Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

BÀI TIỂU LUẬN ĐỀ TÀI SỰ LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG ĐI LÊN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM VÀ NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.26 KB, 28 trang )

KHOA KH XÃ HỘI & NHÂN VĂN

BÀI THU HOẠCH
MÔN HỌC: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: SỰ LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG ĐI LÊN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM VÀ NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA
XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

NĂM HỌC 2021-2022


MỤC LỤC
Chương I: Cơ sở lý luận chung về các sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam và những đặc trưng cơ bản của xã hội chủ nghĩa......................................................3
1.
Thời kì quá độ và các loại hình quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội............................3
1.1. Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội....................................................................3
1.2. Các loại hình q độ đi lên chủ nghĩa xã hội......................................................4
1.3. Tính tất yếu khách quan đối với các nước đi lên chủ nghĩa xã hội...................5
2.
Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.............................................6
2.1. Tính tất yếu khách quan đối của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
................................................................................................................................ 6
2.2. Khả năng nhận thức về quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa ở
Việt Nam........................................................................................................................... 7
2.2.1. Nhận thức về quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa ở Việt
Nam. ......................................................................................................................... 8
Chương II: Vận dụng lý luận vào thực tiễn phân tích các sự lựa chọn con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam........................................................................................................8
1.
Thành tựu:................................................................................................................ 8


1.1. Việt Nam trong công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ tổ quốc (giai đoạn 19862006). 8
1.2. Việt Nam thời kì đẩy mạnh chiến lược phát triển kinh tế xã hội đất nước giai
đoạn hiện nay.................................................................................................................11
2.
Hạn chế, tồn tại, khó khăn.....................................................................................16
3.
Nguyên nhân của hạn chế......................................................................................17
4.
Những giải pháp thực hiện thắng lợi con đường quá độ chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. ................................................................................................................................. 18
4.1. Từng bước phát triển lực lượng sản xuất, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. .............................................................................................................................. 18
4.2. Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng Xã hội chủ nghĩa..............19
4.3. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại..............................................21
KẾT LUẬN.......................................................................................................................... 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................27

2


Chương I: Cơ sở lý luận chung về các sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam và những đặc trưng cơ bản của xã hội chủ nghĩa
1. Thời kì quá độ và các loại hình quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
1.1. Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, có hai con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Con đường thứ nhất là quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã
hội từ những nước tư bản chủ nghĩa phát triển ở trình độ cao. Con đường thứ hai là quá độ
gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội ở những nước chủ nghĩa tư bản phát triển còn thấp, hoặc như
V.l.Lênin cho rằng, những nước có nền kinh tế lạc hậu, chưa trải qua thời kỳ phát triển của
chủ nghĩa tư bản cũng có thể đi lên chủ nghĩa xã hội được trong điều kiện cụ thể nào đó nhất

là trong điều kiện đảng kiểu mới của giai cấp vô sản nắm quyền lãnh đạo (trở thành đảng
cầm quyền) và được một hay nhiều nước tiên tiến giúp đỡ.
Trên cơ sở vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng, về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin và xuất phát từ đặc điểm tình hình thực tế Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành giải phóng dân tộc,
hồn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy,
quan niệm Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quan niệm về
một hình thái quá độ gián tiếp cụ thể - quá độ từ một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, nông
nghiệp lạc hậu sau khi giành được độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã
cụ thể và làm phong phú thêm lý luận Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta có những đặc điểm riêng nên khơng thể rập
khn một cách máy móc những nhiệm vụ được quy định ở những nước đã qua chủ nghĩa tư
bản. Nếu như nội dung cơ bản của thời kỳ quá độ ở các nước XHCN đã qua chủ nghĩa tư bản
phát triển là cải biến những cơ sở của chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội, thì ở nước ta
đồng thời với việc cải biến những cơ sở hiện có thành những cơ sở của CNXH, lại phải
chuẩn bị tiền đề vật chất cần thiết cho sự phát triển của CNXH.
Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình cải biến
nền sản xuất lạc hậu thành nền sản xuất tiên tiến, hiện đại. Thực chất của quá trình cải tạo và
phát triển nền kinh tế quốc dân cũng là cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp trong điều
kiện mới, khi mà nhân dân ta hoàn thành cơ bản cách mạng dân tộc dân chủ, so sánh lực
lượng trong nước và quốc tế đã có những biến đổi. Điều này đòi hỏi phải áp dụng tồn diện
các hình thức đấu tranh cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm chống lại các thế lực đi
ngược lại con đường xã hội chủ nghĩa Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến tính chất tuần tự, dần
dần của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tính chất phức tạp và khó khăn của thời kỳ quá
độ lên CNXH ở nước ta, trong đó nhiệm vụ trọng tâm là;
Một là, xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây dựng các
tiền đề kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội.
3



Hai là, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây dựng, trong
đó lấy xây dựng làm trọng tâm làm nội dung cốt yếu nhất, chủ chốt, lâu dài
1.2. Các loại hình quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
a. Quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội tự nước tư bản chủ nghĩa đi lên Chủ Nghĩa Xã
Hội (theo quy luật tự nhiên của thời đại). Loại quá độ này phản ánh quy luật phát triển tuần
tự của xã hội loài người. Là sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước mà CNTB đã phát
triển đầy đủ, lực lượng sản xuất đã xã hội hoá cao mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất
dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN; mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư
sản đến độ chín muồi. Cách mạng XHCN nổ ra và thắng lợi, chính quyền nhà nước của giai
cấp công nhân được thiết lập, mở đầu thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH. Cho đến nay loại
hình này chưa xuất hiện trong thực tế, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan …
b. Quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội nước có nền kinh tế chưa phát triển. Loại quá độ
này phản ánh quy luật phát triển nhảy vọt của xã hội loài người.
Tư tưởng về loại quá độ thứ hai đã được C.Mác và Ph.Ăngghen dự kiến. Theo C.Mác và
Ph.Ăngghen, sau khi chủ nghĩa xã hội ở các nước tư bản Tây u giành được thắng lợi, thì các
nước lạc hậu có thể đi thẳng lên CNXH .
Tiếp tục tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã chỉ ra bản chất giai cấp,
nội dung và các điều kiện của quá độ tiến thẳng tới chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa. Tư tưởng của V.I.Lênin về bản chất giai cấp và nội dung của quá độ
tiến thẳng lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN được trình bày trong bài phát biểu
nước Cộng hịa Nhân dân Mơng Cổ năm 1921.
Vì sao với nước ta lại phù hợp với xu thế của thời đại nếu đi lên Chủ nghĩa xã hội:
Một trong những tư tưởng quan trọng của V.I.Lênin về quá độ tiến thẳng lên CNXH, bỏ qua
giai đoạn phát triển TBCN, là các điều kiện tiến thẳng. Theo V.I.Lênin, một nước lạc hậu có
thể tiến thẳng lên CNXH khi có điều kiện khách quan và điều kiện chủ quan .
 Các điều kiện cụ thể để có thể khẳng định điều đó
Về khả năng khác quan: Điều kiện bên ngoài của sự phát triển này là phải có một
bước giành được thắng lợi trong cách mạng vơ sản, tiến lên xây dựng CNXH. Công cuộc xây
dựng thành công CNXH ở nước này là tấm gương và tạo điều kiện để giúp đỡ các nước lạc
hậu tiến lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. V.I.Lênin chỉ rõ: với sự giúp đỡ của

giai cấp vô sản của cá nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ xô viết và trải
qua một vài trình độ phát triển nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa cộng sản, bỏ qua giai đoạn phát
triển TBCN.
Về những tiền đề chủ quan: Điều kiện bên trong của sự quá độ tiến thẳng là phải hình thành
được các tổ chức đảng cách mạng và cộng sản, phải giành được chính quyền về tay mình,
xây dựng được các tổ chức nhà nước mà bản chát là xô viết nông dân và xô viết những người
lao động. V.I.Lênin cho rằng không thể thiếu hai điều kiện khách quan và chủ quan trên của
quá độ tiến lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN
4


1.3.

