Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Những nhân tố bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong đảng bộ khối các cơ quan tỉnh ở tỉnh thanh hóa hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.87 KB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
___________

LÊ THỊ SEN

NHỮNG NHÂN TỐ BẢO ĐẢM
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
TRONG ĐẢNG BỘ KHỐI CÁC CƠ QUAN TỈNH
Ở TỈNH THANH HÓA HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ


2

NGHỆ AN - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
___________

LÊ THỊ SEN

NHỮNG NHÂN TỐ BẢO ĐẢM
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
TRONG ĐẢNG BỘ KHỐI CÁC CƠ QUAN TỈNH
Ở TỈNH THANH HÓA HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ


Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đinh Thế Định


3

NGHỆ AN - 2014
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Trường Đại học Vinh đã tổ chức đào tạo Thạc
sĩ Khoa học Chính trị, chuyên ngành Chính trị học khóa 20 (2012 - 2014).
Tôi chân thành cảm ơn Thường trực, Ban Thường vụ Huyện ủy, Trung
tâm bồi dưỡng chính trị huyện Triệu Sơn đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để bản
thân tham gia tốt khóa học.
Thực hiện đề tài “Những nhân tố bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở
đảng trong Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay”, tôi xin
bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến quý thầy cô giáo Khoa giáo dục Chính trị của
Trường Đại học Vinh, các đồng chí lãnh đạo, chuyên viên trong Đảng bộ khối
các cơ quan tỉnh Thanh Hóa và đặc biệt là sự giúp đỡ tận tâm, tận tình của thầy
giáo - Tiến sĩ. Đinh Thế Định, người đã hướng dẫn tôi thực hiện đề tài khoa học
này.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã luôn động
viên giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu khoa học.
Mặc dù rất cố gắng trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài khoa
học này nhưng không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Rất mong nhận
được sự góp ý của quý Thầy cô giáo, các anh chị và các bạn.
Trân trọng cảm ơn!
Nghệ An, tháng 10 năm 2014
Tác giả



4
LÊ THỊ SEN

MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU …………………………………………………………………...07
B. NỘI DUNG ………………………………………………………………...15
Chương 1. Tổ chức cơ sở đảng và những nhân tố ảnh hưởng đến sự lãnh
đạo của tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh ………...15
1.1. Tổ chức cơ sở đảng và sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ
khối các cơ quan tỉnh …………………………………………………………..15
1.1.1. Khái niệm về tổ chức cơ sở đảng ……………………………………….15
1.1.2. Khái niệm về Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh …………………………...16
1.1.3. Vị trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng ………....17
1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng ……...20
1.2.1. Khái niệm về nhân tố và phân loại các nhân tố ảnh hưởng đến sự lãnh đạo
của tổ chức cơ sở đảng ………………………………………………………...20
1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong
Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh ………………………………………………...23
Kết luận Chương 1……………………………………………………………..38
Chương 2. Thực trạng tổ chức cơ sở đảng và những nhân tố ảnh hưởng đến
sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh ở
tỉnh Thanh Hóa hiện nay……………………………………………………..39
2.1. Tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh ở tỉnh Thanh Hóa
hiện nay ………………………………………………………………………..39
2.1.1. Tỉnh Thanh Hóa và Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa …………………………..39
2.1.2. Khái quát tình hình tổ chức và hoạt động của tổ chức cơ sở đảng trong
Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay …………………...43

2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong


5
Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay …………………...60
2.2.1. Những nhân tố ảnh hưởng tích cực đến sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở
đảng
trong Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay ……………..60
2.2.2. Những nhân tố hạn chế vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong
Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay …………………...64
2.2.3. Những nhân tố mới xuất hiện trong quá trình lãnh đạo của tổ chức cơ sở
đảng trong Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay ……….66
Kết luận Chương 2 …………………………………………………………… 71
Chương 3. Quan điểm và giải pháp phát huy những nhân tố bảo đảm sự
lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh ở
tỉnhThanh Hóa hiện nay ……………………………………………………..72
3.1. Quan điểm về sự phát huy những nhân tố bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức
cơ sở đảng hiện nay ……………………………………………………………72
3.1.1. Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là cầu nối giữa Đảng với dân,
có vị trí rất quan trọng trong hệ thống tổ chức của Đảng ……………………...72
3.1.2. Tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào dân
để xây dựng Đảng ……………………………………………………………...71
3.1.3. Thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng ……………………………………………...73
3.2. Giải pháp phát huy những nhân tố bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở
đảng trong Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay ………75
3.2.1. Nhận thức đúng về vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị của tổ chức cơ sở
đảng trong Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh ở Thanh Hóa ……………………...76
3.2.2. Tiếp tục kiện toàn hệ thống cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, đảng viên trong Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh ở tỉnh Thanh Hóa ………..79

