lạp Xenophone (431-350TCN) đã viết về hiệu quả
của chiến tranh tâm lý đối với dân chúng phe đối lập. Các hoàng đế Roma đã
sử dụng các biện pháp trục xuất, xung công tài sản riêng và tử hình như là các
biện pháp để ngăn chặn sự chống đối với chế độ cai trị của họ. Một số hoàng
đế Trung Hoa đã nâng lên thành cơ sở lý luận đặt nền móng cho sự nhận thức
về “chủ nghĩa khủng bố” ngày nay. Đó là tư tưởng “Sát nhất dân, vạn dân cụ”
(Giết một người, hàng vạn người khác phải sợ hãi) [56]. Tư tưởng này còn
được thể chế trong luật pháp của nhiều quốc gia châu Á và gây ra những cuộc
thảm sát đẫm máu mang tính hợp pháp của nhiều chế độ chuyên quyền độc
đốn phương Đơng.
Tuy hiện tượng khủng bố đã xuất hiện từ lâu nhưng thuật ngữ khủng bố
đến thời kỳ sau này mới xuất hiện. Trên thực tế, thuật ngữ "khủng bố" và "kẻ
khủng bố" được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1795, từ Thời kỳ khủng bố

7


(1793 - 1794) ở nước Pháp. Chính quyền cách mạng nước Pháp lúc đó (chính
quyền Terreur) đã thiết lập một chế độ độc tài và tiến hành các biện pháp kinh
tế hà khắc. Tuy nhiên, những người Giacôbanh lãnh đạo chính phủ Pháp lúc
đó đồng thời cũng là những người cách mạng và dần dần "sự khủng bố" “terreur” được dùng để chỉ hoạt động bạo lực cách mạng nói chung. Tuy
nhiên, cũng có một số quan niệm cho rằng thuật ngữ “khủng bố” xuất hiện
vào năm 1798 do nhà triết học Đức Immanuel Kant sử dụng để mô tả sự bi

quan về số phận con người và cùng năm đó thuật ngữ này cũng xuất hiện
trong một phụ lục của Đại từ điển Viện Hàn lâm Pháp [27].
Việc sử dụng thuật ngữ "kẻ khủng bố" theo nghĩa một người chống lại
chính phủ được ghi lại tại Ailen năm 1866 và tại Nga năm 1883. Khái niệm
này được dùng để chỉ những kẻ chống phá chính quyền với triết lý và lý
tưởng vơ chính phủ, phủ nhận nhà nước, các đạo luật do nhà nước ban hành
và tài sản của cơng dân [28].
Trên bình diện quốc tế, lần đầu tiên khái niệm “khủng bố quốc tế” được
sử dụng tại diễn đàn của 06 hội nghị quốc tế về thống nhất hố luật hình sự
(năm 1927). Các hội nghị này đã lưu ý cộng đồng quốc tế về vấn đề chống
khủng bố quốc tế. Các hội nghị đã hoàn thành việc xếp loại các tội phạm
trong nội hàm khái niệm khủng bố quốc tế và gián tiếp góp phần đưa ra quyết
định loại bỏ một số hành vi khỏi nhóm tội phạm chính trị khơng bị dẫn độ
trong điều ước quốc tế về lĩnh vực này [56, tr.9]. Tiếp đó, vào năm 1934, Hội
nghị quốc tế về thống nhất hoá luật hình sự được triệu tập tại Mardrit (Tây
Ban Nha) đã thành công trong việc đưa ra một định nghĩa khủng bố, theo đó,
đây là việc sử dụng biện pháp bất kỳ có khả năng khủng bố dân cư nhằm mục
đích phá huỷ toàn bộ cơ cấu tổ chức xã hội, chống phá nhân dân.
Năm 1934, vụ sát hại vua Nam Tư và Bộ trưởng Ngoại giao Pháp ngay
trên lãnh thổ nước Pháp đã làm dấy lên làn sóng đấu tranh trên toàn thế giới
và theo đề nghị của Pháp, Hội quốc liên với vai trị gìn giữ hịa bình và an

8


vành quốc tế đã đảm nhận trách nhiệm về vấn đề khủng bố. Hội quốc liên đã
thành lập một Uỷ ban đặc biệt gồm 11 quốc gia để soạn thảo công ước chống
các tội phạm được thực hiện nhằm mục đích chính trị và khủng bố. Bản dự
thảo điều ước sau đó đã được 20 quốc gia thơng qua tại Giơ ne vơ ngày 1611-1937 [56, tr.10]. Công ước năm 1937 được ghi nhận là sự cố gắng của
cộng đồng quốc tế trong việc đấu tranh phòng, chống khủng bố và có tác động

thúc đẩy sự hợp tác giữa các quốc gia trong lĩnh vực này.
Sau Công ước Giơ ne vơ 1937, dưới sự nỗ lực của Liên hợp quốc và
các tổ chức quốc tế khác (như Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế ICAO,
Tổ chức Hàng hải quốc tế IMO…), nhiều Cơng ước quốc tế liên quan đến
phịng, chống khủng bố đã tiếp tục được ban hành. Tuy nhiên, các công ước
quốc tế này không nêu ra một khái niệm cụ thể về chống khủng bố mà chỉ liệt
kê các hành vi bị coi là khủng bố. Cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm
đầy đủ, tồn diện và thống nhất quan điểm của các quốc gia về khủng bố. Do
đó, để đưa ra khái niệm khủng bố cần xem xét quan điểm của các quốc gia và
cộng đồng quốc tế về vấn đề này.
1.1.1.1. Khái niệm khủng bố trong các văn bản quốc tế
Hiện nay, trong khuôn khổ Liên hợp quốc và các tổ chức thành viên
(ICAO, IMO, IAEA…) có 14 điều ước quốc tế đa phương về chống khủng bố đã
được thơng qua. Ngồi ra còn rất nhiều điều ước quốc tế khu vực, hiệp định quốc
tế song phương và các nghị quyết của Đại hội đồng, Hội đồng bảo an Liên hợp
quốc về các biện pháp đấu tranh chống khủng bố. Mặc dù, hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật quốc tế về chống khủng bố tương đối lớn, tuy nhiên chưa văn bản
nào đưa ra được định nghĩa rõ ràng, toàn diện về khủng bố. Trong bối cảnh quốc
tế hiện nay, việc đưa ra định nghĩa chung về khủng bố là cấp thiết vì có như vậy
mới nâng cao được hiệu quả hợp tác đấu tranh phòng chống tội phạm này [26].
Trong 14 điều ước quốc tế thuộc khuôn khổ Liên hợp quốc về đấu tranh
chống khủng bố hiện nay chỉ có 3 công ước trực tiếp nhắc đến khái niệm