Tính tất yếu khách quan đối với các nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ở nước ta, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ năm 1954 ở miền Bắc và
từ năm 1975, sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập và cả nước thống nhất, cách mạng dân
tộc - dân chủ nhân dân đã hồn tồn thắng lợi trên phạm vi cả nước thì cả nước cùng tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ quá độ là thời
kỳ lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên chủ nghĩa xã hội cũng đều phải trải qua, ngay cả
đối với những nước đã có nền kinh tế rất phát triển, bởi lẽ, ở các nước này, tuy lực lượng sản
xuất đã phát triển cao, nhưng vẫn còn cần phải cải tạo và cần xây dựng quan hệ sản xuất mới,
xây dựng nền văn hoá mới. Dĩ nhiên, đối với những nước thuộc loại này, về khách quan có
nhiều thuận lợi hơn, thời kỳ quá độ có thể sẽ diễn ra ngắn hơn. Đối với nước ta, một nước
nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, thì lại càng phải
trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một
thời kỳ lịch sử mà: "nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật
chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,... tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có cơng nghiệp và
nơng nghiệp hiện đại, có văn hố và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội
chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là

nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài" (Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1996, t.10, tr. 13)
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử
đối với nước ta, vì:
Tồn thế giới đã bước vào thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn đã khẳng định chủ nghĩa tư bản là chế độ xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay
muộn cũng phải được thay bằng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn
đầu là giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa. Cho dù hiện nay, với những cố gắng để thích nghi
với tình hình mới, chủ nghĩa tư bản thế giới vẫn đang có những thành tựu phát triển nhưng
vẫn không vượt ra khỏi những mâu thuẫn cơ bản của nó, những mâu thuẫn này khơng dịu đi
mà ngày càng phát triển gay gắt và sâu sắc. Đặc điểm của thời đại ngày nay là thời đại quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi tồn thế giới. Q trình cải biến xã
hội cũ, xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa khơng phải là q trình cải lương, duy
ý chí, mà là q trình cách mạng sôi động trải qua nhiều giai đoạn phát triển khách quan, hợp
với quy luật của lịch sử. Chủ nghĩa xã hội khoa học, tự do, dân chủ và nhân đạo mà nhân dân
ta và loài người tiến bộ đang vươn tới luôn đại diện cho những giá trị tiến bộ của nhân loại,
đại diện lợi ích của người lao động, là hình thái kinh tế - xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản.
Q trình cách mạng đó vì sự nghiệp cao cả là giải phóng con người, vì sự phát triển tự do và
tồn diện của con người, vì tiến bộ chung của lồi người. Đi theo dịng chảy của thời đại
cũng tức là đi theo quy luật phát triển tự nhiên của lịch sử.

5


Cách mạng Việt Nam phát triển theo con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Tính tất yếu lịch sử ấy xuất hiện từ những năm 20 của thế kỷ XX. Nhờ đi con
đường ấy, nhân dân ta đã làm Cách mạng Tháng Tám thành công, đã tiến hành thắng lợi hai
cuộc kháng chiến hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ngày nay, chỉ có đi lên chủ nghĩa
xã hội mới giữ vững được độc lập, tự do cho dân tộc, mới thực hiện được mục tiêu: dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc và

chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, như vậy là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc lại vừa
phù hợp với xu thế của thời đại. Điều đó cũng đã thể hiện sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta là một tất yếu lịch sử.
2. Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
2.1. Tính tất yếu khách quan đối của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.
Thời kì quá độ là thời kì lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên CNXH cũng
đều phải trải qua ngay cả đối với những nước có nền kinh tế phát triển. Con đường phát triển
quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam mà chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng ta đã lựa chọn là con đường phát triển rút ngắn theo phương thức quá độ gián tiếp. Đó
là con đường phát triển tất yếu khách quan, hợp quy luật theo tiến trình phát triển lịch sử tự
nhiên của Cách mạng Việt Nam vì:
Thứ nhất là do bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ: thế giới bước vào thời kì quá độ từ chủ
nghĩa tư bản (CNTB) lên CNXH. CNTB lúc đó là xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay
muộn cũng phải được thay bằng hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu
là giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa. CNXH mà con người đang vươn tới là hình thái kinh tế
xã hội cao hơn CNTB đó là xã hội vì sự nghiệp giải phóng con người, sự phát triển tự do và
toàn diện của loài người. Chúng ta quá độ thẳng lên CNXH nghĩa là đi theo dòng chảy của
thời đại nghĩa là đi theo quy luật tự nhiên của lịch sử.
Thứ hai là do sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc của Đảng. Ngay khi ra đời
Đảng ta đã xác định con đường phát triển của dân tộc là quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ. Từ
sau khi Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo đã thành cơng thì
chúng ta đã cởi bỏ được hai vịng xích, đã thốt khỏi cảnh một cổ hai trịng, Đảng và Nhà
nước thêm vững mạnh, nhân dân đã thêm niềm tin vào Đảng, quyết tâm đi theo Đảng. Có
hàng loạt vấn đề kinh tế, xã hội và chính trị cần được giải quyết cấp bách sau khi Cách mạng
dân tộc dân chủ thành cơng. Nhưng điều đó khơng ngăn cản việc tiến lên CNXH; hơn nữa,
việc giải quyết nó chỉ có thể bằng con đường xây dựng CNXH. Việc đưa miền Bắc tiến lên
CNXH có ý nghĩa rất lớn lao trong những năm đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất
đất nước. Chính điều đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong hội nghị cán bộ văn
hoá ngày 30/10/1958 “ Miền Bắc tiến lên CNXH để làm cơ sở vững chắc cho việc đấu tranh

thống nhất nước nhà. Muốn đấu tranh thống nhất nước nhà thắng lợi thì nhất định phải xây

6


dựng miền Bắc tiến lên CNXH”. Trong thời đại ngày nay chỉ có độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH mới đem lại nhiều lợi ích và hạnh phúc thực sự cho toàn thể nhân dân lao động.
Nhân tố thời đại đóng vai trị tích cực làm thức tỉnh các dân tộc, các quốc gia,
không những làm cho quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trở thành một tất yếu mà còn
đem lại những điều kiện và khả năng khách quan cho sự quá độ này. Quá trình quốc tế hố
sản xuất và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng tăng lên, cũng như sự phát triển
của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ về khách quan đã tạo ra những khả năng để các
nước kém phát triển đi sau có thể tiếp thu và vận dụng vào nước mình những lực lượng sản
xuất hiện đại của thế giới và những kinh nghiệm của các nước đi trước để thực hiện "con
đường phát triển rút ngắn". Xu thế tồn cầu hố, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia
trên thế giới ngày càng tăng lên tuy có chứa đựng những nguy cơ và thách thức nhưng vẫn
tạo khả năng khách quan cho việc khắc phục khó khăn về nguồn vốn và kỹ thuật hiện đại cho
các nước chậm phát triển, nếu như có đường lối, chính sách đúng đắn. Trong điều kiện đó,
cho phép và buộc chúng ta phải biết tranh thủ cơ hội, tận dụng, khai thác, sử dụng có hiệu
quả những thành tựu mà nhân loại đã đạt được để rút ngắn thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
2.2. Khả năng nhận thức về quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa
ở Việt Nam.
Đây chính là con đường phát triển "rút ngắn" lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Về
chính trị, bỏ qua chế độ tư bản là bỏ qua giai đoạn thống trị của giai cấp tư sản, của kiến trúc
thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Về kinh tế, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua sự thống
trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhưng phải biết tiếp thu, kế thừa những thành tựu
mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ,
để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Đó chính là sự rút
ngắn thời gian thực hiện q trình xã hội hố sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng con đường phát

triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là rút ngắn một cách đáng kể quá trình phát triển
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Chủ nghĩa tư bản đã có vai trị lịch sử là phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xã
hội hoá lao động dựa trên nền tảng chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Quá trình này đã diễn ra
một cách tự phát, tuần tự, kéo dài hàng thế kỷ cùng với những đau khổ đối với con người.
Ngày nay, trong những điều kiện lịch sử mới, chúng ta có thể đi con đường phát triển rút
ngắn, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tránh cho nhân dân ta những đau khổ của
con đường tư bản chủ nghĩa. Sự rút ngắn này được thực hiện thông qua việc sử dụng biện
pháp kế hoạch đồng thời với việc sử dụng biện pháp thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở xây dựng, phát triển kinh tế nhà nước vững
mạnh đóng vai trị chủ đạo đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự rút ngắn này chỉ có thể
thực hiện thành cơng với điều kiện chính quyền thuộc về nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, cần nhận thức đầy đủ rằng sự rút ngắn ở đây không
7