3.2.3. Đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ
khối các cơ quan tỉnh ở Thanh Hóa ……………………………………………83


6
3.2.4. Nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, chi bộ của tổ chức cơ sở đảng
trong Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh ở tỉnh Thanh Hóa ………………………86
3.2.5. Tiếp tục thực hiện cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn
và đẩy lùi nguy cơ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng
bộ khối các cơ quan tỉnh ở Thanh Hóa ………………………………………...89
3.2.6. Đổi mới và tăng cường công tác kiểm tra, kỷ luật Đảng trong các tổ chức
cơ sở đảng thuộc Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh ở Thanh Hóa ……………….93
Kết luận Chương 3 …………………………………………………………….98
C. KẾT LUẬN ………………………………………………………………..99
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………….101


7

CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
- BCH

:

Ban chấp hành

- BTV

:


Ban Thường vụ

- ĐCS

:

Đảng Cộng sản

- GDP

:

Tổng sản phẩm quốc nội

- UBND

:

Uỷ ban nhân dân


8

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân
tộc. Mục đích là xây dựng đất nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, nhân dân ta được ấm no, hạnh phúc và có

những đóng góp vào công cuộc đấu tranh chung của nhân loại vì những mục tiêu
tiến bộ.
Với tinh thần đó, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã vận
dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào
thực tiễn cách mạng nước ta, hơn 80 năm qua Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
giữ vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị, tiến hành cách mạng Tháng Tám thành
công lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ chế độ thực
dân phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước,
tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc
nền độc lập của Tổ quốc. Đảng ta đã trở thành một Đảng cầm quyền, Đảng lãnh
đạo Nhà nước và toàn xã hội trong phạm vi cả nước, năng lực và phương thức
lãnh đạo của Đảng đã có những chuyển biến tích cực, từng bước đáp ứng yêu
cầu đổi mới.
Trong quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn chăm lo xây dựng và phát huy vai
trò của hệ thống tổ chức cơ sở đảng, coi đó là cầu nối giữa Dân với Đảng, là nơi
đề xuất, cũng là nơi trực tiếp triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối của


9
Đảng, Pháp luật của Nhà nước, tổ chức cơ sở đảng đã có những đóng góp quan
trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, củng cố quốc phòng - an
ninh, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Nhiều
nhân tố mới tích cực đã xuất hiện, nhất là ở cơ sở, tác động tích cực đến sự lãnh
đạo của Đảng và tổ chức cơ sở đảng.
Tuy nhiên, do tính chất đa dạng của các loại hình tổ chức cơ sở đảng, vai
trò chức năng nhiệm vụ của nó cũng khác nhau, nhưng thực tế nhận thức chưa
có sự phân biệt, nên có nơi Đảng bao biện làm thay, có nơi Đảng và Chính
quyền chồng chéo, làm cho một số cơ sở đảng trở nên yếu kém, đánh mất vai trò
hạt nhân lãnh đạo, buông lỏng quản lý, chưa tạo sự chuyển biến cơ bản để ngăn

chặn và đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức lối sống, cục bộ, bản vị vẫn còn diễn ra nghiêm trọng
trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Nhiều tổ chức cơ sở đảng và đảng viên
sinh hoạt còn lỏng lẻo, ý thức tự phê bình và phê bình chưa cao v.v.., tạo nên sự
bất bình trong quần chúng nhân dân, làm giảm sút uy tín của Đảng và hạn chế sự
phát triển của Đất nước. Trong khi đó tình hình thế giới và trong nước lại có
những diễn biến phức tạp và khó lường, các thế lực thù địch tăng cường ráo riết
thực hiện chiến lược âm mưu “Diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ vai trò lãnh
đạo của Đảng và sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
Trước tình hình đó, để tiếp tục thực hiện thắng lợi sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam thì vấn đề quan trọng đối với cách mạng Việt Nam là phải
tiếp tục phát huy những nhân tố nhằm phát huy vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ
sở đảng. Đây chính là nền tảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, là tiếng nói trực
tiếp gắn với việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc.
Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh ở tỉnh Thanh Hóa, đơn vị cấu thành của hệ
thống 4 cấp của tổ chức cơ sở đảng, trực thuộc và dặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp
của Tỉnh ủy Thanh Hóa. Điểm khác với cấp ủy đảng cùng cấp như các huyện,