9


"khủng bố” (terrorism) ngay tại tiêu đề, đó là: Cơng ước New York năm 1997
về trừng trị khủng bố bằng bom (International convention for the suppression
of terrorist bombings); Công ước New York năm 1999 về trừng trị việc tài trợ
khủng bố (International convention for the suppression of the financing of

terrorism); Công ước New York năm 2005 về ngăn chặn các hành vi khủng bố
hạt nhân (International convention for the suppression of acts of nuclear
terrorism).
Trong ba công ước quốc tế nêu trên, Công ước New York năm 1999 về
trừng trị hành vi tài trợ khủng bố bên cạnh việc định nghĩa hành vi tài trợ
khủng bố đã gián tiếp quy định thế nào là khủng bố. Theo Cơng ước này thì
khủng bố là: i) "Bất kì hành vi nào cấu thành một tội phạm trong phạm vi và
được định nghĩa tại một trong số các điều ước về đấu tranh chống khủng bố
còn lại (được quy định tại phụ lục)” hoặc ii) "Bất kì hành vi nào khác với ý
định giết hại hoặc làm bị thương nghiêm trọng đến thân thể thường dân, hoặc
bất kì người nào khác khơng tham gia vào chiến sự trong bối cảnh xung đột
vũ trang, nếu mục đích của hành vi này về bản chất hoặc bối cảnh xảy ra là
nhằm hăm doạ dân chúng hay ép buộc một chính phủ hoặc một tổ chức quốc
tế phải thực hiện hoặc khơng thực hiện bất kì hành vi nào” (Điều 2). Tuy
nhiên, khó có thể coi quy định nêu ra tại Điều 2 Công ước New York năm
1999 là định nghĩa khủng bố hoàn chỉnh bởi: Thứ nhất, đây là định nghĩa gián
tiếp được đưa ra thông qua định nghĩa khác; Thứ hai, Khoản 1 Điều này
không nêu được dấu hiệu cấu thành tội khủng bố mà dẫn chiếu đến một số tội
phạm được quy định tại các công ước khác cho nên chỉ thuần tuý mang tính
chất liệt kê; Thứ ba, Khoản 2 có nêu được một số dấu hiệu của tội khủng bố
(về hành vi, khách thể, mục đích…) nhưng cũng chỉ đề cập thêm được các
hành vi xâm phạm tính mạng và sức khoẻ con người.
Trong khi đó, Cơng ước New York năm 1997 về trừng trị khủng bố
bằng bom và Công ước New York năm 2005 về ngăn chặn các hành vi khủng

10


bố hạt nhân chỉ đưa ra định nghĩa về từng loại hành vi khủng bố cụ thể, ví dụ
khủng bố bằng bom là việc: "ném, đặt làm nổ hoặc kích nổ một cách bất hợp

pháp và cố ý một thiết bị gây nổ hoặc gây chết người khác tại, vào, hoặc
chống lại một địa điểm công cộng, một trang thiết bị của nhà nước hoặc
Chính phủ, một hệ thống giao thông công cộng hoặc cơ sở hạ tầng” (Điều 2
Công ước New York năm 1997 về việc trừng trị khủng bố bằng bom); theo
Công ước New York năm 2005 về ngăn ngừa các hành vi khủng bố hạt nhân
thì "một người bị coi là phạm tội khủng bố hạt nhân nếu người đó, một cách
có chủ định và bằng con đường bất hợp pháp sở hữu nguyên liệu phóng xạ,
chế tạo hay sở hữu thiết bị hạt nhân với mục đích gây thương vong lớn hay
nhằm phá hoại cơ sở hạ tầng hay môi trường; sử dụng nguyên liệu hay thiết bị
phóng xạ, sử dụng hoặc phá hoại cơ sở hạt nhân để tạo ra sự rị rỉ phóng xạ
gây thương vong lớn, nhằm phá hoại cơ sở hạ tầng hay môi trường để ép buộc
thể nhân hay pháp nhân, tổ chức quốc gia hay quốc gia phải thực hiện hay
khơng thực hiện hành động nào đó” (Điều 2 Cơng ước).
Ngoại trừ 3 Công ước nêu trên, 11 Công ước cịn lại khơng nhắc đến
khái niệm khủng bố một cách trực tiếp ở tiêu đề mà chỉ quy định về những tội
phạm mà việc thực hiện các tội phạm đó được coi như biểu hiện của khủng bố
quốc tế. Ví dụ tại phần mở đầu, Công ước New York năm 1979 về chống bắt
cóc con tin ghi nhận: "Xét rằng việc bắt cóc con tin là một tội phạm gây lo
ngại sâu sắc cho cộng đồng quốc tế...; Nhận thấy rõ sự cấp thiết phải phát
triển hợp tác quốc tế giữa các quốc gia trong việc đưa ra các sáng kiến và sử
dụng các biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn, truy tố và trừng trị tất cả các
hành vi bắt con tin như là những biểu hiện của khủng bố quốc tế”; hay như
Công ước Montreal năm 1991 về việc đánh dấu chất nổ dẻo để nhận biết tại
phần mở đầu có ghi: "Bày tỏ mối lo ngại sâu sắc đối với các hành vi khủng
bố nhằm phá hoại tàu bay, các phương tiện giao thông và các mục tiêu khác;
Lo ngại rằng các vật nổ dẻo vẫn được sử dụng cho các hành vi khủng bố như

