Tải bản đầy đủ (.doc) (145 trang)

Trị giá hải quan của WTO, thực trạng áp dụng tại trung quốc và bài học kinh nghiệm cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (551.28 KB, 145 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với chủ trương đổi mới quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đang tích cực tham gia hội nhập kinh
tế quốc tế. Để hịa vào “dịng chảy” của q trình phát triển thương mại quốc
tế địi hỏi chúng ta phải tơn trọng các “luật chơi” chung, thực thi nghiêm
chỉnh các cam kết quốc tế, ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã yêu
cầu: “…Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế sâu hơn, đầy đủ hơn với khu vực
và thế giới. Thực hiện có hiệu quả các cam kết với các nước, các tổ chức
quốc tế về thương mại, đầu tư, dịch vụ và các lĩnh vực khác…Chuẩn bị tốt
các điều kiện để thực hiện các cam kết sau khi nước ta gia nhập WTO. Khẩn
trương đổi mới thể chế kinh tế, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo đảm lợi
ích quốc gia và phù hợp với các quy định, thơng lệ quốc tế”. Sau một thời tích
cực và chủ động trong hội nhập, đến nay Việt Nam đã trở thành thành viên
chính thức của nhiều Tổ chức Quốc tế có liên quan đến hoạt động hải quan
như WCO, ASEAN, APEC, ASEM và đặc biệt là việc gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) tháng 11/2006; Để tham gia WTO chúng ta phải
thực hiện nhiều cam kết trong đó cam kết về “Trị giá hải quan”. Việc thực
hiện xác định trị giá hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo
nguyên tắc thực hiện Hiệp định Điều VII- Hiệp định Chung về Thuế quan và
Thương mại (GATT/WTO) ở Việt Nam đã được triển khai từ ngày
01/08/2004, đây là bước đột phá trong hội nhập, phát triển của ngành Hải
quan và thực hiện của cộng đồng doanh nghiệp. Tuy nhiên q trình thực hiện
đến nay cịn bộc lộ nhiều bất cập, tình trạng gian lận thương mại qua giá vẫn
diễn ra phổ biến làm ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả thu ngân sách cũng
như môi trường kinh doanh trong nước. Để việc xác định trị giá hải quan phù
hợp với các nguyên tắc của hiệp định GATT, đảm bảo công bằng cho các
1


doanh nghiệp tham gia hoạt động XNK, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh


là một yếu tố hết sức quan trọng góp phần đẩy mạnh cơng cuộc phát triển
kinh tế, Do đó việc nghiên cứu pháp luật về trị giá hải quan trong giai đoạn
hiện nay là hết sức cần thiết, có ý nghĩa cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn,
đặc biệt là việc nghiên cứu pháp luật một số nước đi trước, tiên tiến trong đó
có Trung Quốc, một nước láng giềng có nhiều điểm tương đồng với Việt
Nam, có tốc độ phát triển kinh tế cao trong những năm gần đây và là đối tác
kinh tế quan trọng đối với Việt Nam để từ đó rút ra những bài học kinh
nghiệm trong triển khai thực hiện việc xác định trị giá hải quan cũng như
công tác quản lý giá cho hàng hoá nhập khẩu.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế trên, tác giả luận văn chọn đề tài: “Trị
giá hải quan của WTO, thực trạng áp dụng tại Trung Quốc và bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam” để làm luận văn thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Luật
quốc tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở Việt Nam trước đây đã có một số cơng trình có đề cập đến cơng tác
QLNN về hải quan, một số đề tài về nghiên cứu hiện đại hóa hải quan, cơng
tác kiểm tra sau thơng quan như: “Nghiên cứu ứng dụng phương pháp quản lý
hải quan hiện đại nhằm tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế của Việt Nam”
của TS nguyễn Cơng Bình, Viện nghiên cứu thương mại - Bộ Công thương,
2009; “ Cải cách hiện đại hóa Hải quan Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế” của TS Nguyễn Ngọc Túc, Tổng cục Hải quan, 2007; “Các
giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra sau thông quan đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ của kế hoạch cải cách, phát triển hiện đại hóa Hải quan giai
đoạn 2004- 2006” của ThS Nguyễn Viết Hồng, Tổng cục Hải quan, 2005; …
Tuy nhiên, do mục đích nghiên cứu, những cơng trình này chỉ đề cập đến
công tác QLNN về Hải quan ở một góc độ, khía cạnh nhất định, chưa đi vào
các vấn đề nghiệp vụ chun biệt có tính chun mơn sâu như công tác xác
2



định trị giá. Qua thời gian nghiên cứu tìm hiểu, tác giả khơng tìm thấy cơng
trình nghiên cứu tương tự nào trong lĩnh vực này.
3. Về mục đích, ý nghĩa của luận văn
Mục đích đề tài là làm rõ một số vấn đề về nguyên tắc xác định trị giá
tính thuế theo Hiệp định thực hiện điều VII Hiệp định Chung về Thuế quan và
Thương mại 1994 của WTO. Nghiên cứu pháp luật và thực tiễn áp dụng của
Trung Quốc để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, góp phần
hồn thiện những giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả công tác quản lý Nhà nước
về hải quan đối với hoạt động XNK, đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước,
thúc đẩy phát triển kinh tế đối ngoại trong bối cảnh Việt Nam hiện nay.
4. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được các mục đích nghiên cứu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Tiếp cận cơ sở lý luận về việc xác định trị giá tính thuế cho hàng hố
xuất, nhập khẩu theo Hiệp định trị giá GATT/WTO
- Tiếp cận làm rõ những mặt được trong các qui định của pháp luật
hiện hành và thực tế hoạt động của Trung Quốc trong lĩnh vực xác định trị giá
hải quan, so sánh với thực tiễn áp dụng ở Việt Nam để rút ra những bài học
kinh nghiệm phục vụ công tác quản lý nhà nước về hải quan.
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về việc xác định
trị giá tính thuế cho hàng hoá xuất, nhập khẩu. Nâng cao hiệu quả công tác
quản lý nhà nước của cơ quan Hải quan trong lĩnh vực xác định trị giá cho
hàng hoá XNK ở Việt Nam.
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về trị giá hải quan theo quy
định của WTO, pháp luật Trung quốc và Việt Nam qui định về trị giá hải quan
và thực trạng quá trình áp dụng pháp luật Quốc tế trong lĩnh vực trị giá hải
quan để từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống
3



pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực xác
định trị giá cho hàng nhập khẩu.
- Phạm vi nghiên cứu:
Trị giá hải quan là một lĩnh vực rộng, có tính chun biệt, việc xác
định trị giá hải quan cho hàng hóa xuất nhập khẩu hiện nay gồm sáu phương
pháp nhưng trên thực tế chỉ có phương pháp “trị giá giao dịch” là phương
pháp quan trọng, phức tạp nhất, nó được áp dụng phổ biến ở các quốc gia khi
tham gia hiệp định trị giá GATT và sử dụng để xác định trị giá hải quan cho
trên 90% lượng hàng hoá xuất nhập khẩu. Trong thời gian hạn chế và với
phạm vi nghiên cứu của luận văn Thạc sĩ nội dung đề tài tập trung đi sâu
nghiên cứu việc xác định trị giá hải quan cho hàng nhập khẩu theo phương
pháp “trị giá giao dịch”.
6. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này được thực hiện trên cơ sở của phương pháp
duy vật biện chứng, kết hợp với việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể như: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp lịch sử,
phương pháp so sánh. Đề tài này được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước nhất là các quan điểm đổi mới
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
có kết cấu gồm 03 chương:
Chương 1: Khái niệm về trị giá hải quan và quá trình hình thành, phát
triển các phương pháp xác định trị giá hải quan.
Chương 2: Thực trạng áp dụng hiệp định trị giá GATT/WTO tại Trung
Quốc và Việt Nam.
Chương 3: Bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc và những kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả công tác xác định trị giá hải quan ở Việt Nam.


