Tải bản đầy đủ (.pdf) (151 trang)

Trị giá hải quan của WTO, thực trạng và áp dụng tại Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 151 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




ĐÀO NGỌC THÀNH



TRỊ GIÁ HẢI QUAN CỦA WTO,
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG TẠI TRUNG QUỐC
VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC











Hà Nội - 2012

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





ĐÀO NGỌC THÀNH



TRỊ GIÁ HẢI QUAN CỦA WTO,
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG TẠI TRUNG QUỐC
VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật Quốc tế
Mã số : 60 38 60


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Minh Ngọc




Hà Nội - 2012


MỤC LỤC




Trang

Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục chữ viết tắt


Danh mục bảng biểu


MỞ ĐẦU
1

Chƣơng 1: KHÁI NIỆM VỀ TRỊ GIÁ HẢI QUAN VÀ QUÁ
TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CÁC PHƢƠNG PHÁP
XÁC ĐỊNH TRỊ GIÁ HẢI QUAN
5
1.1.
Khái niệm trị giá hải quan
5
1.2.
Khái quát các hệ thống xác định trị giá hải quan
8
1.2.1.
Xác định trị giá hải quan theo định nghĩa Brusels

8
1.2.2.
Xác định trị giá hải quan theo hiệp định trị giá GATT
12

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG HIỆP ĐỊNH TRỊ GIÁ
GATT/ WTO TẠI TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM
40
2.1.
Hiệp định trị giá GATT và những tác động của nó đối với
kinh tế
40
2.1.1.
Tình hình thực hiện hiệp định GATT trên thế giới
40
2.1.2.
Tác động của hiệp định trị giá GATT đối với kinh tế
41
2.2.
Thực trạng áp dụng hiệp định trị giá GATT/WTO của
Trung Quốc
49
2.2.1.
Trung Quốc và quá trình tham gia, thực hiện hiệp định trị
giá GATT
49
2.2.2.
Chính sách thuế quan của Trung Quốc khi gia nhập WTO
51
2.2.3.

Công tác xác đinh trị giá Hải quan của Trung Quốc
54
2.2.4.
Tình hình gian lận thương mại qua giá tại Trung Quốc
61
2.2.5.
Các biện pháp quản lý của hải quan Trung quốc trong
phòng, chống gian lận thương mại qua giá
65
2.2.6.
Đánh giá pháp luật hiện hành và kết quả công tác quản lý
rủi ro trong lĩnh vực giá của hải quan Trung Quốc
84

2.3.
Thực trạng áp dụng hiệp định trị giá GATT/WTO của Việt Nam
88
2.3.1.
Cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực Hải quan và quá
trình tham gia thực hiện hiệp định GATT/WTO
88
2.3.2.
Chính sách thuế quan khi tham gia WTO và tình hình thực
hiện cam kết về trị giá Hải quan theo Hiệp định Trị giá GATT
92
2.3.3.
Những khó khăn, tồn tại trong công tác xác định trị giá
cho hàng nhập khẩu
96


Chƣơng 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ TRUNG QUỐC
VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CÔNG TÁC XÁC ĐỊNH TRỊ GIÁ HẢI QUAN Ở VIỆT NAM
102
3.1.
Tóm lược những điếm mới trong công tác quản lý Nhà
nước về Hải quan của Trung Quốc khi thực hiện hiệp định
trị giá GATT/ WTO
102
3.2.
Những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác xác
định trị giá hải quan ở Việt Nam
105
3.2.1.
Trong xây dựng pháp luật
105
3.2.2.
Tăng cường quản lý nhà nước về hải quan bằng pháp luật
109
3.2.3.
Tăng cường xây dựng lực lượng để áp dụng phương pháp
quản lý Hải quan hiện đại đảm bảo mục tiêu ”chuyên
nghiệp - minh bạch - hiệu quả”
110
3.2.4.
Công tác quản lý rủi ro
115
3.2.5.
Trong công tác Kiểm tra sau thông quan
117

3.2.6.
Trong công tác điều tra chống gian lận thương mại
119
3.2.7.
Trong hoạt động của tỉnh báo Hải quan
121
3.2.8.
Cần có chế tài đủ mạnh trong xử lý các hành vi vi phạm
123
3.2.9.
Gắn cải cách hành chính với hiện đại hoá công tác hải quan
126
3.2.10.
Phối hợp giữa các cơ quan, lực lượng trong và ngoài ngành
129
3.2.11.
Hợp tác chặt chẽ Hải quan quốc tế
133
3.2.12.
Thực hiện các biện pháp quản lý khác theo khuyến nghị
của tổ chức hải quan thế giới và các nước phát triển
136

KẾT LUẬN
139

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
141

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

(Tiếng Anh)

Chữ viết tắt
Tiếng Anh
Tiếng Việt
ACV hoặc
CVA
Agreement on
implementation of Article
VII of the General on Tariffs
and Trade (Agreement on
Customs Value hoặc
Customs Value Agreement)
Hiệp định thực thi Điều VII
của Hiệp định chung về thuế
quan và thương mại
AFTA
Asean Free Trade Area
Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN
AHTN
The Asean harmonised tariff
nomenclature
Danh mục hài hòa thuế quan
của ASEAN
APEC
Asian Pacific Economic
Cooperation
Diễn đàn hợp tác Kinh tế
Châu Á - Thái Bình Dương

ASEAN
Association of South-East
Asean Nations
Hiệp hội các Quốc gia Đông
Nam Á
ASEM
Asia- Europe Meeting
Diễn đàn hợp tác Á - Âu
GATT
General Agreement on
Tariffs and Trade
Hiệp định chung về Thuế
quan và Thương mại
HS
Convention on the
Harmonized commodity
Description and Coding
System
(Harmonized System)
Công ước về Hệ thống hài
hòa về mô tả và mã hóa hàng
hóa
TRIPS
Agreement on Trade-
Related Aspects of
intellectual Property Rights
Hiệp định về khía cạnh liên
quan đến thương mại và
quyền sở hữu trí tuệ.
WCO