10
thị, thành phố là không có chính quyền cùng cấp, các ban tham mưu chuyên
trách giúp việc gọn nhẹ, gồm có văn phòng, ban tổ chức, ban tuyên giáo và ủy
ban kiểm tra, không có ban dân vận. Mỗi ban chỉ có ba đến bốn cán bộ và được
sử dụng một số cán bộ kiêm nhiệm. Trong thời gian qua Đảng bộ khối các cơ
quan tỉnh ở Thanh Hóa đã lãnh đạo các tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ khối
thực hiện nhiệm vụ chính trị, chăm lo công tác xây dựng Đảng gắn với xây dựng
Cơ quan và các Đoàn thể trong sạch, vững mạnh, góp phần quan trọng trong
việc đưa tỉnh Thanh Hóa phát triển toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Song, nhìn
lại và đánh giá thực chất phong trào, thì tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ khối

các cơ quan tỉnh ở Thanh Hóa không tránh khỏi những hạn chế, chất lượng còn
chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Nhận thức được những hạn chế và tầm
quan trọng của vấn đề này, chúng tôi chọn đề tài Những nhân tố bảo đảm sự
lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh ở tỉnh
Thanh Hóa hiện nay làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng nói chung và trong Đảng ủy
khối các cơ quan tỉnh nói riêng là một chủ đề có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối
với Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ đề này thường được đề cập nghiên cứu và
giải quyết dưới nhiều góc độ: Chính trị học; sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền;
hoặc dưới góc độ chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng và phương thức
lãnh đạo của Đảng; hoặc từ góc độ chuyên ngành an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội…
Trong quá trình lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam, trải qua hơn 80
năm xây dựng và trưởng thành, nhất là từ khi đổi mới đất nước đến nay, Đảng,
Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách, chỉ thị, nghị quyết liên quan
đến chủ đề này. Trong đó, đặc biệt là các vấn đề: Xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao vao trò lãnh đạo, sức chiến đấu và


11
nhân tố bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng; một số vấn đề cấp bách về
xây dựng đảng hiện nay…
Trong khoa học chính trị ở nước ta cho đến nay có một số đề tài, công
trình, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và nhiều bài viết về đổi mới, nâng cao chất
lượng lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức sơ sở đảng.
Một số đề tài khoa học tiêu biểu: “Phương thức Đảng lãnh đạo Nhà
nước”, đề tài cấp bộ, cơ quan chủ trì, Học viện Hành Chính Quốc gia, Hà Nội
2001, Chủ nhiệm PGS. Trần Đình Huỳnh; “Đảng cầm quyền trong thời đại
ngày nay và những vấn đề rút ra cho công cuộc đổi mới và chỉnh đốn Đảng ta”,

đề tài cấp bộ, Hà Nội 1993, Giáo sư Đậu Thế Biểu làm chủ nhiệm và PGS. Mai
Trung Hậu làm thư ký khoa học, cơ quan chủ trì là Viện nghiên cứu khoa học Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; “Bảy mươi năm Đảng Cộng sản Việt
Nam”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2000; “Đổi mới tổ chức
và phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp Nhà
nước”, đề tài cấp bộ, cơ quan chủ trì Phân viện báo chí và Tuyên truyền (nay là
Học viện Báo chí và Tuyên truyền), năm 2002, chủ nhiệm đề tài là PGS.TS
Dương Xuân Ngọc.
Với cách luận chứng chặt chẽ và súc tích, các công trình nghiên cứu trên
đã tập trung trình bày một loạt vấn đề quan trọng liên quan đến vai trò lãnh đạo
của Đảng và những nhân tố bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng, làm
sáng tỏ vai trò lãnh đạo của Đảng - nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam, trong đấu tranh giành độc lập dân tộc và trong sự nghiệp đổi
mới, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Có nhiều luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ đề cập đến việc đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng trong các lĩnh vực ở nông thôn, doanh nghiệp, trong các lực
lượng vũ trang, quân đội như: “Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng ở nông
thôn (cấp xã) vùng Đồng bằng Sông Hồng”, Luận án tiến sĩ của Đỗ Minh Ngọc,


