Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp thuộc tổng cục công nghiệp quốc phòng bộ quốc phòng giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.98 KB, 117 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ) có vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng trong
hệ thống tổ chức của Đảng, là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ
sở. Vì vậy, năng lực lãnh đạo (NLLĐ), sức chiến đấu (SCĐ) của TCCSĐ là
một nội dung cơ bản, là vấn đề có tính quy luật của cơng tác xây dựng đảng.
Nhận thức rõ vai trò của NLLĐ và SCĐ của Đảng trong thời kỳ đổi mới và
xây dựng đất nước. Vì vậy, khi tổ chức Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI
của Đảng (từ ngày 12 tháng 01 đến ngày 19 tháng 01 năm 2011) Đảng ta đã
chọn chủ đề của đại hội là “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Cương lĩnh của Đảng khẳng định :
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Và: để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng
phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên đổi mới, tự
chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo
đức và năng lực lãnh đạo... và mới đây, ngày 16 tháng 01 năm 2012 đồng chí
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 04- NQ/T.Ư
“Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” do Hội nghị lần thứ tư
Ban Chấp hành Trung ương Đảng thảo luận và thơng qua.
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến phức tạp, khó
lường; cách mạng nước ta có những thuận lợi, thời cơ mới đồng thời đứng
trước những khó khăn, thách thức lớn. Sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước đang đi vào chiều sâu; nhiệm
vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới đặt ra
yêu cầu ngày càng cao với cơng tác xây dựng đảng nói chung, xây dựng
TCCSĐ nói riêng.



2
NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ trong Đảng bộ Quân đội có ý nghĩa quyết
định trong việc xây dựng quân đội về chính trị, đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội. Các doanh nghiệp (DN)
thuộc Tổng cục Cơng nghiệp quốc phịng (CNQP) - Bộ Quốc phòng (BQP) là
thành viên của doanh nghiệp quốc phòng (DNQP), là một bộ phận của Quân
đội nhân dân Việt Nam, có nhiệm vụ sản xuất, sửa chữa, cải tiến, hiện đại hố
vũ khí, trang bị kỹ thuật phục vụ nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và
chiến đấu bảo vệ Tổ quốc của các lực lượng vũ trang; đồng thời nằm trong hệ
thống DN nhà nước, có nhiệm vụ tham gia sản xuất kinh tế, góp phần phát
huy vai trị chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế quốc
dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các DN được Nhà nước và Quân đội
giao quản lý những cơ sở vật chất, máy móc, trang thiết bị kỹ thuật, tiền vốn
rất lớn; địi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, cơng nhân viên phải có bản lĩnh chính
trị vững vàng, ý thức trách nhiệm cao, có trình độ quản lý, chun mơn kỹ
thuật giỏi để giữ gìn và phát triển được năng lực sản xuất quốc phịng, hồn
thành mọi nhiệm vụ phục vụ quốc phòng; đồng thời thực hiện sản xuất kinh
doanh (SXKD) có hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Với tư cách là một nguồn lực
để xây dựng tiềm lực quốc phịng, các DNQP ln là mục tiêu chống phá của
kẻ thù; từ việc tìm mọi cách nắm được khả năng tự sản xuất trang bị vũ khí,
kỹ thuật đến làm suy giảm năng lực sản xuất quốc phòng (SXQP) và chệch
hướng chức năng, nhiệm vụ của các quân đội. Từ đó, làm suy giảm khả năng
sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của các lực lượng vũ trang.
Những năm vừa qua, các DN thuộc Tổng cục CNQP - BQP thực hiện
chuyển đổi từ cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang cơ chế
hạch toán kinh doanh, và năm 2011 Thủ tướng Chính Phủ đã ký Quyết định
chuyển thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là DN quốc
phòng, an ninh; các TCCSĐ đã giữ vững vai trò lãnh đạo trong mọi hoạt động
của DN, đưa DN từng bước phát triển. Trong xu thế hội nhập kinh tế thế giới,



3
các DN thuộc Tổng cục CNQP - BQP phải tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý
SXKD, thực hiện những “luật chơi” chung trong hoạt động kinh tế, vừa phải
có năng lực cạnh tranh cao trong cơ chế thị trường để tồn tại và phát triển,
đồng thời phải bảo toàn và phát triển năng lực sản xuất quốc phòng.
Để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo toàn diện đối với DN, đảm bảo hoàn
thành nhiệm vụ phục vụ quân đội trong mọi tình hình, đồng thời phát triển
SXKD doanh, đóng góp vào sự nghiệp CNH, HĐH; các TCCSĐ trong các
DN thuộc Tổng cục CNQP phải có NLLĐ tồn diện và SCĐ cao, xây dựng
TCCSĐ trong sạch vững mạnh và DN vững mạnh toàn diện.
Lý luận và thực tiễn xây dựng, hoạt động của các DN đang địi hỏi phải
nghiên cứu tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao NLLĐ và SCĐ của
TCCSĐ trong các DN thuộc Tổng cục CNQP giai đoạn hiện nay. Đây là vấn đề
cơ bản, cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Do đó tác giả chọn đề tài “Năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp thuộc
Tổng cục Cơng nghiệp quốc phịng - Bộ Quốc phịng giai đoạn hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Do vị trí, vai trị quan trọng trong các TCCSĐ nên đã có nhiều nhà
khoa học và hoạt động thực tiễn qn tâm, đã có nhiều cơng trình khoa học
nghiên cứu ở các góc độ, phạm vi khác nhau về TCCSĐ cụ thể như sau:
* Sách và đề tài khoa học:
- Lê Văn Lý (chủ biên) (2002) Tư tưởng Hồ Chí Minh về Vai trị lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền
- Nguyễn Quý Hùng (2008), Những vấn đề cơ bản về tổ chức và hoạt
động của chi bộ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Đức Hà (2010), Một số vấn đề xây dựng tổ chức cơ sở đảng
hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Phú Trọng, Tô Huy Rứa, Trần Khắc Việt (đồng chủ biên)
(2008), Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ

mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội


4
- Đỗ Ngọc Ninh, Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các
đảng bộ Phường ở Thủ đơ Hà Nội hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
* Các đề tài, luận văn, luận án
- Tổng cục Chính trị (1999), Những vấn đề lý luận và thực tiễn xây
dựng quân đội về chính trị trong giai đoạn cách mạng mới, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
- Tổng cục Chính trị (2000), Xây dựng bản lĩnh chính trị, phẩm chất
cách mạng cho cán bộ, công nhân viên, chiến sĩ quân đội làm kinh tế, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
- Nguyễn Trọng Hân (2000), Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng
trong các trường sĩ quan quân đội đáp ứng yêu cầu bậc đại học, Luận văn thạc
sĩ, chuyên ngành xây dựng đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Việt Dũng (2000), Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của đảng bộ xã vùng đồng bào Khơ-Me ở tỉnh Kiên Giang hiện nay, Luận
văn thạc sĩ, chuyên ngành xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh.
- Nguyễn Văn Nghĩa (2000), Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của các đảng uỷ Trung đồn Tên lửa phịng không trong giai đoạn hiện
nay, Luận văn thạc sĩ xây dựng Đảng, Học viện Chính trị Quân sự.
- Cao Xuân Thưởng (2001), Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở Đảng ở các Trung đồn Khơng qn chiến đấu hiện
nay, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị Quân sự.
- Dương Trung Ý (2004), Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của các đảng bộ xã ở huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn
hiện nay, Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành xây dựng Đảng, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.