11



vậy; Xét rằng việc đánh dấu vật liệu nổ dẻo để nhận biết sẽ góp phần quan
trọng vào việc ngăn chặn các hành vi bất hợp pháp đó”...
Khơng chỉ các công ước quốc tế mà các Nghị quyết của Hội đồng Bảo
an Liên hợp quốc về các biện pháp phòng, chống khủng bố cũng không đưa ra
định nghĩa cụ thể nào về khủng bố. Ngay cả Nghị quyết số 1373 ngày
28/9/2001 làm cơ sở ra đời Uỷ ban chống khủng bố thuộc Hội đồng Bảo an
Liên hợp quốc mặc dù kêu gọi "các quốc gia hợp tác khẩn thiết nhằm phịng
và trấn áp các hành động khủng bố, thơng qua sự tăng cường hợp tác và thực
hiện đầy đủ các công ước quốc tế liên quan đến chủ nghĩa khủng bố” cũng
không đưa ra định nghĩa cụ thể về khủng bố.
Hầu hết các điều ước quốc tế khu vực cũng không đưa ra được định
nghĩa khủng bố. Các điều ước này trong phạm vi hợp tác đấu tranh chống
khủng bố lại dẫn ra những hành vi được quy định tại các công ước quốc tế đa
phương của Liên hợp quốc. Ví dụ, Cơng ước của châu Âu về chống khủng bố
năm 1977 ngay tại Điều 1 đã đưa ra các hành vi thuộc phạm vi điều chỉnh của
Công ước, yêu cầu các quốc gia thành viên phải tội phạm hoá, đó là các hành
vi được nêu trong Cơng ước La Haye năm 1970 về trừng trị việc chiếm giữ
bất hợp pháp tàu bay; Công ước Montreal năm 1971 về việc trừng trị các hành
vi bất hợp pháp chống lại an tồn hàng khơng dân dụng; Cơng ước New York
năm 1973 về việc ngăn ngừa và trừng trị các tội phạm chống lại những người
được hưởng bảo hộ quốc tế, bao gồm viên chức ngoại giao. Thời gian kí kết
Cơng ước châu Âu năm 1977 thì Cơng ước về chống bắt cóc con tin năm
1979 hay Cơng ước trừng trị khủng bố bằng bom năm 1997... chưa ra đời, tuy
nhiên các tội phạm nghiêm trọng liên quan đến bắt cóc, giam giữ trái phép, tội
phạm nghiêm trọng liên quan đến việc sử dụng bom, lựu đạn, rocket, súng tự
động, bom thư... đã được liệt kê trong Cơng ước. Tiếp đó, vào tháng 11/2007
tại Cebu, các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á (ASEAN) đã ký Công ước
chung về chống khủng bố (ASEAN Convention on Counter Terrorism). Điều

12



2 Công ước này quy định về "Những hành vi phạm tội khủng bố” đã ghi nhận
các hành vi theo 13 công ước đa phương về đấu tranh chống khủng bố trong
khuôn khổ Liên hợp quốc: "Đối với các mục đích của Cơng ước này, tội phạm
có nghĩa là bất kì hành vi phạm tội trong phạm vi được liệt kê như sau:
- Công ước La Haye năm 1970 về trừng trị việc chiếm giữ bất hợp pháp
tàu bay.
- Công ước Montreal năm 1971 về trừng trị những hành vi bất hợp
pháp chống lại an tồn hàng khơng dân dụng.
- Công ước New York năm 1973 về ngăn chặn và trừng trị các tội phạm
chống lại những người được bảo hộ quốc tế, bao gồm viên chức ngoại giao.
- Công ước New York năm 1979 về chống bắt cóc con tin.
- Công ước Viên năm 1979 về bảo vệ an toàn vật liệu hạt nhân.
- Nghị định thư Montreal năm 1988 về trừng trị các hành vi bạo lực bất
hợp pháp tại cảng hàng không dân dụng quốc tế.
- Công ước Rome năm 1988 về trừng trị các hành vi bất hợp pháp
chống lại an tồn hành trình hàng hải.
- Nghị định thư Rome năm 1988 về trừng trị các hành vi bất hợp pháp
chống lại những cơng trình cố định trên thềm lục địa.
- Công ước New York năm 1997 về trừng trị khủng bố bằng bom.
- Công ước New York năm 1999 về trừng trị hành vi tài trợ cho khủng bố.
- Công ước Viên năm 2005 (sửa đổi Cơng ước Viên năm 1980) về bảo
vệ an tồn vật liệu hạt nhân.
- Công ước New York năm 2005 về ngăn ngừa các hành vi khủng bố
bằng hạt nhân.
- Nghị định thư năm 2005 bổ sung Công ước về ngăn chặn các hành vi
phi pháp chống lại an toàn hàng hải.
- Nghị định thư năm 2005 bổ sung Nghị định thư về trừng trị những
hành vi bất hợp pháp chống lại những cơng trình trên thềm lục địa ký tại

London ngày 14/10/2005 [26].