4


Chương 1
KHÁI NIỆM VỀ TRỊ GIÁ HẢI QUAN VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH
THÀNH, PHÁT TRIỂN CÁC PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH
TRỊ GIÁ HẢI QUAN
1.1. Khái niệm trị giá Hải quan
Thuế Hải quan đã ra đời và tồn tại khi những hình thái Nhà nước đầu
tiên xuất hiện, đó là thuế đánh vào hoạt động lưu chuyển hàng hóa từ phần
lãnh thổ này đến phần lãnh thổ khác. Tuy nhiên, phải đến thời kỳ cận đại và
hiện đại thì những quy định cụ thể, những đạo lý cụ thể của thuế Hải quan
mới chính thức được ghi lại thành các điều khoản luật. Theo ghi nhận của Tổ
chức Hải quan Thế giới thì các điều khoản đầu tiên về thuế Hải quan xuất
hiện vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX tại Mỹ và Châu Âu. Khi đó, người
ta quy định phải thu một khoản thuế Hải quan nhất định đối với một số loại
hàng hóa trong thương mại quốc tế.
Thuế Hải quan (hay thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu) ngày càng phát
triển và có vai trị hết sức quan trọng trong quá trình phát triển của mỗi quốc
gia. Đặc biệt là những đang phát triển, do nhu cầu cần nguồn lực tài chính
phục vụ các dịch vụ cơng và nhu cầu bảo hộ sản xuất trong nước, thuế suất
Hải quan thường cao và đánh vào hầu hết các mặt hàng nhập khẩu, theo đó
thuế Hải quan chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng thu ngân sách, chẳng hạn "ở
Pakistan, thuế Hải quan chiếm từ 30 - 40% tổng thu ngân sách, ở Việt Nam
trong những năm trước đây thuế Hải quan chiếm 25 - 30% tổng thu ngân
sách" [11].
Trong xu thế hội nhập và giao lưu thương mại toàn cầu, những yếu tố
cơ bản của hệ thống thuế Hải quan như biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu, trị giá
Hải quan, xuất xứ hàng hóa đã trở thành những nội dung quan trọng trong

thỏa thuận thuế quan và thương mại giữa các quốc gia với nhau. Vì vậy, ngay
5


từ đầu thế kỷ XX, các nước kinh tế phát triển châu Âu đã nỗ lực tìm kiếm một
hệ thống các phương pháp xác định trị giá Hải quan áp dụng thống nhất trên
phạm vi quốc tế.
Khái niệm trị giá Hải quan (trị giá tính thuế hàng hóa) đã được hình
thành khi người ta bắt đầu chuyển dần việc đánh thuế cụ thể theo lượng hàng
hóa sang đánh thuế theo giá trị hàng hóa. Càng ngày, việc tính thuế dựa trên
giá trị của hàng hóa càng phát triển, do vậy việc xác định trị giá hàng hóa một
cách tùy tiện khơng cịn phù hợp nữa, ở các khu vực lãnh thổ, các nước tìm
cách xây dựng cách tính tốn giá trị của hàng hố để tính thuế. Mặc dù vậy,
nhưng đến nay khi nói đến trị giá Hải quan vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến, quan
điểm khác nhau, chẳng hạn:
“- Trị giá Hải quan là trị giá của hàng hóa dùng để tính thuế Hải quan
theo giá trị.
- Trị giá Hải quan là trị giá tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu.
- Trị giá Hải quan là giá thực tế của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
- Trị giá Hải quan là trị giá của hàng hóa để đánh thuế Hải quan theo
giá trị của hàng hóa đó.
- Trị giá Hải quan là trị giá phục vụ cho mục đích tính thuế Hải quan
và thống kê Hải quan” [11].
Qua các ý kiến, quan điểm trên, có thể hiểu thống nhất về trị giá Hải
quan như sau:
Trị giá Hải quan là trị giá của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu dùng
cho mục đích quản lý Nhà nước về Hải quan.
Trị giá Hải quan bao gồm trị giá Hải quan của hàng hóa xuất khẩu và
trị giá Hải quan của hàng hóa nhập khẩu. Trị giá Hải quan của hàng hóa xuất
khẩu là giá bán hàng hóa tại cửa khẩu xuất, theo hợp đồng mua bán, không

bao gồm các chi phí vận chuyển (F) và bảo hiểm (I) quốc tế. Cịn trị giá Hải
quan của hàng hóa nhập khẩu là giá thực tế phải trả tính đến cửa khẩu nhập
6


đầu tiên và được xác định bằng cách áp dụng tuần tự 6 phương pháp xác định
trị giá theo Hiệp định trị giá GATT/TWO và dừng lại ngay ở phương pháp đã
xác định được trị giá. Trị giá Hải quan được xác định cho tất cả các loại hàng
hóa do các tổ chức, cá nhân xuất khẩu, nhập khẩu không phân biệt có hợp
đồng hay khơng có hợp đồng, nhằm mục đích thương mại hay khơng nhằm
mục đích thương mại, hoạt động kinh doanh đầu tư hay sản xuất xuất khẩu.
Trị giá Hải quan được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau, nhưng
chủ yếu được sử dụng vào các mục đích sau:
- Mục đích tính thuế: Khởi thủy đầu tiên của việc xác định trị giá Hải
quan là nhằm mục đích tính thuế, chính vì lẽ đó khi nói đến trị giá Hải quan
người ta thường đồng nhất với trị giá tính thuế.
- Mục đích thống kê: Ngồi mục đích tính thuế, trị giá Hải quan cịn
được sử dụng cho mục đích thống kê, gồm thống kê kim ngạch xuất khẩu và
thống kê Hải quan. Qua hoạt động thống kê mà cụ thể là căn cứ vào các số
liệu thống kê Nhà nước có cơ sở để thực hiện điều chỉnh chính sách quản lý
các hoạt động thương mại, chính sách quản lý hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
và chính sách quản lý Nhà nước về Hải quan cũng như chính sách thuế, qua
đó thực hiện các mục tiêu quản lý của Nhà nước.
- Mục đích quản lý hạn ngạch: Để thực hiện chính sách quản lý mặt
hàng và chính sách thuế đối với một số mặt hàng trong từng giai đoạn phát
triển nhất định, cơ quan quản lý Nhà nước chuyên ngành sử dụng hình thức
cấp hạn ngạch, theo đó thơng qua việc xác định trị giá Hải quan Nhà nước
thực hiện được mục đích quản lý hạn ngạch.
- Mục đích xử phạt vi phạm các quy định về hải quan: Trong quá trình
thực hiện hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa thường xảy ra việc vi

