Tải bản đầy đủ (.pdf) (150 trang)

Pháp luật Quốc tế với vấn đề khủng bố quốc tế, một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.1 MB, 150 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN MINH THU

PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
VỚI VẤN ĐỀ KHỦNG BỐ QUỐC TẾ:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành : Luật Quốc tế
Mã số

: 60 38 60

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2012


Cơng trình được hồn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Hoàng Anh

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 20….



Có thể tìm hiểu luận văn tại
Trung tâm tư liệu Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội
Trung tâm tư liệu – Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội


MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Mục lục

1.1.

MỞ ĐẦU

1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHỦNG BỐ
QUỐC TẾ .................................

7

Khái niệm khủng bố quốc tế và nguyên nhân dẫn đến khủng
bố quốc tế ................................................................................

7

1.1.1. Khái niệm .................................................................................

7


1.1.2. Nguyên nhân dẫn đến hành động khủng bố quốc tế

23

1.2.

Đặc điểm của khủng bố quốc tế ...............................................

25

1.2.1. Đặc điểm của hoạt động khủng bố ...........................................

25

1.2.2. Đặc điểm pháp lý của tội khủng bố .........................................

26

1.2.3. Đặc điểm chủ yếu của hoạt động khủng bố quốc tế hiện nay

36

Chương 2: KHÁI QUÁT KHUNG PHÁP LÝ QUỐC TẾ VỀ
PHÒNG, CHỐNG KHỦNG BỐ ...................................................

44

Khái quát khung pháp lý quốc tế về phòng, chống khủng bố..


44

2.1.1. Điều ước quốc tế .....................................................................

44

2.1.

2.1.2. Nghị quyết chống khủng bố của Hội đồng Bảo an Liên
hợp quốc ...................................................................................
2.2.

100

Một số điểm hạn chế của pháp luật quốc tế về phòng, chống
khủng bố hiện nay và phương hướng hồn thiện.....................

104

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GĨP PHẦN HỒN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CƠNG TÁC PHÒNG, CHỐNG
KHỦNG BỐ Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY .............

109

3.1.

Quy định của pháp luật Việt Nam về phòng, chống khủng bố....

110


3.2.

Thực tiễn thi hành pháp luật về phòng, chống khủng bố........

121

3.3.

Nhu cầu hồn thiện pháp luật về phịng, chống khủng bố ở
Việt Nam hiện nay ...................................................................

123


3.4.

Quan điểm, định hướng hồn thiện pháp luật về phịng, chống
khủng bố ...................................................................................

3.5.

125

Một số giải pháp góp phần hồn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả cơng tác phịng chống khủng bố ở Việt Nam trong
tình hình hiện nay .....................................................................

128


3.5.1. Tăng cường ký kết hoặc gia nhập các điều ước quốc tế về
phòng, chống khủng bố ............................................................

128

3.5.2. Ban hành Luật Phịng, chống khủng bố - đạo luật quy định
tồn diện, thống nhất về phòng, chống khủng bố ....................

130

3.5.3. Sửa đổi, bổ sung, khắc phục những điểm bất cập, không hợp
lý trong các văn bản pháp luật hiện hành về phòng, chống
khủng bố ...................................................................................

133

KẾT LUẬN

137

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

139


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khủng bố là một trong những loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm, trực
tiếp xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người và đe doạ nghiêm trọng
đến an ninh, trật tự xã hội của quốc gia và cộng đồng quốc tế. Trên thực tế, hoạt

động khủng bố đã tồn tại từ lâu trong xã hội lồi người tuy nhiên đến nay nó mới
trở thành một trong những chiến lược chủ chốt của chủ nghĩa cực đoan.
Trong những năm qua, hoạt động khủng bố quốc tế ngày càng gia tăng
với nhiều hình thức, thủ đoạn tinh vi và mức độ ngày càng nghiêm trọng. Sự
kiện ngày 11 tháng 9 năm 2001 là hành vi điển hình của hoạt động khủng bố
quốc tế. Sự kiện này đã làm cho tất cả các quốc gia chú ý hơn đến vấn đề an
ninh đồng thời nó đã mở ra một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên của chủ nghĩa
khủng bố quốc tế và cùng với đó là kỷ nguyên của sự hợp tác quốc tế chống
khủng bố. Sau sự kiện ngày 11 tháng 9 năm 2001 và sau cuộc tấn công vào
Afghanistan, chủ nghĩa khủng bố không hề thun giảm, thậm chí nó cịn bột
phát và trở nên táo tợn hơn. Các vụ tấn công khủng bố liên tiếp xảy ra, gây
bất ổn ở nhiều nơi, đe doạ hồ bình và an ninh thế giới. Chủ nghĩa khủng bố
đã và đang làm cho nhiều quốc gia, chính phủ trên thế giới phải đau đầu. Cho
đến thời điểm hiện tại, hoạt động khủng bố đã trở thành vấn đề tồn cầu,
khơng chỉ xâm hại đến sự ổn định của một quốc gia, một chính phủ mà cịn đe
doạ nghiêm trọng đến hồ bình và an ninh quốc tế.
Trong thực tiễn, khủng bố thường nhằm vào các mục tiêu quân sự,
chính trị để gây tiếng vang lớn; các mục tiêu kinh tế để giảm bớt sức mạnh
kinh tế của đối phương; các hệ thống thông tin để gây thiệt hại về cơ sở vật
chất, gián đoạn thông tin, thậm chí là nhằm vào các mục tiêu dân sự, ám sát
thủ lĩnh phe đối lập hoặc gây ra các cuộc khủng bố trước hoặc sau các cuộc
bầu cử nhằm phá hoại uy tín của các ứng cử viên sáng giá. Chủ nghĩa khủng
bố hiện nay đã không chỉ giới hạn trong một quốc gia mà còn lan rộng ra các
1