- Nguyễn Đức Ái (2002), Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng nơng thơn vùng cao phía Bắc trong thời kỳ đẩy mạnh công


5
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành xây dựng
Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Bùi Hữu Diện (2003), Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng nơng thơn vùng có đồng bào Cơng giáo ở tỉnh Nam Định
trong giai đoạn hiện nay - thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ, chuyên
ngành xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Minh Tuấn (2003), Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở Đảng trong Doanh nghiệp Nhà nước ở Hà Nội, Hải
Phòng, Quảng Ninh thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố, Luận án
tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Đinh Thị Hương Liên (2005), Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của các đảng bộ Phường ở quân Bình Tân, Thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay - thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành xây
dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Sẳn Tị Phết Đng Sít (2009), Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở đảng thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu Quân đội nhân
dân Lào trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành xây dựng
Đảng, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
* Bài Báo khoa học
- Dương Xuân Ngọc: “Đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở
Đảng đối với Doanh nghiệp Nhà nước”, Tạp chí Cộng sản, số 15, năm 2003.
- Thái Sơn: “Đổi mới, nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng
trong các Doanh nghiệp Nhà nước”, Tạp chí Cộng sản, số 14 năm 2004.
- Pháp lệnh Cơng nghiệp Quốc phịng; Nghị quyết đại hội Đảng bộ Tổng
cục Cơng nghiệp quốc phịng lần thứ VI (2000-2005), lần thứ VII (2005 - 2010).

Đề tài, bài viết trên đã đề cập: Những nghiên cứu về NLLĐ cà SCĐ
của các loại hình TCCSĐ hết sức phong phú, sâu sắc, tiếp cận ở nhiều góc độ,
địa bàn khác nhau; những điều đó có những đóng góp nhất định về cả lý luận


6
và thực tiễn. Có những cơng trình bàn về NLLĐ và SCĐ của Đảng ở cấp vĩ
mô (sách của các tác giả Lê Văn Lý, Nguyến Phú Trọng, Tô Huy Rứa, Trần
Khắc Việt...). Bên cạnh đó cũng có nhiều đề tài, bài viết đề cập đến vấn đề
NLLĐ và SCĐ của một loại hình TCCSĐ hay ở một địa phương, khu vực cụ
thể... Đặc biệt, đã có nhiều đề tài, luận văn thạc sĩ nghiên cứu trực tiếp đến
NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ trong quân đội ở Việt Nam và Cộng hòa Dân Chủ
nhân Dân Lào (luận văn của Nguyễn Văn Nghĩa, Học viện Chính trị - BQP và
của Sẳn Tị Phiết Đng Sít, Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh)... Nhìn chung, đây là những cơng trình khoa học có giá trị giúp tác giả
kế thừa có chọn lọc những vấn đề lý luận có liên quan để hồn thiện luận văn.
Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào nghiên cứu cụ thể, hệ thống về vấn đề
NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ trong các DN thuộc Tổng cục CNQP - BQP giai
đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về NLLĐ và
SCĐ của TCCSĐ trong các DN thuộc Tổng cục CNQP - BQP, luận văn đề
xuất những giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục nâng cao NLLĐ và SCĐ của
TCCSĐ trong các DN thuộc Tổng cục CNQP - BQP giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về NLLĐ và SCĐ của
TCCSĐ trong các DN thuộc Tổng cục CNQP - BQP.
- Khảo sát, đánh giá đúng thực trạng NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ trong
các DN thuộc Tổng cục CNQP - BQP; nêu nguyên nhân của thực trạng và đúc

rút những kinh nghiệm.
- Nêu phương hướng và đề xuất những giải pháp chủ yếu nâng cao
NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ trong các DN thuộc Tổng cục CNQP - BQP đến
năm 2020.


7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ
trong các DN thuộc Tổng cục CNQP - BQP giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ trong
các DN thuộc Tổng cục CNQP - BQP, trọng tâm là các DN có nhiệm vụ sản
xuất, sửa chữa vũ khí trang bị kỹ thuật (thường được gọi là doanh nghiệp
quốc phòng, an ninh để phân biệt với các DN qn đội khác khơng có nhiệm
vụ này). Các số liệu khảo sát thực tế chủ yếu trong khoảng thời gian từ năm
2007 đến 2012. Đối tượng điều tra khảo sát là các đảng bộ cấp trên trực tiếp
cơ sở, đảng bộ cơ sở, chi bộ cơ sở, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công nhân viên
quốc phòng trong các DN trực thuộc Tổng cục CNQP - BQP. Những giải pháp
nêu trong luận văn có giá trị đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của
luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, Điều lệ, Văn kiện, Nghị quyết của Đảng
Cộng sản Việt Nam, của Quân uỷ Trung ương (QUTW) và các chỉ thị, hướng
dẫn của Tổng cục Chính trị về xây dựng TCCSĐ nói chung và xây dựng
TCCSĐ trong Đảng bộ Quân đội nói riêng.
Cơ sở thực tiễn của luận văn là thực tiễn xây dựng và hoạt động của các

TCCSĐ thuộc Đảng bộ Quân đội nói chung và Đảng bộ Tổng cục CNQP nói
riêng; các tài liệu tổng kết báo cáo của các cơ quan chức năng thuộc Tổng cục
CNQP; số liệu, tư liệu của các cơng trình nghiên cứu khoa học có liên quan đã
được nghiệm thu.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa


8
Mác - Lênin, đồng thời sử dụng các phương pháp cụ thể như: Lơgic - lịch sử,
phương pháp phân tích - tổng hợp, điều tra, khảo sát, đặc biệt chú trọng
phương pháp tổng kết thực tiễn.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận và
thực tiễn công tác xây dựng TCCSĐ trong các DN thuộc Tổng cục CNQP BQP; cung cấp cơ sở khoa học cho Đảng ủy, Thủ trưởng Tổng cục CNQP đề ra
các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ
trong các đơn vị trực thuộc, thúc đẩy sự phát triển vững chắc của các DN.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu cho các
cơ quan quản lý của Tổng cục CNQP, trong giảng dạy ở các Học viện, nhà
trường về môn học xây dựng đảng và công tác đảng, cơng tác chính trị (CTĐ,
CTCT) ở các DN.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