phạm các qui định về hải quan như vi phạm các qui định về thủ tục hải quan,
về kiểm tra, giám sát hải quan, về chính sách quản lý mặt hàng…, và xét về
mặt nguyên tắc, các hành vi vi phạm đó đều phải xử phạt theo qui định của
7


pháp luật hiện hành, trong đó trị giá hải quan cũng là một trong những căn cứ
để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định hình thức và mức độ xử phạt
đối với các hành vi vi phạm về hải quan. v.v…
1.2. Khái quát các hệ thống xác định trị giá hải quan
1.2.1. Xác định trị giá hải quan theo định nghĩa Brusels
1.2.1.1. Lịch sử hình thành định nghĩa Brusels
Lịch sử lồi người đã ghi nhận có hai cách đánh thuế cơ bản:
+ Đánh thuế cụ thể tức thuế đánh theo lượng hàng hóa mà khơng tính
đến giá trị của hàng hóa.
+ Thuế tịng giá tức thuế đánh theo giá trị hàng hóa với một tỉ lệ phần
trăm nhất định.
Thuế đánh theo giá trị hàng hóa có nhiều ưu điểm nổi trội, đặc biệt
trong thời kỳ cơng nghiệp, nó phù hợp hơn với việc giá cả lên xuống thất
thường và sự khác biệt chất lượng hàng hóa. Nhưng nếu sử dụng các phương
pháp xác định giá khơng chính xác và không ổn định lại là một trở ngại lớn
cho sự tăng trưởng thương mại quốc tế. Vì thế ngay từ đầu thế kỉ 20, các nước
kinh tế phát triển Châu Âu đã nỗ lực tìm kiếm một hệ thống các phương pháp
xác định trị giá Hải quan áp dụng thống nhất trên phạm vi quốc tế, nhưng chỉ
đến năm 1947 dưới sự bảo trợ của Hội Quốc liên (Tổ chức Liên hợp quốc
ngày nay) các nỗ lực này mới thực sự thu được kết quả. Lần đầu tiên các
nguyên tắc về xác định trị giá Hải quan được ghi nhận trong Hiệp định chung
về thuế quan và thương mại (GATT). Tuy nhiên, ở giai đoạn này các quy định
mới mang tính nguyên tắc và thu gọn tại Điều VII của Hiệp định, nhưng có
thể nói đây đã là sự khởi đầu quan trọng cho cơng việc hình thành nên hệ

thống các quy tắc về xác định giá trị Hải quan được nhiều nước công nhận và
áp dụng sau này.
Ba nguyên tắc cơ bản được ghi nhận tại Điều VII Hiệp định là:
1. Phải căn cứ vào trị giá thực tế của hàng hóa.
8


2. Không được căn cứ vào trị giá của hàng hóa được sản xuất tại nước
nhập khẩu hoặc trị giá hư cấu hay áp đặt.
3. Phải là giá mà với mức giá ấy hàng hóa đó hoặc hàng hóa tương tự
được bán trong kỳ kinh doanh bình thường, với các điều kiện cạnh tranh
không hạn chế.
Do quy định của Điều VII mới chỉ dừng lại ở mức độ đưa ra những
nguyên tắc chung mà chưa bao gồm các hướng dẫn sát với thực tế nên việc
xác định trị giá Hải quan vẫn khơng ổn định và khơng thể dự đốn trước
được. Với mục tiêu tạo ra hệ thống xác định trị giá Hải quan công bằng, ổn
định và trung lập, năm 1947 Nhóm Nghiên cứu trị giá Hải quan đã được thành
lập tại Brusselle, nhiệm vụ đặt ra cho Nhóm là phải dự thảo một Định nghĩa
về trị giá Hải quan dựa trên cơ sở các nguyên tắc của Điều VII Hiệp định
GATT. Định nghĩa trị giá Brusels ra đời vào năm 1951 và có hiệu lực từ ngày
23/7/1953. Theo Định nghĩa này trị giá Hải quan là giá thông thường của
hàng hóa đang xác định trị giá, hay nói cách khác là giá mà hàng hóa sẽ được
bán. Giá thông thường này phải được xem xét trong điều kiện cạnh tranh đầy
đủ và có xét đến thời gian bán hàng, địa điểm bán hàng và số lượng, cấp độ
thương mại của giao dịch bán hàng.
Với vai trò là một Điều ước quốc tế đa phương đầu tiên đề cập chi
tiết đến các phương pháp xác định trị giá hải quan, Định nghĩa cũng đã đạt
được một số thành công đáng kể, đó là các quy định trong Định nghĩa đã đi
gần đến với thực tiễn thương mại, số lượng hàng hóa, các chi phí có liên
quan v.v… cũng được xem xét khi xác định trị giá hải quan. Hệ thống xác

định trị giá hải quan theo định nghĩa Brusels đã được nhiều nước tham gia.
Nhưng do tồn tại các khái niệm mơ hồ nên trong quá trình áp dụng các
nước đưa ra các cách xác định riêng làm mất đi tính thống nhất và xuất
hiện sự can thiệp quá mức cần thiết của các cơ quan quản lý vào quá trình
xác định trị giá hải quan.
9


1.2.1.2. Nội dung và những yếu tố cơ bản của Định nghĩa Brusels
1) Nội dung của Định nghĩa Brusels:
Điều 1 của Định nghĩa Brussels đã thiết lập một nền tảng chủ yếu cho
việc xác định trị giá, cụ thể "Trị giá Hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu là
giá thơng thường, tức là giá đó phù hợp với hàng hóa tại thời điểm nhập khẩu
mà Hải quan thực hiện việc thu thuế đối với việc mua, bán hàng hóa được
thực hiện trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh và giữa người mua và người
bán hoàn toàn độc lập với nhau".
Điều 2 của Định nghĩa nêu lên các chỉ dẫn, giải thích về vấn đề đối
với "Việc mua bán được thực hiện trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh" giữa
người mua và người bán khơng có mối liên quan, ràng buộc nhau. Điều này
đề cập đến vấn đề mua bán thực hiện trên thị trường (đề cập đến điều kiện thị
trường), tức vấn đề giá hàng hóa ở đây khơng bị ảnh hưởng bởi các điều kiện,
các mối liên quan giữa người bán và người mua. Như vậy các vấn đề nêu lên
của Định nghĩa Brusels hồn tồn mang tính chất lý thuyết.
Điều 3 của Định nghĩa chỉ rõ rằng trị giá Hải quan đối với trường hợp
có các chi phí về bằng phát minh sáng chế, thiết kế, mẫu mã và mác, nhãn sản
xuất hoặc nhãn hiệu thương mại nước ngồi của hàng hóa thì cũng được cộng
vào giá trị thơng thường của hàng hóa.
2) Những yếu tố cơ bản của Định nghĩa Brusels
Nội dung của Định nghĩa Brusels đã đưa ra một khái niệm lý thuyết về
trị giá Hải quan, trong đó đề cập đến các yếu tố về giá cả, thời gian, địa điểm,