khu vực và tồn cầu với quy mơ phá hoại ngày càng lớn và thủ đoạn ngày
càng tinh vi hơn. Tội phạm khủng bố đang trở thành thách thức lớn đối với
hồ bình, an ninh quốc tế, do đó, hợp tác đấu tranh chống khủng bố là một
trong những mối quan tâm hàng đầu của toàn nhân loại. Chống khủng bố là

nhiệm vụ của tất cả các quốc gia trên thế giới. Muốn giải quyết được vấn đề
khủng bố quốc tế cần phải có sự nỗ lực chung của tồn nhân loại, sự hợp tác
chặt chẽ của tất cả các quốc gia, các tổ chức quốc tế, các tổ chức chính trị xã
hội và mọi cơng dân.
Đứng trước thách thức của hoạt động khủng bố, Liên hợp quốc đã có
những nỗ lực quan trọng trong việc xây dựng khung pháp lý quốc tế về chống
khủng bố để thu hút và tăng cường sự hợp tác giữa các quốc gia trong khuôn
khổ đa phương cùng đấu tranh ngăn chặn các hoạt động này. Cho đến nay, đã có
14 Cơng ước và Nghị định thư quốc tế và nhiều Nghị quyết của Hội đồng Bảo an
Liên hợp quốc… liên quan đến chống khủng bố được xây dựng, ban hành.
Việc xây dựng, ban hành các điều ước quốc tế về chống khủng bố nêu
trên đã khẳng định sự thành công của Liên hợp quốc trên lĩnh vực xây dựng
pháp luật quốc tế và góp phần định hướng hồn thiện hệ thống pháp luật của
các quốc gia về phòng, chống khủng bố. Trên cơ sở các văn bản pháp lý quốc
tế về chống khủng bố, các quốc gia ký kết hoặc tham gia Công ước và Nghị
định thư có trách nhiệm nội luật hố những quy phạm pháp lý quốc tế, ban
hành các văn bản pháp luật và áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm đấu tranh
chống khủng bố có hiệu quả.
Mặc dù đến nay, cộng đồng quốc tế đã xây dựng được 14 Công ước và
Nghị định thư quốc tế cũng như nhiều Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên
hợp quốc liên quan đến chống khủng bố quốc tế và đã có sự hợp tác của nhiều
quốc gia trong việc chống khủng bố nhưng do tính chất nguy hiểm, thủ đoạn
tinh vi và phạm vi hoạt động xuyên quốc gia của tội phạm khủng bố nên hoạt
động đấu tranh chống khủng bố quốc tế vẫn chưa thực sự đạt được hiệu quả
2


cao. Do vậy, việc nghiên cứu pháp luật quốc tế về chống khủng bố, tìm ra
những điểm bất cập của hệ thống pháp luật này có vai trị quan trọng trong
việc xây dựng các quy định, đề ra các giải pháp mới phù hợp với thực trạng

hoạt động khủng bố quốc tế hiện nay để có thể trừng trị, hạn chế và ngăn
ngừa các hành vi khủng bố quốc tế.
Đối với Việt Nam, vấn đề chống khủng bố cũng luôn là vấn đề được
Đảng và Nhà nước quan tâm. Trên cơ sở nhận thức sâu sắc mối nguy cơ và
thảm hoạ tiềm tàng của các hành động khủng bố, trong Hội nghị cấp cao
ASEAN lần thứ VII tại Brunei ngày 05 tháng 11 năm 2001, Thủ tướng Phan
Văn Khải đã từng tuyên bố: “Việt Nam cho rằng cần kiên quyết lên án và
chống lại các hành động khủng bố dưới mọi hình thức”. Để thể hiện quyết
tâm chống khủng bố quốc tế, trong những năm qua, Việt Nam đã gia nhập
nhiều điều ước quốc tế liên quan đến lĩnh vực chống khủng bố và ban hành
nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh vấn đề này. Tuy nhiên, pháp luật về chống
khủng bố của Việt Nam còn thiếu và chưa đồng bộ. Một số quy định của các
Công ước quốc tế liên quan đến vấn đề chống khủng bố mà Việt Nam đã ký
kết và tham gia chưa được nội luật hoá đầy đủ trong các văn bản quy phạm
pháp luật Việt Nam. Vì vậy, cần thiết phải nghiên cứu pháp luật về chống
khủng bố quốc tế để xây dựng và hoàn thiện pháp luật chống khủng bố của
Việt Nam, khắc phục những điểm bất cập trong hệ thống pháp luật của Việt
Nam hiện nay.
Từ chủ trương của Đảng và Nhà nước, yêu cầu của thực tiễn và yêu cầu
hoàn thiện pháp luật Việt Nam, việc nghiên cứu, hệ thống hoá các văn bản
pháp luật quốc tế liên quan đến khủng bố, phân tích, chỉ ra những điểm hạn
chế của pháp luật Việt Nam về chống khủng bố để hoàn thiện hơn nữa pháp
luật Việt Nam là cần thiết. Vì lý do đó tơi chọn đề tài "Pháp luật quốc tế với
vấn đề khủng bố quốc tế: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" làm luận văn
tốt nghiệp của mình.
3