9
Chương 1
NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU

CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
THUỘC TỔNG CỤC CƠNG NGHIỆP QUỐC PHỊNG - BỘ
QUỐC PHỊNG NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. CÁC DOANH NGHIỆP VÀ TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP THUỘC TỔNG CỤC CƠNG NGHIỆP QUỐC PHỊNG - BỘ
QUỐC PHỊNG

1.1.1. Các doanh nghiệp thuộc Tổng cục Cơng nghiệp quốc phịng Bộ Quốc phịng
1.1.1.1. Chức năng, nhiệm vụ của các doanh
nghiệp thuộc Tổng cục Cơng nghiệp quốc phịng - Bộ
Quốc phịng
Trước khi chuyển đổi các DN (cơng ty) quốc phịng - an ninh trực
thuộc Tổng cục CNQP sang hình thức cơng ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên các doanh nghiệp được tổ chức, quản lý và hoạt động trong khuôn khổ
các quy định của Luật doanh nghiệp Nhà nước năm 2003, các nghị định
hướng dẫn thực hiện Luật, các quy định của Bộ Quốc phòng. Từ ngày
1/7/2010, theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Doanh nghiệp
Nhà nước 2003 hết hiệu lực, các công ty Nhà nước, các công ty (doanh
nghiệp) phục vụ quốc phòng - an ninh được tổ chức quản lý và hoạt động theo
quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 dưới hình thức là cơng ty trách nhiệm
hữu hạn và công ty cổ phần.
Thực hiện Chỉ thị số 75/2008/CT-BQP, ngày 29-5-2008 của Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng "Về việc triển khai thực hiện Quyết định 339/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án sắp xếp, đổi mới DN 100% vốn
nhà nước thuộc BQP giai đoạn 2008 - 2010"; Hướng dẫn số 825/HD-CT ngày
09- 7- 2008 về việc hướng dẫn hoạt động CTĐ, CTCT trong sắp xếp, đổi mới


10
DN quân đội giai đoạn 2008- 2010". Cùng với đó, Tổng cục CNQP đã ban

hành Chỉ thị số 3260/CT-CNQP, ngày 29-7-2008 "Về việc chuyển đổi các DN
trực thuộc Tổng cục CNQP theo Quyết định số 339/QĐ-TTg, ngày 31-3-2008
của Thủ tướng Chính phủ". Đến trước thời điểm 01/7/2010, 22 DN quốc
phịng - an ninh theo Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 31 tháng 3 năm 2008
của Thủ tướng Chính phủ trực thuộc Tổng cục CNQP được chuyển thành
công ty trách nhiệm hữu hạn trách nhiệm hữu hạn một thành viên và công ty
mẹ - cơng ty con.
Về hình thức tổ chức sau khi chuyển đổi: Các DN quốc phòng - an ninh
trong Tổng cục CNQP thuộc sở hữu nhà nước do BQP làm chủ sở hữu, hoạt
động theo hình thức cơng ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Công ty được
thành lập và hoạt động theo các quy định của pháp luật và BQP. Cơng ty có tư
cách pháp nhân, có con dấu, có tài khoản bằng tiền Việt Nam và ngoại tệ.
Về cơ cấu tổ chức quản lý của công ty: Tồn Tổng cục CNQP hiện nay
có 22 DN trực thuộc là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên - cơng ty
mẹ cơng ty con, trong đó có 19 Cơng ty có bộ máy tổ chức quản lý gồm: Chủ
tịch kiêm giám đốc cơng ty; kiểm sốt viên; các phó giám đốc (trong đó có
một chức danh phó giám đốc do chính ủy cơng ty kiêm nhiệm); kế tốn
trưởng; bộ máy giúp việc (các phịng, ban chun mơn nghiệp vụ); các đơn vị
thành viên. Có 01 Tổng cơng ty và 2 cơng ty tổ chức theo hình thức cơng ty
mẹ - cơng ty con, có bộ máy tổ chức quản lý gồm: Hội đồng thành viên - chủ
tịch hội đồng thành viên kiêm tổng giám đốc, giám đốc; kiểm sốt viên; các
phó tổng giám đốc (giám đốc), trong đó có một chức danh phó tổng giám đốc
(giám đốc) do chính ủy tổng cơng ty, cơng ty kiêm nhiệm); kế tốn trưởng; bộ
máy giúp việc (các phịng, ban chun môn nghiệp vụ); các công ty con trực
thuộc và các đơn vị thành viên.
* Chức năng doanh nghiệp quốc phòng, an ninh: có trách nhiệm bảo
tồn và phát triển vốn chủ sở hữu đầu tư tại cơng ty; giữ gìn và phát triển đội
ngũ cán bộ, công nhân lao động lành nghề và hoàn thành các nhiệm vụ về



11
quốc phòng, an ninh do BQP, Tổng cục CNQP giao.
* Nhiệm vụ quốc phòng, an ninh: Sản xuất, sửa chữa, cải tiến, đồng bộ
các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật có chất lượng cao, đảm bảo độ tin cậy, an
toàn trong huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu; thực hiện các nhiệm vụ quốc
phòng theo chỉ lệnh của BQP và Tổng cục CNQP giao.
- Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh: Cùng với nhiệm vụ đẩy mạnh sản xuất
hàng quốc phòng, kết hợp với sản xuất hàng kinh tế, lấy sản xuất quốc phịng
là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, sản xuất kinh tế làm đòn bẩy để phát triển sản
xuất chung của các doanh nghiệp. Để nâng cao hiệu quả cơng tác quản lý khai
thác có hiệu quả trang bị máy móc hiện có, đồng thời tạo nguồn lực cho phát
triển lâu dài cho nhiệm vụ phát triển CNQP.
Nhiệm vụ của DN địi hỏi phải tính tốn đầu tư theo hướng nào, mua
sắm trang thiết bị ra sao, bố trí tổ chức đội hình sản xuất như thế nào…để vừa
có thể đáp ứng đầy đủ, kịp thời các yêu cầu của quốc phịng, vừa có thể sản
xuất tốt các mặt hàng kinh tế có sức cạnh tranh trên thị trường, đáp ứng yêu
cầu hội nhập mà không gây ra sự xáo trộn lớn trong quá trình tổ chức sản xuất
và thực hiện các quy trình cơng nghệ.
1.1.1.2. Đặc điểm của các doanh nghiệp thuộc Tổng cục Cơng
nghiệp quốc phịng - Bộ Quốc phòng
Tiền thân của Tổng cục CNQP là ngành Quân giới, được Chủ tịch Hồ
Chí Minh ký Sắc lệnh thành lập ngày 15/ 9/ 1945. Trải qua 73 năm xây dựng
và trưởng thành, với nhiều lần thay đổi tên gọi tổ chức, chức năng nhiệm vụ,
đến nay Tổng cục CNQP - BQP gồm nhiều loại hình đơn vị cơ sở, nhưng chủ
yếu là các DN cơng ích, với nhiệm vụ chính là sản xuất, sửa chữa, cải tiến,
hiện đại hố vũ khí, trang bị kỹ thuật phục vụ cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
của các lực lượng vũ trang nhân dân.
Hầu hết các DN thuộc Tổng cục CNQP về tổ chức được xây dựng
tương đương Trung đoàn; một số DN lớn, có nhiều xí nghiệp thành viên được