12
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh;“Nâng cao năng lực cán bộ lãnh đạo
chủ chốt cấp xã vùng Đồng bằng Bắc bộ nước ta hiện nay”, Luận văn thạc sĩ
của Mai Đức Ngọc, chuyên ngành Chính trị học, mã số 05.01.10, năm 2002,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; “Vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ của
Nguyễn Văn Giang, chuyên ngành chính trị học, mã số 05.05.01, năm 2002, tại
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Một số sách, bài viết của các nhà nghiên cứu, các cán bộ lãnh đạo quản lý:
“Mấy vấn đề về xây dựng Đảng vững mạnh đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ mới”,

Vũ Oanh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1999; “Đổi mới về phương thức lãnh
đạo của Đảng”, Lê Đức Bình, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 9/2000; “Nâng cao
sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường mối quan hệ máu thịt
với nhân dân, Đảng - Dân một ý chí”, Lê Khả Phiêu, Tạp chí Cộng sản, số
4/2000; “Sự gắn bó máu thịt của Đảng và nhân dân, nguồn sức mạnh vô tận của
Đảng”, TS. Đào Duy Quát, Báo Nhân dân, 02/02/2000; “Tiêu chuẩn đảng viên
và những vấn đề bức thiết trong công tác đảng viên hiện nay”, PGS.TS. Tô Huy
Rứa, Hội thảo đề tài KX - 05, ngày 11/01/1999; “Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ
then chốt, tạo bước chuyển biến cơ bản trong công tác xây dựng Đảng”,
Nguyễn Đức Hạt, Tạp chí Xây dựng Đảng, 5/2006; “Vận dụng tư tưởng của
Lênin về Đảng cầm quyền và cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng ta trong thời kỳ
đổi mới”, PGS-TS. Dương Xuân Ngọc, Tạp chí Lý luận chính trị, số
6/2006; “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức
mạnh toàn dân tộc đẩy mạnh công cuộc đổi mới sớm đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển”, Nông Đức Mạnh, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 5/2006;
“Để nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới”, Trương
Thị Mỹ Trang, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 2 + 3/2007; “Biện pháp xây dựng
chi bộ trong sạch, vững mạnh”, Vũ Cao Hội, Tạp chí Kiểm tra, số 2/2007; “Vai


13
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất nước”,
PGS.TS. Nguyễn Trọng Phúc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
Trong các công trình đó, các tác giả đã bàn đến vai trò, tầm quan trọng
của công tác xây dựng Đảng, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng trong công cuộc đổi mới, nêu lên một số phương hướng, giải
pháp nhằm nâng cao vao trò lãnh đạo, sức chiến đấu và bảo đảm sự lãnh đạo của
tổ chức cơ sở đảng trong Đảng nói chung và ở các Đảng bộ cơ sở nói riêng.
Phần lớn các công trình nghiên cứu và các bài viết này đề cập đến vấn đề
Đảng, là cơ sở lý thuyết và cách tiếp cận về xây dựng Đảng. Cho đến nay cũng

đã có nhiều công trình đề cập vấn đề Đảng trên cơ sở lý thuyết của chính trị học.
Nghiên cứu các nhân tố bảo đảm thực thi quyền lực - quyền lực chính trị, phát
huy vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị của một Đảng cầm quyền ở cơ sở, cũng
như những nhân tố bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng nói chung. Đây là những vấn
đề thuộc về đối tượng nghiên cứu của Chính trị học.
Ở tỉnh Thanh Hóa, cấp ủy và chính quyền các cấp đã có những nghị
quyết, chỉ thị, đề án, báo cáo đề cập đến các vấn đề này. Tất cả nhằm hướng tới
mục tiêu bảo đảm giữ vững ổn định chính trị, xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong
sạch, vững mạnh góp phần phát triển kinh tế - xã hội, từng bước xây dựng
Thanh Hóa thành tỉnh kiểu mẫu.
Tuy nhiên, vấn đề Những nhân tố bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở
đảng trong Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh ở tỉnh Thanh Hóa còn mới cần được
quan tâm nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong
Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ


14
- Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của tổ chức cơ sở đảng
và những nhân tố bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng hiện nay.
- Phân tích rõ thực trạng, những nhân tố tích cực và tiêu cực ảnh hưởng
đến sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh ở
Thanh Hóa hiện nay.
- Xác định những nhân tố chủ yếu (thể hiện ở một số giải pháp) nhằm bảo
đảm sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh ở
Thanh Hóa hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận
- Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở ý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, các chủ trương, đường lối về xây dựng
Đảng, đặc biệt là về tổ chức, hoạt động và những nhân tố bảo đảm sự lãnh đạo
của tổ chức cơ sở đảng. Khảo sát thực tiễn của các đảng bộ, chi bộ thuộc Đảng
bộ khối các cơ quan tỉnh ở tỉnh Thanh Hóa cũng như báo cáo của Đảng bộ về
công tác xây dựng Đảng của đảng bộ thời gian gần đây.
- Tham khảo, kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có
liên quan đến đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; sử dụng
các phương pháp chuyên ngành, liên ngành khác nhau như các phương pháp lịch
sử - lôgic, điều tra, khảo sát, phân tích, tổng hợp, thống kê, kết hợp nghiên cứu
lý luận và tổng kết thực tiễn…
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những nhân tố bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức cơ
sở đảng trong Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay, đánh
giá thực trạng tổ chức cơ sở đảng trong các cơ quan, đơn vị hành chính, sự


15
nghiệp thuộc Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh ở Thanh Hóa (có thể có những liên
hệ, chứng minh, so sánh sự cần thiết với các cơ quan khác, địa phương khác,
nước khác).
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vị nghiên cứu là các tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ khối các cơ
quan tỉnh ở tỉnh Thanh Hóa trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề có tính lý luận về tổ chức

đảng trong đó có tổ chức cơ sở đảng hiện nay từ góc độ Chính trị học
- Luận văn đã đánh giá thực trạng và đưa ra một số vấn đề cần thiết từ
thực tế đặt ra trong việc phát huy vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị, tăng cường
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng ở Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong việc nghiên cứu về các Đảng chính trị, trong các bộ môn Chính trị học và
xây dựng Đảng, trong xây dựng chỉnh đốn Đảng ở tỉnh Thanh Hóa nói riêng và
ở nước ta hiện nay nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung,
kết cấu gồm có 3 chương, 6 tiết.


16

B. NỘI DUNG
Chương 1
TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN SỰ LÃNH ĐẠO CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
TRONG ĐẢNG BỘ KHỐI CÁC CƠ QUAN TỈNH
1.1. Tổ chức cơ sở đảng và sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong
Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh
1.1.1. Khái niệm về tổ chức cơ sở đảng
Khái niệm tổ chức cơ sở đảng lần đầu tiên được ra đời tại Đại hội III
Đảng Công nhân Dân chủ - xã hội Nga (25/4/1905). Đại hội xác định “Mỗi tổ
chức Đảng cho tới chi bộ công nhân cơ sở của Đảng phải được xác định thành
phần và nhất định phải ổn định những mối liên hệ đều đặn với Trung ương”. Sau
đó trong bài “Tiến tới thống nhất” V.I.Lênin chỉ rõ “Những điều kiện khách
quan đòi hỏi rằng những chi bộ công nhân phải làm cơ sở của Đảng”.
Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, trong quá trình lãnh

đạo cách mạng đã nhấn mạnh: Đảng ta có một tổ chức chặt chẻ, thống nhất từ
Trung ương đến cơ sở, có mối liên hệ mật thiết với quần chúng, vì vậy phải
được thành lập, được tổ chức tại các đơn vị cơ sở. Người nói: “Ở mỗi xưởng
máy, hầm mỏ, xí nghiệp, cơ quan, trường học, đường phố, nông thôn, đại đội có 3 đảng viên trở lên thì lập một chi bộ” [34; 242].
Với tinh thần đó, khái niệm tổ chức cơ sở đảng được ghi rõ trong Điều lệ
Đảng Cộng sản Việt Nam và qua các kỳ đại hội có sự điều chỉnh và từng bước
hoàn chỉnh về nội dung và ý nghĩa của nó. Tại Điều 21 Điều lệ Đảng Cộng sản
Việt Nam được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI ghi rõ:
1. Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng,
là hạt nhân chính trị ở cơ sở.


17
2. Ở xã, phường, thị trấn có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức
cơ sở đảng (trực thuộc cấp ủy cấp huyện). Ở cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác xã,
đơn vị sự nghiệp, đơn vị quân đội, công an và các đơn vị khác có từ ba đảng
viên chính thức trở lên, lập tổ chức đảng (tổ chức cơ sở đảng hoặc chi bộ trực
thuộc đảng ủy cơ sở); cấp ủy cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định việc tổ chức
đảng đó trực thuộc cấp ủy cấp trên nào cho phù hợp; nếu chưa đủ ba đảng viên
chính thức thì cấp ủy cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng viên sinh hoạt ở tổ chức
cơ sở đảng thích hợp.
3. Tổ chức cơ sở đảng dưới ba mươi đảng viên, lập chi bộ cơ sở, có các tổ
chức đảng trực thuộc.
4. Tổ chức cơ sở đảng có từ ba mươi đảng viên trở lên, lập đảng bộ cơ sở,
có các chi bộ trực thuộc đảng ủy.
5. Những trường hợp sau đây, cấp ủy cấp dưới phải báo cáo và được cấp
ủy cấp trên trực tiếp đồng ý mới được thực hiện:
- Lập đảng bộ cơ sở trong đơn vị cơ sở chưa đủ ba mươi đảng viên.
- Lập chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở có hơn ba mươi đảng viên.
- Lập đảng bộ bộ phận trực thuộc đảng ủy cơ sở [17; 35, 36, 37].