phải là cơng việc có thể làm nhanh chóng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "tiến lên chủ
nghĩa xã hội, khơng thể một sớm một chiều. Đó là cả một công tác tổ chức và giáo dục"
2.2.1. Nhận thức về quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa ở Việt
Nam.
Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, theo cách nói tóm tắt và mộc mạc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh là: trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi
người có cơng ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc. Quán triệt tư tưởng cơ
bản đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng là một xã hội:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu
về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hố tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng, làm theo năng lực, hưởng
theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đồn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới
- Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở nước ta là: xây dựng một xã hội dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Chương II: Vận dụng lý luận vào thực tiễn phân tích các sự lựa chọn con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
1. Thành tựu:
1.1. Việt Nam trong công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ tổ quốc (giai đoạn
1986-2006).
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 có ý nghĩa lịch sử và tầm vóc thời
đại to lớn, đưa cả nước bước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sức mạnh
Việt Nam làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975 đã và đang là động lực thúc đẩy mạnh mẽ công
cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo. Đại
hội VI của Đảng (tháng 12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, bao gồm đổi
mới tư duy, đổi mới tổ chức cán bộ, đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác.
Sau hơn 30 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự nỗ lực, phấn đấu không
ngừng của các tầng lớp nhân dân, sự nghiệp đổi mới đã đạt được “những thành tựu to lớn, có
ý nghĩa lịch sử” trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa.
Những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
an ninh, quốc phòng, đối ngoại, xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
8


nghĩa, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc… chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng
trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn và
sáng tạo; khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn
Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Chứng tỏ sức mạnh Việt Nam từng làm nên Đại

thắng mùa Xuân 1975 được Đảng vận dụng sáng tạo trong công cuộc đổi mới với việc phát
huy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đại đoàn kết dân tộc, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng,
truyền thống ngoại giao độc lập, tự cường và hòa bình.
Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và sự trong sạch, vững mạnh của Đảng là nhân
tố quyết định thắng lợi sự nghiệp đổi mới. Trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, đạo đức; phát huy bản lĩnh, phẩm chất, trí tuệ của Đảng, vai trị tiên phong,
gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, quan
liêu và sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tiếp tục đổi
mới tư duy lý luận, phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền của Đảng. Nâng cao
năng lực hoạch định đường lối, chính sách trên cơ sở nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn,
nghiên cứu lý luận; chỉ đạo chặt chẽ, hiệu quả việc tổ chức thực hiện đường lối, quan điểm,
chủ trương của Đảng. Củng cố quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Ngoại giao cách mạng Việt Nam đã kế thừa truyền thống ngoại giao của dân tộc
trong lịch sử và được phát triển phong phú, sáng tạo theo đường lối đối ngoại của Đảng và tư
tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, nổi bật trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đặc biệt
trong Đại thắng mùa Xuân 1975 với chủ trương kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại.
Trong cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước từ năm 1986, cùng với đổi mới chính
sách, pháp luật về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh, Đảng và Nhà nước
đổi mới mạnh mẽ chính sách và hoạt động đối ngoại. Đường lối đối ngoại của Đảng và chính
sách ngoại giao Nhà nước, ngoại giao nhân dân khơng ngừng phát triển đáp ứng chính sách
đối nội, phát triển đất nước, phù hợp với xu thế tồn cầu hóa, hợp tác và hội nhập quốc tế.
Đảng và Nhà nước triển khai đồng bộ, toàn diện hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế. Tận dụng cơ hội, thu được nhiều thành tựu quan trọng
Phát huy sức mạnh Việt Nam trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân
1975, sau hơn 30 năm đổi mới, hội nhập quốc tế, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) năm 2006 và gần đây là tham gia Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương Toàn
diện và Tiến bộ (CPTPP), Việt Nam đã tận dụng được cơ hội và thu được nhiều thành tựu

quan trọng.
Một là, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu và đối tác thương mại. Cơ cấu các mặt
hàng xuất khẩu có sự chuyển dịch mạnh theo hướng tỷ lệ các nông sản thô, nguyên nhiên
liệu giảm mạnh và tỷ lệ các mặt hàng công nghiệp và chế biến tăng. Xuất hiện một số doanh
9


nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao như: viễn thông, sản xuất linh kiện điện tử,
dịch vụ ngân hàng bảo hiểm có đẳng cấp quốc tế. Điều này cho thấy, q trình hội nhập kinh
tế quốc tế góp phần thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua
theo hướng công nghiệp hóa ngày càng cao hơn.
Hai là, bổ sung hệ thống pháp luật và hoàn thiện thể chế kinh tế. Với sự ra đời
Luật đầu tư nước ngoài, từng bước điều chỉnh luật lệ, cơ chế, chính sách, Việt Nam đã và
đang tạo lập môi trường pháp lý cho môi trường đầu tư, kinh doanh. Môi trường đầu tư được
cải thiện đáng kể, ngày càng thuận lợi hơn đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Ba là, tiếp thu công nghệ mới và đào tạo nguồn nhân lực. Hội nhập kinh tế quốc tế
đã tạo cơ hội và động lực cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận, áp dụng những thành tựu
mới nhất của khoa học - công nghệ. Nhiều công nghệ hiện đại, dây chuyền sản xuất tiên tiến
được áp dụng, tạo ra bước phát triển mới trong các ngành sản xuất. Quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế cũng góp phần đào tạo cán bộ trên nhiều lĩnh vực. Hàng vạn lao động trực tiếp,
cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý,… được đào tạo và trưởng thành có thể tiếp cận và chuyển
giao thành cơng các cơng nghệ nước ngồi đầu tư vào Việt Nam.
Bốn là, từng bước đưa doanh nghiệp và cả nền kinh tế bước vào môi trường cạnh
tranh. Hội nhập kinh tế quốc tế buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải đối diện với sự cạnh
tranh ở cả thị trường trong nước lẫn ngoài nước, sức ép này buộc nhiều doanh nghiệp Việt
Nam phải đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, nâng cao năng suất và chất lượng, xây dựng
thương hiệu để không ngừng vươn lên trong cạnh tranh để tồn tại và phát triển, hiện nay,
nhiều mặt hàng của Việt Nam được đánh giá có sức cạnh tranh quốc tế, một số doanh nghiệp
đã đầu tư hoạt động ở nước ngoài như: Viettel, Petro Vietnam, Hoàng Anh Gia Lai, cà phê
Trung Nguyên, Vinamilk,…

Năm là, duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao và tương đối ổn định, góp
phần cải thiện đời sống của nhân dân. Thu nhập bình quân đầu người trước đây chưa đến 100
USD (năm 1990), đạt 640 USD năm 2005,...
Sáu là, góp phần củng cố hệ thống chính trị - an ninh - quốc phòng ở Việt Nam.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - nền tảng của hệ
thống chính trị, xã hội, giúp củng cố hệ thống chính trị và nâng cao uy tín, vai trò của Đảng
và Nhà nước, làm cho vị thế và vai trò quốc tế của Việt Nam được tăng cường”. Mặt khác,
hội nhập kinh tế quốc tế tạo nền tảng để bảo đảm an ninh và quốc phòng, tạo điều kiện tốt
hơn để thực hiện các chương trình xã hội như xóa đói, giảm nghèo, phát triển vùng sâu, vùng
xa.
1.2. Việt Nam thời kì đẩy mạnh chiến lược phát triển kinh tế xã hội đất nước giai
đoạn hiện nay.
Kinh tế - xã hội là cách thức hoạt động kinh tế ảnh hưởng và được định hình qua
quá trình phát triển của xã hội. Kinh tế - xã hội đôi khi được sử dụng như một thuật ngữ bao
hàm các lĩnh vực khác nhau. Thuật ngữ kinh tế - xã hội có thể hiểu là: “Sử dụng kinh tế học
10


trong nghiên cứu xã hội”. Hiện nay, khi nghiên cứu về loại hình kinh tế - xã hội cho thấy, có
hai loại hình là: loại hình kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa và loại hình kinh tế - xã hội
XHCN.
Loại hình kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, theo quan điểm của C.Mác là: “Lợi
nhuận là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất này”. Trong nền kinh tế thị trường với
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận là yếu tố trung tâm, là động lực tuyệt đối
thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả của hoạt động sản
xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, loại hình kinh tế - xã hội, kể cả nền kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa hiện đại, không phải khơng có những hạn chế, những nhược điểm rất cơ bản, thậm
chí cả những điểm yếu khơng dễ sửa đổi. C.Mác đã chỉ ra quy luật tuyệt đối của các nhà tư
bản là tìm kiếm lợi nhuận tối đa và cho rằng: “Lợi nhuận chỉ là hình thái thứ sinh, phái sinh
và được biến đổi của giá trị thặng dư, là hình thái tư sản trong đó đã xóa hết những nguồn