12
xác định tương đương Sư đoàn. Theo Quy định 49-QĐ/TW ngày 21 tháng 11
năm 2011 của Ban Chấp hành Trung ương (khoá XI) về tổ chức Đảng trong
Quân đội nhân dân Việt Nam: “TCCSĐ ở các DN trong quân đội được thành
lập ở cơng ty, nhà máy, xí nghiệp và tương đương” với nhiệm vụ là: Lãnh đạo
quán triệt và thực hiện quan điểm của Đảng về khoa học - công nghệ và môi
trường, nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu, bám sát thực tiễn, phục vụ
thiết thực cho nhiệm vụ xây dựng, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu
của quân đội vì sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Chấp hành nghiêm kỷ luật
cơng tác, giữ gìn bí mật qn sự, bí mật quốc gia, hồn thành nhiệm vụ quốc
phòng và kinh tế đạt năng suất chất lượng, hiệu quả kinh tế-xã hội cao, đúng
chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định của Quân
đội; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của người lao động. Trong Tổng cục
CNQP, theo cấp độ tổ chức DN, tổ chức đảng có các loại hình tương ứng:
Đảng bộ cấp trên trực tiếp cơ sở, đảng bộ cơ sở, Đảng bộ bộ phận và các chi
bộ. Đảng bộ cấp trên trực tiếp cơ sở được tổ chức ở các DN lớn, có nhiều xí
nghiệp thành viên. Đảng bộ cơ sở, Đảng bộ bộ phận được tổ chức ở các DN
độc lập, các xí nghiệp thành viên của các DN lớn. Chi bộ được tổ chức ở các
phòng, ban, phân xưởng sản xuất.
Để cụ thể hoá quy định của Bộ Chính trị; Ban Bí thư, Ban Chấp hành
Trung ương (khoá IX) đã ban hành Quy định 114/QĐ-TW ngày 08 tháng 8
năm 2008, về chức năng nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở ở DN Quân đội:
“Đảng bộ, chi bộ cơ sở ở doanh nghiệp trong Quân đội là hạt nhân chính trị,
lãnh đạo các mặt cơng tác, mọi hoạt động của doanh nghiệp; xây dựng tổ
chức đảng trong sạch vững mạnh gắn với xây dựng doanh nghiệp vững mạnh
toàn diện, hoàn thành tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh ”. Nhiệm vụ của các
đảng bộ, chi bộ cơ sở ở các DN là: “lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất
kinh doanh, nâng cao được hiệu quả lãnh đạo cơng tác chính trị, tư tưởng;
thực hiện nghiêm các quy định, quy trình về cơng tác tổ chức và cán bộ; lãnh



13
đạo xây dựng đơn vị chính quy, cơng tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, tài
chính; lãnh đạo cơng tác quần chúng và hội đồng quân nhân; xây dựng đảng
bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh”.
Với các DN thuộc Tổng cục CNQP, hầu hết các dây chuyền sản xuất
được đầu tư theo công nghệ để sản xuất trang bị vũ khí, nên việc chuyển đổi
để sản xuất các sản phẩm kinh tế rất khó khăn, hiệu quả kinh tế khơng cao.
Hơn nữa, việc chuyển đổi để sản xuất các sản phẩm kinh tế dễ làm giảm năng
lực sản xuất của các dây chuyền công nghệ SXKD. Mặc dù tỷ trọng đặt hàng
quốc phòng chiếm phần rất nhỏ, các DN phải bươn trải trong thương trường
để tìm các mặt hàng kinh tế, nhưng nhiệm vụ chính trị trọng tâm hàng đầu của
các TCCSĐ là vẫn phải lãnh đạo đảm bảo sản xuất quốc phòng đúng tiến độ,
thời gian, chất lượng tốt; giữ gìn và phát triển năng lực sản xuất quốc phòng,
sẵn sàng chuyển trạng thái sản xuất, đáp ứng yêu cầu của thời chiến. Hoạt
động của DN bị chi phối đồng thời của cả quy luật quân sự lẫn quy luật kinh
tế. Trong khi địa bàn đóng quân hầu hết ở vùng sâu, vùng xa nên công tác
lãnh đạo không chỉ dừng lại ở các mặt hoạt động trong phạm vi DN mà còn
phải bao quát cả những lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội như: đời sống, việc
làm, trường học, nhà trẻ, bệnh xá và các nhu cầu khác của khu dân cư “làng
quân nhân” bên cạnh doanh trại đơn vị. Trước đây, hoạt động của các DN
Tổng cục CNQP hồn tồn theo cơ chế kế hoạch hố tập trung, bao cấp; toàn
bộ nhiệm vụ sản xuất của DN được cấp trên giao chỉ tiêu kế hoạch về chủng
loại, số lượng mặt hàng, cung cấp vật tư, tiêu thụ sản phẩm, chi trả lương cho
người lao động từ ngân sách Nhà nước. DN hầu như không SXKD các mặt
hàng kinh tế tiêu dùng cho thị trường, mà chỉ có nhiệm vụ tổ chức, điều hành
sản xuất các mặt hàng quốc phòng được giao. Mọi hoạt động của DN đều
theo chế độ hành chính quân sự, nên sự lãnh đạo của các TCCSĐ đã góp phần
rất quan trọng trong việc xây dựng chính trị, tư tưởng, tổ chức cũng như việc