số lượng, cấp độ thương mại và các yếu tố điều chỉnh.
- Yếu tố về giá: Giá thông thường trong Định nghĩa Brusels là một
khái niệm hồn tồn mang tính chất lý thuyết, Định nghĩa bảo đảm cho hàng
hóa nhập khẩu ln có một trị giá Hải quan, hay nói cách khác giá này luôn
xác định được ngay cả trong trường hợp trên thực tế không diễn ra giao dịch
bán hàng. Giá thông thường tức là giá được công nhận thực hiện trong điều
10


kiện cạnh tranh lành mạnh - giá mà hàng hóa sẽ được bán. Khi xem xét giá
thông thường của Định nghĩa cần lưu ý giá này đã bao gồm các loại phí hoa
hồng, phí mơi giới và các loại phí khác bảo đảm cho việc giao dịch hàng tới
địa điểm của nước nhập khẩu. Đồng thời giá thông thường này cũng không
bao gồm các khoản thuế của nước nhập khẩu.
- Yếu tố về thời gian: Để xác định tiêu chuẩn của trị giá được áp dụng
cho hoạt động nhập khẩu hàng hóa cần phải xác định một thời gian cố định.
Định nghĩa Brusels đã quy định đó là thời điểm làm thủ tục Hải quan đối với
hàng hóa nhập khẩu, tức là thời điểm cơ quan Hải quan thực hiện việc đánh thuế.
- Yếu tố địa điểm: Định nghĩa Brusels đưa ra một khái niệm trong hợp
đồng mua bán hàng hóa liên quan đến yếu tố địa điểm tức là giá được xác
định là giá giao hàng hóa từ người bán sang người mua tại cảng hay tại một
địa điểm của nước nhập khẩu. Như vậy, giá thông thường được xác định trên
cơ sở giá CIF (cost, insurance and freight). Giá này bao gồm tất cả mọi chi
phí liên quan đến việc giao hàng cho tới cảng hoặc địa điểm của nước nhập
khẩu, loại trừ các loại thuế, phí nội địa (thuế và phí trong nước nhập khẩu).
- Yếu tố về số lượng: Định nghĩa Brusels không nêu một số lượng
chuẩn nào cả nhưng Chú thích 3 của Điều 1 đã chỉ ra rằng khi xác định giá
thông thường sẽ được căn cứ vào số lượng, để nhằm tôn trọng hoạt động
thương mại tương ứng với mỗi lần giao dịch, hơn nữa số lượng hàng hóa giao
dịch là đối tượng của việc mua bán. Định nghĩa Brusels yêu cầu việc xác định

giá phải căn cứ vào số lượng thực nhập, do vậy giá có thể phải được điều chỉnh
để thể hiện đúng giá thông thường tương ứng với số lượng sẽ được định giá.
- Yếu tố về cấp độ thương mại: Yếu tố về cấp độ thương mại không
được Định nghĩa Brusels chỉ ra một cách rõ ràng mặc dù đây là yếu tố đóng
vai trị quan trọng trong việc xác định trị giá. Cũng như đối với yếu tố số
lượng, Định nghĩa Brusels cho phép ảnh hưởng về cấp độ thương mại đối với
giá cả, do vậy nó phải được xác định trị giá riêng cho mỗi lần nhập khẩu bằng
11


việc kết hợp các yếu tố tác động liên quan đến chính bản thân hàng hóa đó.
Điều này có nghĩa là nếu hàng hóa được nhập khẩu bởi một hợp đồng bán
hàng ký theo cấp độ thương mại khác nhau (bn bán, bán lẻ…) thì giá thơng
thường sẽ được xác định theo mức giá ở cấp độ thương mại khác nhau. Như
vậy hồn tồn có thể chấp nhận rằng cùng một hàng hóa có thể bán với giá
khác nhau: 10 USD/ cái cho nhà bán buôn, 10,5 USD/ cái cho nhà bán lẻ, 11
USD/ cái cho người tiêu dùng. Ngược lại, nếu một hợp đồng bán hàng không
được chấp nhận theo nội dung của Định nghĩa Brusels thì cần phải được xác
định giá tương ứng với cấp độ thương mại mà hàng hóa sẽ được bán trong
điều kiện cạnh tranh lành mạnh.
- Các yếu tố điều chỉnh: Định nghĩa Brusels đưa ra vấn đề "Giá sẽ
phải điều chỉnh khi có những nhân tố bất bình thường, có nghĩa giá này không
phù hợp với các điều kiện cạnh tranh lành mạnh".
- Về chiết khấu và giảm giá: Định nghĩa Brusels mở ra cho tất cả các
việc mua bán hàng hóa thực hiện trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh là
được chấp nhận.
1.2.2. Xác định trị giá hải quan theo hiệp định trị giá GATT
1.2.2.1. Khái quát về Hiệp định trị giá GATT/WTO
Đến đầu những năm 70 của thế kỷ XX, người ta bắt đầu nhận thức rõ
ràng hơn những nhược điểm của hệ thống xác định trị giá theo định nghĩa

Brusels, mà nhược điểm lớn nhất là hệ thống này là dựa trên một định nghĩa
rất mơ hồ về giá hàng hóa. Hơn nữa, giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ cùng
các cách áp dụng khác nhau mà sự khác biệt rõ nét nhất là mức độ can thiệp
của cơ quan quản lý vào việc xác định trị giá đã tạo nên sự không thống nhất
trong việc sử dụng định nghĩa này.
Từ năm 1973 đến 1979, các nước trên thế giới bắt đầu một loạt các
cuộc đàm phán mới nhằm đạt được những thuận lợi trong mở rộng và tự do
hóa thương mại quốc tế. Vấn đề xác định giá trị giá hải quan được đặt ra như
12


một trở ngại quan trọng của tiến trình này. Vịng đàm phán này được gọi là
vòng đàm phán Tokyo, mà kết quả của nó là một hiệp định mới về xác định trị
giá hải quan ra đời vào năm 1981.
Hiệp định trị giá Hải quan mới vẫn dựa trên nguyên tắc cơ bản chung
nhất là điều VII của hiệp định trị giá GATT. Tuy nhiên, nguyên tắc chung đã
được cụ thể hóa bằng các phương pháp xác định trị giá Hải quan cụ thể đi
kèm những hướng dẫn rõ ràng. Chính vì vậy Hiệp định đã tạo nên một sự ổn
định và thống nhất mới trong việc định giá chung trên thế giới, và được rất
nhiều nước ủng hộ.
Năm 1994, vòng đàm phán Uruguay kết thúc với kết quả là Hiệp định
thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) có mục tiêu cao nhất là tự do
hóa thương mại trên toàn thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu bn
bán hàng hóa. Đi kèm với việc thành lập WTO là một loạt các Hiệp định
chung về nhiều lĩnh vực như thủ tục hải quan, quản lý xuất xứ hàng hóa, phân
loại và xác định mã số hàng hóa, trị giá hải quan của hàng hóa v.v… ra đời.
Hiệp định về giá trị Hải quan của hàng hóa có tên đầy đủ là hiệp định
thực thi điều II của Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại
GATT/WTO 1994, hay còn gọi là Hiệp định trị giá hải quan. Nội dung của
hiệp định trị giá hoàn toàn thống nhất với hiệp định năm 1981, có bổ sung

thêm một số Chú giải, Phụ lục và hướng dẫn cụ thể hơn. Đối với các nước
thành viên WTO, Hiệp định trị giá hải quan GATT/WTO buộc phải được áp
dụng. Còn đối với những nước muốn trở thành thành viên thì Hiệp định trở
thành một trong những điều kiện tiên quyết đưa ra trong các cuộc đàm phán
đa phương.
1.2.2.2. Mục đích, nguyên tắc của Hiệp định trị giá GATT/WTO
+ Mục đích của Hiệp định:
Hiệp định trị giá GATT/WTO ra đời đã tạo ra một chuẩn mực trong
việc xác định trị giá Hải quan với những mục đích cụ thể như sau:
13