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có một số tác giả nghiên cứu về đề tài chống khủng bố trong pháp

luật quốc tế. Trong đó có thể kể đến một số cơng trình khoa học sau:
- Đề tài khoa học cấp Bộ “Những giải pháp cơ bản phịng, chống khủng
bố ở Việt Nam trong tình hình hiện nay” do TS. Bùi Trung Thành, Học viện
An ninh nhân dân làm chủ nhiệm, nghiệm thu năm 2004;
- Đề tài khoa học cấp Bộ “Khủng bố và giải pháp phòng, chống khủng
bố ở nước ta hiện này” do PGS. TS. Hồng Cơng Tư, Phó Tổng cục trưởng
Tổng cục I, Bộ Công an làm Chủ nhiệm, nghiệm thu năm 2007;
- Sách Khủng bố và chống khủng bố của tác giả Nam Hồng, Nxb Lao
động, Hà Nội năm 2001;
- Sách Pháp luật về chống khủng bố của một số nước trên thế giới do
Phạm Văn Lợi (chủ biên), Nxb Tư pháp, Hà Nội;
- Công Phương Vũ (2003), Khủng bố quốc tế - Cơ sở pháp lý quốc tế
ngăn ngừa và trừng trị khủng bố quốc tế, Luận văn tốt nghiệp đại học, chuyên
ngành Luật Quốc tế tại Trường Đại học Luật Hà Nội, 2003.
Tuy nhiên, các cơng trình kể trên nghiên cứu vấn đề khủng bố và chống
khủng bố một cách khái quát và sơ lược trên một phạm vi nhất định (như:
nghiên cứu về khái niệm khủng bố, các tổ chức khủng bố); chỉ đưa ra các giải
pháp để phòng, chống khủng bố nói chung hoặc phịng, chống khủng bố xảy
ra trên một địa bàn nhất định; chưa phản ánh toàn diện và đầy đủ về khủng bố
quốc tế và vấn đề chống khủng bố quốc tế. Hơn nữa, các cơng trình được
nghiên cứu từ những năm trước đây nên chưa cập nhật được những thay đổi
trong pháp luật chống khủng bố cho đến thời điểm hiện tại. Đến nay, chưa có
một cơng trình tập hợp, hệ thống hố một cách toàn diện hệ thống pháp luật
quốc tế về chống khủng bố. Chính vì vậy, trong luận văn của mình tác giả sẽ
đề cập đến quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa khủng bố; đưa ra
nhận thức chung về khủng bố; khái quát khung pháp lý quốc tế và văn bản
4


pháp luật quốc gia về chống khủng bố và đưa ra một số giải pháp để hoàn

thiện quy định của pháp luật quốc tế cũng như pháp luật Việt Nam trong lĩnh
vực phịng, chống khủng bố quốc tế.
3. Mục đích của luận văn
Luận văn hướng đến tập hợp, hệ thống hoá những quy định của pháp
luật quốc tế về chống khủng bố để đưa đến một cái nhìn tổng quan về hệ
thống pháp luật liên quan đến khủng bố quốc tế; đánh giá hệ thống pháp luật
quốc tế về phòng, chống khủng bố, trên cơ sở đó đưa ra giải pháp để hoàn
thiện khung pháp lý quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống khủng bố; đồng thời,
đưa ra những kiến nghị để hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về chống
khủng bố, đề xuất những điều ước quốc tế về chống khủng bố Việt Nam nên
ký kết và tham gia trong thời gian tới.
4. Nhiệm vụ của luận văn
Luận văn tập trung vào việc giải quyết những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, khái quát những vấn đề lý luận về khủng bố như khái niệm,
nguyên nhân dẫn đến khủng bố, đặc điểm của tội phạm khủng bố.
Thứ hai, tập hợp, khái qt hố, đưa đến cái nhìn tổng quan về hệ thống
pháp luật quốc tế về phòng, chống khủng bố.
Thứ ba, phân tích một số quy định cơ bản của một số Công ước quốc tế
về chống khủng bố; phân tích cơ chế triển khai, giám sát việc thực hiện các
khung pháp lý này.
Thứ tư, nêu và phân tích một số hạn chế trong pháp luật quốc tế và
pháp luật Việt Nam về khủng bố và đưa ra một số giải pháp góp phần hồn
thiện quy định của pháp luật quốc tế và Việt Nam trong lĩnh vực phòng,
chống khủng bố quốc tế.
5. Phương pháp tiếp cận vấn đề
Để tài nghiên cứu được tiếp cận theo phương pháp duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử - phương pháp luận của khoa học pháp lý nói chung và
5