gốc của nó”, cịn giá trị thặng dư và tỷ suất giá trị thặng dư “Là biểu hiện chính xác của mức
độ tư bản bóc lột sức lao động, hay mức độ nhà tư bản bóc lột người cơng nhân”. Nói cách
khác, trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, chính lao động thặng dư của người công
nhân là nguồn gốc đem lại lợi nhuận và làm giàu cho nhà tư bản.
Đối với Việt Nam, vấn đề phát triển kinh tế - xã hội chính là sự phát triển gắn với
định hướng xây dựng xã hội XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo
pháp luật đều là bộ phận quan trọng, hợp thành của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật,
cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Các hình thức sở hữu
hỗn hợp và đan xen với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển.
Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước được xây dựng,
phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội
chủ nghĩa. Phân định rõ quyền của người sở hữu, quyền của người sử dụng tư liệu sản xuất
và quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm mọi tư liệu sản xuất đều có
người làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của
mình.
Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; các nguồn
lực được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện
chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng
góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi
xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất.
Phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây
dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp,
11


nông nghiệp, dịch vụ. Coi trọng phát triển các ngành cơng nghiệp nặng, cơng nghiệp chế tạo
có tính nền tảng và các ngành cơng nghiệp có lợi thế; phát triển nơng, lâm, ngư nghiệp ngày

càng đạt trình độ cơng nghệ cao, chất lượng cao gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng
nông thôn mới. Bảo đảm phát triển hài hòa giữa các vùng, miền; thúc đẩy phát triển nhanh
các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng có nhiều khó khăn.
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
 Kết quả thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 ở Việt
Nam
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 được thông qua tại Đại
hội ĐBTQ lần thứ XI của Đảng, trong đó nổi bật là quan điểm phát triển nhanh và bền vững,
tăng trưởng kinh tế kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã
hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, coi trọng bảo vệ và cải
thiện môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; tập trung thực hiện ba đột phá
chiến lược và những định hướng chủ đạo trong phát triển kinh tế - xã hội, cơ cấu lại nền kinh
tế gắn với đổi mới mơ hình tăng trưởng và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên
các lĩnh vực.
Trong thời gian thực hiện Chiến lược, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của
Đảng, sự quản lý hiệu quả của Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ, các
cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương, toàn dân, toàn quân ta trên cả nước đã chung
sức, đồng lịng, nỗ lực vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện đồng bộ, hiệu quả các mục
tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra và đạt được nhiều thành tựu khá toàn diện trên các lĩnh
vực; đặc biệt từ đầu năm 2020 đến nay chúng ta đã thực hiện thành cơng “mục tiêu kép” vừa
quyết liệt phịng, chống đại dịch COVID-19 trên tinh thần “chống dịch như chống giặc”, vừa
tập trung phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an sinh xã hội và đời sống của
Nhân dân, thể hiện trên các phương diện sau:
Thứ nhất, kinh tế vĩ mô ổn định hơn, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, các cân
đối lớn của nền kinh tế được cải thiện đáng kể. Mặc dù chịu ảnh hưởng lớn bởi đại dịch
COVID-19 trong năm 2020, dự kiến tăng trưởng GDP cả giai đoạn đạt 5,9%/năm, thuộc
nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới; trong đó giai đoạn 2011-2015
tăng trưởng bình quân đạt 5,9%/năm; giai đoạn 2016-2019 đạt 6,8%/năm. GDP bình quân
đầu người tăng từ 1.331 USD năm 2010 lên 3.521 USD năm 2020. Không chỉ số lượng, chất
lượng tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao động được nâng lên rõ rệt. Đóng góp của

năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đạt khoảng 39%, vượt mục tiêu Chiến lược đề ra
(35%); năng suất lao động giai đoạn 2016-2020 tăng bình qn 5,8%/năm. Kinh tế vĩ mơ ổn
định vững chắc hơn; chỉ số giá tiêu dùng (CPI) giảm từ 18,6% năm 2011 xuống còn dưới 4%
trong giai đoạn 2016-2020. Tổng vốn đầu tư phát triển tồn xã hội tăng bình quân
10,6%/năm; đã thu hút được nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngồi quy mơ lớn, cơng nghệ
cao.
12


Thứ hai, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mơ hình tăng trưởng. Cơ cấu lại
các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu được triển khai đồng bộ, hiệu quả hơn, bảo đảm ổn
định, an toàn trong toàn hệ thống. Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh, thực
chất hơn; tập trung vào cổ phần hóa, thối vốn và nâng cao hiệu quả hoạt động. Tập trung
phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại, giá trị gia tăng cao và bền
vững; phát triển liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị và xây dựng được thương hiệu của một số
nông sản chủ lực. Nhiều nhà máy chế biến nông sản, thực phẩm với công nghệ hiện đại được
đưa vào hoạt động. Các hình thức kinh tế hợp tác và doanh nghiệp nông nghiệp tăng nhanh
với khoảng 15 nghìn hợp tác xã nơng nghiệp hoạt động hiệu quả và gần 12 nghìn doanh
nghiệp trực tiếp sản xuất nơng nghiệp. Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo và ứng dụng
công nghệ cao trong các ngành, lĩnh vực ngày càng tăng.
Thứ ba, các đột phá chiến lược được tập trung chỉ đạo thực hiện và đạt nhiều kết
quả, đóng góp quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hoàn thiện theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội
nhập, trọng tâm là tạo lập mơi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, thuận lợi. Đã hình
thành hệ thống pháp luật về kinh tế khá đầy đủ, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, minh
bạch, tạo cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu hoạt động. Phát
triển nguồn nhân lực được đẩy mạnh, nhất là nhân lực chất lượng cao, gắn kết chặt chẽ hơn
với nhu cầu thị trường; tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 40% năm 2010 lên khoảng 64,5%
năm 2020. Khoa học và công nghệ được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực; hệ sinh thái
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia phát triển mạnh; Năng lực hệ thống kết cấu hạ tầng về

giao thông, năng lượng, công nghệ thông tin, viễn thông, thủy lợi, đô thị, thương mại... được
nâng lên đáng kể. Nhiều cơng trình, dự án quan trọng có sức lan tỏa cao, mang tầm chiến
lược về giao thông, năng lượng được đầu tư, hoàn thành, đưa vào khai thác và sử dụng.
Thứ tư, phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam đạt kết quả tích cực; an
sinh xã hội được bảo đảm; đời sống vật chất, tinh thần của người dân không ngừng được cải
thiện. Việt Nam đã thực hiện tốt các chính sách đối với người có cơng, bảo trợ xã hội, tạo
việc làm, giảm nghèo bền vững; tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp tăng nhanh. Các lĩnh vực giáo dục, y tế đạt nhiều thành tựu quan trọng, trong đó có
việc bảo đảm chương trình dạy và học trực tuyến và thực hiện tốt công tác khám, chữa bệnh
trong bối cảnh dịch bệnh. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc được đề cao
và phát huy; trong phòng, chống đại dịch COVID-19 đã nổi lên những giá trị đạo đức xã hội
và nhiều gương người tốt, việc tốt được nhân rộng. Các lĩnh vực cơng tác dân tộc, tơn giáo,
chăm sóc người cao tuổi, phụ nữ, trẻ em, thể dục, thể thao và thông tin, truyền thông được
chú trọng.
Thứ năm, các cấp, các ngành đã thực hiện tốt chủ trương kết hợp chặt chẽ phát
triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh, đẩy mạnh quan hệ đối ngoại và hội
nhập quốc tế. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
13


quốc; giữ vững ổn định chính trị, mơi trường hịa bình, trật tự, an tồn xã hội để xây dựng,
phát triển đất nước. Nền quốc phịng tồn dân, thế trận quốc phịng tồn dân, thế trận an ninh
nhân dân được củng cố ngày càng vững chắc; sức mạnh tổng hợp của lực lượng vũ trang
được nâng cao; công nghiệp quốc phòng, an ninh từng bước phát triển theo hướng hiện đại,
lưỡng dụng. Cùng với ngành y tế và các địa phương, các lực lượng quân đội, công an đã vào
cuộc quyết liệt cùng cả nước trong phòng, chống dịch COVID-19. Đối ngoại và hội nhập
quốc tế được triển khai chủ động, toàn diện, đồng bộ và đạt nhiều kết quả quan trọng. Quan
hệ với các đối tác tiếp tục được mở rộng, đi vào chiều sâu, thiết thực và hiệu quả hơn, trong
đó có 17 đối tác chiến lược và 13 đối tác hợp tác toàn diện; đã ký kết và triển khai hiệu quả
nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có Hiệp định đối tác tồn diện và tiến bộ

xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh
châu Âu (EVFTA), góp phần quan trọng mở rộng, đa dạng hóa thị trường, thu hút các nguồn
lực cho phát triển đất nước.
Việt Nam đã đảm nhiệm thành công nhiều cương vị quan trọng tại các diễn đàn, tổ
chức quốc tế, khu vực như Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch Hội đồng liên minh nghị viện Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á (AIPA), Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên
hợp quốc...; đồng thời, thực hiện tốt công tác thông tin đối ngoại, bảo hộ công dân; chủ động
hỗ trợ, hợp tác tốt trong phòng, chống đại dịch COVID-19. Uy tín và vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế tiếp tục được khẳng định và nâng cao.
Phát triển kinh tế - xã hội, nhiệm vụ trung tâm trong chiến lược phát triển Việt
Nam giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 2045
Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng xác định quan điểm: “Tiếp tục
phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và phát triển đồng bộ các nhiệm vụ,
trong đó phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trung tâm”. Đây là quan điểm đúng đắn, phù
hợp với tình hình thực tế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, thể hiện qua những phương
diện sau:
Một là, kinh tế - xã hội phát triển góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của Nhân dân, từ đó củng cố và tăng cường lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước,
củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường ổn định xã hội.
Hai là, kinh tế - xã hội phát triển chính là tạo tiền đề vật chất cho sự phát triển văn
hóa và con người, tạo điều kiện để con người có thể tham gia vào quá trình sáng tạo, sản
xuất, truyền bá và thụ hưởng các giá trị văn hóa.
Ba là, kinh tế - xã hội phát triển tạo nền tảng vật chất, kỹ thuật, cơng nghệ và tiềm
lực cho quốc phịng, an ninh. Khi kinh tế phát triển, nguồn vốn tích lũy, nguồn thu ngân
sách khơng ngừng được tăng lên chính là điều kiện để phát triển đất nước về mọi mặt. Từ đó,
góp phần củng cố và tăng cường tiềm lực quốc phịng, an ninh; đổi mới kỹ thuật, cơng nghệ
trong cơng nghiệp quốc phịng, sản xuất phương tiện kỹ thuật hiện đại phục vụ quốc phòng,
an ninh.
14



Bốn là, kinh tế - xã hội phát triển thúc đẩy mở cửa, hội nhập quốc tế, tạo sự hiểu
biết, gắn kết và ràng buộc lẫn nhau về lợi ích kinh tế, đầu tư, thương mại, hạn chế các nguy
cơ. Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế theo yêu cầu phát triển của kinh tế thị trường, sự tham gia
có trách nhiệm vào hoạt động của các tổ chức quốc tế, bên cạnh mở rộng quan hệ kinh tế và
ngoại giao song phương, góp phần củng cố thế và lực của đất nước trên trường quốc tế.
Năm là, kinh tế - xã hội phát triển, đời sống, khoa học và cơng nghệ, nhận thức của
người dân được nâng cao, ngồi các nhu cầu về vật chất người dân sẽ có nhu cầu sống trong
một mơi trường trong sạch, từ đó góp phần thực hiện tốt các hoạt động bảo vệ môi trường và
khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên để đảm bảo sự phát triển bền vững.
Với quan điểm này, Việt Nam sẽ hướng tới phát triển kinh tế - xã hội theo hướng
hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”; có quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là
một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình
đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trị chủ yếu trong huy động
và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản
xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp
với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trị định hướng, xây dựng và hồn thiện thể chế
kinh tế, tạo mơi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ,
chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy
sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội trong từng
bước, từng chính sách phát triển. Để thực hiện được mục tiêu của đất nước, đòi hỏi sự vào
cuộc của tất cả các cấp, các ngành, các địa phương với chương trình hành động cụ thể và các
bước đi phù hợp.
2. Hạn chế, tồn tại, khó khăn.
Bên cạnh những thành tựu, mặt tích cực là cơ bản, chúng ta cũng cịn khơng ít
khuyết điểm, hạn chế và đang phải đối mặt với những thách thức mới trong quá trình phát
triển đất nước.

Về kinh tế, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, thiếu bền vững; kết
cấu hạ tầng thiếu đồng bộ; hiệu quả và năng lực của nhiều doanh nghiệp, trong đó có doanh
nghiệp nhà nước cịn hạn chế; mơi trường bị ô nhiễm tại nhiều nơi; công tác quản lý, điều
tiết thị trường cịn nhiều bất cập. Trong khi đó, sự cạnh tranh đang diễn ra ngày càng quyết
liệt trong quá trình tồn cầu hố và hội nhập quốc tế.
Về xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và
nhiều dịch vụ cơng ích khác cịn khơng ít hạn chế; văn hố, đạo đức xã hội có mặt xuống
cấp; tội phạm và các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Đặc biệt, tình trạng tham nhũng, lãng
phí, suy thối về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống vẫn diễn ra trong một bộ phận cán
15


bộ, đảng viên. Trong khi đó, các thế lực xấu, thù địch lại ln tìm mọi thủ đoạn để can thiệp,
chống phá, gây mất ổn định, thực hiện âm mưu "diễn biến hồ bình" nhằm xố bỏ chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam.
Đảng ta nhận thức rằng, hiện nay Việt Nam đang trong quá trình xây dựng, quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành,
xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả các
nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh vực. Sự đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp và
quyết liệt trong điều kiện cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc tế. Bên cạnh các mặt
thành tựu, tích cực, sẽ ln có những mặt tiêu cực, thách thức cần được xem xét một cách
tỉnh táo và xử lý một cách kịp thời, hiệu quả. Đó là cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ, địi
hỏi phải có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sức sáng tạo mới. Đi lên theo định hướng xã hội
chủ nghĩa là một quá trình khơng ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội
chủ nghĩa để các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng. Thành công hay thất
bại là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Về xã hội, chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công tác giảm nghèo bền vững, nâng cao
chất lượng y tế, giáo dục và các dịch vụ cơng ích khác, nâng cao hơn nữa đời sống văn hố
cho nhân dân. Tồn Đảng, tồn dân và toàn quân đang ra sức học tập và làm theo tư tưởng,

đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thối về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp, thực hiện tốt hơn nữa các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng,
nhằm làm cho tổ chức đảng và bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, giữ vững
bản chất cách mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một
kiểu xã hội mới về chất, hồn tồn khơng hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp
sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài,
khơng thể nóng vội. Vì vậy, bên cạnh việc xác định chủ trương, đường lối đúng, bảo đảm vai
trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích
cực của nhân dân. Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của
Đảng vì thấy đường lối đó đáp ứng đúng u cầu, nguyện vọng của mình. Sức mạnh nhân
dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển.
Mặt khác, Đảng lãnh đạo và cầm quyền, trong khi xác định phương hướng chính
trị và đề ra quyết sách, không thể chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước và dân tộc mình, mà
cịn phải nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới và thời đại. Trong thế
giới tồn cầu hố như hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc khơng thể biệt lập,
đứng bên ngồi những tác động của thế giới và thời đại, của thời cuộc và cục diện của nó.
Chính vì vậy, chúng ta phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển, đa phương hố, đa dạng hoá các quan
16


hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ, khơng can thiệp vào
cơng việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi.
Và điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng
tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp
công nhân và quần chúng lao động. Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được những người cách
mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ cịn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn

cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung
một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư
tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được
tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so
với cuộc sống.
3. Nguyên nhân của hạn chế
Khủng hoảng nhiều mặt, cả về y tế, xã hội lẫn chính trị
Kinh tế suy thối đã làm phơi bày sự thật của những bất công xã hội trong các xã
hội tư bản chủ nghĩa: đời sống của đa số dân cư lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất
nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu - nghèo ngày càng lớn, làm trầm trọng thêm những mâu
thuẫn, xung đột giữa các sắc tộc.
Những tình huống "phát triển xấu", những nghịch lý "phản phát triển", từ địa hạt
kinh tế - tài chính đã tràn sang lĩnh vực xã hội, làm bùng nổ các xung đột xã hội, và ở khơng
ít nơi từ tình huống kinh tế đã trở thành tình huống chính trị với các làn sóng biểu tình, bãi
cơng, làm rung chuyển cả thể chế. Sự thật cho thấy, bản thân thị trường tự do của chủ nghĩa
tư bản khơng thể giúp giải quyết được những khó khăn, và trong nhiều trường hợp còn gây
ra những tổn hại nghiêm trọng cho các nước nghèo; làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa lao
động và tư bản toàn cầu. Sự thật đó cũng làm phá sản những lý thuyết kinh tế hay mơ hình
phát triển vốn xưa nay được coi là thời thượng, được khơng ít các chính khách tư sản ca
ngợi, được các chuyên gia của họ coi là tối ưu, hợp lý.
Cùng với khủng hoảng kinh tế - tài chính là khủng hoảng năng lượng, lương thực,
sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thối của mơi trường sinh thái...
đang đặt ra những thách thức vô cùng lớn cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại. Đó là
hậu quả của một quá trình phát triển kinh tế - xã hội lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng,
coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi
ích cá nhân làm trụ cột của xã hội. Đó cũng chính là những đặc trưng cốt yếu của phương
thức sản xuất và tiêu dùng tư bản chủ nghĩa.
Các cuộc khủng hoảng đang diễn ra một lần nữa chứng minh tính khơng bền vững
cả về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái của nó. Theo nhiều nhà khoa học phân tích, các
cuộc khủng hoảng hiện nay không thể giải quyết được một cách triệt để trong khuôn khổ của