13


Mặc dù một số văn bản quốc tế nêu trên khơng định nghĩa khủng bố một
cách trực tiếp nhưng nhìn nhận một cách khách quan, chúng ta vẫn có thể xác định
được nội hàm của khái niệm khủng bố trong nhiều văn bản quốc tế khác nhau.
Theo Quyết định của Hội đồng chung của EU ngày 13/6/2002 về việc
chống chủ nghĩa khủng bố định nghĩa các tội khủng bố “với bản chất hoặc tuỳ
bối cảnh, có thể gây nguy hại nghiêm trọng đối với một quốc gia hoặc một tổ
chức quốc tế và tội đã phạm có mục đích: đe doạ nghiêm trọng người dân hoặc
ép buộc chính phủ hoặc một tổ chức quốc tế thực hiện hoặc rút bỏ việc thực hiện
một hành động hoặc làm mất ổn định nghiêm trọng hoặc huỷ hoại cơ cấu xã hội,
kinh tế, thể chế và chính trị căn bản của một quốc gia hoặc một tổ chức quốc tế”.
Theo Công ước của Hội nghị các quốc gia Hồi giáo (Công ước OIC) thì
“Khủng bố là bất kỳ hành động bạo lực nào, hay sự đe doạ sử dụng bạo lực
được tiến hành kế hoạch phạm tội bởi một cá nhân hay một tập thể nhằm
khủng bố người dân hay đe doạ làm hại họ, hoặc gây nguy hiểm đến tính
mạng, danh dự của người dân, đến tài sản của cá nhân hay tập thể”.
Theo Công ước về đấu tranh chống khủng bố của tổ chức các quốc gia
châu Mỹ thì khủng bố có thể là các dạng tội phạm điển hình như giết người,
đốt cháy hoặc thiêu huỷ và sử dụng chất nổ hoặc thuốc nổ, nhưng khác với
các hành vi hình sự là khủng bố cố ý mang đến sự hoảng sợ, phá hoại và
những tên khủng bố thường nằm trong một tổ chức với mục đích phá kỉ
cương xã hội, làm tê liệt sức phản kháng của xã hội, làm tăng thêm sự đau
đớn cho xã hội [9].
Các cơ quan hữu quan của Liên hợp quốc nhận định:
Hoạt động khủng bố là hoạt động huỷ hoại nhân quyền, quyền dân
chủ và tự do cá nhân, uy hiếp sự an toàn và toàn vẹn lãnh thổ của

quốc gia, tạo sức ép lên quốc gia, phá vỡ văn minh xã hội, là hành
vi phạm tội với việc gây hậu quả bất lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội [28].

14


Tuyên ngôn về vấn đề chủ nghĩa khủng bố của Liên hợp quốc nêu rõ:
"Tất cả các hình thức của chủ nghĩa khủng bố, dù xảy ra ở nơi nào, ai là kẻ chủ
mưu, và hành vi phạm tội ra sao, cũng không thể thanh minh, cho nên thông qua
các điều của Hiệp ước quốc tế, cần tăng thêm mức độ xử phạt" [28].
Như vậy, cho đến thời điểm hiện tại, cộng đồng quốc tế vẫn chưa đưa ra
được định nghĩa chung hoàn chỉnh về khủng bố mà mới chỉ ghi nhận một số
hành vi nhất định là khủng bố và các biện pháp để hợp tác đấu tranh chống lại
các hành vi này. Song, những hành vi được ghi nhận này đã ít nhiều phản ánh
được bản chất của hiện tượng khủng bố. Chúng ta có thể nhận biết hành động
khủng bố dựa trên một số dấu hiệu như: dấu hiệu về động cơ chính trị của
hành vi bạo lực; dấu hiệu về mục đích của hành vi bạo lực, các yếu tố chủ thể,
khách thể của hoạt động khủng bố…
1.1.1.2. Khái niệm khủng bố quốc tế theo pháp luật của một số quốc
gia trên thế giới
Để ngăn chặn hoạt động khủng bố, trừng trị hành vi xâm hại tới hồ
bình, an ninh, các quốc gia đã có nhiều nỗ lực trong việc đưa ra khái niệm
khủng bố. Có thể kể đến một số khái niệm pháp lý về khủng bố của một số
quốc gia như:
a) Hoa Kỳ:
+ Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đưa ra quan điểm về khủng bố như sau:
"Khủng bố là việc sử dụng hoặc đe doạ sử dụng bạo lực một cách có tính
tốn nhằm tạo ra nỗi khiếp sợ, với ý đồ ép buộc hoặc đe doạ các chính phủ
hoặc (các cộng đồng) xã hội, trong việc theo đuổi những mục tiêu mà thường
là về chính trị, tơn giáo hoặc tư tưởng".

+ Bộ luật Hình sự Hoa Kỳ quy định: "Khủng bố quốc tế - Những hoạt
động liên quan đến các hành động bạo lực hoặc nguy hiểm với đời sống con
người, mà vi phạm pháp luật hình sự của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ hoặc của
bất kỳ bang nào thuộc Hợp chủng quốc, hoặc sẽ vi phạm Luật Hình sự nếu

15


hành động đó được thực hiện trong phạm vi nước Mỹ hoặc bất kỳ bang nào;
được thực hiện nhằm mục đích đe doạ hoặc cưỡng ép, khống chế một cộng
đồng dân cư; hoặc nhằm gây ảnh hưởng đến chính sách của một chính phủ
bằng sự cưỡng bức đe doạ; hoặc nhằm tác động đến sự điều hành của một
chính phủ thơng qua việc sát hại hoặc bắt cóc; và xảy ra chủ yếu bên ngồi
lãnh thổ Hoa Kỳ kiểm sốt, hoặc ở những vùng biên giới liên quốc gia, theo
những cách thức mà đã được hoàn tất, những người này có ý đồ đe doạ hoặc
cưỡng ép chính phủ, hoặc khu vực ở đó những kẻ phạm tội hoạt động hoặc
tìm cách xin tị nạn" (Điều 18, Bộ luật Hình sự Hoa Kỳ).
Như vậy, Hoa Kỳ đã xác định hoạt động khủng bố theo những dấu
hiệu: Hành vi (hành động bạo lực hoặc nguy hiểm với đời sống con người);
dấu hiệu mục đích (nhằm đe doạ hoặc cưỡng ép, khống chế một cộng đồng
dân cư; hoặc nhằm gây ảnh hưởng đến chính sách của một chính phủ bằng sự
cưỡng bức đe doạ; hoặc nhằm tác động đến sự điều hành của một chính phủ
thơng qua việc sát hại hoặc bắt cóc).
b) Liên bang Nga
- Luật về chống khủng bố (ngày 25 tháng 7 năm 1998 số 130 - FZ) của
Liên bang Nga đã đưa ra khái niệm:
+ Chủ nghĩa khủng bố là việc sử dụng bạo lực hoặc đe doạ sử dụng bạo
lực đối với các cá nhân hoặc tổ chức, cũng như làm tổn hại hoặc đe doạ làm
tổn hại tài sản và các mục tiêu vật chất khác, tạo ra mối nguy hiểm chết
người, gây thiệt hại tài sản đáng kể hoặc gây ra những hậu quả nghiêm trọng