- Tạo ra hệ thống xác định trị giá Hải quan ổn định, công bằng phù
hợp với thực tế thương mại.
- Tạo ra chuẩn mực đơn giản, khách quan, đồng nhất cho tất cả các
nước thành viên.
- Loại trừ việc sử dụng trị giá Hải quan tùy tiện áp đặt.
- Xúc tiến các mục tiêu của Hiệp định chung về thuế và thương mại.
- Xóa bỏ việc coi trị giá Hải quan là công cụ để điều tiết xuất nhập khẩu.
+ Nguyên tắc của Hiệp định khi xác định trị giá Hải quan
- Hệ thống xác định trị giá của hàng nhập khẩu theo mục đích Hải
quan phải hợp lý, thống nhất và độc lập, hệ thống đó phải loại bỏ việc sử dụng
trị giá Hải quan áp đặt hay hư cấu. Điều này cũng có nghĩa là quy trình xác
định trị giá không được sử dụng để làm hàng rào phi thuế quan đối với thương
mại. Một trong những mục tiêu có tính ngun tắc của WTO là loại bỏ các
biện pháp này.
- Cơ sở để xác định trị giá của hàng nhập khẩu theo mục đích Hải
quan phải là trị giá giao dịch, với nghĩa rộng nhất trong chừng mực có thể.
Nói một cách đơn giản nhất, trị giá giao dịch được định nghĩa là giá thực tế đã
thanh toán hay sẽ phải thanh toán cho hàng nhập khẩu cộng thêm với các

khoản điều chỉnh. Trị giá giao dịch được coi là phương pháp chủ yếu để xác
định trị giá theo Hiệp định này. Trị giá giao dịch cho phép các doanh nghiệp
dự đốn chính xác số thuế phải nộp đối với hàng nhập khẩu của họ. Hơn nữa,
trị giá giao dịch còn đảm bảo một mức độ chắc chắn cho các doanh nghiệp,
bởi vì trị giá Hải quan của hàng nhập khẩu trước hết sẽ dựa trên giá thỏa
thuận giữa người mua và người bán.
- Trị giá Hải quan phải được xác định dựa trên những tiêu chí đơn
giản, bình đẳng và nhất qn với các thơng lệ thương mại. Mặt khác, thủ tục
áp dụng trị giá cần được áp dụng chung không phân biệt nguồn cung cấp.
Việc áp dụng các phương pháp xác định trị giá phải phù hợp với các thông lệ
14


thương mại. Việc áp dụng Hiệp định này được thực hiện đối với tất cả các
nước không phân biệt nước xuất khẩu có phải là bên ký kết của Hiệp định hay
khơng. Khơng có bất cứ sự phân biệt nào giữa những người xuất khẩu hay
giữa các sản phẩm. Thông qua việc áp dụng các nguyên tắc này, Hiệp định trị
giá được kỳ vọng là sẽ tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế.
- Biện pháp chống phá giá đúng đắn phải áp dụng luật về chống phá
giá. Việc tùy ý nâng trị giá tính thuế lên để tăng nguồn thu thuế nhập khẩu
theo Hiệp định này là không được phép. Không được từ chối giá thỏa thuận
giữa người mua với người bán chỉ vì lý do đơn giản: giá đó được coi là
"quá thấp".
- Theo Hiệp định này, trị giá Hải quan cần được xác định căn cứ vào
các dữ liệu và thông lệ thương mại xung quanh việc bán hàng/ giao dịch đó.
Mọi thơng tin liên quan đến xác định trị giá hàng nhập khẩu cần được tuyển
chọn hoặc thu thập thông qua phản ánh của các thông lệ thương mại. Cùng
với việc tham khảo Chú giải Tổng quát của Hiệp định, Hải quan của mỗi nước
tham gia Hiệp định sẽ sử dụng các thông tin được chuẩn bị một cách nhất
quán với các nguyên tắc kế toán phổ biến đã được chấp nhận.

Những thông tin sẽ được sử dụng, chẳng hạn như để xác định các
khoản điều chỉnh theo trị giá giao dịch (các khoản trợ giúp), xác định lợi
nhuận thường xuyên và khoản chi phí chung theo phương pháp trị giá suy
diễn và xác định các chi phí nguyên vật liệu, bán thành phẩm, lợi nhuận và
chi phí chung theo phương pháp trị giá tính tốn. Những thông tin này phải
được chuẩn bị dựa trên hệ thống chuẩn mực kế toán đã được chấp nhận ở
nước nhập khẩu.
Để thực hiện vấn đề này các nước tham gia hiệp định sẽ sử dụng các
thông tin được chuẩn bị một cách nhất quán với các nguyên tắc kế tốn phổ
biến đã được chấp nhận ở nước mình. Các thơng tin đó thích hợp với các điều
khoản đang được đề cập đến trong hiệp định.
15


Điều 8.3 của Hiệp định qui định rằng các khoản cộng thêm vào giá
thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán được thực hiện theo Điều 8 phải
căn cứ vào các dữ liệu khách quan và có thể định lượng được. Điều này có
nghĩa là khoản cộng thêm phải hoàn toàn căn cứ vào các yếu tố cụ thể, khơng
có sự suy diễn cá nhân, các yếu tố đó phải được xác định bằng các con số
thực tế. Các số liệu đó khơng được dựa trên những phán đoán, ước lượng hay
kinh nghiệm cá nhân. Qui định này nhằm đảm bảo việc áp dụng thống nhất
Hiệp định và loại bỏ việc áp dụng tùy tiện của Hải quan trước đây. Trong
trường hợp thiếu những dữ liệu đó thì các khoản chi phí cộng thêm sẽ khơng
được tính đến.
1.2.2.3. Các phương pháp xác định trị giá Hải quan của Hiệp định
GATT/WTO
Hiệp định qui định 6 phương pháp xác định trị giá Hải quan:
1) Phương pháp 1: Trị giá giao dịch của hàng hóa nhập khẩu
(Transaction Value);
Hiệp định trị giá GATT đã chỉ ra rằng cơ sở để xác định trị giá Hải

quan đối với hàng hoá nhập khẩu cho mục đích Hải quan trong phạm vi lớn
nhất phải là "Trị giá giao dịch". Vì vậy, phương pháp đầu tiên rất quan trọng
và có tính ngun tắc của Hiệp định xác định trị giá GATT là trị giá giao dịch
được quy định tại Điều 1 và Điều 8 của Hiệp định.
* Điều 1
(a). Trị giá thuế quan của hàng nhập khẩu phải là giá trị giao dịch, tức
là giá thực tế đã thanh toán hoặc phải thanh toán cho hàng hóa được bán để
xuất khẩu đến nước nhập khẩu có điều chỉnh phù hợp với các quy định ở Điều
8, với điều kiện là:
+ Khơng có sự hạn chế nào trong việc người mua định đoạt hay sử
dụng hàng hóa, trừ những hạn chế:
- Đã được áp dụng hoặc quy định bởi luật pháp hoặc bởi các cơ quan
có thẩm quyền tại nước nhập khẩu;