World customs organization
Tổ chức Hải quan Thế giới
WTO
World Trade Organization
Tổ chức Thương mại Thế giới


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
(Tiếng Việt)

CBL
Chống buôn lậu
CNTT
Công nghệ thông tin
DN
Doanh nghiệp
GLTM
Gian lận thương mại
HĐH
Hiện đại hoá
HQ
Hải quan
KTSTQ
Kiểm tra sau thông quan
QLNN
Quản lý nhà nước
QLRR
Quản lý rủi ro
TCHQ
Tổng cục Hải quan

XNC
Xuất nhập cảnh
XNK
Xuất nhập khẩu


DANH MỤC BẢNG BIỂU


Trang
Bảng 2.1: Kim ngạch XNK của Trung Quốc
54
Bảng 2.2: Kim ngạch XNK của Việt Nam
92



1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với chủ trương đổi mới quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đang tích cực tham gia hội nhập kinh
tế quốc tế. Để hòa vào “dòng chảy” của quá trình phát triển thương mại quốc
tế đòi hỏi chúng ta phải tôn trọng các “luật chơi” chung, thực thi nghiêm
chỉnh các cam kết quốc tế, ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã yêu
cầu: “…Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế sâu hơn, đầy đủ hơn với khu vực
và thế giới. Thực hiện có hiệu quả các cam kết với các nước, các tổ chức quốc
tế về thương mại, đầu tư, dịch vụ và các lĩnh vực khác…Chuẩn bị tốt các điều
kiện để thực hiện các cam kết sau khi nước ta gia nhập WTO. Khẩn trương

đổi mới thể chế kinh tế, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo đảm lợi ích quốc
gia và phù hợp với các quy định, thông lệ quốc tế”. Sau một thời tích cực và
chủ động trong hội nhập, đến nay Việt Nam đã trở thành thành viên chính
thức của nhiều Tổ chức Quốc tế có liên quan đến hoạt động hải quan như
WCO, ASEAN, APEC, ASEM và đặc biệt là việc gia nhập Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) tháng 11/2006; Để tham gia WTO chúng ta phải thực
hiện nhiều cam kết trong đó cam kết về “Trị giá hải quan”. Việc thực hiện xác
định trị giá hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo nguyên tắc
thực hiện Hiệp định Điều VII- Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại
(GATT/WTO) ở Việt Nam đã được triển khai từ ngày 01/08/2004, đây là
bước đột phá trong hội nhập, phát triển của ngành Hải quan và thực hiện của
cộng đồng doanh nghiệp. Tuy nhiên quá trình thực hiện đến nay còn bộc lộ
nhiều bất cập, tình trạng gian lận thương mại qua giá vẫn diễn ra phổ biến làm
ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả thu ngân sách cũng như môi trường kinh
doanh trong nước. Để việc xác định trị giá hải quan phù hợp với các nguyên
tắc của hiệp định GATT, đảm bảo công bằng cho các doanh nghiệp tham gia

2
hoạt động XNK, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh là một yếu tố hết sức
quan trọng góp phần đẩy mạnh công cuộc phát triển kinh tế, Do đó việc
nghiên cứu pháp luật về trị giá hải quan trong giai đoạn hiện nay là hết sức
cần thiết, có ý nghĩa cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn, đặc biệt là việc
nghiên cứu pháp luật một số nước đi trước, tiên tiến trong đó có Trung Quốc,
một nước láng giềng có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam, có tốc độ phát
triển kinh tế cao trong những năm gần đây và là đối tác kinh tế quan trọng đối
với Việt Nam để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong triển khai thực
hiện việc xác định trị giá hải quan cũng như công tác quản lý giá cho hàng
hoá nhập khẩu.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế trên, tác giả luận văn chọn đề tài: “Trị giá
hải quan của WTO, thực trạng áp dụng tại Trung Quốc và bài học kinh

nghiệm cho Việt Nam” để làm luận văn thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Luật
quốc tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở Việt Nam trước đây đã có một số công trình có đề cập đến công tác
QLNN về hải quan, một số đề tài về nghiên cứu hiện đại hóa hải quan, công
tác kiểm tra sau thông quan như: “Nghiên cứu ứng dụng phương pháp quản lý
hải quan hiện đại nhằm tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế của Việt Nam”
của TS nguyễn Công Bình, Viện nghiên cứu thương mại - Bộ Công thương,
2009; “ Cải cách hiện đại hóa Hải quan Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế” của TS Nguyễn Ngọc Túc, Tổng cục Hải quan, 2007; “Các
giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra sau thông quan đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ của kế hoạch cải cách, phát triển hiện đại hóa Hải quan giai
đoạn 2004- 2006” của ThS Nguyễn Viết Hồng, Tổng cục Hải quan, 2005;
…Tuy nhiên, do mục đích nghiên cứu, những công trình này chỉ đề cập đến
công tác QLNN về Hải quan ở một góc độ, khía cạnh nhất định, chưa đi vào
các vấn đề nghiệp vụ chuyên biệt có tính chuyên môn sâu như công tác xác

3
định trị giá. Qua thời gian nghiên cứu tìm hiểu, tác giả không tìm thấy công
trình nghiên cứu tương tự nào trong lĩnh vực này.
3. Về mục đích, ý nghĩa của luận văn
Mục đích đề tài là làm rõ một số vấn đề về nguyên tắc xác định trị giá
tính thuế theo Hiệp định thực hiện điều VII Hiệp định Chung về Thuế quan và
Thương mại 1994 của WTO. Nghiên cứu pháp luật và thực tiễn áp dụng của
Trung Quốc để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, góp phần
hoàn thiện những giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả công tác quản lý Nhà nước
về hải quan đối với hoạt động XNK, đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước,
thúc đẩy phát triển kinh tế đối ngoại trong bối cảnh Việt Nam hiện nay.
4. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được các mục đích nghiên cứu trên, luận văn có nhiệm vụ:

- Tiếp cận cơ sở lý luận về việc xác định trị giá tính thuế cho hàng hoá
xuất, nhập khẩu theo Hiệp định trị giá GATT/WTO
- Tiếp cận làm rõ những mặt được trong các qui định của pháp luật
hiện hành và thực tế hoạt động của Trung Quốc trong lĩnh vực xác định trị giá
hải quan, so sánh với thực tiễn áp dụng ở Việt Nam để rút ra những bài học
kinh nghiệm phục vụ công tác quản lý nhà nước về hải quan.
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về việc xác định
trị giá tính thuế cho hàng hoá xuất, nhập khẩu. Nâng cao hiệu quả công tác
quản lý nhà nước của cơ quan Hải quan trong lĩnh vực xác định trị giá cho
hàng hoá XNK ở Việt Nam.
5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về trị giá hải quan theo quy
định của WTO, pháp luật Trung quốc và Việt Nam qui định về trị giá hải
quan và thực trạng quá trình áp dụng pháp luật Quốc tế trong lĩnh vực trị giá
hải quan để từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống

4
pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực xác
định trị giá cho hàng nhập khẩu.
- Phạm vi nghiên cứu:
Trị giá hải quan là một lĩnh vực rộng, có tính chuyên biệt, việ c xá c
đị nh trị giá hải quan cho hàng hóa xuất nhập khẩu hiện nay gồm sáu phương
pháp nhưng trên thực tế chỉ có phương pháp “trị giá giao dịch” là phương
pháp quan trọng, phức tạp nhất, nó được áp dụng phổ biến ở các quốc gia khi
tham gia hiệp định trị giá GATT và sử dụng để xác định trị giá hải quan cho
trên 90% lượng hàng hoá xuất nhập khẩu. Trong thời gian hạn chế và với
phạm vi nghiên cứu của luận văn Thạc sĩ nội dung đề tài tập trung đi sâu
nghiên cứu việc xác định trị giá hải quan cho hàng nhập khẩu theo phương
pháp “trị giá giao dịch”.

6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này được thực hiện trên cơ sở của phương pháp
duy vật biện chứng, kết hợp với việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể như: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp lịch sử,
phương pháp so sánh. Đề tài này được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước nhất là các quan điểm đổi mới
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
có kết cấu gồm 03 chương:
Chương 1: Khái niệm về trị giá hải quan và quá trình hình thành, phát
triển các phương pháp xác định trị giá hải quan.
Chương 2: Thực trạng áp dụng hiệp định trị giá GATT/WTO tại
Trung Quốc và Việt Nam.
Chương 3: Bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc và những kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả công tác xác định trị giá hải quan ở Việt Nam.

5
Chƣơng 1
KHÁI NIỆM VỀ TRỊ GIÁ HẢI QUAN VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH
THÀNH, PHÁT TRIỂN CÁC PHƢƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH
TRỊ GIÁ HẢI QUAN

1.1. Khái niệm trị giá Hải quan
Thuế Hải quan đã ra đời và tồn tại khi những hình thái Nhà nước đầu
tiên xuất hiện, đó là thuế đánh vào hoạt động lưu chuyển hàng hóa từ phần
lãnh thổ này đến phần lãnh thổ khác. Tuy nhiên, phải đến thời kỳ cận đại và
hiện đại thì những quy định cụ thể, những đạo lý cụ thể của thuế Hải quan
mới chính thức được ghi lại thành các điều khoản luật. Theo ghi nhận của Tổ

chức Hải quan Thế giới thì các điều khoản đầu tiên về thuế Hải quan xuất
hiện vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX tại Mỹ và Châu Âu. Khi đó, người
ta quy định phải thu một khoản thuế Hải quan nhất định đối với một số loại
hàng hóa trong thương mại quốc tế.
Thuế Hải quan (hay thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu) ngày càng phát
triển và có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển của mỗi quốc
gia. Đặc biệt là những đang phát triển, do nhu cầu cần nguồn lực tài chính
phục vụ các dịch vụ công và nhu cầu bảo hộ sản xuất trong nước, thuế suất
Hải quan thường cao và đánh vào hầu hết các mặt hàng nhập khẩu, theo đó
thuế Hải quan chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng thu ngân sách, chẳng hạn "ở
Pakistan, thuế Hải quan chiếm từ 30 - 40% tổng thu ngân sách, ở Việt Nam
trong những năm trước đây thuế Hải quan chiếm 25 - 30% tổng thu ngân
sách" [11].
Trong xu thế hội nhập và giao lưu thương mại toàn cầu, những yếu tố
cơ bản của hệ thống thuế Hải quan như biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu, trị giá
Hải quan, xuất xứ hàng hóa đã trở thành những nội dung quan trọng trong
thỏa thuận thuế quan và thương mại giữa các quốc gia với nhau. Vì vậy, ngay

6
từ đầu thế kỷ XX, các nước kinh tế phát triển châu Âu đã nỗ lực tìm kiếm một
hệ thống các phương pháp xác định trị giá Hải quan áp dụng thống nhất trên
phạm vi quốc tế.
Khái niệm trị giá Hải quan (trị giá tính thuế hàng hóa) đã được hình
thành khi người ta bắt đầu chuyển dần việc đánh thuế cụ thể theo lượng hàng
hóa sang đánh thuế theo giá trị hàng hóa. Càng ngày, việc tính thuế dựa trên
giá trị của hàng hóa càng phát triển, do vậy việc xác định trị giá hàng hóa một
cách tùy tiện không còn phù hợp nữa, ở các khu vực lãnh thổ, các nước tìm
cách xây dựng cách tính toán giá trị của hàng hoá để tính thuế. Mặc dù vậy,
nhưng đến nay khi nói đến trị giá Hải quan vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến, quan
điểm khác nhau, chẳng hạn:

“- Trị giá Hải quan là trị giá của hàng hóa dùng để tính thuế Hải quan
theo giá trị.
- Trị giá Hải quan là trị giá tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu.
- Trị giá Hải quan là giá thực tế của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
- Trị giá Hải quan là trị giá của hàng hóa để đánh thuế Hải quan theo
giá trị của hàng hóa đó.
- Trị giá Hải quan là trị giá phục vụ cho mục đích tính thuế Hải quan
và thống kê Hải quan” [11].
Qua các ý kiến, quan điểm trên, có thể hiểu thống nhất về trị giá Hải
quan như sau:
Trị giá Hải quan là trị giá của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu dùng
cho mục đích quản lý Nhà nước về Hải quan.
Trị giá Hải quan bao gồm trị giá Hải quan của hàng hóa xuất khẩu và
trị giá Hải quan của hàng hóa nhập khẩu. Trị giá Hải quan của hàng hóa xuất
khẩu là giá bán hàng hóa tại cửa khẩu xuất, theo hợp đồng mua bán, không
bao gồm các chi phí vận chuyển (F) và bảo hiểm (I) quốc tế. Còn trị giá Hải
quan của hàng hóa nhập khẩu là giá thực tế phải trả tính đến cửa khẩu nhập

7
đầu tiên và được xác định bằng cách áp dụng tuần tự 6 phương pháp xác định
trị giá theo Hiệp định trị giá GATT/TWO và dừng lại ngay ở phương pháp đã
xác định được trị giá. Trị giá Hải quan được xác định cho tất cả các loại hàng
hóa do các tổ chức, cá nhân xuất khẩu, nhập khẩu không phân biệt có hợp
đồng hay không có hợp đồng, nhằm mục đích thương mại hay không nhằm
mục đích thương mại, hoạt động kinh doanh đầu tư hay sản xuất xuất khẩu.
Trị giá Hải quan được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau, nhưng
chủ yếu được sử dụng vào các mục đích sau:
- Mục đích tính thuế: Khởi thủy đầu tiên của việc xác định trị giá Hải
quan là nhằm mục đích tính thuế, chính vì lẽ đó khi nói đến trị giá Hải quan
người ta thường đồng nhất với trị giá tính thuế.

- Mục đích thống kê: Ngoài mục đích tính thuế, trị giá Hải quan còn
được sử dụng cho mục đích thống kê, gồm thống kê kim ngạch xuất khẩu và
thống kê Hải quan. Qua hoạt động thống kê mà cụ thể là căn cứ vào các số
liệu thống kê Nhà nước có cơ sở để thực hiện điều chỉnh chính sách quản lý
các hoạt động thương mại, chính sách quản lý hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
và chính sách quản lý Nhà nước về Hải quan cũng như chính sách thuế, qua
đó thực hiện các mục tiêu quản lý của Nhà nước.
- Mục đích quản lý hạn ngạch: Để thực hiện chính sách quản lý mặt
hàng và chính sách thuế đối với một số mặt hàng trong từng giai đoạn phát
triển nhất định, cơ quan quản lý Nhà nước chuyên ngành sử dụng hình thức
cấp hạn ngạch, theo đó thông qua việc xác định trị giá Hải quan Nhà nước
thực hiện được mục đích quản lý hạn ngạch.
- Mục đích xử phạt vi phạm các quy định về hải quan: Trong quá trình
thực hiện hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa thường xảy ra việc vi
phạm các qui định về hải quan như vi phạm các qui định về thủ tục hải quan,
về kiểm tra, giám sát hải quan, về chính sách quản lý mặt hàng…, và xét về
mặt nguyên tắc, các hành vi vi phạm đó đều phải xử phạt theo qui định của

8
pháp luật hiện hành, trong đó trị giá hải quan cũng là một trong những căn cứ
để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định hình thức và mức độ xử phạt
đối với các hành vi vi phạm về hải quan. v.v…
1.2. Khái quát các hệ thống xác định trị giá hải quan
1.2.1. Xác định trị giá hải quan theo định nghĩa Brusels
1.2.1.1. Lịch sử hình thành định nghĩa Brusels
Lịch sử loài người đã ghi nhận có hai cách đánh thuế cơ bản:
+ Đánh thuế cụ thể tức thuế đánh theo lượng hàng hóa mà không tính
đến giá trị của hàng hóa.
+ Thuế tòng giá tức thuế đánh theo giá trị hàng hóa với một tỉ lệ phần
trăm nhất định.

Thuế đánh theo giá trị hàng hóa có nhiều ưu điểm nổi trội, đặc biệt
trong thời kỳ công nghiệp, nó phù hợp hơn với việc giá cả lên xuống thất
thường và sự khác biệt chất lượng hàng hóa. Nhưng nếu sử dụng các phương
pháp xác định giá không chính xác và không ổn định lại là một trở ngại lớn
cho sự tăng trưởng thương mại quốc tế. Vì thế ngay từ đầu thế kỉ 20, các nước
kinh tế phát triển Châu Âu đã nỗ lực tìm kiếm một hệ thống các phương pháp
xác định trị giá Hải quan áp dụng thống nhất trên phạm vi quốc tế, nhưng chỉ
đến năm 1947 dưới sự bảo trợ của Hội Quốc liên (Tổ chức Liên hợp quốc
ngày nay) các nỗ lực này mới thực sự thu được kết quả. Lần đầu tiên các
nguyên tắc về xác định trị giá Hải quan được ghi nhận trong Hiệp định chung
về thuế quan và thương mại (GATT). Tuy nhiên, ở giai đoạn này các quy định
mới mang tính nguyên tắc và thu gọn tại Điều VII của Hiệp định, nhưng có
thể nói đây đã là sự khởi đầu quan trọng cho công việc hình thành nên hệ
thống các quy tắc về xác định giá trị Hải quan được nhiều nước công nhận và
áp dụng sau này.
Ba nguyên tắc cơ bản được ghi nhận tại Điều VII Hiệp định là:
1. Phải căn cứ vào trị giá thực tế của hàng hóa.