khoa học luật quốc tế nói riêng. Bên cạnh đó, tác giả cũng sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khác như: phương pháp phân tích - tổng hợp,
phương pháp so sánh luật học, phương pháp đối chiếu và các phương pháp
nghiên cứu truyền thống và hiện đại khác…
6. Nội dung
Luận văn được kết cấu thành 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về khủng bố quốc tế.
Chương 2: Khái quát khung pháp lý quốc tế về phòng, chống khủng bố.
Chương 3: Một số giải pháp góp phần hồn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả cơng tác phịng, chống khủng bố ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHỦNG BỐ QUỐC TẾ
1.1. Khái niệm khủng bố quốc tế và nguyên nhân dẫn đến khủng
bố quốc tế
1.1.1. Khái niệm khủng bố quốc tế
Khủng bố là một hiện tượng xã hội phức tạp, mang tính tiêu cực và
đang trở thành mối đe doạ đối với loài người trong thế kỷ XXI. Do mức độ
ảnh hưởng của nó tới hồ bình và an ninh quốc tế nên khủng bố đang là một
trong những vấn đề được các nhà khoa học trên thế giới quan tâm nghiên cứu
dưới nhiều góc độ khác nhau để tìm ra biện pháp đấu tranh có hiệu quả.
Dưới góc độ chính trị, xã hội, trong những điều kiện, bối cảnh lịch sử
khác nhau, nhận thức về chủ nghĩa khủng bố cũng có những điểm khác biệt
nhất định.
Chủ nghĩa khủng bố đã xuất hiện ngay từ thời kỳ đầu của lịch sử nhân
loại. Nhà sử học người Hy Lạp Xenophone (431-350TCN) đã viết về hiệu quả
của chiến tranh tâm lý đối với dân chúng phe đối lập. Các hoàng đế Roma đã

sử dụng các biện pháp trục xuất, xung công tài sản riêng và tử hình như là các
biện pháp để ngăn chặn sự chống đối với chế độ cai trị của họ. Một số hoàng
đế Trung Hoa đã nâng lên thành cơ sở lý luận đặt nền móng cho sự nhận thức
về “chủ nghĩa khủng bố” ngày nay. Đó là tư tưởng “Sát nhất dân, vạn dân cụ”
(Giết một người, hàng vạn người khác phải sợ hãi) [56]. Tư tưởng này còn
được thể chế trong luật pháp của nhiều quốc gia châu Á và gây ra những cuộc
thảm sát đẫm máu mang tính hợp pháp của nhiều chế độ chuyên quyền độc
đốn phương Đơng.
Tuy hiện tượng khủng bố đã xuất hiện từ lâu nhưng thuật ngữ khủng bố
đến thời kỳ sau này mới xuất hiện. Trên thực tế, thuật ngữ "khủng bố" và "kẻ
khủng bố" được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1795, từ Thời kỳ khủng bố
7


(1793 - 1794) ở nước Pháp. Chính quyền cách mạng nước Pháp lúc đó (chính
quyền Terreur) đã thiết lập một chế độ độc tài và tiến hành các biện pháp kinh
tế hà khắc. Tuy nhiên, những người Giacôbanh lãnh đạo chính phủ Pháp lúc
đó đồng thời cũng là những người cách mạng và dần dần "sự khủng bố" “terreur” được dùng để chỉ hoạt động bạo lực cách mạng nói chung. Tuy
nhiên, cũng có một số quan niệm cho rằng thuật ngữ “khủng bố” xuất hiện
vào năm 1798 do nhà triết học Đức Immanuel Kant sử dụng để mô tả sự bi
quan về số phận con người và cùng năm đó thuật ngữ này cũng xuất hiện
trong một phụ lục của Đại từ điển Viện Hàn lâm Pháp [27].
Việc sử dụng thuật ngữ "kẻ khủng bố" theo nghĩa một người chống lại
chính phủ được ghi lại tại Ailen năm 1866 và tại Nga năm 1883. Khái niệm
này được dùng để chỉ những kẻ chống phá chính quyền với triết lý và lý
tưởng vơ chính phủ, phủ nhận nhà nước, các đạo luật do nhà nước ban hành
và tài sản của cơng dân [28].
Trên bình diện quốc tế, lần đầu tiên khái niệm “khủng bố quốc tế” được
sử dụng tại diễn đàn của 06 hội nghị quốc tế về thống nhất hố luật hình sự
(năm 1927). Các hội nghị này đã lưu ý cộng đồng quốc tế về vấn đề chống

khủng bố quốc tế. Các hội nghị đã hoàn thành việc xếp loại các tội phạm
trong nội hàm khái niệm khủng bố quốc tế và gián tiếp góp phần đưa ra quyết
định loại bỏ một số hành vi khỏi nhóm tội phạm chính trị khơng bị dẫn độ
trong điều ước quốc tế về lĩnh vực này [56, tr.9]. Tiếp đó, vào năm 1934, Hội
nghị quốc tế về thống nhất hoá luật hình sự được triệu tập tại Mardrit (Tây
Ban Nha) đã thành công trong việc đưa ra một định nghĩa khủng bố, theo đó,
đây là việc sử dụng biện pháp bất kỳ có khả năng khủng bố dân cư nhằm mục
đích phá huỷ toàn bộ cơ cấu tổ chức xã hội, chống phá nhân dân.
Năm 1934, vụ sát hại vua Nam Tư và Bộ trưởng Ngoại giao Pháp ngay
trên lãnh thổ nước Pháp đã làm dấy lên làn sóng đấu tranh trên toàn thế giới
và theo đề nghị của Pháp, Hội quốc liên với vai trị gìn giữ hịa bình và an
8