Như vậy, tổ chức cơ sở đảng gồm chi bộ cơ sở hoặc đảng bộ cơ sở, việc
lựa chọn mô hình tổ chức nào (chi bộ cơ sở hoặc đảng bộ cơ sở) phụ thuộc vào
số lượng đảng viên chính thức và phải được cấp ủy cấp trên trực tiếp quyết định.
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, do yêu cầu của việc phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chính sách đối ngoại
mở rộng của Đảng, nên ngoài các loại hình tổ chức cơ sở đảng được tổ chức, các
đơn vị cơ sở hành chính (xã, phường, thị trấn), các đơn vị sự nghiệp, cơ quan,
doanh nghiệp nhà nước, đơn vị cơ sở trong công an, quân đội v.v. còn xuất hiện
loại hình tổ chức cơ sở đảng ở các đơn vị doanh nghiệp tư nhân, các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
1.1.2. Khái niệm về Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh


18
Đảng uỷ khối cơ quan các cơ quan tỉnh là cấp uỷ cấp trên trực tiếp của các
Đảng bộ, chi bộ (trực thuộc), đặt dưới sự lãnh đạo của BCH Đảng bộ tỉnh mà
trực tiếp, thường xuyên là BTV Tỉnh uỷ; có chức năng lãnh đạo cán bộ, đảng
viên và người lao động trong cơ quan, đơn vị thực hiện chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ được giao; chăm lo
đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, công chức và người lao động; thực hiện
công tác xây dựng Đảng bộ, chi bộ, xây dựng cơ quan, đơn vị và các đoàn thể
trong sạch, vững mạnh.
Đảng bộ, chi bộ cơ sở cơ quan là hạt nhân chính trị, lãnh đạo thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tham gia
lãnh đạo xây dựng và thực hiện có hiệu quả các chủ trương, nhiệm vụ công tác
của cơ quan; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, công chức và
người lao động; xây dựng đảng bộ, chi bộ và cơ quan vững mạnh.
1.1.3. Vị trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng
1.1.3.1. Vị trí, vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng
Trong quá trình thực thi quyền lãnh đạo, tổ chức cơ sở đảng có một vị trí,

vai trò hết sức quan trọng, tác động đến quá trình phát triển một cách toàn diện
trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và tư tưởng, C.Mác và Ph.Ăngghen là
những người đầu tiên chỉ ra vị trí, vai trò quan trọng của tổ chức cơ sở đảng, hai
Ông cho rằng các chi bộ buông lỏng về mặt tổ chức, sẽ làm cho Đảng “mất chỗ
dựa vững chắc và duy nhất v.v.. [33; 167]. C.Mác và Ph.Ăngghen luôn luôn coi
trọng việc củng cố các chi bộ, làm cho chi bộ thành trung tâm và hạt nhân của
các hiệp hội công nhân. Phát triển tư tưởng đó V.I.Lênin trong quá trình xây
dựng và lãnh đạo Đảng Bônsêvích Nga - Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân,
đã xây dựng và kiện toàn tổ chức cơ sở đảng, làm nơi rèn luyện, phân công công
tác, quản lý, sàng lọc đảng viên, biến mỗi chi bộ thành trung tâm hạt nhân của
các hiệp hội công nhân, là điểm tựa để tiến hành công tác tuyên truyền, cổ động