chấp hành mệnh lệnh, thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ,


14
công nhân viên.
Do sức ép về việc làm, đời sống nên có ý kiến cho rằng: cứ có đủ việc
làm, thu nhập của người lao động được nâng lên là giải quyết được mọi vấn
đề trong DN; nên nhận thức về vai trò NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ trong các
DN bị sai lệch, coi hoạt động NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ chỉ tiêu tốn thời
gian cơng sức, khơng có tác dụng trong lãnh đạo nhiệm vụ SXKD. Thực hiện
Quy định 72/QĐ-TW ngày 19/ 7/ 1993 của Ban Bí thư Ban Chấp hành Trung
ương khoá VII và Quy định 71 ngày 22/ 7/ 1993 của Đảng ủy Quân sự Trung
ương (Quân uỷ Trung ương), chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của các TCCSĐ
trong các DN quốc phịng được khơi phục lại, hệ thống cơ quan chính trị được
xây dựng thống nhất với quy định trong toàn quân, TCCSĐ đã phát huy vai
trị trong việc lãnh đạo tồn diện đối với DN, thực sự là hạt nhân lãnh đạo ở
cơ sở. Thể hiện quan trọng nhất là đã góp phần giữ vững sự ổn định chính trị,
tư tưởng tổ chức, làm cho DN phát triển đúng hướng, bảo toàn và phát triển
năng lực sản xuất quốc phịng, hồn thành được nhiệm vụ chính trị, thực hiện
nghiêm pháp luật của Nhà nước, quy định của Quân đội, hạn chế được những
tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường vào các hoạt động của DN.
Thực hiện Chỉ thị số 75/2008/CT-BQP, ngày 29-5-2008 của Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng "Về việc triển khai thực hiện Quyết định 339/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án sắp xếp, đổi mới DN 100% vốn
nhà nước thuộc Bộ Quốc phòng giai đoạn 2008 - 2010"; Hướng dẫn số
825/HD-CT ngày 09- 7- 2008 về việc hướng dẫn hoạt động CTĐ, CTCT
trong sắp xếp, đổi mới DN quân đội giai đoạn 2008- 2010". Cùng với đó,
Tổng cục CNQP đã ban hành Chỉ thị số 3260/CT-CNQP, ngày 29-7-2008 "Về
việc chuyển đổi các DN trực thuộc Tổng cục CNQP theo Quyết định số
339/QĐ-TTg, ngày 31-3-2008 của Thủ tướng Chính phủ". Đến trước thời

điểm 01/7/2010, 22 DN quốc phòng, an ninh theo Quyết định số 339/QĐ-TTg
ngày 31 tháng 3 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ trực thuộc Tổng cục
CNQP được chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn trách nhiệm hữu hạn


15
một thành viên và công ty mẹ - công ty con (doanh nghiệp).
Về cơ cấu tổ chức quản lý của doanh nghiệp: Tồn Tổng cục CNQP
hiện nay có 22 DN trực thuộc là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cơng ty mẹ cơng ty con, trong đó có 19 Cơng ty có bộ máy tổ chức quản lý
gồm: Chủ tịch kiêm giám đốc cơng ty; kiểm sốt viên; các phó giám đốc
(trong đó có một chức danh phó giám đốc do chính uỷ cơng ty kiêm nhiệm);
kế tốn trưởng; bộ máy giúp việc (các phịng, ban chun mơn nghiệp vụ);
các đơn vị thành viên. Có 01 Tổng cơng ty và 2 cơng ty tổ chức theo hình
thức cơng ty mẹ - cơng ty con, có bộ máy tổ chức quản lý gồm: Hội đồng
thành viên - chủ tịch hội đồng thành viên kiêm tổng giám đốc, giám đốc; kiểm
sốt viên; các phó tổng giám đốc (giám đốc), trong đó có một chức danh phó
tổng giám đốc (giám đốc) do chính uỷ tổng cơng ty, cơng ty kiêm nhiệm); kế
tốn trưởng; bộ máy giúp việc (các phịng, ban chuyên môn nghiệp vụ); các
công ty con trực thuộc và các đơn vị thành viên.
1.1.2. Tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp thuộc Tổng cục
Cơng nghiệp quốc phịng - Bộ Quốc phòng - chức năng, nhiệm vụ, vai trò
và những đặc điểm
1.1.2.1. Chức năng, nhiệm vụ, vai trò của tổ chức cơ
sở đảng trong các doanh nghiệp thuộc Tổng cục Cơng
nghiệp quốc phịng - Bộ Quốc phịng
* Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp
thuộc Tổng cục Cơng nghiệp quốc phịng.
- Chức năng của TCCSĐ trong các DN quốc phòng thuộc Tổng cục
CNQP: Đảng bộ, chi bộ cơ sở trong các DN thuộc Tổng cục CNQP là hạt
nhân chính trị, lãnh đạo các mặt công tác mọi hoạt động của DN; xây dựng tổ

chức đảng trong sạch, vững mạnh gắn với xây dựng DN vững mạnh toàn
diện; hoàn thành tốt nhiệm vụ SXKD.
- Nhiệm vụ của TCCSĐ trong các DN quốc phòng thuộc Tổng cục


16
CNQP - BQP:
Một là: Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị
+ Thường xuyên giáo dục, quán triệt để cán bộ, công nhân viên, nắm
vững nhiệm vụ SXKD của DN.
+ Lãnh đạo quán triệt và thực hiện quan điểm của Đảng về CNH, HĐH
đất nước, hoàn thành nhiệm vụ, sản xuất quốc phòng và kinh tế đạt năng xuất
chất lượng, hiệu quả kinh tế-xã hội cao, đúng đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, quy định của Quân đội.
Hai là: Lãnh đạo công tác tư tưởng
+ Thường xuyên giáo đục, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng, đạo
đức, tác phong Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên và quần chúng; phát huy
truyền thống yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, truyền thống của Đảng, Quân đội
và đơn vị; thực hiện nghiêm chương trình học tập chính trị theo quy định cho các
đối tượng trong đơn vị; xây dựng tinh thần làm chủ, tình đồn kết, hợp tác và
giúp đỡ lẫn nhau trong cán bộ, chiến sĩ; kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng
của cán bộ, đảng viên, quần chúng để giải quyết và báo cáo lên cấp trên.
+ Kịp thời phổ biến, quán triệt để cán bộ, đảng viên và quần chúng nắm
vững và chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước và các chủ trương, nhiệm vụ của Quân đội, doanh nghiệp; thường xuyên
bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, kiến thức và năng lực cơng tác cho cán
bộ, đảng viên và quần chúng.
+ Lãnh đạo cán bộ, đảng viên và quần chúng đấu tranh chống các quan
điểm sai trái, tư tưởng cơ hội, thực dụng, cục bộ bản vị, những hành vi nói, viết
và làm trái đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; những biểu

hiện mất dân chủ, gia trưởng, độc đoán, tác phong quan liêu, thiếu tinh thần trách
nhiệm, tinh thần hợp tác và ý thức tổ chức kỷ luật, phòng chống sự suy thoái về
phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, quần chúng.
Ba là: Lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ


17
+ Cấp uỷ lãnh đạo xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch công tác
cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ
năng lực chun mơn đáp ứng u cầu nhiệm vụ của DN. Kết hợp xây dựng
đội ngũ cán bộ với xây dựng đội ngũ đảng viên.
+ Cấp uỷ xây dựng và thực hiện đúng quy chế về công tác cán bộ, chấp
hành nghiêm nguyên tắc tập thể cấp uỷ thống nhất lãnh đạo và quyết định mọi
mặt công tác cán bộ trong DN theo phân cấp.
+ Lãnh đạo xây dựng hệ thống cán bộ chỉ huy vững mạnh; thực hiện
đúng quy định của cấp trên về tổ chức, biên chế DN.
+ Những DN có tổ chức hội đồng quản trị, cấp uỷ và hội đồng quản trị
phối hợp để thống nhất giải quyết các vấn đề về công tác tổ chức, cán bộ
thuộc thẩm quyền. Trường hợp giữa cấp uỷ và hội đồng quản trị chưa nhất trí
thì báo cáo lên cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Bốn là: Lãnh đạo công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, tài chính
+ Lãnh đạo thực hiện đúng các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước, các quy định của Quân đội về bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần đối
với cán bộ, công nhân viên trong DN và chính sách hậu phương quân đội.
+ Lãnh đạo chấp hành nghiêm quy định của Nhà nước và Quân đội về
quản lý, sử dụng trang bị, cơ sở vật chất hậu cần, kỹ thuật, tài chính; khơng để
xảy ra tham nhũng, lãng phí, mất mát, hư hỏng.
Năm là: Lãnh đạo các tổ chức quần chúng và hội đồng quân nhân
+ Lãnh đạo xây dựng các tổ chức quần chúng và hội đồng quân nhân
vững mạnh, hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ, theo quy định của Trung