vành quốc tế đã đảm nhận trách nhiệm về vấn đề khủng bố. Hội quốc liên đã
thành lập một Uỷ ban đặc biệt gồm 11 quốc gia để soạn thảo công ước chống
các tội phạm được thực hiện nhằm mục đích chính trị và khủng bố. Bản dự
thảo điều ước sau đó đã được 20 quốc gia thơng qua tại Giơ ne vơ ngày 1611-1937 [56, tr.10]. Công ước năm 1937 được ghi nhận là sự cố gắng của
cộng đồng quốc tế trong việc đấu tranh phòng, chống khủng bố và có tác động
thúc đẩy sự hợp tác giữa các quốc gia trong lĩnh vực này.
Sau Công ước Giơ ne vơ 1937, dưới sự nỗ lực của Liên hợp quốc và
các tổ chức quốc tế khác (như Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế ICAO,
Tổ chức Hàng hải quốc tế IMO…), nhiều Cơng ước quốc tế liên quan đến
phịng, chống khủng bố đã tiếp tục được ban hành. Tuy nhiên, các công ước
quốc tế này không nêu ra một khái niệm cụ thể về chống khủng bố mà chỉ liệt
kê các hành vi bị coi là khủng bố. Cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm
đầy đủ, tồn diện và thống nhất quan điểm của các quốc gia về khủng bố. Do
đó, để đưa ra khái niệm khủng bố cần xem xét quan điểm của các quốc gia và
cộng đồng quốc tế về vấn đề này.
1.1.1.1. Khái niệm khủng bố trong các văn bản quốc tế

Hiện nay, trong khuôn khổ Liên hợp quốc và các tổ chức thành viên
(ICAO, IMO, IAEA…) có 14 điều ước quốc tế đa phương về chống khủng bố đã
được thơng qua. Ngồi ra còn rất nhiều điều ước quốc tế khu vực, hiệp định quốc
tế song phương và các nghị quyết của Đại hội đồng, Hội đồng bảo an Liên hợp
quốc về các biện pháp đấu tranh chống khủng bố. Mặc dù, hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật quốc tế về chống khủng bố tương đối lớn, tuy nhiên chưa văn bản
nào đưa ra được định nghĩa rõ ràng, toàn diện về khủng bố. Trong bối cảnh quốc
tế hiện nay, việc đưa ra định nghĩa chung về khủng bố là cấp thiết vì có như vậy
mới nâng cao được hiệu quả hợp tác đấu tranh phòng chống tội phạm này [26].
Trong 14 điều ước quốc tế thuộc khuôn khổ Liên hợp quốc về đấu
tranh chống khủng bố hiện nay chỉ có 3 công ước trực tiếp nhắc đến khái
9


niệm "khủng bố” (terrorism) ngay tại tiêu đề, đó là: Công ước New York năm
1997 về trừng trị khủng bố bằng bom (International convention for the
suppression of terrorist bombings); Công ước New York năm 1999 về trừng
trị việc tài trợ khủng bố (International convention for the suppression of the
financing of terrorism); Công ước New York năm 2005 về ngăn chặn các
hành vi khủng bố hạt nhân (International convention for the suppression of
acts of nuclear terrorism).
Trong ba công ước quốc tế nêu trên, Công ước New York năm 1999 về
trừng trị hành vi tài trợ khủng bố bên cạnh việc định nghĩa hành vi tài trợ
khủng bố đã gián tiếp quy định thế nào là khủng bố. Theo Công ước này thì
khủng bố là: i) "Bất kì hành vi nào cấu thành một tội phạm trong phạm vi và
được định nghĩa tại một trong số các điều ước về đấu tranh chống khủng bố
còn lại (được quy định tại phụ lục)” hoặc ii) "Bất kì hành vi nào khác với ý
định giết hại hoặc làm bị thương nghiêm trọng đến thân thể thường dân, hoặc
bất kì người nào khác khơng tham gia vào chiến sự trong bối cảnh xung đột
vũ trang, nếu mục đích của hành vi này về bản chất hoặc bối cảnh xảy ra là

nhằm hăm doạ dân chúng hay ép buộc một chính phủ hoặc một tổ chức quốc
tế phải thực hiện hoặc khơng thực hiện bất kì hành vi nào” (Điều 2). Tuy
nhiên, khó có thể coi quy định nêu ra tại Điều 2 Công ước New York năm
1999 là định nghĩa khủng bố hoàn chỉnh bởi: Thứ nhất, đây là định nghĩa gián
tiếp được đưa ra thông qua định nghĩa khác; Thứ hai, Khoản 1 Điều này
không nêu được dấu hiệu cấu thành tội khủng bố mà dẫn chiếu đến một số tội
phạm được quy định tại các công ước khác cho nên chỉ thuần tuý mang tính
chất liệt kê; Thứ ba, Khoản 2 có nêu được một số dấu hiệu của tội khủng bố
(về hành vi, khách thể, mục đích…) nhưng cũng chỉ đề cập thêm được các
hành vi xâm phạm tính mạng và sức khoẻ con người.
Trong khi đó, Cơng ước New York năm 1997 về trừng trị khủng bố
bằng bom và Công ước New York năm 2005 về ngăn chặn các hành vi khủng
10