chế độ tư bản chủ nghĩa.
17


Các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát
triển trong thời gian qua càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các thể chế chính trị tư
bản chủ nghĩa. Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức "dân chủ tự do" mà phương
Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên tồn thế giới khơng hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc
về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân - yếu tố bản chất nhất của dân chủ. Hệ thống quyền
lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đồn tư bản
lớn. Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải,
tư liệu sản xuất, kiểm sốt tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại
chúng chủ yếu và do đó chi phối tồn xã hội.
4. Những giải pháp thực hiện thắng lợi con đường quá độ chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.
4.1. Từng bước phát triển lực lượng sản xuất, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Công cuộc đổi mới, kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại cùng
các nguồn lực khác, như phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ
động, tích cực tăng cường hợp tác, mở rộng hội nhập quốc tế đã đem lại những thay đổi to
lớn, thành tựu có ý nghĩa lịch sử cho đất nước trong 35 năm thực hiện đường lối đổi mới. Đại
hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế
và uy tín quốc tế như ngày nay”… Việt Nam kiên định đi theo con đường xã hội chủ nghĩa,
là một hình mẫu đặc thù của chủ nghĩa xã hội với điểm xuất phát thấp và phải gánh chịu hậu
quả chiến tranh nặng nề. Mỗi nhiệm kỳ đại hội của Đảng là một chặng đường, xác định đúng
mục tiêu, nhiệm vụ và kết quả đạt được của nhiệm kỳ trước tạo tiền đề phát triển cho nhiệm
kỳ sau. Những thành tựu to lớn ấy có được là do sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng - nhân tố
hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đại hội XIII của Đảng xác định tầm nhìn và định hướng phát triển đất nước trong

những mốc lịch sử quan trọng: Một là, đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn
miền Nam, thống nhất đất nước, Việt Nam phấn đấu trở thành nước đang phát triển, có cơng
nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đảng ta đã đề ra các chỉ
tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, trong đó: “Tốc độ tăng trưởng
GDP bình quân 5 năm đạt khoảng 6,5 - 7%/năm. Đến năm 2025, GDP bình quân đầu người
khoảng 4.700 - 5.000 USD”(4). Hai là, đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, Việt
Nam trở thành nước đang phát triển, có cơng nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Định
hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, Đảng ta xác định 12 định hướng trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó về lĩnh vực kinh tế là: “Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ
mô, đổi mới mạnh mẽ mơ hình tăng trưởng…; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và
sức cạnh tranh của nền kinh tế” (5). Ba là, đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Việt Nam
18


trở thành nước phát triển, thu nhập cao: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đồn kết tồn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời
đại; đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ cơng cuộc đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định; phấn đấu đến
giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa”(6).
4.2. Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng Xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội
và đổi mới hiện nay, Đảng ta luôn luôn coi trọng mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng các quan hệ
sản xuất của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong thời gian dài chúng ta đã phạm
sai lầm chủ quan, duy ý chí, xây dựng các quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa vượt trước quá
xa trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn lạc hậu, thấp kém. Đại hội VI đã thẳng thắn
thừa nhận, chúng ta chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ
sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất; bởi vậy, đại hội đề ra đường lối đổi
mới chú trọng hàng đầu việc phải giải phóng sức sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu sản xuất, bố

trí lại cơ cấu đầu tư; xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp, cải tạo
xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc bảo đảm phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế và
tăng thu nhập cho người lao động.
Tư duy đúng đắn nêu trên đã được Đảng, Nhà nước tiếp tục bổ sung, phát triển.
Đại hội VII nêu định hướng, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, phải thiết lập
từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở
hữu. Đại hội VIII xác định mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta
thành một nước cơng nghiệp có cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan
hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất
và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
văn minh. Đại hội IX nêu rõ thêm, phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây
dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối. Tiêu chuẩn
căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là
thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã
hội. Đại hội X đã khái quát một trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng là "có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất". Tổng kết 20 năm
thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Đại hội XI đã xác định lại, một trong những đặc trưng của
xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là "có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên
lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp" .
Nhất quán với quan điểm đã được thực tiễn chứng minh là đúng đắn và thiết thực,
dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XII một lần nữa khẳng định: “Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển
19


của lực lượng sản xuất”. Tổng hợp nội dung bản dự thảo, thấy rất rõ rằng các quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp đã được nhìn nhận đồng bộ trên cả 3 bình diện.
Về mặt sở hữu, “có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó
kinh tế Nhà nước giữ vai trị chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền

kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp
luật”.
Về mặt tổ chức và quản lý sản xuất, nền kinh tế nước ta “vận hành đầy đủ, đồng bộ
theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù
hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh… Nhà nước đóng vai trị định hướng, xây dựng và hồn thiện
thể chế kinh tế, tạo mơi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh. Phát huy vai
trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế-xã hội”.
Về mặt phân phối, nhất quán chủ trương phân phối công bằng cả các yếu tố sản
xuất, các cơ hội, điều kiện phát triển và sản phẩm làm ra; phân phối chủ yếu căn cứ vào kết
quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác,
phân phối thông qua hệ thống phúc lợi và an sinh xã hội. Dự thảo Báo cáo chính trị một lần
nữa nhấn mạnh: “Thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát
triển”.
Trên thực tế, các quan hệ sản xuất ở nước ta đã được xây dựng, củng cố phù hợp
với mục tiêu, nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng, phù hợp với mục tiêu, bản chất của chủ
nghĩa xã hội. Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, từ năm 1930 đến nay, nhân dân ta quyết tâm làm
sự nghiệp cách mạng vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hướng tới giải phóng
giai cấp, giải phóng lao động và giải phóng con người. Vì những mục tiêu cao cả đó, nhân
dân Việt Nam đã khơng quản hy sinh; nhân dân tiến bộ toàn thế giới cũng sẵn sàng hiến dâng
cả máu đào, cùng nhau tạo nên sức mạnh chiến thắng các thế lực thực dân, tư bản, đế quốc
hàng đầu, giành lại độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Bên cạnh đó, các quan hệ sản xuất ở nước ta luôn luôn được xây dựng phù hợp với
đặc điểm cụ thể của xã hội Việt Nam. Xã hội ta là một xã hội phương Đông với nhiều bản
sắc phân biệt so với xã hội phương Tây. Chính vì vậy, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã nhiều lần
lưu ý về sự tồn tại của một phương thức sản xuất châu Á, bên cạnh 5 phương thức sản xuất
phổ biến do các ông khái quát chủ yếu từ tổng kết lịch sử châu Âu
Quan hệ sản xuất tiến bộ là các quan hệ sản xuất khắc phục được những tính chất
lạc hậu, tiêu cực của các quan hệ sản xuất trước kia đã từng tồn tại ở đất nước; chứa đựng

ngày càng nhiều giá trị nhân văn, dân chủ, cơng bằng. Đó là các quan hệ sản xuất đi trước
một bước, định hướng phát triển cho các lực lượng sản xuất hiện đại và chủ động bảo đảm cơ
sở vật chất-kinh tế cho chế độ xã hội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