ương Đảng và điều lệ của mỗi tổ chức.
+ Lãnh đạo xây dựng và thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Sáu là: Xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững
+ Đề ra chủ trương, nhiệm vụ và biện pháp xây dựng đảng bộ, chi bộ
trong sạch, vững mạnh; nâng cao NLLĐ và SCĐ của tổ chức đảng và đội ngũ


18
đảng viên, nhất là trong việc phát hiện và đấu tranh chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực trong đơn vị. Thực hiện đúng
nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ,
chế độ tự phê bình và phê bình; thực hiện có nền nếp và nâng cao chất lượng
sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ, bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục
và tính chiến đấu.
+ Giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên nêu cao vai trò tiền phong
gương mẫu, thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao; xây dựng kế hoạch và tạo
điều kiện cho đảng viên thực hiện nhiệm vụ học tập, không ngừng nâng cao
trình độ về mọi mặt.
+ Cấp uỷ xây dựng kế hoạch, biện pháp quản lý đảng viên, phân cơng
nhiệm vụ và tạo điều kiện cho đảng viên hồn thành nhiệm vụ được giao;
thực hiện tốt việc giới thiệu đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối
liên hệ với chi uỷ, đảng uỷ cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân
ở nơi cư trú. Làm tốt công tác động viên, khen thưởng, kỷ luật đảng viên; biểu
dương, khen thưởng kịp thời những cán bộ, đảng viên có thành tích xuất sắc;
xử lý nghiêm, kịp thời những cán bộ, đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, pháp
luật của Nhà nước.
+ Làm tốt công tác tạo nguồn và phát triển đảng viên, bảo đảm về tiêu
chuẩn và quy trình chú trọng đối tượng là đồn viên thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh và những quần chúng ưu tú giỏi chuyên môn nghiệp vụ.
+ Xây dựng cấp uỷ có đủ phẩm chất, năng lực, hoạt động có hiệu quả,

được đảng viên, quần chúng tín nhiệm và là trung tâm đoàn kết, thống nhất
trong đảng bộ, chi bộ và đơn vị. Kết hợp chặt chẽ xây dựng cấp uỷ với xây
dựng đơi ngũ cán bộ chủ trì.
+ Cấp uỷ thường xuyên kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên chấp hành
Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị của Đảng chính sách, pháp luật của Nhà nước và
quy định về những điều đảng viên không được làm. Định kỳ hằng năm, cấp


19
uỷ tổ chức để quần chúng tham gia góp ý về sự lãnh đạo của tổ chức đảng và
vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên.
* Vai trò của tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp thuộc Tổng
cục Cơng nghiệp quốc phịng - Bộ Quốc phòng.
Điều 21 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (Đại hội XI) đã xác định: “Tổ
chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân
chính trị ở cơ sở”. TCCSĐ trong DN quốc phòng là nơi thực hiện sự lãnh đạo
tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội từ cơ sở. Với những
đặc điểm về tổ chức, tính chất nhiệm vụ và hoạt động của DN quốc phịng, các
TCCSĐ có NLLĐ và SCĐ cao mới nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng,
Nhà nước, tình hình chính trị-kinh tế-xã hội của đất nước và thế giới, bồi dưỡng
bản chất giai cấp công nhân và xây dựng phẩm chất cách mạng, bản lĩnh chính
trị cho đội ngũ cán bộ, công nhân viên, phát huy tiềm năng của các tổ chức, mỗi
thành viên trong DN, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ được giao. Và như vậy
TCCSĐ mới thực sự trở thành hạt nhân lãnh đạo chính trị trong DN.
Trước sự tác động gay gắt của cơ chế thị trường, việc giữ gìn và phát
triển năng lực sản xuất quốc phịng, giữ vững định hướng nhiệm vụ chính trị của
DN quốc phòng, giải quyết mâu thuẫn giữa lợi ích kinh tế với thực hiện nhiệm
vụ sản xuất quốc phòng, đòi hỏi TCCSĐ ở các DN quốc phòng phải có những
dự báo, nắm bắt tình hình, nhạy bén với những vấn đề mới; đề ra được nghị
quyết lãnh đạo đúng đắn, phù hợp, xây dựng chiến lược SXKD, những chủ

trương, biện pháp tổ chức thực hiện thắng lợi nghị quyết, giữ vững định hướng
nhiệm vụ chính trị của một DN quốc phịng. Có NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ mới
giải quyết tốt được mối quan hệ giữa cấp ủy và người giám đốc, phát huy trách
nhiệm cá nhân, tính năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm của giám đốc và
đội ngũ cán bộ, đảng viên đảm bảo cho hoạt động SXKD của DN đúng hướng,
có hiệu quả, chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, các quy định của Quân đội.
Có NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ mới xây dựng được bộ máy tổ chức chỉ


20
huy hợp lý, có hiệu lực, xây dựng được các quy chế làm việc, phân định rõ
chức năng lãnh đạo và chức năng điều hành SXKD, thực hiện được chức năng
kiểm tra toàn diện đối với mọi hoạt động của mọi tổ chức, cá nhân trong DN
trong việc thực hiện nghị quyết của tổ chức đảng các cấp.
Trong DN quốc phòng, các tổ chức quần chúng vừa là lực lượng chủ
yếu để thực hiện nhiệm vụ chính trị của DN, vừa là lực lượng nòng cốt để xây
dựng tổ chức đảng. Lãnh đạo, xây dựng các tổ chức quần chúng vững mạnh,
hoạt động đúng chức năng nhiệm vụ, mở rộng dân chủ ở DN Quân đội, vừa là
trách nhiệm, vừa thể hiện vai trò “người nhạc trưởng” của TCCSĐ trong DN.
NLLĐ và SCĐ càng cao thì TCCSĐ càng giữ vững được vai trị lãnh
đạo của mình, là điều kiện để củng cố sự đoàn kết thống nhất, giữ nghiêm nề
nếp, nguyên tắc tổ chức sinh hoạt, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên. NLLĐ
và SCĐ của TCCSĐ chính là yếu tố quyết định để xây dựng TCCSĐ trong
sạch vững mạnh, xây dựng DN vững mạnh tồn diện. Hay nói cách khác,
NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ ở các DN quốc phịng góp phần nâng cao uy tín
và sức mạnh lãnh đạo của tổ chức đảng, quyết định sự phát triển đúng định
hướng, xây dựng đơn vị vững mạnh, luôn luôn hồn thành mọi nhiệm vụ
được giao và điều đó có ý nghĩa quyết định sự tồn tại hay không tồn tại trên
thực tế đối với mỗi DN quốc phòng.
1.1.2.2. Đặc điểm tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp thuộc