16


- Nhằm giới hạn những khu vực địa lý mà hàng hóa có thể được phép
bán lại hoặc:
- Khơng gây ảnh hưởng lớn tới giá trị hàng hóa.
+ Việc mua bán hoặc giá cả không phụ thuộc vào điều kiện hoặc suy xét
nào đó khiến khơng thể xác định được giá trị của hàng hóa đang được định giá.
+ Người bán sẽ không được trực tiếp hoặc gián tiếp hưởng bất kỳ
phần nào từ số tiền do người mua thu được qua bán lại, nhượng lại hoặc sử
dụng hàng hóa này, trừ một số điều chỉnh hợp lý được phép tại Điều 8 ; và
+ Người mua và người bán khơng có liên hệ hoặc trong trường hợp có
liên hệ đó thì giá trị giao dịch chỉ được chấp nhận cho mục đích thuế quan
theo các qui định tại khoản 2.
(b). Khi quyết định liệu giá trị giao dịch có thể được chấp nhận theo
mục đích đã nêu trong khoản 1 nói trên hay khơng thì việc người mua và

người bán có liên hệ trong phạm vi ý nghĩa đã nêu ở Điều 15 tự nó khơng thể
dùng làm căn cứ để bác bỏ việc sử dụng giá trị giao dịch. Trong trường hợp
như vậy, các tình huống xung quanh việc mua bán đó sẽ được kiểm tra và giá
trị giao dịch sẽ được chấp nhận với với điều kiện sự liên hệ giữa người mua
và người bán không ảnh hưởng tới giá cả. Nếu dựa trên các thông tin do nhà
nhập khẩu hoặc các nguồn khác cung cấp, cơ quan hải quan có lý do để cho
rằng mối liên hệ này ảnh hưởng tới giá cả, thì cơ quan hải quan phải thông
báo những lý do này cho người nhập khẩu và người nhập khẩu phải có cơ hội
hợp lý để giải trình. Nếu người nhập khẩu yêu cầu, cơ quan hải quan sẽ thông
báo bằng văn bản các căn cứ đã áp dụng.
+ Trong giao dịch mua bán giữa những người có liên hệ, giá trị giao
dịch sẽ được chấp nhận và hàng hóa sẽ được định giá theo các qui định tại
khoản 1 một khi người nhập khẩu chứng minh được rằng trị giá đó, lấy tại
cùng hoặc vào khoảng cùng thời điểm, là rất sát với trị giá trong các trường
hợp sau:
17


- Trị giá giao dịch của các hàng hóa giống hệt hoặc tương tự được xuất
khẩu cho người nhập khẩu khơng có liên hệ tại nước nhập khẩu;
- Trị giá thuế quan của các hàng hóa giống hệt hoặc tương tự được xác
định theo các quy định tại Điều 5;
- Trị giá thuế quan của các hàng hóa giống hệt hoặc tương tự được xác
định theo các quy định tại Điều 6;
Khi áp dụng các phương pháp kiểm tra nói trên, cần phải cân nhắc
một cách thích đáng sự chênh lệch về cấp lưu thông, mức số lượng, các yếu tố
liệt kê trong Điều 8 và các chi phí mà người bán phải chịu khi bán hàng cho
người mua không có liên hệ, nhưng khơng phát sinh khi người bán bán hàng
cho người mua có liên hệ.
+ Các phương pháp kiểm tra được sẽ được sử dụng theo đề xuất của

người nhập khẩu và chỉ nhằm mục đích so sánh. Các giá trị thay thế có thể sẽ
khơng được xây dựng theo các quy định.
* Điều 8
(a). Khi xác định trị giá thuế quan theo các qui định của Điều 1, cần
phải tính thêm vào giá thực sự đã thanh tốn hoặc phải thanh tốn cho hàng
hóa nhập khẩu:
+ Các khoản sau, mà trong chừng mực nào đó người bán đã phải chịu
nhưng không bao gồm trong giá đã thực sự thanh tốn hoặc phải thanh tốn
cho lơ hàng:
- Tiền hoa hồng và môi giới, trừ tiền môi giới mua hàng;
- Thi phí thùng gửi hàng được coi như chi phí nhằm mục đích thuế
quan với hàng hóa được đề cập ở đây;
- Các chi phí đóng gói (lao động hoặc vật liệu);
+ Giá trị, đã phân bổ hợp lý, của các hàng hóa và dịch vụ sau đây mà
người bán đã trực tiếp hoặc gián tiếp dành cho người mua không lấy tiền hoặc
với giá thấp, để sử dụng trong sản xuất và bán để xuất khẩu các hàng hóa
nhập khẩu đó mà chưa được gộp trong giá đã thanh toán hoặc phải thanh toán.

18


- Vật liệu, cấu kiện, phụ tùng và các thứ tương tự khác đã nằm trong
hàng hóa nhập khẩu đó;
- Các dụng cụ, khuôn mẫu và các loại tương tự dùng trong sản xuất
hàng nhập khẩu đó;
- Vật liệu đã sử dụng trong sản xuất hàng nhập khẩu đó;
- Việc lao vụ kỹ thuật, mỹ thuật ứng dụng, thiết kế, sơ đồ và phác thảo
được làm bên ngoài nước nhập khẩu và cần thiết cho việc sản xuất của hàng
hóa nhập khẩu.
+ Tiền bản quyền, tiền giấy phép sử dụng bằng sáng chế liên quan đến

hàng hóa mà người mua phải trả, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp, như là một
điều kiện của việc bán hàng hóa đang được định giá, trong chừng mực mà tiền
bản quyền, tiền giấy phép sử dụng bằng sáng chế đó khơng bao gồm trong giá
đã thanh toán hoặc phải thanh toán.
+ Giá trị của bất cứ phần nào trong số tiền thu được sau này mà người
bán sẽ được hưởng một cách gián tiếp hoặc trực tiếp từ việc: bán lại, nhượng
lại, hoặc sử dụng hàng hóa nhập khẩu đó.
(b). Khi xây dựng luật pháp quốc gia, các nước thành viên sẽ quy định
việc loại ra hay đưa vào trị giá thuế quan, tất cả hoặc một phần các yếu tố sau:
+ Chi phí vận chuyển hàng hóa nhập khẩu tới cảng hoặc địa điểm
nhập khẩu;
+ Chi phí xếp hàng, dỡ hàng và chi phí làm hàng liên quan đến vận
chuyển hàng hóa nhập khẩu tới cảng hoặc địa điểm nhập khẩu; và
+ Chi phí bảo hiểm.
+ Các khoản tính thêm vào giá hàng đã thanh toán hoặc phải thanh toán
theo Điều này cần phải dựa trên dữ liệu khách quan và có thể định lượng được.
(c). Ngoài các khoản đã qui định trong Điều này, khi xác định trị giá
thuế quan không được tính thêm các khoản khác vào giá hàng đã thanh toán
hoặc phải thanh toán.
19