khác đối với xã hội, được thực hiện nhằm gây rối loạn an toàn xã hội, làm cho
dân chúng khiếp sợ, hoặc tác động đối với việc thông qua các quyết định của
các cơ quan chính quyền có lợi cho bọn khủng bố, hoặc đáp ứng những lợi ích
tài sản phi pháp và (hoặc) những lợi ích khác; xâm hại đến cuộc sống của nhà
hoạt động quốc gia hoặc xã hội, được tiến hành nhằm mục đích chấm dứt hoạt
động quốc gia hoặc hoạt động chính trị của người đó hoặc trả thù do hoạt

16


động đó; tấn cơng vào đại diện nước ngồi hoặc cán bộ của tổ chức quốc tế
được bảo vệ quốc tế, cũng như tấn công vào các trụ sở làm việc hoặc phương
tiện giao thông của những người được bảo vệ quốc tế, nếu như hành vi đó được
tiến hành nhằm khiêu khích chiến tranh hoặc làm phức tạp quan hệ quốc tế.
+ Hành động khủng bố là việc tiến hành trực tiếp hành động tội phạm
mang tính chất khủng bố dưới hình thức gây nổ, thiêu huỷ, sử dụng hoặc đe
doạ sử dụng các thiết bị gây nổ hạt nhân, các chất phóng xạ, hố chất, sinh
học, chất nổ, chất độc, gây độc, các chất tác động mạnh, độc tố; huỷ diệt, gây
tổn hại hoặc chiếm giữ các phương tiện giao thông hoặc các mục tiêu khác;
xâm hại đến cuộc sống của nhà hoạt động quốc gia hoặc xã hội, đại diện của
các nhóm dân cư, dân tộc, sắc tộc, tơn giáo và các nhóm dân cư khác; bắt giữ
con tin, bắt cóc người; gây ra mối nguy hiểm, nguy hại đến cuộc sống, sức
khoẻ hoặc tài sản của nhóm người khơng xác định bằng cách tạo ra những
điều kiện gây ra tai nạn và thảm hoạ mang tính chất biến thể hoặc đe doạ thực
sự tạo ra mối nguy hiểm đó; phổ biến mối đe doạ dưới bất kỳ hình thức nào
và bằng bất cứ phương tiện nào; các hành động khác gây ra mối nguy hiểm
chết người, gây ra thiệt hại đáng kể về tài sản hoặc khởi đầu những hậu quả
nguy hiểm khác về mặt xã hội.
Có thể thấy, Liên bang Nga xác định hoạt động khủng bố trên cơ sở
những dấu hiệu: dấu hiệu hành vi (sử dụng bạo lực hoặc đe doạ sử dụng bạo

lực); dấu hiệu mục đích (nhằm gây rối loạn an toàn xã hội, làm cho dân chúng
khiếp sợ, hoặc tác động đối với việc thông qua các quyết định của các cơ quan
chính quyền có lợi cho bọn khủng bố, hoặc đáp ứng những lợi ích tài sản phi
pháp và (hoặc) những lợi ích khác); dấu hiệu hậu quả của hành vi (gây ra mối
nguy hiểm chết người, gây ra thiệt hại đáng kể về tài sản hoặc khởi đầu những
hậu quả nguy hiểm khác về mặt xã hội). Định nghĩa về chủ nghĩa khủng bố và
hành động khủng bố của Liên bang Nga chi tiết và cụ thể hơn so với Hoa Kỳ.
Nga đã liệt kê các hình thức mà tội phạm mang tính chất khủng bố tiến hành

17


(hình thức gây nổ, thiêu huỷ, sử dụng hoặc đe doạ sử dụng các thiết bị gây nổ
hạt nhân, các chất phóng xạ, hố chất, sinh học, chất nổ, chất độc, gây độc,
các chất tác động mạnh, độc tố). Tuy nhiên, cách thức quy định mang tính
chất liệt kê này của Liên bang Nga dễ dẫn tới việc liệt kê không đầy đủ, quy
định của luật không theo kịp được những cách thức mới, phương thức khủng
bố hiện đại mới mà tội phạm khủng bố có thể tiến hành.
c) Liên hiệp Vương quốc Anh
- Luật Khủng bố năm 2000 của Liên hiệp Vương quốc Anh định nghĩa
như sau:
Khủng bố là việc sử dụng hoặc đe doạ hành động mà trong đó: (a) hành
động nằm trong phạm vi (2), (b) sử dụng hoặc đe doạ để gây ảnh hưởng tới
Chính phủ hoặc đe doạ dân chúng hoặc một bộ phận dân chúng, (c) việc sử
dụng hoặc đe doạ được làm với mục đích đưa ra/thúc đẩy một mục tiêu chính
trị, tơn giáo hoặc tư tưởng.
(2) Hành động thuộc phạm vi này nếu như: (a) liên quan đến sử dụng
bạo lực chống lại một người, (b) liên quan đến sự huỷ hoại nghiêm trọng về
tài sản, (c) gây nguy hiểm tới cuộc sống của một người, trừ người hành động
nó, (d) tạo ra sự nguy hiểm nghiêm trọng tới sức khoẻ và sự an toàn của dân

chúng hoặc một bộ phận dân chúng.
Theo quan niệm về khủng bố trong Đạo luật chống khủng bố năm 2000
của Vương quốc Anh, việc sử dụng vũ khí hoặc chất nổ cũng được coi là
khủng bố dù có hay khơng có mục đích chính trị hay xã hội.
Như vậy, Anh quốc xác định khủng bố trên cơ sở những dấu hiệu:
Phạm vi tác động của hành vi; đối tượng chịu sự tác động (Chính phủ, dân
chúng); mục đích của hành vi (đưa ra/thúc đẩy một mục tiêu chính trị, tơn
giáo hoặc tư tưởng).
d) Australia
Theo quy định của Luật chống khủng bố của Australia:

18


…Hành vi khủng bố là hành động hoặc lời đe doạ sẽ có hành động
nhằm mục đích ép buộc hoặc gây áp lực với cơng chúng hoặc bất cứ Chính
phủ nào để giành thắng lợi cho một sự nghiệp chính trị, tôn giáo hoặc ý thức
hệ. Hành vi này gây ra:
+ Sự chết, xâm hại trầm trọng hoặc gây nguy hiểm cho một người;
+ Thiệt hại tài sản nghiêm trọng;
+ Nguy cơ nghiêm trọng cho sức khoẻ hoặc sự an tồn của cơng chúng,
hoặc gây trở ngại nghiêm trọng, làm gián đoạn hoặc phá huỷ cơ sở hạ tầng
then chốt chẳng hạn như mạng viễn thông hoặc mạng điện lực.
Tội có hành vi khủng bố có nghĩa là thực hiện những điều trái phép sau đây:
+ Có hành vi khủng bố;
+ Trù tính hoặc chuẩn bị để thực hiện hành vi khủng bố;
+ Tài trợ nạn khủng bố hoặc kẻ khủng bố;
+ Huấn luyện hoặc được huấn luyện liên quan đến những hành vi
khủng bố;
+ Sở hữu những đồ vật liên quan đến những hành vi khủng bố, hay

+ Thu thập hoặc lập các giấy tờ mà nhiều phần là để tạo điều kiện thuận
tiện cho những hành vi khủng bố.
Những quy định của Australia về khủng bố được cho là khá rõ ràng.
Australia xác định khủng bố theo các dấu hiệu: Hành vi (hành động hoặc lời
đe doạ sẽ có hành động); dấu hiệu mục đích (nhằm mục đích ép buộc hoặc gây
áp lực với công chúng hoặc bất cứ Chính phủ nào để giành thắng lợi cho một sự
nghiệp chính trị, tơn giáo hoặc ý thức hệ); dấu hiệu hậu quả của hành vi.
e) Pháp
Bộ luật Hình sự Cộng hoà Pháp quy định khủng bố bao gồm các hành
vi do cá nhân hoặc tập thể thực hiện nhằm mục đích làm rối loạn nghiêm
trọng trật tự cơng cộng thông qua những hành vi đe doạ hoặc gieo rắc nỗi
khiếp sợ trong nhân dân. Đó là các vi phạm như: “Xâm phạm an toàn cá

19


nhân, bắt cóc, chiếm đoạt tài sản cũng như làm đổi hướng các thiết bị tàu
bay, tàu thuỷ hay bất cứ phương tiện giao thông nào; các vụ trộm, cưỡng
đoạt máy móc, phá huỷ, huỷ hoại và làm hư hỏng cũng như các hành vi vi
phạm trong lĩnh vực tin học; việc sản xuất, tàng trữ các dụng cụ, máy móc,
thiết bị giết người hoặc chất nổ được xác định tại Điều 3 Bộ luật Hình sự
Cộng hồ Pháp”.
Theo Bộ luật Hình sự Cộng hồ Pháp, khủng bố được xác định trên cơ
sở những dấu hiệu về: chủ thể (cá nhân hoặc tập thể); dấu hiệu hành vi (đe
doạ hoặc gieo rắc nỗi khiếp sợ trong nhân dân); dấu hiệu mục đích (làm rối
loạn nghiêm trọng trật tự cơng cộng). Bên cạnh đó, Pháp cũng đã liệt kê các
hành vi mang tính chất khủng bố. Cách quy định này có ưu điểm là rõ ràng,
cụ thể, dễ áp dụng để trừng trị các hành vi khủng bố tuy nhiên quy định theo
phương thức liệt kê sẽ dẫn tới việc liệt kê khơng đầy đủ.
Qua tìm hiểu về các quy định pháp luật của một số quốc gia về khủng

bố nêu trên, có thể thấy rằng, mỗi quốc gia có phương thức quy định khác
nhau, quy định cụ thể mang tính liệt kê hoặc quy định chung mang tính định
hướng. Bên cạnh đó, các quốc gia đều đưa ra quy định xác định một số dấu
hiệu cơ bản nhận biết hoạt động khủng bố. Tuy nhiên, những dấu hiệu này
theo pháp luật của các nước khác nhau cũng có sự khác biệt nhất định.
1.1.1.3. Khái niệm khủng bố ở Việt Nam
Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam do Nxb Cơng an
nhân dân xuất bản năm 2000 thì:
“Khủng bố là hành động dùng bạo lực của cá nhân, của một tổ chức,
một nhà nước hoặc liên minh nhà nước để đe doạ, cưỡng bức đối phương,
khiến họ vì khiếp sợ mà phải chịu khuất phục. Các hình thức khủng bố
thường là bắt cóc, ám sát, đánh bom...”.
“Khủng bố quốc tế là khủng bố nhằm vào cá nhân, tổ chức hoặc mục
tiêu được pháp luật quốc tế bảo vệ: giết người đứng đầu nhà nước, Chính