Tổng cục Cơng nghiệp quốc phịng - Bộ Quốc phịng
Trong Điều lệ (Điều 5) tổ chức và hoạt động của các công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên là DN quốc phòng, an ninh thuộc Tổng cục
CNQP quy định:
TCCSĐ trong các DN thuộc Tổng cục CNQP được tổ chức và hoạt động
theo Hiến pháp, pháp luật và Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Quy định của
Bộ Chính trị “Về tổ chức sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội nhân dân Việt
Nam”, Điều lệ CTĐ, CTCT và hướng dẫn của Tổng cục Chính trị về hoạt động


21
CTĐ, CTCT trong công ty công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (hoặc
công ty mẹ-công ty con) 100% vốn nhà nước do BQP làm chủ sở hữu.
Tổ chức đảng trong các DN thuộc Tổng cục CNQP tồn tại dưới nhiều
hình thức tổ chức: Tổ chức đảng cấp trên trực tiếp cơ sở là 12, đảng bộ cơ sở
là 42, Đảng bộ bộ phận là 8, chi bộ cơ sở là 127, chi bộ trực thuộc Đảng uỷ cơ
sở là 384 tổ chức đảng. Để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ
chính trị, phù hợp với tình hình thực tiễn, các tổ chức đảng ở các DN thường
xuyên được củng cố, kiện toàn, nâng cấp. Cùng với việc củng cố xây dựng tổ
chức đảng thì đội ngũ cấp uỷ cũng ngày càng được nâng lên về chất lượng,
đảm bảo đủ số lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ lãnh đạo.
Trong tổ chức biên chế sau khi chuyển đổi, các DN quốc phịng, an
ninh đều có cơ quan chính trị với tên gọi là phịng chính trị hoặc ban chính trị,
thủ trưởng cơ quan chính trị là chủ nhiệm chính trị. Về đội ngũ cán bộ chính
trị, hầu hết đội ngũ cán bộ chính trị các DN trong Tổng cục CNQP có bản lĩnh
chính trị vững vàng, chấp hành tốt đường lối chủ trương chính sách của Đảng,
pháp luật Nhà nước và kỷ luật quân đội, phẩm chất đạo đức, lối sống trong
sáng, lành mạnh, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đội
ngũ cán bộ chính trị của các DN có đặc thù riêng so với các đơn vị trong toàn
quân, phần lớn là cán bộ kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ chuyển sang làm cơng

tác chính trị, với tinh thần trách nhiệm, ý thức tự học tập, thông qua hoạt động
thực tiễn, đội ngũ cán bộ chính trị của Tổng cục đã thể hiện có kiến thức và kinh
nghiệm trong hoạt động nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ trong các DN
thuộc Tổng cục CNQP, có khả năng nghiên cứu, phát hiện đề xuất các nội dung,
biện pháp tổ chức các hoạt động nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ bảo đảm
nguyên tắc quy định và phù hợp với yêu cầu thiết thực của từng đơn vị.
Tuy nhiên, đối chiếu với quy mơ tổ chức, lực lượng và tính chất, nhiệm
vụ trong các DN hiện nay cịn có nhiều bất cập, chưa có sự thống nhất trong
bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ làm cơng tác chính trị trong các cơng ty, xí
nghiệp thuộc các DN, nhất là các DN có tổ chức đảng bộ cấp trên trực tiếp cơ
sở, có xí nghiệp và cơng ty trực thuộc các DN khơng có ban chính trị, khơng


22
có trợ lý chuyên trách đảm nhiệm hoạt động nâng cao NLLĐ và SCĐ của
TCCS. Đội ngũ cán bộ chính trị ở các cơ sở còn thiếu, một số cán bộ mới qua
đào tạo bồi dưỡng ngắn về kiến thức hoạt động công tác xây dựng đảng nên
chất lượng hiệu quả cơng tác có mặt cịn hạn chế, cịn lúng túng trong việc
tham mưu đề xuất với lãnh đạo chỉ huy về tổ chức thực hiện và phát huy hiệu
lực nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ trong các DN thuộc Tổng cục
CNQP. Nguồn quy hoạch sắp xếp cán bộ chính trị các cấp, nguồn kế cận, kế
tiếp cịn mỏng. Số lượng cán bộ hết tuổi phục vụ tại ngũ chiếm tỷ lệ cao. Do
một số cán bộ chính trị các DN là cán bộ kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ
chuyển sang nên chưa thực sự nhạy bén trong xử lý cơng việc, cịn hạn chế về
năng lực tư duy và xử lý các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn, quản lý đơn vị
còn để xẩy ra những vụ việc nghiêm trọng.
Theo Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị khố IX về tiếp tục hồn thiện cơ
chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện
chế độ chính uỷ, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Các DN
đã quy định trong Điều lệ Cơng ty chức danh chính uỷ kiêm phó (tổng) giám đốc

cơng ty. Qua thực tế triển khai, việc Chính uỷ kiêm phó (tổng) giám đốc cơng ty
cịn có nhiều ý kiến khác nhau về xử lý mối quan hệ giữa chính uỷ và giám đốc,
tính hợp lý và sự phù hợp đối với một DN quốc phịng - an ninh hoạt động theo
mơ hình cơng ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thành viên.
1.2. NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ CHỨC CƠ
SỞ ĐẢNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP THUỘC TỔNG CỤC CÔNG NGHIỆP
QUỐC PHỊNG - BỘ QUỐC PHỊNG; QUAN NIỆM, TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ CĨ TÍNH NGUN TẮC

1.2.1. Quan niệm về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở đảng trong các doanh nghiệp thuộc Tổng cục Cơng nghiệp quốc
phịng - Bộ Quốc phịng
1.2.1.1. Quan niệm về năng lực lãnh đạo của tổ chức
cơ sở đảng trong các doanh nghiệp thuộc Tổng cục Công


23
nghiệp quốc phòng - Bộ Quốc phòng
Theo Từ điển tiếng việt: “Năng lực” là khả năng thực hiện tốt mọi cơng
việc: có năng lực chun mơn, năng lực tổ chức [74, tr.1172].
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ: lãnh đạo đúng nghĩa là: phải quyết định mọi vấn đề một cách đúng đắn;
phải tổ chức sự thi hành cho đúng; phải tổ chức kiểm soát [52, tr285]. Như
vây. Sự lãnh đạo của Đảng gồm những khâu chủ yếu: ra quyết định (nghị
quyết), tổ chức thực hiện quyết định (nghị quyết) và kiểm soát việc thực hiện.
Việc ra quyết nghị (nghị quyết) bao gồm cả việc chấn chỉnh ra quyết định;
việc tổ chức thực hiện quyết định (nghị quyết) bao gồm cae việc cụ thể hóa
quyết định (nghị quyết). Việc kiểm dốt trong suốt tồn bộ q trình lãnh đạo
từ chuẩn bị ta quyết định, tổ chức thực hiện quyết định, sơ kết, tổng kết và
bao gồm cả việc kiểm tra, giám sát.