20


Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, các đặc điểm lịch sử-văn hóa
dân tộc và mục tiêu của sự nghiệp cách mạng. Chỉ trong chừng mực phải phù hợp với đầy đủ
những tiêu chí vừa nêu, nền kinh tế nước ta mới không trở thành mảnh đất cho các quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa chiếm vai trị, vị trí chủ đạo; chuỗi sản xuất-kinh doanh và các
nguồn lực quốc gia mới thật sự do nhân dân làm chủ; mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội mới có đầy đủ cơ sở vật chất để duy trì, củng cố, phát triển.
4.3. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Phát triển kinh tế đối ngoại là một trong những định hướng lớn của nền kinh tế
Việt Nam. Với nền tảng là một nước nông nghiệp lạc hậu, giải pháp để phát triển đất nước
trong xu thế chung tồn cầu hóa chính là mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại
thông qua tăng khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Trong
từng giai đoạn lịch sử, Việt Nam luôn thực hiện đường lối đối ngoại và kinh tế đối ngoại linh
hoạt, sáng tạo để góp phần phát triển kinh tế, xây dựng đất nước.
Từ thực tế đất nước và những thành tựu đạt được sau gần 35 năm đổi mới về kinh
tế đối ngoại, Đại hội XII (năm 2016) của Đảng đã bổ sung và hoàn thiện quan điểm về kinh
tế đối ngoại: “Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài, chú trọng chuyển
giao cơng nghệ, trình độ quản lý tiên tiến và thị trường tiêu thụ sản phẩm; chủ động lựa chọn
và có chính sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư nước ngồi có trình độ quản lý và cơng
nghệ hiện đại, có vị trí hiệu quả trong chuỗi giá trị tồn cầu, có liên kết với doanh nghiệp
(DN) trong nước. Tăng cường liên kết giữa DN có vốn đầu tư nước ngồi với DN trong nước
nhằm phát triển cơng nghiệp phụ trợ và công nghiệp quy mô lớn, chất lượng cao, gắn với các
chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu”, thống nhất “sớm đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước

công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Chủ trương phát triển kinh tế đối ngoại đã đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế, giúp Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần đưa đất nước thốt
khỏi đói nghèo lạc hậu, đưa nền kinh tế vượt qua ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng, suy
thoái kinh tế, trở thành điểm sáng ở khu vực và trên thế giới. Hiện nay, Việt Nam tiếp tục đẩy
mạnh phát triển kinh tế đối ngoại, thúc đẩy hội nhập quốc tế để thực hiện cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa, sớm đưa đất nước trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, vì mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Bước sang thời kỳ đổi mới (năm 1986), Việt Nam thực hiện đổi mới toàn diện,
trước hết thực hiện đổi mới về kinh tế, lấy đổi mới kinh tế làm trung tâm, xác định rõ hơn vai
trò và vị trí quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại trong nền kinh tế quốc dân. Ngay từ
những năm đầu thực hiện “đổi mới” và “mở cửa", Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI của Đảng đã khẳng định, xuất khẩu là mũi nhọn, có ý nghĩa quyết định đối với nhiều
mục tiêu kinh tế trong giai đoạn 1986-1990, đồng thời là khâu chủ yếu của toàn bộ các quan
hệ kinh tế đối ngoại. Trong giai đoạn này, Việt Nam chủ trương hợp tác kinh tế và khoa học,
21


kỹ thuật với bên ngoài; thu hút mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế, mở rộng, nâng cao hiệu
quả đối ngoại, đẩy mạnh cơng tác đổi mới chính sách và cơ chế xuất, nhập khẩu để phát triển
kinh tế đất nước.
Chủ trương mới về kinh tế đối ngoại của Đảng là cơ sở quan trọng cho những
chính sách kinh tế giai đoạn tiếp theo và giúp Việt Nam đạt được những kết quả quan trọng.
Trong 20 năm đầu (1986-2006), bước đầu hình thành các ngành sản xuất hướng về xuất
khẩu, xuất hiện hai mặt hàng xuất khẩu quan trọng làm thay đổi đáng kể cán cân thương mại
là dầu thô và gạo. Từ năm 1989, Việt Nam thực hiện chính sách tự do hóa thương mại, mở
rộng thị trường, tăng cường xuất khẩu và cải thiện cán cân thương mại. Quan hệ kinh tế đối
ngoại của Việt Nam được mở rộng với nhiều nước trên thế giới. Tính đến cuối thập niên
1990, Việt Nam có quan hệ kinh tế và thương mại với 140 quốc gia; có tới gần 70 nước và
vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam; hoạt động xuất, nhập khẩu tăng lên đáng kể, đứng thứ 2

thế giới về xuất khẩu lương thực; tỷ lệ đóng góp của khu vực FDI trong GDP tăng dần từ
13,3% năm 2000 lên 13,8% năm 2001, 16% năm 2005, 17,1% năm 2006; hoạt động dịch vụ
thu ngoại tệ đạt được nhiều thành tựu nổi bật...
Nhất quán chủ trương đẩy mạnh kinh tế đối ngoại nói riêng và kinh tế quốc tế nói
chung, đồng thời linh hoạt, chủ động trong từng giai đoạn, đặc biệt từ năm 2006 (năm Việt
Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới) đến nay, Việt Nam tiếp tục khẳng định được vị
thế trên chính trường và thị trường quốc tế. Việt Nam hiện có quan hệ ngoại giao với 189
nước (trong đó có 3 đối tác chiến lược toàn diện, 13 đối tác chiến lược, 14 đối tác tồn diện)
và có quan hệ bình thường với tất cả các nước lớn trên thế giới, có quan hệ thương mại với
224 đối tác, trong đó có hơn 70 nước là thị trường xuất khẩu, có quan hệ hợp tác với hơn 500
tổ chức quốc tế; đã ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương, gần 60 hiệp định khuyến
khích và bảo hộ đầu tư, 54 hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều hiệp định hợp tác
khác với các nước và tổ chức quốc tế. Việt Nam cũng chủ động tham gia định hình các
khn khổ, ngun tắc hợp tác và đóng góp có trách nhiệm tại Liên hợp quốc, ASEAN,
ASEM, APEC...
Đặc biệt, đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng về phát triển kinh tế đã góp phần
quan trọng phá thế bao vây, cơ lập từ bên ngồi: Mỹ bỏ cấm vận (năm 1994) và bình thường
hóa quan hệ với Việt Nam (năm 1995), Việt Nam gia nhập ASEAN (năm 1995), tham gia
Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (năm 1998), gia nhập Tổ chức Thương
mại thế giới (năm 2006), gia nhập hàng loạt các FTA với các đối tác lớn... Thông qua hội
nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam tăng cường hợp tác, đối thoại chiến lược và đưa quan hệ với
các đối tác đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả hơn, góp phần quan trọng tạo môi trường,
điều kiện thuận lợi cho sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong phát triển kinh tế, xã hội, bảo
vệ Tổ quốc.
Việc mở rộng hợp tác quốc tế đã tạo đà cho kinh tế đối ngoại tiếp tục phát triển
mạnh mẽ, đóng góp quan trọng vào cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Theo
22


số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, lũy kế đến ngày 20/9/2021, cả nước có 34.141 dự án còn

hiệu lực với tổng vốn đăng ký gần 403,2 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư
nước ngoài ước đạt 245,14 tỷ USD, bằng 60,8% tổng vốn đăng ký cịn hiệu lực. Hiện có 141
quốc gia, vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cịn hiệu lực tại Việt Nam.
Trong đó, đứng đầu là Hàn Quốc, với tổng vốn đăng ký gần 73,8 tỷ USD (chiếm
18,3% tổng vốn đầu tư); Nhật Bản đứng thứ hai, với gần 63,9 tỷ USD (chiếm 15,8% tổng
vốn đầu tư)... Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 19/21 ngành trong hệ thống phân
ngành kinh tế quốc dân. Trong đó, ngành cơng nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng cao
nhất với 238,2 tỷ USD, chiếm 59,1% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo là các lĩnh vực kinh doanh
bất động sản với gần 61,3 tỷ USD (chiếm 15,2% tổng vốn đầu tư); sản xuất, phân phối điện
với trên 33,9 tỷ USD (chiếm 8,4% tổng vốn đầu tư).
Bên cạnh đó, hàng hóa của Việt Nam đã thâm nhập được vào nhiều thị trường đòi
hỏi yêu cầu cao về chất lượng hàng hóa, an tồn thực phẩm như: Liên minh châu Âu (EU),
Nhật Bản, Mỹ, Australia... Xuất khẩu tăng trưởng mạnh, bình quân giai đoạn 2006-2019 đạt
16,7% từ 39,8 tỷ USD năm 2006 lên 264,2 tỷ USD năm 2019, trong khi nhập khẩu tăng
15,4% từ 44,9 tỷ USD năm 2006 lên 253,1 tỷ USD năm 2019. Theo Tổng cục Thống kê, mặc
dù đại dịch COVID-19 bùng phát từ, song cả năm 2020, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa vẫn
đạt 281,5 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2019. Thậm chí, năm 2020 cịn có 31 mặt hàng đạt
kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó, 24 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 2 tỷ
USD, 9 mặt hàng có kim ngạch trên 5 tỷ USD và 6 mặt hàng có kim ngạch trên 10 tỷ USD.
Năm 2021, dù dịch bệnh COVID-19 tiếp tục diễn biến phức tạp, thời gian giãn
cách xã hội áp dụng tại nhiều tại các tỉnh, thành phố lớn của cả nước, song tình hình xuất
nhập khẩu ghi nhận nhiều điểm sáng. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, đến hết ngày
15/9/2021, tổng trị giá xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt gần 454.58 tỷ USD. Trong đó, tổng
trị giá xuất khẩu đạt gần 225,2 tỷ USD, tăng 19,8% tương ứng tăng 37,15 tỷ USD so với
cùng kỳ năm 2020; tổng trị giá nhập khẩu của cả nước đạt 229,38 tỷ USD, tăng 32,2%
(tương ứng tăng 55,92 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2020. Tăng trưởng xuất khẩu mạnh mẽ
trong những năm qua, đặc biệt của các DN FDI đã góp phần cải thiện đáng kể cán cân
thương mại của Việt Nam, tạo niềm tin cho nhà đầu tư nước về một môi trường kinh doanh
minh bạch, thuận lợi. Vốn ODA cung cấp cho Việt Nam tăng mạnh qua các giai đoạn, từ
1993 - 2015 vốn cam kết đạt 91,1 tỷ USD, vốn giải ngân đạt 58 tỷ USD (63,7%).