9
2. Không được căn cứ vào trị giá của hàng hóa được sản xuất tại nước
nhập khẩu hoặc trị giá hư cấu hay áp đặt.
3. Phải là giá mà với mức giá ấy hàng hóa đó hoặc hàng hóa tương tự
được bán trong kỳ kinh doanh bình thường, với các điều kiện cạnh tranh
không hạn chế.
Do quy định của Điều VII mới chỉ dừng lại ở mức độ đưa ra những
nguyên tắc chung mà chưa bao gồm các hướng dẫn sát với thực tế nên việc
xác định trị giá Hải quan vẫn không ổn định và không thể dự đoán trước
được. Với mục tiêu tạo ra hệ thống xác định trị giá Hải quan công bằng, ổn
định và trung lập, năm 1947 Nhóm Nghiên cứu trị giá Hải quan đã được thành
lập tại Brusselle, nhiệm vụ đặt ra cho Nhóm là phải dự thảo một Định nghĩa

về trị giá Hải quan dựa trên cơ sở các nguyên tắc của Điều VII Hiệp định
GATT. Định nghĩa trị giá Brusels ra đời vào năm 1951 và có hiệu lực từ ngày
23/7/1953. Theo Định nghĩa này trị giá Hải quan là giá thông thường của
hàng hóa đang xác định trị giá, hay nói cách khác là giá mà hàng hóa sẽ được
bán. Giá thông thường này phải được xem xét trong điều kiện cạnh tranh đầy
đủ và có xét đến thời gian bán hàng, địa điểm bán hàng và số lượng, cấp độ
thương mại của giao dịch bán hàng.
Với vai trò là một Điều ước quốc tế đa phương đầu tiên đề cập chi
tiết đến các phương pháp xác định trị giá hải quan, Định nghĩa cũng đã đạt
được một số thành công đáng kể, đó là các quy định trong Định nghĩa đã đi
gần đến với thực tiễn thương mại, số lượng hàng hóa, các chi phí có liên
quan v.v… cũng được xem xét khi xác định trị giá hải quan. Hệ thống xác
định trị giá hải quan theo định nghĩa Brusels đã được nhiều nước tham gia.
Nhưng do tồn tại các khái niệm mơ hồ nên trong quá trình áp dụng các
nước đưa ra các cách xác định riêng làm mất đi tính thống nhất và xuất
hiện sự can thiệp quá mức cần thiết của các cơ quan quản lý vào quá trình
xác định trị giá hải quan.

10
1.2.1.2. Nội dung và những yếu tố cơ bản của Định nghĩa Brusels
1) Nội dung của Định nghĩa Brusels:
Điều 1 của Định nghĩa Brussels đã thiết lập một nền tảng chủ yếu cho
việc xác định trị giá, cụ thể "Trị giá Hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu là
giá thông thường, tức là giá đó phù hợp với hàng hóa tại thời điểm nhập khẩu
mà Hải quan thực hiện việc thu thuế đối với việc mua, bán hàng hóa được
thực hiện trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh và giữa người mua và người
bán hoàn toàn độc lập với nhau".
Điều 2 của Định nghĩa nêu lên các chỉ dẫn, giải thích về vấn đề đối
với "Việc mua bán được thực hiện trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh" giữa
người mua và người bán không có mối liên quan, ràng buộc nhau. Điều này

đề cập đến vấn đề mua bán thực hiện trên thị trường (đề cập đến điều kiện thị
trường), tức vấn đề giá hàng hóa ở đây không bị ảnh hưởng bởi các điều kiện,
các mối liên quan giữa người bán và người mua. Như vậy các vấn đề nêu lên
của Định nghĩa Brusels hoàn toàn mang tính chất lý thuyết.
Điều 3 của Định nghĩa chỉ rõ rằng trị giá Hải quan đối với trường hợp
có các chi phí về bằng phát minh sáng chế, thiết kế, mẫu mã và mác, nhãn sản
xuất hoặc nhãn hiệu thương mại nước ngoài của hàng hóa thì cũng được cộng
vào giá trị thông thường của hàng hóa.
2) Những yếu tố cơ bản của Định nghĩa Brusels
Nội dung của Định nghĩa Brusels đã đưa ra một khái niệm lý thuyết về
trị giá Hải quan, trong đó đề cập đến các yếu tố về giá cả, thời gian, địa điểm,
số lượng, cấp độ thương mại và các yếu tố điều chỉnh.
- Yếu tố về giá: Giá thông thường trong Định nghĩa Brusels là một
khái niệm hoàn toàn mang tính chất lý thuyết, Định nghĩa bảo đảm cho hàng
hóa nhập khẩu luôn có một trị giá Hải quan, hay nói cách khác giá này luôn
xác định được ngay cả trong trường hợp trên thực tế không diễn ra giao dịch
bán hàng. Giá thông thường tức là giá được công nhận thực hiện trong điều

11
kiện cạnh tranh lành mạnh - giá mà hàng hóa sẽ được bán. Khi xem xét giá
thông thường của Định nghĩa cần lưu ý giá này đã bao gồm các loại phí hoa
hồng, phí môi giới và các loại phí khác bảo đảm cho việc giao dịch hàng tới
địa điểm của nước nhập khẩu. Đồng thời giá thông thường này cũng không
bao gồm các khoản thuế của nước nhập khẩu.
- Yếu tố về thời gian: Để xác định tiêu chuẩn của trị giá được áp dụng
cho hoạt động nhập khẩu hàng hóa cần phải xác định một thời gian cố định.
Định nghĩa Brusels đã quy định đó là thời điểm làm thủ tục Hải quan đối với
hàng hóa nhập khẩu, tức là thời điểm cơ quan Hải quan thực hiện việc đánh thuế.
- Yếu tố địa điểm: Định nghĩa Brusels đưa ra một khái niệm trong hợp
đồng mua bán hàng hóa liên quan đến yếu tố địa điểm tức là giá được xác