Có thể tóm tắt nội dung về xác định trị giá Hải quan theo phương pháp
trọng tâm thứ nhất như sau:
TRỊ GIÁ
HẢI QUAN

=

TRỊ GIÁ

GIAO DỊCH

=

GIÁ THỰC TẾ ĐÃ
THANH TOÁN HOẶC SẼ
PHẢI THANH TOÁN

+

KHOẢN
ĐIỀU CHỈNH
(ĐIỀU 8)

(d). Để làm rõ hơn phương pháp trị giá giao dịch cần đi sâu phân tích
làm rõ một số khái niện và một số nội dung cơ bản sau:
- Trị giá giao dịch: là trị giá được xác định thông qua các đàm phán, giao
dịch, phân tích, so sánh giữa người mua và người bán hàng để cùng thống nhất
thỏa thuận một trị giá nhất định, có thể nói đây là "trị giá thỏa thuận".
- Trị giá Hải quan của hàng hóa nhập khẩu: là trị giá hàng hóa để Hải
quan đánh giá các loại thuế; và "nước nhập khẩu" là nước hay lãnh thổ Hải
quan được quy định theo pháp luật của từng quốc gia.
- Hoạt động bán hàng
Trước hết muốn xác định được trị giá giao dịch thì phải dựa trên giá
của chính bản thân hàng hóa đó, tức là phải có một hoạt động bán hàng trước
nhập khẩu đối với hàng hóa đó. Do vậy, hàng nhập khẩu nếu không phải là
đối tượng mua bán thì sẽ khơng có giá trị giao dịch theo Điều 1 được.
Như vậy, Hiệp định đã không đưa ra định nghĩa riêng về hoạt động
bán hàng mà quy định tùy thuộc vào luật pháp của từng nước hay tùy theo
quy định thực tế mà Hải quan áp dụng. Ý đồ của Hiệp định là cần được sử

dụng thuật ngữ "hoạt động bán hàng" theo nghĩa rộng nhất có thể được.
Tuy nhiên, một số loại hình về hàng hóa nhập khẩu sau đây không
được coi là đối tượng mua bán (không tạo thành hoạt động bán hàng)
- Hàng là quà tặng, hàng mẫu, hàng quảng cáo được cung cấp miễn phí;
- Hàng hóa nhập khẩu của các văn phịng, chi nhánh không được coi
là một thực thể độc lập;
- Hàng hóa nhập khẩu thuộc dạng thuê hoặc vay mượn;
20


Do vậy, khi xác định trị giá cần phải xem xét việc bán hàng phải là để
xuất khẩu đến nước nhập khẩu.
- Yếu tố thời gian
Phương pháp xác định trị giá giao dịch không dẫn chiếu tới một chuẩn
mực về thời gian ngoài giao dịch thực tế. Do vậy, nếu mọi điều cần thiết đã
thỏa mãn cho Điều 1 thì trị giá giao dịch của hàng hóa nhập khẩu sẽ được
chấp nhận mà không cần xem xét sự khác biệt giữa thời điểm của hợp đồng
mua bán đã ký kết so với thời điểm hàng thực nhập khẩu đã được xác định trị
giá Hải quan. Yếu tố này bỏ quan mọi sự biến động của giá cả thị trường sau
thời điểm hợp đồng đó được ký kết.
- Yếu tố về số lượng
Xác định trị giá giao dịch theo hiệp định trị giá GATT không quy định
về điều kiện số lượng, do đó giá thực tế đã thanh tốn hoặc sẽ phải thanh tốn
cho hàng hóa nhập khẩu khơng chịu sự điều chỉnh về mặt số lượng.
Tuy nhiên, việc điều chỉnh giảm giá theo số lượng có thể chấp nhận,
trừ khi có liên quan đến hàng hóa nhập khẩu theo các giao dịch trước, trong
những trường hợp này, việc truy giảm thể hiện sự tín nhiệm trong các giao
dịch trước đó và khơng được tính đến, việc quyết định liệu có thể điều chỉnh
theo trị giá của các lô hàng trước đó sẽ tùy thuộc vào quy định của luật pháp
từng quốc gia.

- Yếu tố về giá thực tế đã thanh toán hoặc sẽ phải thanh toán
Giá thực tế đã thanh tốn hoặc sẽ phải thanh tốn là khái niệm nói lên
một giá trị thực sự, nghiêm túc, cụ thể (một khái niệm hồn tồn mang tính
thực tiễn).
Chú giải của Điều 1 đã chỉ rõ rằng giá thực tế đã thanh tốn hoặc sẽ
phải thanh tốn đối với hàng hóa nhập khẩu là tổng số tiền được trả hoặc sẽ
phải trả bởi người mua cho người bán.
Nghị định thư cũng làm rõ thêm về thuật ngữ này bằng cách chỉ ra
rằng giá thực tế đã thanh toán hoặc sẽ phải thanh toán bao gồm tất cả các

21


khoản thực tế đã được xác định hay được xác định như một điều kiện mua bán
hàng hóa nhập khẩu của người mua thực hiện đối với người bán hàng, hoặc
do người mua hàng thực hiện đối với bên thứ ba để thỏa mãn điều kiện của
người bán hàng.
Thuật ngữ "đã thanh toán" hoặc "sẽ phải thanh toán" nghĩa là nếu
hàng hóa được thanh tốn trước khi xác định trị giá thì giá đã được thanh tốn
dùng làm cơ sở xác định trị giá, nếu hàng hóa chưa được thanh tốn thì giá sẽ
thanh tốn sẽ được dùng làm cơ sở để xác định trị giá.
Việc thanh toán theo chú giải quả Điều 1 thì khơng nhất thiết phải
thực hiện dưới dạng chuyển tiền mà thanh tốn có thể thực hiện bằng thư tín
dụng hoặc các chứng từ có thể chuyển nhượng được dưới các hình thức trực
tiếp hoặc gián tiếp.
(e). Các khoản điều chỉnh theo điều 8
Điều 8 của Hiệp định quy định những nội dung điều chỉnh theo giá
thực tế đã thanh toán hoặc sẽ phải thanh toán với những yếu tố nhất định tạo
thành một phần trị giá Hải quan mà người mua phải gánh chịu nhưng chưa
bao gồm trong giá thực tế đã thanh toán hoặc sẽ phải thanh tốn cho hàng hóa

nhập khẩu. Các yếu tố này gồm có:
+ Chi phí hoa hồng và mơi giới
Đây là loại chi phí cho người trung gian nhận được trong một giao
dịch hoặc là từ bên bán, hoặc từ bên mua và hoạt động như thế được coi là
độc lập với cả hai bên.
- Chi phí hoa hồng cho các đại lý.
Đại lý là một người hay một công cụ chịu trách nhiệm mua hàng hay
bán hàng cho chính chủ, người này tham gia vào việc ký kết hợp đồng mua
bán, đại diện hoặc cho người bán hoặc cho người mua.
Tiền thù lao trả cho đại lý thông thường được trả theo tỷ lệ phần trăm
trên tổng giá trị lô hàng và được gọi là tiền hoa hồng.
22