bố hạt nhân chỉ đưa ra định nghĩa về từng loại hành vi khủng bố cụ thể, ví dụ
khủng bố bằng bom là việc: "ném, đặt làm nổ hoặc kích nổ một cách bất hợp
pháp và cố ý một thiết bị gây nổ hoặc gây chết người khác tại, vào, hoặc
chống lại một địa điểm công cộng, một trang thiết bị của nhà nước hoặc
Chính phủ, một hệ thống giao thông công cộng hoặc cơ sở hạ tầng” (Điều 2
Công ước New York năm 1997 về việc trừng trị khủng bố bằng bom); theo
Công ước New York năm 2005 về ngăn ngừa các hành vi khủng bố hạt nhân
thì "một người bị coi là phạm tội khủng bố hạt nhân nếu người đó, một cách
có chủ định và bằng con đường bất hợp pháp sở hữu nguyên liệu phóng xạ,
chế tạo hay sở hữu thiết bị hạt nhân với mục đích gây thương vong lớn hay
nhằm phá hoại cơ sở hạ tầng hay môi trường; sử dụng nguyên liệu hay thiết bị
phóng xạ, sử dụng hoặc phá hoại cơ sở hạt nhân để tạo ra sự rị rỉ phóng xạ
gây thương vong lớn, nhằm phá hoại cơ sở hạ tầng hay môi trường để ép buộc
thể nhân hay pháp nhân, tổ chức quốc gia hay quốc gia phải thực hiện hay
khơng thực hiện hành động nào đó” (Điều 2 Cơng ước).

Ngoại trừ 3 Công ước nêu trên, 11 Công ước cịn lại khơng nhắc đến
khái niệm khủng bố một cách trực tiếp ở tiêu đề mà chỉ quy định về những tội
phạm mà việc thực hiện các tội phạm đó được coi như biểu hiện của khủng bố
quốc tế. Ví dụ tại phần mở đầu, Công ước New York năm 1979 về chống bắt
cóc con tin ghi nhận: "Xét rằng việc bắt cóc con tin là một tội phạm gây lo
ngại sâu sắc cho cộng đồng quốc tế...; Nhận thấy rõ sự cấp thiết phải phát
triển hợp tác quốc tế giữa các quốc gia trong việc đưa ra các sáng kiến và sử
dụng các biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn, truy tố và trừng trị tất cả các
hành vi bắt con tin như là những biểu hiện của khủng bố quốc tế”; hay như
Công ước Montreal năm 1991 về việc đánh dấu chất nổ dẻo để nhận biết tại
phần mở đầu có ghi: "Bày tỏ mối lo ngại sâu sắc đối với các hành vi khủng bố
nhằm phá hoại tàu bay, các phương tiện giao thông và các mục tiêu khác; Lo
ngại rằng các vật nổ dẻo vẫn được sử dụng cho các hành vi khủng bố như
11


vậy; Xét rằng việc đánh dấu vật liệu nổ dẻo để nhận biết sẽ góp phần quan
trọng vào việc ngăn chặn các hành vi bất hợp pháp đó”...
Khơng chỉ các công ước quốc tế mà các Nghị quyết của Hội đồng Bảo
an Liên hợp quốc về các biện pháp phòng, chống khủng bố cũng không đưa ra
định nghĩa cụ thể nào về khủng bố. Ngay cả Nghị quyết số 1373 ngày
28/9/2001 làm cơ sở ra đời Uỷ ban chống khủng bố thuộc Hội đồng Bảo an
Liên hợp quốc mặc dù kêu gọi "các quốc gia hợp tác khẩn thiết nhằm phịng
và trấn áp các hành động khủng bố, thơng qua sự tăng cường hợp tác và thực
hiện đầy đủ các công ước quốc tế liên quan đến chủ nghĩa khủng bố” cũng
không đưa ra định nghĩa cụ thể về khủng bố.
Hầu hết các điều ước quốc tế khu vực cũng không đưa ra được định
nghĩa khủng bố. Các điều ước này trong phạm vi hợp tác đấu tranh chống
khủng bố lại dẫn ra những hành vi được quy định tại các công ước quốc tế đa
phương của Liên hợp quốc. Ví dụ, Cơng ước của châu Âu về chống khủng bố

năm 1977 ngay tại Điều 1 đã đưa ra các hành vi thuộc phạm vi điều chỉnh của
Công ước, yêu cầu các quốc gia thành viên phải tội phạm hoá, đó là các hành
vi được nêu trong Cơng ước La Haye năm 1970 về trừng trị việc chiếm giữ
bất hợp pháp tàu bay; Công ước Montreal năm 1971 về việc trừng trị các hành
vi bất hợp pháp chống lại an tồn hàng khơng dân dụng; Cơng ước New York
năm 1973 về việc ngăn ngừa và trừng trị các tội phạm chống lại những người
được hưởng bảo hộ quốc tế, bao gồm viên chức ngoại giao. Thời gian kí kết
Cơng ước châu Âu năm 1977 thì Cơng ước về chống bắt cóc con tin năm
1979 hay Cơng ước trừng trị khủng bố bằng bom năm 1997... chưa ra đời, tuy
nhiên các tội phạm nghiêm trọng liên quan đến bắt cóc, giam giữ trái phép, tội
phạm nghiêm trọng liên quan đến việc sử dụng bom, lựu đạn, rocket, súng tự
động, bom thư... đã được liệt kê trong Cơng ước. Tiếp đó, vào tháng 11/2007
tại Cebu, các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á (ASEAN) đã ký Công ước
chung về chống khủng bố (ASEAN Convention on Counter Terrorism). Điều
12