định là giá giao hàng hóa từ người bán sang người mua tại cảng hay tại một
địa điểm của nước nhập khẩu. Như vậy, giá thông thường được xác định trên
cơ sở giá CIF (cost, insurance and freight). Giá này bao gồm tất cả mọi chi
phí liên quan đến việc giao hàng cho tới cảng hoặc địa điểm của nước nhập
khẩu, loại trừ các loại thuế, phí nội địa (thuế và phí trong nước nhập khẩu).
- Yếu tố về số lượng: Định nghĩa Brusels không nêu một số lượng
chuẩn nào cả nhưng Chú thích 3 của Điều 1 đã chỉ ra rằng khi xác định giá
thông thường sẽ được căn cứ vào số lượng, để nhằm tôn trọng hoạt động
thương mại tương ứng với mỗi lần giao dịch, hơn nữa số lượng hàng hóa giao
dịch là đối tượng của việc mua bán. Định nghĩa Brusels yêu cầu việc xác định
giá phải căn cứ vào số lượng thực nhập, do vậy giá có thể phải được điều chỉnh
để thể hiện đúng giá thông thường tương ứng với số lượng sẽ được định giá.
- Yếu tố về cấp độ thương mại: Yếu tố về cấp độ thương mại không
được Định nghĩa Brusels chỉ ra một cách rõ ràng mặc dù đây là yếu tố đóng
vai trò quan trọng trong việc xác định trị giá. Cũng như đối với yếu tố số
lượng, Định nghĩa Brusels cho phép ảnh hưởng về cấp độ thương mại đối với
giá cả, do vậy nó phải được xác định trị giá riêng cho mỗi lần nhập khẩu bằng

12
việc kết hợp các yếu tố tác động liên quan đến chính bản thân hàng hóa đó.
Điều này có nghĩa là nếu hàng hóa được nhập khẩu bởi một hợp đồng bán
hàng ký theo cấp độ thương mại khác nhau (buôn bán, bán lẻ…) thì giá thông
thường sẽ được xác định theo mức giá ở cấp độ thương mại khác nhau. Như
vậy hoàn toàn có thể chấp nhận rằng cùng một hàng hóa có thể bán với giá
khác nhau: 10 USD/ cái cho nhà bán buôn, 10,5 USD/ cái cho nhà bán lẻ, 11
USD/ cái cho người tiêu dùng. Ngược lại, nếu một hợp đồng bán hàng không
được chấp nhận theo nội dung của Định nghĩa Brusels thì cần phải được xác
định giá tương ứng với cấp độ thương mại mà hàng hóa sẽ được bán trong
điều kiện cạnh tranh lành mạnh.
- Các yếu tố điều chỉnh: Định nghĩa Brusels đưa ra vấn đề "Giá sẽ

phải điều chỉnh khi có những nhân tố bất bình thường, có nghĩa giá này không
phù hợp với các điều kiện cạnh tranh lành mạnh".
- Về chiết khấu và giảm giá: Định nghĩa Brusels mở ra cho tất cả các
việc mua bán hàng hóa thực hiện trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh là
được chấp nhận.
1.2.2. Xác định trị giá hải quan theo hiệp định trị giá GATT
1.2.2.1. Khái quát về Hiệp định trị giá GATT/WTO
Đến đầu những năm 70 của thế kỷ XX, người ta bắt đầu nhận thức rõ
ràng hơn những nhược điểm của hệ thống xác định trị giá theo định nghĩa
Brusels, mà nhược điểm lớn nhất là hệ thống này là dựa trên một định nghĩa
rất mơ hồ về giá hàng hóa. Hơn nữa, giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ cùng
các cách áp dụng khác nhau mà sự khác biệt rõ nét nhất là mức độ can thiệp
của cơ quan quản lý vào việc xác định trị giá đã tạo nên sự không thống nhất
trong việc sử dụng định nghĩa này.
Từ năm 1973 đến 1979, các nước trên thế giới bắt đầu một loạt các
cuộc đàm phán mới nhằm đạt được những thuận lợi trong mở rộng và tự do
hóa thương mại quốc tế. Vấn đề xác định giá trị giá hải quan được đặt ra như

13
một trở ngại quan trọng của tiến trình này. Vòng đàm phán này được gọi là
vòng đàm phán Tokyo, mà kết quả của nó là một hiệp định mới về xác định
trị giá hải quan ra đời vào năm 1981.
Hiệp định trị giá Hải quan mới vẫn dựa trên nguyên tắc cơ bản chung
nhất là điều VII của hiệp định trị giá GATT. Tuy nhiên, nguyên tắc chung đã
được cụ thể hóa bằng các phương pháp xác định trị giá Hải quan cụ thể đi
kèm những hướng dẫn rõ ràng. Chính vì vậy Hiệp định đã tạo nên một sự ổn
định và thống nhất mới trong việc định giá chung trên thế giới, và được rất
nhiều nước ủng hộ.
Năm 1994, vòng đàm phán Uruguay kết thúc với kết quả là Hiệp định
thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) có mục tiêu cao nhất là tự do

hóa thương mại trên toàn thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu buôn
bán hàng hóa. Đi kèm với việc thành lập WTO là một loạt các Hiệp định
chung về nhiều lĩnh vực như thủ tục hải quan, quản lý xuất xứ hàng hóa, phân
loại và xác định mã số hàng hóa, trị giá hải quan của hàng hóa v.v… ra đời.
Hiệp định về giá trị Hải quan của hàng hóa có tên đầy đủ là hiệp định
thực thi điều II của Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại
GATT/WTO 1994, hay còn gọi là Hiệp định trị giá hải quan. Nội dung của
hiệp định trị giá hoàn toàn thống nhất với hiệp định năm 1981, có bổ sung
thêm một số Chú giải, Phụ lục và hướng dẫn cụ thể hơn. Đối với các nước
thành viên WTO, Hiệp định trị giá hải quan GATT/WTO buộc phải được áp
dụng. Còn đối với những nước muốn trở thành thành viên thì Hiệp định trở
thành một trong những điều kiện tiên quyết đưa ra trong các cuộc đàm phán
đa phương.
1.2.2.2. Mục đích, nguyên tắc của Hiệp định trị giá GATT/WTO
+ Mục đích của Hiệp định:
Hiệp định trị giá GATT/WTO ra đời đã tạo ra một chuẩn mực trong
việc xác định trị giá Hải quan với những mục đích cụ thể như sau:

14
- Tạo ra hệ thống xác định trị giá Hải quan ổn định, công bằng phù
hợp với thực tế thương mại.
- Tạo ra chuẩn mực đơn giản, khách quan, đồng nhất cho tất cả các
nước thành viên.
- Loại trừ việc sử dụng trị giá Hải quan tùy tiện áp đặt.
- Xúc tiến các mục tiêu của Hiệp định chung về thuế và thương mại.
- Xóa bỏ việc coi trị giá Hải quan là công cụ để điều tiết xuất nhập khẩu.
+ Nguyên tắc của Hiệp định khi xác định trị giá Hải quan
- Hệ thống xác định trị giá của hàng nhập khẩu theo mục đích Hải
quan phải hợp lý, thống nhất và độc lập, hệ thống đó phải loại bỏ việc sử dụng
trị giá Hải quan áp đặt hay hư cấu. Điều này cũng có nghĩa là quy trình xác

định trị giá không được sử dụng để làm hàng rào phi thuế quan đối với thương
mại. Một trong những mục tiêu có tính nguyên tắc của WTO là loại bỏ các
biện pháp này.
- Cơ sở để xác định trị giá của hàng nhập khẩu theo mục đích Hải
quan phải là trị giá giao dịch, với nghĩa rộng nhất trong chừng mực có thể.
Nói một cách đơn giản nhất, trị giá giao dịch được định nghĩa là giá thực tế đã
thanh toán hay sẽ phải thanh toán cho hàng nhập khẩu cộng thêm với các
khoản điều chỉnh. Trị giá giao dịch được coi là phương pháp chủ yếu để xác
định trị giá theo Hiệp định này. Trị giá giao dịch cho phép các doanh nghiệp
dự đoán chính xác số thuế phải nộp đối với hàng nhập khẩu của họ. Hơn nữa,
trị giá giao dịch còn đảm bảo một mức độ chắc chắn cho các doanh nghiệp,
bởi vì trị giá Hải quan của hàng nhập khẩu trước hết sẽ dựa trên giá thỏa
thuận giữa người mua và người bán.
- Trị giá Hải quan phải được xác định dựa trên những tiêu chí đơn
giản, bình đẳng và nhất quán với các thông lệ thương mại. Mặt khác, thủ tục
áp dụng trị giá cần được áp dụng chung không phân biệt nguồn cung cấp.
Việc áp dụng các phương pháp xác định trị giá phải phù hợp với các thông lệ

15
thương mại. Việc áp dụng Hiệp định này được thực hiện đối với tất cả các
nước không phân biệt nước xuất khẩu có phải là bên ký kết của Hiệp định hay
không. Không có bất cứ sự phân biệt nào giữa những người xuất khẩu hay
giữa các sản phẩm. Thông qua việc áp dụng các nguyên tắc này, Hiệp định trị
giá được kỳ vọng là sẽ tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế.
- Biện pháp chống phá giá đúng đắn phải áp dụng luật về chống phá
giá. Việc tùy ý nâng trị giá tính thuế lên để tăng nguồn thu thuế nhập khẩu
theo Hiệp định này là không được phép. Không được từ chối giá thỏa thuận
giữa người mua với người bán chỉ vì lý do đơn giản: giá đó được coi là
"quá thấp".
- Theo Hiệp định này, trị giá Hải quan cần được xác định căn cứ vào

các dữ liệu và thông lệ thương mại xung quanh việc bán hàng/ giao dịch đó.
Mọi thông tin liên quan đến xác định trị giá hàng nhập khẩu cần được tuyển
chọn hoặc thu thập thông qua phản ánh của các thông lệ thương mại. Cùng
với việc tham khảo Chú giải Tổng quát của Hiệp định, Hải quan của mỗi nước
tham gia Hiệp định sẽ sử dụng các thông tin được chuẩn bị một cách nhất
quán với các nguyên tắc kế toán phổ biến đã được chấp nhận.
Những thông tin sẽ được sử dụng, chẳng hạn như để xác định các
khoản điều chỉnh theo trị giá giao dịch (các khoản trợ giúp), xác định lợi
nhuận thường xuyên và khoản chi phí chung theo phương pháp trị giá suy
diễn và xác định các chi phí nguyên vật liệu, bán thành phẩm, lợi nhuận và
chi phí chung theo phương pháp trị giá tính toán. Những thông tin này phải
được chuẩn bị dựa trên hệ thống chuẩn mực kế toán đã được chấp nhận ở
nước nhập khẩu.
Để thực hiện vấn đề này các nước tham gia hiệp định sẽ sử dụng các
thông tin được chuẩn bị một cách nhất quán với các nguyên tắc kế toán phổ
biến đã được chấp nhận ở nước mình. Các thông tin đó thích hợp với các điều
khoản đang được đề cập đến trong hiệp định.

16
Điều 8.3 của Hiệp định qui định rằng các khoản cộng thêm vào giá
thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán được thực hiện theo Điều 8 phải
căn cứ vào các dữ liệu khách quan và có thể định lượng được. Điều này có
nghĩa là khoản cộng thêm phải hoàn toàn căn cứ vào các yếu tố cụ thể, không
có sự suy diễn cá nhân, các yếu tố đó phải được xác định bằng các con số
thực tế. Các số liệu đó không được dựa trên những phán đoán, ước lượng hay
kinh nghiệm cá nhân. Qui định này nhằm đảm bảo việc áp dụng thống nhất
Hiệp định và loại bỏ việc áp dụng tùy tiện của Hải quan trước đây. Trong
trường hợp thiếu những dữ liệu đó thì các khoản chi phí cộng thêm sẽ không
được tính đến.
1.2.2.3. Các phương pháp xác định trị giá Hải quan của Hiệp định