Hiệp định quy định rằng chi phí tiền hoa hồng bán hàng được cộng
vào trị giá giao dịch nhưng chi phí hoa hồng mua hàng thì khơng phải cộng
vào trị giá giao dịch.
Vì vậy, phải phân biệt hai loại hình đại lý theo vai trò mà họ cảm nhận
để quyết định có cộng vào trị giá giao dịch hay khơng, chứ không phải dựa
vào tên gọi của họ.
Đại lý bán hàng:
Tiền hoa hồng cho đại lý bán hàng do người bán trả và thường được
thể hiện trên hóa đơn bán hàng.
Một số chức năng chung của đại lý bán hàng gồm:
- Tìm kiếm khách hàng cho người bán;
- Gửi mẫu hàng và chuyển đơn đặt hàng của người mua đến người bán;
- Trợ giúp việc mua bảo hiểm, kho bãi, bốc xếp và vận chuyển;
- Giúp các chứng từ xuất kho, chuẩn bị các hóa đơn xuất hàng…
Đại lý mua hàng:
Thuật ngữ tiền hoa hồng mua hàng được định nghĩa tại Chú giải Điều

8 là loại chi phí do người nhập khẩu trả cho đại lý của anh ta theo những dịch
vụ mà đại lý thực hiện hay cho người xuất khẩu ở nước ngồi trong việc mua
hàng hóa đang được xác định trị giá.
Một số chức năng của đại lý mua hàng:
- Tìm kiếm người cung cấp hàng hóa, kiểm tra nguồn hàng từ nhiều
người bán hàng.
- Nêu ra những yêu cầu của người mua cho người bán.
- Lấy mẫu hàng cho người mua kiểm tra.
- Trợ giúp người mua thỏa thuận được giá cả hợp lý nhất.
- Giúp dàn xếp mua bảo hiểm, chuyên chở và giao hàng.
- Chuẩn bị các chứng từ liên quan đến hàng hóa.
Tiền hoa hồng cho đại lý mua hàng do người mua trả và được tách
khỏi trị giá thanh toán cho hàng hóa.

23


+ Phí mơi giới:
Người mơi giới cũng là người trung gian trong một giao dịch, nhưng
khác với Đại lý, người môi giới không đại diện riêng cho một bên nào mà anh
ta đại diện chung cho cả người mua và người bán.
Vai trị, chức năng của người mơi giới là đưa cả hai bên cùng tham gia
vào giao dịch.
Thông thường, người mơi giới chun trách những loại hàng hóa đặc
biệt như là hàng hóa ở dạng thơ về dầu, ngũ cốc, đường v.v… Khoản tiền thù
lao trả cho người môi giới được gọi là Phí mơi giới và được trích trả theo tỷ lệ
phần trăm cho mỗi kết quả giao dịch.
Nhưng khác với phí hoa hồng, phí mơi giới dù là do người bán hay
người mua hoặc là do cả hai bên trả thì phí này đều được tính vào giá thực tế
đã thanh toán hoặc sẽ phải thanh toán.

+ Chi phí về th cơng ten nơ và bao bì, đóng gói
Điều 8 quy định các khoản tính thêm về phí th cơng ten nơ, phí
đóng gói bao gồm cả chi phí nhân cơng, vật liệu được coi như hợp nhất với
hàng hóa để xác định trị giá Hải quan.
Lưu ý rằng, mục đích ở đây khơng tính chi phí thuê công ten nơ
đường biển lớn như loại 20 đến 40 feet, các loại giá để hàng, các lõi, các
thùng chứa hàng sử dụng nhiều lần, và các dụng cụ khác trong vận tải quốc
tế được sử dụng như một phương tiện vận tải xếp vào loại không bắt buộc
điều chỉnh.
Các chi phí th cơng ten nơ và chi phí đóng gói do người mua chịu sẽ
được tính vào giá thực tế đã thanh toán hoặc sẽ phải thanh toán trong chừng
mực chưa được tính vào giá, trừ các khoản chi phí do người bán chịu, như các
khoản sau đây:
- Hộp hay thùng, túi bên ngoài, bên trong (bằng kim loại, gỗ, cát tơng,
giấy plastic…) tạo nên bao bì để xuất khẩu, để bán lẻ…
24


- Nguyên liệu để đóng gói như tấm chèn bằng bìa, xốp, giấy vụn, rơm
rạ, bọt biển…
- Chi phí nhân cơng liên quan đến việc đóng bao bì, sắp xếp hàng hóa
phù hợp với điều kiện mơi trường và vận chuyển hàng hóa.
- Chi phí th các loại cơng ten nơ thùng đặc biệt để đựng hàng hóa
đặc biệt cần cách ly, bảo quản theo chế độ riêng như: các hóa chất, hàng thực
phẩm tươi sống, bia…
+ Các chi phí về vật liệu, dịch vụ
Theo quy định của Điều 8, khi xác định trị giá Hải quan sẽ phải cộng
vào giá thực tế đã thanh toán hoặc sẽ phải thanh tốn các chi phí về hàng hóa,
dịch vụ do người mua cung cấp (miễn phí hay với giá ưu đãi) trực tiếp hay
gián tiếp để phục vụ cho quá trình sản xuất và bán hàng xuất khẩu cho người

nhập khẩu, các chi phí phải cộng vào là:
- Nguyên vật liệu, các bộ phận, cấu kiện, phụ tùng cấu thành hàng hóa
nhập khẩu.
- Ngun liệu tiêu hao trong q trình sản xuất hàng hóa nhập khẩu.
Loại hình phụ trợ này bao gồm nhiều loại hàng hóa, nguyên phụ liệu
khác nhau được sử dụng trong q trình sản xuất nhưng khơng nhất thiết phải
đồng nhất với sản phẩm cuối cùng.
- Dự án, thiết kế kỹ thuật, chi phí triển khai, thiết kế mỹ thuật, thiết kế
mẫu, sơ đồ phác họa được thực hiện ở bất cứ nơi nào ngoài nước nhập khẩu
và cần thiết để sản xuất hàng hóa nhập khẩu.
- Dự án kỹ thuật: là sản phẩm của một công ty chuyên môn hay chi
nhánh công ty, sử dụng đội ngũ chuyên gia như: kỹ sư, kiến trúc sư, các nhà
kinh tế.
Dự án kỹ thuật là một sự kết hợp nghiên cứu khoa học và tốn học,
trong đó có ngun liệu và các nguồn năng lượng được sử dụng để tạo ra sản
phẩm kết cấu, máy móc, hệ thống….
25


×