19
và tổ chức thực hiện mọi chủ trương đường lối lãnh đạo của Đảng trong quần
chúng.
Trên tinh thần đó, Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam đã đặc biệt quan tâm chăm lo đến việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng, theo
quan điểm mỗi chi bộ của Đảng là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở,
đoàn kết chặt chẽ, liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy được trí tuệ và lực
lượng vĩ đại của quần chúng. Hồ Chí Minh chỉ rõ “Chi bộ là gốc rễ của Đảng”
và “Chi bộ là đồn lũy của Đảng chiến đấu ở trong quần chúng” [34; 242], giống
như một cây không thể thiếu gốc rễ, một ngôi nhà không thể thiếu nền tảng, điều
đó đủ nói lên vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng của mỗi chi bộ với tư cách là tổ
chức cơ sở đảng. “Đảng mạnh là do các chi bộ mạnh” [35; 270] và “các chi bộ
mạnh tức là Đảng mạnh” [34; 242].
Trong hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với mọi mặt của đời sống xã hội,
các tổ chức cơ sở đảng là những hạt nhân chính trị, là nền tảng của Đảng ở cơ
sở, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Mỗi chi bộ ta phải là một hạt nhân vững chắc,
lãnh đạo đồng bào thi đua yêu nước, cần kiệm xây dựng nước nhà” [35; 205].

Tác dụng của chi bộ là cực kỳ quan trọng, vì nó là sợi dây chuyền để liên hệ
Đảng với quần chúng.
Kế thừa, phát triển và vận dụng sáng tạo các quan điểm lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn luôn chăm lo xây dựng tổ chức cơ
sở đảng. Hệ thống tổ chức của Đảng được kết cấu song trùng với hệ thống hành
chính Nhà nước theo bốn cấp: Trung ương; Tỉnh (thành phố); Huyện (quận); Xã
(phường, thị trấn).
Tổ chức cơ sở đảng là cấp cuối cùng trong hệ thống tổ chức bốn cấp của
Đảng, là nền tảng và hạt nhân chính trị ở cơ sở. Xét trong hệ thống tổ chức của
Đảng thì tổ chức cơ sở chính là “nền tảng”, là “gốc rễ” của Đảng.


20
Tổ chức cơ sở đảng vừa là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; đồng thời cũng là nơi góp phần
phát triển và hoàn thiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Là một
thành viên trong hệ thống chính trị ở cơ sở, tổ chức cơ sở đảng có vị trí, vai trò
đoàn kết, lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở.
Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó, liên hệ mật thiết với nhân dân. Trong
mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, vai trò của tổ chức cơ sở đảng là những
“sợi dây chuyền” nối liền Đảng với Dân.
1.1.3.2. Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng
Tổ chức cơ sở đảng nói chung có hai chức năng quan trọng:
Một là, lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước ở cơ sở.
Hai là, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị, phát triển sản
xuất, kinh doanh, nâng cao hiệu quả công tác của cơ sở; chăm lo cải thiện đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân; động viên quần chúng hoàn thành đầy đủ
nghĩa vụ của cơ sở, đơn vị đối với Nhà nước.

Từ chức năng nói trên, Điều 23, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, được
thông qua tại Đại hội lần thứ XI của Đảng năm 2011, quy định năm nhiệm vụ
của tổ chức cơ sở đảng như sau:
1. Chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đề
ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của đảng bộ, chi bộ và lãnh đạo thực hiện có
hiệu quả.
2. Xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao chất lượng
sinh hoạt Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng cường
đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên giáo dục, rèn luyện và quản lý
cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình
độ kiến thức, năng lực công tác; làm công tác phát triển đảng viên.


21
3. Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự
nghiệp, quốc phòng, an ninh và các đoàn thể chính trị - xã hội trong sạch,vững
mạnh; chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
4. Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và
bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng và
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
5. Kiểm tra giám sát việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết, chỉ thị của
Đảng và pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh; kiểm tra giám
sát tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng.
Đảng ủy cơ sở nếu được cấp trên trực tiếp ủy quyền thì được quyết định
kết nạp và khai trừ đảng viên [17; 39, 40, 41].
Với chức năng, nhiệm vụ được quy định trong Điều lệ Đảng, trong thời
gian qua tổ chức cơ sở đảng đã cơ bản phát huy bản chất vai trò là hạt nhân lãnh
đạo chính trị, làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, công tác tổ chức cán
bộ, xây dựng tổ chức cơ sở đảng gắn với xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở,

phát triển Đảng và tăng cường công tác kiểm tra. Đa số cán bộ, đảng viên phát
huy vai trò tiên phong, gương mẫu, năng động, sáng tạo, giữ gìn phẩm chất đạo
đức, góp phần quan trọng thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, tạo ra những chuyển
biến mạnh mẽ trong quá trình phát triển đất nước.
1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở
đảng
1.2.1. Khái niệm về nhân tố và phân loại các nhân tố ảnh hưởng đến sự
lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng
Khái niệm nhân tố, nhân tố hay yếu tố là những điều kiện, những cơ sở,
những tiền đề cần thiết để gây ra, tạo ra cái gì đó. Đồng thời trong kết cấu (cấu
trúc) của một sự vật hay hiện tượng nhất định, bao gồm nhiều nhân tố hay yếu tố
cấu thành. Trong quá trình vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng cũng
như hoạt động của con người v.v.., hiện diện một loạt các nhân tố hay yếu tố nối