Kinh tế đối ngoại cũng đã góp phần tích cực vào việc đưa Việt Nam từ quốc gia
đói nghèo trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu lương thực lớn nhất thế giới, có
mức thu nhập trung bình và ln đạt mức tăng trưởng kinh tế. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế,
tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2006-2019 của Việt Nam đạt 6,26% (bình qn thế
giới là 3,69%), quy mơ GDP từ 66,4 tỷ USD năm 2006 tăng lên 261,6 tỷ USD năm 2019,
GDP theo đầu người từ 797 USD năm 2006 tăng lên 1.154 USD năm 2008, đưa Việt Nam
bước vào nhóm các nước có thu nhập trung bình, năm 2019 đạt 2.740 USD. Đặc biệt, kể từ
23


năm 2020, đại dịch COVID-19 bùng phát, khiến hầu hết các nền kinh tế, kể cả các nền kinh
tế tăng trưởng âm, nhưng Việt Nam vẫn là một trong ba quốc gia có mức tăng trưởng kinh tế
dương, (+2,91%) năm 2020.
 Các giải pháp khác:
Một là, nâng cao nhận thức cho các cơ quan, đội ngũ cán bộ liên quan đến kinh tế
đối ngoại và cộng động DN về chiến lược kinh tế đối ngoại, đặc biệt là về những diễn biến
mới, thách thức mới và các cách thức ứng phó như: Bảo hộ với thương mại quốc tế, đứt gãy
chuối cung ứng, các biện pháp phòng vệ thương mại, chống bán phá giá...
Hai là, tiếp tục sửa đổi và ban hành các quy định pháp luật phục vụ cho hoạt động
kinh tế đối ngoại, phù hợp với các cam kết và thơng lệ quốc tế. Ngồi ra, Việt Nam cần có
chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế nhằm tăng cường hiệu quả và tính chủ động
trong phối hợp liên ngành để triển khai các cam kết quốc tế.
Ba là, củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu, tận dụng tối đa lợi thế từ các hiệp
định thương mại tự do đã có hiệu lực; đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, nhập khẩu, đặc biệt
là các thị trường nhỏ và thị trường ngách; đa dạng hóa cơ cấu sản phẩm xuất khẩu, nâng cao
năng lực cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu. Điều này càng phải được đẩy mạnh hơn trong bối
cảnh đại dịch COVID-19 đang tác động đến hầu hết các thị trường xuất khẩu lớn của Việt
Nam.
Bốn là, xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng để mở rộng kinh tế đối ngoại:
Các cơ sở hạ tầng cần cho hoạt động kinh tế đối ngoại là các cảng biển, đặc biệt là cảng trung

chuyển quốc tế, sân bay quốc tế, các đường cao tốc nối từ các trung tâm kinh tế đến sân bay
và cảng biển, hệ thống liên lạc, viễn thơng, các trung tâm logistics... Tiếp tục xây dựng, hồn
thiện kết cấu hạ tầng thương mại tại các khu vực cửa khẩu biên giới; cung cấp, cập nhật
thông tin về thị trường, cơ chế, chính sách biên mậu của nước láng giềng; hướng các DN
xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính để đảm bảo ổn định và phòng tránh
được những rủi ro hoạt động thương mại biên giới.
Năm là, đổi mới cơ cấu nhập khẩu theo hướng gia tăng nhập khẩu bằng phát minh
sáng chế, các công nghệ mới...; chú trọng nhập khẩu các dịch vụ cần cho phát triển kinh tế
đối ngoại, trước mắt như: Các dịch vụ tư vấn, các dịch vụ cung ứng vốn, các dịch vụ bảo
hiểm, các dịch vụ viễn thông; tăng tỷ trọng nhập khẩu hàng tiêu dùng, giảm bớt hàng rào bảo
hộ.
Sáu là, nghiên cứu rà soát các chính sách hỗ trợ cho DN tham gia vào hoạt động
kinh tế đối ngoại. Cụ thể, rà soát, điều chỉnh các chính sách về thu hút đầu tư nhằm thu hút
mạnh đầu tư trong nước và ngoài nước vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu. Đồng thời, rà
soát và ưu tiên tín dụng cho các DN có năng lực xuất khẩu. Về mặt vĩ mơ, chủ động điều
hành chính sách tiền tệ, quản lý ngoại hối linh hoạt nhằm ổn định kinh tế vĩ mơ, cân đối hài
hịa giữa yêu cầu xuất khẩu và nhu cầu nhập khẩu.

24


Bảy là, tăng cường hoạt động ngoại giao kinh tế để mở rộng thị trường xuất khẩu;
phát triển hệ thống cơ quan xúc tiến thương mại tại các khu vực thị trường lớn và tiềm năng;
Tiếp tục phát huy vai trò của các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngồi trong việc hỗ trợ
tìm kiếm thị trường, chính sách của quốc gia sở tại, cũng như tăng cường bảo vệ hàng hóa và
doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường khu vực và thế giới...
Tám là, tập trung đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho kinh tế đối ngoại. Trong
thời gian tới, tiếp tục cử các cán bộ đi học các lớp ngắn hạn ở nước ngoài chuyên về các quan
hệ kinh tế quốc tế, kỹ thuật đàm phán quốc tế và luật pháp quốc tế. Tăng cường đầu tư cho
các trường đại học đào tạo các chuyên ngành quốc tế, cho các viện nghiên cứu quốc tế, cho

các bộ phận nghiên cứu tìm hiểu thị trường, cho các trường dạy những nghề phục vụ cho
hoạt động kinh tế đối ngoại…
KẾT LUẬN
Trong thời kì đất nước ta đang trong giai đoạn phát triển khó khăn, việc xác định
rõ lúc này nhân dân đang cần gì là điều quan trọng nhất. Chúng ta cần một xã hội mà trong
đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ khơng phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp
lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng
xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta
cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn,
chứ không phải cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt cá bé" vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân
và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm
môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác,
chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và chúng ta cần
một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi
ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng những mong ước
tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của CNXH và cũng chính là mục tiêu, là con
đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định,
kiên trì theo đuổi.
Việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là việc bỏ qua sự xác lập vị trí thống trị của
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, đồng thời bỏ qua việc tước đoạt
ruộng đất và tư liệu sản xuất của người lao động, bỏ qua việc tạo dựng giai cấp thống trị, bóc
lột người lao động, và đương nhiên tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt
được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa. Từ Hội nghị Trung ương I Đảng Cộng sản Đơng Dương
(tháng 10-1930) đến Hội nghị Trung ương khóa VI Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 8-1990),
Thời kỳ quá độ luôn được xác định là: “Do được các nước xã hội chủ nghĩa giúp đỡ, nên bỏ
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”, tức là nửa trực tiếp. Đại hội II Đảng Lao động
Việt Nam (tháng 02-1951) nêu rõ: Thời kỳ quá độ ở Việt Nam có điểm xuất phát thấp hơn,
cho nên lâu dài, khó khăn hơn.” Từ Đại hội VII của Đảng (năm 1991) đến nay, đường lối
25



×