20


phủ, đại diện ngoại giao và các đại diện khác, phá huỷ tấn công đại sứ quan,
trụ sở của phái đồn đại diện của các tổ chức giải phóng dân tộc, các tổ chức
quốc tế; phá hoại hệ thống giao thơng quốc tế… với mục đích gây sức ép đối
với chính sách đối nội, đối ngoại của các quốc gia”.
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ do Nhà xuất bản Đà Nẵng
xuất bản năm 2006 thì “Khủng bố là dùng biện pháp tàn bạo làm cho khiếp
sợ để cai trị”.
Trong Chỉ thị số 25/2007/CT-TTg ngày 15/11/2007 của Thủ tướng
Chính phủ về cơng tác phịng, chống khủng bố trong tình hình mới đã đưa ra
khái niệm: “… Khủng bố là hoạt động có tổ chức do cơ quan tình báo nước
ngoài chỉ đạo hoặc do tổ chức khủng bố quốc tế, tổ chức “tôn giáo cực đoan”,
lực lượng phản động người Việt lưu vong ở nước ngoài, bọn phản động trong

nước hoặc bọn tội phạm hình sự hoạt động có tổ chức sử dụng vũ khí, chất nổ,
chất độc hại, lợi dụng công nghệ thông tin, tấn công vào các cơ quan nhà
nước, cơ quan nước ngoài tại Việt Nam, nơi cơng cộng, ám sát, bắt cóc con
tin, khống chế người hoặc phương tiện giao thông phá huỷ các cơng trình
cơng cộng, cơng trình quan trọng về an ninh quốc gia, xâm phạm hoặc đe doạ
xâm phạm trật tự an tồn xã hội, tính mạng, tài sản, uy hiếp tinh thần của cán
bộ, cơng chức, cơng dân, lợi ích của nước ngồi ở Việt Nam, nhằm chống lại
chính quyền nhân dân, gây nguy hại cho an ninh quốc gia, gây khó khăn cho
quan hệ quốc tế của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Hiện nay, Việt Nam chưa có một đạo luật riêng biệt quy định về khủng
bố nhưng thuật ngữ khủng bố đã được Bộ luật Hình sự đề cập tới.
Khoản 30 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung BLHS quy định bổ sung tội
khủng bố đã nêu: “Điều 230a. Tội khủng bố
1. Người nào nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong cơng chúng mà
xâm phạm tính mạng của người khác hoặc phá huỷ tài sản của cơ quan, tổ
chức, cá nhân thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân
hoặc tử hình.

21


2. Phạm tội trong trường hợp xâm phạm tự do thân thể, sức khoẻ hoặc
chiếm giữ, làm hư hại tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân, thì bị phạt tù từ
năm năm đến mười lăm năm.
3. Phạm tội trong trường hợp đe doạ thực hiện một trong các hành vi
quy định tại khoản 1 Điều này hoặc có những hành vi khác uy hiếp tinh thần,
thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
4. Người phạm tội cịn có thể bị phạt quản chế, cấm cư trú từ một năm
đến năm năm, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
Như vậy, hành vi khách quan của tội khủng bố gồm 3 nhóm hành vi:

xâm phạm tính mạng của người khác hoặc phá huỷ tài sản của cơ quan, tổ
chức, cá nhân; đe doạ xâm phạm tính mạng của người khác hoặc phá huỷ tài
sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc có những hành vi khác uy hiếp tinh
thần; xâm phạm tự do thân thể, sức khoẻ của người khác hoặc chiếm giữ, làm
hư hại tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Các hành vi này phải nhằm mục
đích gây ra tình trạng hoảng sợ trong công chúng mới được coi là khủng bố.
Đối tượng tác động của tội phạm khủng bố là tính mạng, sức khoẻ, tự do thân
thể, tinh thần của con người; tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân [1]. Hành
vi khủng bố xâm phạm tới khách thể là an toàn xã hội, trật tự xã hội, sự ổn
định trong đời sống tinh thần của nhân dân.
Qua những phân tích trên, có thể thấy Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Bộ luật Hình sự Việt Nam (19/6/2009) chưa đưa ra một định nghĩa
cụ thể về khủng bố, mà chỉ liệt kê các hành vi phạm tội khủng bố và các
khung hình phạt đối với các hành vi đó. Điều tương tự như vậy cũng được
quy định trong pháp luật của một số quốc gia trên thế giới.
Hiện nay, trên thế giới có khoảng hơn 100 định nghĩa về khủng bố
nhưng những định nghĩa này thường không đầy đủ và chưa có một định nghĩa
nào được tồn thế giới thừa nhận. Báo cáo gần đây nhất của Chính phủ Hoa
Kỳ về khủng bố quốc tế đã chỉ ra rằng: "Không một định nghĩa nào về khủng
bố nhận được sự chấp thuận toàn cầu".

22


Có thể thấy rằng, có rất nhiều quan điểm khác nhau về khủng bố, vì
vậy, việc đưa ra khái niệm hồn chỉnh, chính xác về khủng bố và được các
quốc gia chấp nhận là điều có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần tăng hiệu quả
hợp tác đấu tranh phịng, chống khủng bố trong bối cảnh quốc tế hiện nay.
Qua nghiên cứu các văn bản pháp lý quốc tế, quy định pháp luật một số
quốc gia về khủng bố, theo quan điểm của tác giả, khủng bố là hành vi bạo

lực hoặc đe doạ bạo lực do các cá nhân hoặc tổ chức thực hiện tác động đến
tính mạng, sức khoẻ (tinh thần và thể chất), tài sản của người dân và các mục
tiêu dân sự khác nhằm đạt được mục đích chính trị (ép buộc Chính phủ, tổ
chức, cá nhân hành động hoặc không được thực hiện hành động nào đó vì lí
do tơn giáo, sắc tộc…).
1.1.2. Ngun nhân dẫn đến hành động khủng bố quốc tế
Hoạt động khủng bố được thực hiện dưới nhiều hình thức, do nhiều lực
lượng, thế lực khác nhau thực hiện. Chúng ta có thể lý giải một số nguyên
nhân dẫn đến hành động khủng bố như sau:
- Về khía cạnh chính trị của những hành động khủng bố: Các mâu
thuẫn dân tộc và xung đột sắc tộc, tôn giáo là một trong những nguyên nhân
chính dẫn đến những hành động khủng bố quốc tế. Có thể thấy trong lịch sử,
nhiều vụ khủng bố được tiến hành xuất phát từ những xung đột sắc tộc và tôn
giáo. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, các tổ chức và nhóm khủng bố phát
triển về cả số lượng và chất lượng. Trong đó nổi tiếng là các tổ chức của Ixraen, Mỹ và các tổ chức hồi giáo cực đoan quá khích. Các tổ chức Hồi giáo
cực đoan q khích đã lợi dụng tơn giáo và đức tin để kêu gọi “Thánh chiến”
chống lại các thế lực khơng phải là Hồi giáo chân chính, với ước muốn xây
dựng một thế giới hồi giáo thuần khiết. Thậm chí, một số tổ chức Hồi giáo lợi
dụng sự xung đột giữa Ấn Độ và Pakistan thể hiện ước muốn thành lập một
Nhà nước Hồi giáo tại Karsmir. Cũng xuất phát từ mâu thuẫn và xung đột sắc
tộc, từ năm 1967 đến năm 1975, những người Palestine cực đoan đã gây ra