2 Công ước này quy định về "Những hành vi phạm tội khủng bố” đã ghi nhận
các hành vi theo 13 công ước đa phương về đấu tranh chống khủng bố trong
khuôn khổ Liên hợp quốc: "Đối với các mục đích của Cơng ước này, tội phạm
có nghĩa là bất kì hành vi phạm tội trong phạm vi được liệt kê như sau:
- Công ước La Haye năm 1970 về trừng trị việc chiếm giữ bất hợp pháp
tàu bay.
- Công ước Montreal năm 1971 về trừng trị những hành vi bất hợp
pháp chống lại an tồn hàng khơng dân dụng.
- Công ước New York năm 1973 về ngăn chặn và trừng trị các tội phạm
chống lại những người được bảo hộ quốc tế, bao gồm viên chức ngoại giao.
- Công ước New York năm 1979 về chống bắt cóc con tin.
- Công ước Viên năm 1979 về bảo vệ an toàn vật liệu hạt nhân.
- Nghị định thư Montreal năm 1988 về trừng trị các hành vi bạo lực bất

hợp pháp tại cảng hàng không dân dụng quốc tế.
- Công ước Rome năm 1988 về trừng trị các hành vi bất hợp pháp
chống lại an tồn hành trình hàng hải.
- Nghị định thư Rome năm 1988 về trừng trị các hành vi bất hợp pháp
chống lại những cơng trình cố định trên thềm lục địa.
- Công ước New York năm 1997 về trừng trị khủng bố bằng bom.
- Công ước New York năm 1999 về trừng trị hành vi tài trợ cho khủng bố.
- Công ước Viên năm 2005 (sửa đổi Cơng ước Viên năm 1980) về bảo
vệ an tồn vật liệu hạt nhân.
- Công ước New York năm 2005 về ngăn ngừa các hành vi khủng bố
bằng hạt nhân.
- Nghị định thư năm 2005 bổ sung Công ước về ngăn chặn các hành vi
phi pháp chống lại an toàn hàng hải.
- Nghị định thư năm 2005 bổ sung Nghị định thư về trừng trị những
hành vi bất hợp pháp chống lại những cơng trình trên thềm lục địa ký tại
London ngày 14/10/2005 [26].
13


Mặc dù một số văn bản quốc tế nêu trên khơng định nghĩa khủng bố một
cách trực tiếp nhưng nhìn nhận một cách khách quan, chúng ta vẫn có thể xác định
được nội hàm của khái niệm khủng bố trong nhiều văn bản quốc tế khác nhau.
Theo Quyết định của Hội đồng chung của EU ngày 13/6/2002 về việc
chống chủ nghĩa khủng bố định nghĩa các tội khủng bố “với bản chất hoặc tuỳ bối
cảnh, có thể gây nguy hại nghiêm trọng đối với một quốc gia hoặc một tổ chức
quốc tế và tội đã phạm có mục đích: đe doạ nghiêm trọng người dân hoặc ép buộc
chính phủ hoặc một tổ chức quốc tế thực hiện hoặc rút bỏ việc thực hiện một hành
động hoặc làm mất ổn định nghiêm trọng hoặc huỷ hoại cơ cấu xã hội, kinh tế, thể
chế và chính trị căn bản của một quốc gia hoặc một tổ chức quốc tế”.
Theo Công ước của Hội nghị các quốc gia Hồi giáo (Công ước OIC) thì

“Khủng bố là bất kỳ hành động bạo lực nào, hay sự đe doạ sử dụng bạo lực
được tiến hành kế hoạch phạm tội bởi một cá nhân hay một tập thể nhằm
khủng bố người dân hay đe doạ làm hại họ, hoặc gây nguy hiểm đến tính
mạng, danh dự của người dân, đến tài sản của cá nhân hay tập thể”.
Theo Công ước về đấu tranh chống khủng bố của tổ chức các quốc gia
châu Mỹ thì khủng bố có thể là các dạng tội phạm điển hình như giết người,
đốt cháy hoặc thiêu huỷ và sử dụng chất nổ hoặc thuốc nổ, nhưng khác với
các hành vi hình sự là khủng bố cố ý mang đến sự hoảng sợ, phá hoại và
những tên khủng bố thường nằm trong một tổ chức với mục đích phá kỉ
cương xã hội, làm tê liệt sức phản kháng của xã hội, làm tăng thêm sự đau
đớn cho xã hội [9].
Các cơ quan hữu quan của Liên hợp quốc nhận định:
Hoạt động khủng bố là hoạt động huỷ hoại nhân quyền, quyền dân
chủ và tự do cá nhân, uy hiếp sự an toàn và toàn vẹn lãnh thổ của
quốc gia, tạo sức ép lên quốc gia, phá vỡ văn minh xã hội, là hành
vi phạm tội với việc gây hậu quả bất lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội [28].
14