GATT/WTO
Hiệp định qui định 6 phương pháp xác định trị giá Hải quan:
1) Phương pháp 1: Trị giá giao dịch của hàng hóa nhập khẩu
(Transaction Value);
Hiệp định trị giá GATT đã chỉ ra rằng cơ sở để xác định trị giá Hải
quan đối với hàng hoá nhập khẩu cho mục đích Hải quan trong phạm vi lớn
nhất phải là "Trị giá giao dịch". Vì vậy, phương pháp đầu tiên rất quan trọng
và có tính nguyên tắc của Hiệp định xác định trị giá GATT là trị giá giao dịch
được quy định tại Điều 1 và Điều 8 của Hiệp định.
* Điều 1
(a). Trị giá thuế quan của hàng nhập khẩu phải là giá trị giao dịch, tức
là giá thực tế đã thanh toán hoặc phải thanh toán cho hàng hóa được bán để
xuất khẩu đến nước nhập khẩu có điều chỉnh phù hợp với các quy định ở Điều
8, với điều kiện là:
+ Không có sự hạn chế nào trong việc người mua định đoạt hay sử
dụng hàng hóa, trừ những hạn chế:
- Đã được áp dụng hoặc quy định bởi luật pháp hoặc bởi các cơ quan
có thẩm quyền tại nước nhập khẩu;

17
- Nhằm giới hạn những khu vực địa lý mà hàng hóa có thể được phép
bán lại hoặc:
- Không gây ảnh hưởng lớn tới giá trị hàng hóa.
+ Việc mua bán hoặc giá cả không phụ thuộc vào điều kiện hoặc suy xét
nào đó khiến không thể xác định được giá trị của hàng hóa đang được định giá.
+ Người bán sẽ không được trực tiếp hoặc gián tiếp hưởng bất kỳ
phần nào từ số tiền do người mua thu được qua bán lại, nhượng lại hoặc sử
dụng hàng hóa này, trừ một số điều chỉnh hợp lý được phép tại Điều 8 ; và
+ Người mua và người bán không có liên hệ hoặc trong trường hợp có
liên hệ đó thì giá trị giao dịch chỉ được chấp nhận cho mục đích thuế quan

theo các qui định tại khoản 2.
(b). Khi quyết định liệu giá trị giao dịch có thể được chấp nhận theo
mục đích đã nêu trong khoản 1 nói trên hay không thì việc người mua và
người bán có liên hệ trong phạm vi ý nghĩa đã nêu ở Điều 15 tự nó không thể
dùng làm căn cứ để bác bỏ việc sử dụng giá trị giao dịch. Trong trường hợp
như vậy, các tình huống xung quanh việc mua bán đó sẽ được kiểm tra và giá
trị giao dịch sẽ được chấp nhận với với điều kiện sự liên hệ giữa người mua
và người bán không ảnh hưởng tới giá cả. Nếu dựa trên các thông tin do nhà
nhập khẩu hoặc các nguồn khác cung cấp, cơ quan hải quan có lý do để cho
rằng mối liên hệ này ảnh hưởng tới giá cả, thì cơ quan hải quan phải thông
báo những lý do này cho người nhập khẩu và người nhập khẩu phải có cơ hội
hợp lý để giải trình. Nếu người nhập khẩu yêu cầu, cơ quan hải quan sẽ thông
báo bằng văn bản các căn cứ đã áp dụng.
+ Trong giao dịch mua bán giữa những người có liên hệ, giá trị giao
dịch sẽ được chấp nhận và hàng hóa sẽ được định giá theo các qui định tại
khoản 1 một khi người nhập khẩu chứng minh được rằng trị giá đó, lấy tại
cùng hoặc vào khoảng cùng thời điểm, là rất sát với trị giá trong các trường
hợp sau:

18
- Trị giá giao dịch của các hàng hóa giống hệt hoặc tương tự được
xuất khẩu cho người nhập khẩu không có liên hệ tại nước nhập khẩu;
- Trị giá thuế quan của các hàng hóa giống hệt hoặc tương tự được xác
định theo các quy định tại Điều 5;
- Trị giá thuế quan của các hàng hóa giống hệt hoặc tương tự được xác
định theo các quy định tại Điều 6;
Khi áp dụng các phương pháp kiểm tra nói trên, cần phải cân nhắc
một cách thích đáng sự chênh lệch về cấp lưu thông, mức số lượng, các yếu tố
liệt kê trong Điều 8 và các chi phí mà người bán phải chịu khi bán hàng cho
người mua không có liên hệ, nhưng không phát sinh khi người bán bán hàng

cho người mua có liên hệ.
+ Các phương pháp kiểm tra được sẽ được sử dụng theo đề xuất của
người nhập khẩu và chỉ nhằm mục đích so sánh. Các giá trị thay thế có thể sẽ
không được xây dựng theo các quy định.
* Điều 8
(a). Khi xác định trị giá thuế quan theo các qui định của Điều 1, cần
phải tính thêm vào giá thực sự đã thanh toán hoặc phải thanh toán cho hàng
hóa nhập khẩu:
+ Các khoản sau, mà trong chừng mực nào đó người bán đã phải chịu
nhưng không bao gồm trong giá đã thực sự thanh toán hoặc phải thanh toán
cho lô hàng:
- Tiền hoa hồng và môi giới, trừ tiền môi giới mua hàng;
- Thi phí thùng gửi hàng được coi như chi phí nhằm mục đích thuế
quan với hàng hóa được đề cập ở đây;
- Các chi phí đóng gói (lao động hoặc vật liệu);
+ Giá trị, đã phân bổ hợp lý, của các hàng hóa và dịch vụ sau đây mà
người bán đã trực tiếp hoặc gián tiếp dành cho người mua không lấy tiền hoặc
với giá thấp, để sử dụng trong sản xuất và bán để xuất khẩu các hàng hóa
nhập khẩu đó mà chưa được gộp trong giá đã thanh toán hoặc phải thanh toán.

×