23


hàng loạt các vụ cướp máy bay với mong muốn thế giới hãy quan tâm tới số
phận của họ.
- Về khía cạnh kinh tế: Tình trạng đói nghèo, phân cực giàu nghèo quá
lớn, thất nghiệp là những lý do thúc đẩy một bộ phận của xã hội gia nhập lực
lượng khủng bố. Báo cáo của Uỷ ban Kinh tế - Xã hội Liên hợp quốc cho

thấy, thế giới đang ngày càng trở nên khập khiễng, cho dù có nhiều vùng lãnh
thổ đã phát triển vượt bậc về kinh tế. Các chuyên gia cảnh báo tình trạng mất
cân đối giữa các quốc gia cũng như giữa các tầng lớp xã hội trong cùng một
quốc gia đã tăng cao hơn rất nhiều so với 10 năm trước. Nếu tình trạng bất
bình đẳng về kinh tế như hiện nay vẫn diễn ra thì lợi ích chủ yếu sẽ rơi vào
tay những nước giàu, và những nước đang phát triển nghèo vẫn hoàn nghèo.
80% sản phẩm nội địa trên thế giới thuộc về 1 tỷ người ở các nước phát triển
so với 20% còn lại của 5 tỷ người ở các nước đang phát triển. Hiện nay, trên
thế giới có khoảng 2,8 tỷ người có thu nhập khơng tới 2 USD/ngày. Khoảng
cách chênh lệch ngày càng nới rộng khơng chỉ về tài chính mà còn cả trong
lĩnh vực y tế và giáo dục.
Sự chênh lệch giàu nghèo quá lớn, cuộc sống của một bộ phận dân
nghèo trở nên cơ cực đã khiến họ mong muốn phải có sự thay đổi chính
quyền, thay đổi sự áp đặt, chèn ép của các nước giàu lên các nước nghèo.
Và bởi chính mong muốn tiềm tàng đó, khi có một tổ chức kêu gọi, dẫn
dắt, họ sẽ dễ bị lôi kéo tham gia vào những hoạt động khủng bố. Trên thực
tế, nhiều lãnh tụ hồi giáo, người đứng đầu các tổ chức khủng bố không xuất
thân từ tầng lớp dân nghèo mà từ tầng lớp trung lưu hoặc giàu có, do đó, sẽ
khơng đúng khi nói rằng nghèo đói là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới hành
động khủng bố nhưng phải thừa nhận rằng, nghèo đói, sự chênh lệch giàu
nghèo trong xã hội quốc gia nói chung hay cộng đồng quốc tế nói riêng là
điều kiện thuận lợi, là mầm mống tiềm tàng cho chủ nghĩa khủng bố lợi
dụng phát triển.

24


1.2. Đặc điểm của khủng bố quốc tế
1.2.1. Đặc điểm của hoạt động khủng bố
Tội phạm khủng bố quốc tế là tội phạm hình sự quốc tế nghiêm trọng

nhất và nguy hiểm nhất. Nó khơng chỉ gây thiệt hại về vật chất, tính mạng,
sức khoẻ con người mà cịn làm tổn hại về tinh thần, trật tự an toàn xã hội,
gây hoang mang trong nhân dân, xâm phạm hoạt động ngoại giao của các
quốc gia và cản trở mối quan hệ quốc tế.
Thời gian gần đây, nhiều tổ chức, băng nhóm, cá nhân đã tiến hành
những vụ khủng bố mang tính xuyên quốc gia, hướng đến nhiều mục đích,
đối tượng khác nhau. Chủ nghĩa khủng bố đã không chỉ là mối hiểm hoạ cho
một quốc gia mà còn đe doạ tới hồ bình và an ninh quốc tế. Chủ nghĩa khủng
bố đã mang màu sắc toàn cầu và chủ nghĩa khủng bố quốc tế đã phát triển
mạnh mẽ, trở thành chủ nghĩa khủng bố quốc tế hiện đại với những hành vi và
thủ đoạn đa dạng.
Qua nghiên cứu một số khái niệm khủng bố trong các văn bản pháp luật
quốc tế và pháp luật của một số quốc gia và thực tiễn quá trình phát triển của
chủ nghĩa khủng bố trong những năm trở lại đây, có thể nhận diện hoạt động
khủng bố qua một số đặc điểm sau:
- Hoạt động khủng bố thường nhắm đến mục tiêu là cộng đồng dân cư
với mục đích gieo rắc sự sợ hãi, nỗi kinh hoàng trong một bộ phận nhân dân.
Những đối tượng khủng bố muốn thơng qua các hành động đó để gây ra ảnh
hưởng xấu đến ổn định xã hội, đến phát triển kinh tế của quốc gia, qua đó
thực hiện cho được mục đích chính trị của chúng.
Thực tiễn cho thấy, các vụ khủng bố thường gây ra tâm lý hoang mang,
hoảng loạn bao trùm lên cộng đồng dân cư nơi phải gánh chịu những hậu quả
của hoạt động khủng bố trong một thời gian dài. Tâm lý sợ hãi sẽ dần dần làm
mất niềm tin của dân chúng đối với chính quyền. Điều này mang đến sức ép
khơng nhỏ đối với mỗi chính phủ trong việc truy tìm các đối tượng khủng bố
và trấn an bộ phận dân cư này.
25



×