Tuyên ngôn về vấn đề chủ nghĩa khủng bố của Liên hợp quốc nêu rõ:
"Tất cả các hình thức của chủ nghĩa khủng bố, dù xảy ra ở nơi nào, ai là kẻ chủ
mưu, và hành vi phạm tội ra sao, cũng không thể thanh minh, cho nên thông qua
các điều của Hiệp ước quốc tế, cần tăng thêm mức độ xử phạt" [28].
Như vậy, cho đến thời điểm hiện tại, cộng đồng quốc tế vẫn chưa đưa ra
được định nghĩa chung hoàn chỉnh về khủng bố mà mới chỉ ghi nhận một số
hành vi nhất định là khủng bố và các biện pháp để hợp tác đấu tranh chống lại
các hành vi này. Song, những hành vi được ghi nhận này đã ít nhiều phản ánh
được bản chất của hiện tượng khủng bố. Chúng ta có thể nhận biết hành động
khủng bố dựa trên một số dấu hiệu như: dấu hiệu về động cơ chính trị của
hành vi bạo lực; dấu hiệu về mục đích của hành vi bạo lực, các yếu tố chủ thể,

khách thể của hoạt động khủng bố…
1.1.1.2. Khái niệm khủng bố quốc tế theo pháp luật của một số quốc
gia trên thế giới
Để ngăn chặn hoạt động khủng bố, trừng trị hành vi xâm hại tới hồ
bình, an ninh, các quốc gia đã có nhiều nỗ lực trong việc đưa ra khái niệm
khủng bố. Có thể kể đến một số khái niệm pháp lý về khủng bố của một số
quốc gia như:
a) Hoa Kỳ:
+ Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đưa ra quan điểm về khủng bố như sau:
"Khủng bố là việc sử dụng hoặc đe doạ sử dụng bạo lực một cách có tính
tốn nhằm tạo ra nỗi khiếp sợ, với ý đồ ép buộc hoặc đe doạ các chính phủ
hoặc (các cộng đồng) xã hội, trong việc theo đuổi những mục tiêu mà thường
là về chính trị, tơn giáo hoặc tư tưởng".
+ Bộ luật Hình sự Hoa Kỳ quy định: "Khủng bố quốc tế - Những hoạt
động liên quan đến các hành động bạo lực hoặc nguy hiểm với đời sống con
người, mà vi phạm pháp luật hình sự của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ hoặc của
bất kỳ bang nào thuộc Hợp chủng quốc, hoặc sẽ vi phạm Luật Hình sự nếu
15


hành động đó được thực hiện trong phạm vi nước Mỹ hoặc bất kỳ bang nào;
được thực hiện nhằm mục đích đe doạ hoặc cưỡng ép, khống chế một cộng
đồng dân cư; hoặc nhằm gây ảnh hưởng đến chính sách của một chính phủ
bằng sự cưỡng bức đe doạ; hoặc nhằm tác động đến sự điều hành của một
chính phủ thơng qua việc sát hại hoặc bắt cóc; và xảy ra chủ yếu bên ngồi
lãnh thổ Hoa Kỳ kiểm sốt, hoặc ở những vùng biên giới liên quốc gia, theo
những cách thức mà đã được hoàn tất, những người này có ý đồ đe doạ hoặc
cưỡng ép chính phủ, hoặc khu vực ở đó những kẻ phạm tội hoạt động hoặc
tìm cách xin tị nạn" (Điều 18, Bộ luật Hình sự Hoa Kỳ).
Như vậy, Hoa Kỳ đã xác định hoạt động khủng bố theo những dấu

hiệu: Hành vi (hành động bạo lực hoặc nguy hiểm với đời sống con người);
dấu hiệu mục đích (nhằm đe doạ hoặc cưỡng ép, khống chế một cộng đồng
dân cư; hoặc nhằm gây ảnh hưởng đến chính sách của một chính phủ bằng sự
cưỡng bức đe doạ; hoặc nhằm tác động đến sự điều hành của một chính phủ
thơng qua việc sát hại hoặc bắt cóc).
b) Liên bang Nga
- Luật về chống khủng bố (ngày 25 tháng 7 năm 1998 số 130 - FZ) của
Liên bang Nga đã đưa ra khái niệm:
+ Chủ nghĩa khủng bố là việc sử dụng bạo lực hoặc đe doạ sử dụng bạo
lực đối với các cá nhân hoặc tổ chức, cũng như làm tổn hại hoặc đe doạ làm
tổn hại tài sản và các mục tiêu vật chất khác, tạo ra mối nguy hiểm chết
người, gây thiệt hại tài sản đáng kể hoặc gây ra những hậu quả nghiêm trọng
khác đối với xã hội, được thực hiện nhằm gây rối loạn an toàn xã hội, làm cho
dân chúng khiếp sợ, hoặc tác động đối với việc thông qua các quyết định của
các cơ quan chính quyền có lợi cho bọn khủng bố, hoặc đáp ứng những lợi ích
tài sản phi pháp và (hoặc) những lợi ích khác; xâm hại đến cuộc sống của nhà
hoạt động quốc gia hoặc xã hội, được tiến hành nhằm mục đích chấm dứt hoạt
động quốc gia hoặc hoạt động chính trị của người đó hoặc trả thù do hoạt
16



×