Đảng là đội tiền phong của giai cấp công nhân; trong điều kiện Đảng
cầm quyền, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của
hệ thống chính trị; hoạt động của Đảng là hoạt động lãnh đạo, vì vậy NLLĐ
và SCĐ là vấn đề thuộc về bản chất của Đảng cũng như các TCCSĐ. Hoạt
động lãnh đạo của TCCSĐ phải tuân thủ quy trình chặt chẽ, liên tục, bao gồm
nghiên cứu, vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, quan điểm của Đảng, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên; đề ra nghị quyết,
chủ trương, biện pháp lãnh đạo; tuyên truyền vận động cho mọi cán bộ, đảng
viên, quần chúng hiểu rõ, thấm nhuần và tổ chức cho họ thực hiện tốt nhất
nghị quyết đã đề ra. Do vậy, NLLĐ của TCCSĐ là tổng hợp những khả năng,
điều kiện chủ quan của TCCSĐ để hoàn thành hoạt động lãnh đạo toàn diện,
mọi mặt đối với đơn vị, với chất lượng cao. Đó là hoạt động kết hợp nhuần
nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, khơng bảo thủ trì trệ, cũng khơng cứng
nhắc, rập khn, máy móc.
NLLĐ của TCCSĐ trước hết là năng lực trí tuệ, đó là khả năng nhận


24
thức lý luận một cách sâu sắc, toàn diện; quán triệt đầy đủ nhiệm vụ và đánh
giá đúng tình hình; trên cơ sở đó vận dụng một cách sáng tạo lý luận vào thực
tiễn của đơn vị, đề ra được nghị quyết đúng, chủ trương biện pháp lãnh đạo
phù hợp với sự phát triển của tình hình nhiệm vụ. Cuộc sống ln vận động
và phát triển, cho nên NLLĐ cịn thể hiện ở khả năng dự báo, nhạy bén với
những vấn đề mới nảy sinh, có khả năng luận giải đúng đắn và giải quyết có
hiệu quả. Chính vì vậy Các Mác và Ph.Ănghen đã phân biệt sự khác nhau
giữa những người cộng sản và những người vô sản là “họ hơn bộ phận cịn lại
của giai cấp vơ sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả
chung của phong trào vơ sản” [51, tr. 615]. V.I.Lênin khẳng định: “khơng có
lý luận cách mạng thì khơng có phong trào cách mạng”. “chỉ có đảng nào
được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm trịn vai trị

chiến sĩ tiền phong” [53, tr.32]. Chủ tịch Hồ Chí Minh ln căn dặn và đòi hỏi
cán nộ, đảng viên phải ra sức học tập, trau dồi lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin,
vì đó: “…khơng những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ
nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối
cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản” [54, tr.128]. Trong q
trình lãnh đạo, các TCCSĐ phải có năng lực nghiên cứu, tổng kết thực tiễn,
đây là yêu cầu đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng nói chung và TCCSĐ nói
riêng ln phát triển đáp ứng u cầu nhiệm vụ. Nắm vững những vấn đề cơ
bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm
của Đảng, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên chính là cơ sở để các TCCSĐ nâng
cao năng lực trí tuệ, đề ra được chủ trương, biện pháp lãnh đạo đúng đắn, phù
hợp với điều kiện hoàn cảnh và nhiệm vụ cụ thể của mỗi cơ sở.
NLLĐ của TCCSĐ cịn là năng lực, trình độ tổ chức hoạt động thực
tiễn. Đó là khả năng tuyên tuyền, giáo dục, vận động và hướng dẫn quần
chúng thực hiện các nghị quyết đã đề ra, đưa nghị quyết vào cuộc sống. Trong
quá trình tổ chức thực hiện nghị quyết, TCCSĐ phải làm tốt công tác kiểm tra;


25
xây dựng TCCSĐ, các tổ chức đoàn thể quần chúng và đơn vị vững mạnh,
thường xuyên sơ tổng kết, rút kinh nghiệm, góp phần xây dựng tổ chức đảng cấp
trên và bổ sung, hồn thiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, với vai trị tiền phong của mình,
TCCSĐ khơng những phải có NLLĐ tốt mà cịn phải có SCĐ cao. Chính vì
vậy C.Mác và Ph.Ănghen đã khẳng định: “Vậy là về mặt thực tiễn, những
người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các Đảng công nhân ở các
nước, là bộ phận luôn thúc đẩy phong trào tiến lên…” [51, tr.614, 615]. Theo
V.I.Lênin, cuộc đấu tranh của Đảng rộng lớn và phức tạp hơn nhiều so với đấu
tranh kinh tế, do đó tổ chức của Đảng “phải là tổ chức của những người cách
mạng, có nghĩa là tổ chức của những phần tử ưu tú nhất của giai cấp công

nhân” và “Hãy cho tôi một tổ chức những người cách mạng và chúng tôi sẽ
đảo ngược nước Nga lên” [48, tr.162].
1.2.1.2. Quan niệm về sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở đảng trong các doanh nghiệp thuộc Tổng cục Công
nghiệp quốc phịng - Bộ Quốc phịng
Có thể hiểu SCĐ của một tổ chức hay một cá nhân là sức mạnh, khả
năng làm việc, hoạt động, hoặc khả năng tác động của một tổ chức, một tập
thể hay cá nhân đối với công việc, hoặc đối với những tổ chức, tập thể hay cá
nhân khác trong quá trình vận động, phát triển, kể cả cá nhân hay tổ chức
thuộc tổ chức của mình, đảm bảo cho tổ chức của mình tồn tại phát triển, thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao.
Trong quá trình vận động, phát triển của Đảng Cơng sản suốt hơn 160
năm qua, kể từ khi tổ chức cộng sản đầu tiên trên thế giới - Liên đoàn những
người cộng sản (1847) ra đời cho đến nay, để tồn tại, phát triển, thực hiện ý
tưởng cộng sản mà trước hết là thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu của từng giai
đoạn cách mạng, Đảng Cộng sản phải chống lại một cách quyết liệt, có kết
quả của sụ phá hoại của các thế lực thù địch, đồng thời phải đấu tranh mạnh


×