22
tiếp nhau. Các nhân tố, yếu tố là hết sức phong phú, để nhận biết các nhân tố,
yếu tố cần có một hệ thống các tiêu chí để phân biệt. Nói cách khác để có thể
nhận biết các nhân tố, yếu tố thì cần các phương pháp tiếp cận khác nhau. Giữa
nhân tố hay yếu tố cũng có sự chuyển hóa lẫn nhau, sự phân biệt các nhân tố,
yếu tố chỉ có ý nghĩa tương đối. Các nhân tố, các yếu tố không chỉ khác nhau về
tính chất do cách tiếp cận khác nhau mà còn khác nhau về cấp độ, trình độ.
Nghiên cứu nhân tố có thể được xem là một hướng hay, một phương pháp
nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, trong đó có chính trị học.
Phân loại các loại nhân tố
Dưới góc độ triết học - góc độ nhận thức luận, người ta có thể nhận thấy
những loại nhân tố chủ yếu sau đây:
- Nhân tố khách quan, là những điều kiện không phụ thuộc vào con người
và quyết định phương hướng, quy mô hoạt động của họ. Có thể nhận thấy một
số nhân tố khách quan tiêu biểu như: những biểu hiện của tự nhiên, những trình

độ phát triển của sản xuất, của xã hội, những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội,
v.v..
- Nhân tố chủ quan, là hoạt động của quần chúng của các giai cấp, các
đảng phái, nhà nước hay những con người cá biệt với ý thức, ý chí và khả năng
hoạt động của họ v.v.. Có thể thấy một số nhân tố chủ quan tiêu biểu, biểu hiện
như hoạt động của quần chúng, các giai cấp, đảng phái, nhà nước, những con
người cá biệt với ý thức, ý chí, khả năng của họ v.v..
Trong đời sống xã hội những nhân tố khách quan bao giờ cũng là những
nhân tố quyết định, nhưng tác động của chúng chỉ thể hiện thông qua sự tác
động của các nhân tố chủ quan của con người. Những nhân tố chủ quan chỉ có
thể đóng vai trò quyết định chỉ khi nào những điều kiện khách quan đã được
chuẩn bị cho chúng. Sự tác động của các nhân tố chủ quan đến sự phát triển của
xã hội tăng lên cùng với sự quá độ từ một hình thái kinh tế - xã hội này sang một
hình thái kinh tế - xã hội khác, tiến bộ hơn. Vai trò của những nhân tố chủ quan


23
tăng lên mạnh mẽ đặc biệt trong xã hội xã hội chủ nghĩa, khi lần đầu tiên trong
lịch sử loài người có khả năng phát triển sáng tạo và hài hòa tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, khi đông đảo quần chúng nhân dân được thu hút tham gia
một cách tự giác vào công cuộc xây dựng xã hội mới.
- Nhân tố bên ngoài, là sự phản ánh phía mặt ngoài của sự vật, hiện tượng,
mà cảm giác của con người thu nhận được hoặc phản ánh hiện thực tồn tại bên
ngoài sự vật, hiện tượng.
- Nhân tố bên trong, là phạm trù chỉ cái bên trong, phản ánh mặt thực chất
của sự vật, hiện tượng. Cái bên trong không được tiếp thu một cách trực tiếp, mà
nhận thức thông qua cái bên ngoài, thông qua những biểu hiện của sự vật, hiện
tượng. Những mặt bên ngoài của sự vật, hiện tượng được quy định bởi cái bên
trong, bởi quy luật, bởi bản chất và thông qua những cái đó mà người ta phát
hiện và nhận thức được chúng. Việc xem xét bản chất bên trong của sự vật đưa

đến những hiểu biết về những mâu thuẩn bên trong của sự vật, về nguồn gốc
phát triển và những quy luật vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Ngoài ra, ở góc độ nhận thức luận, người ta còn phân biệt nhiều loại nhân
tố, yếu tố khác nhau nữa. Các nhân tố này thường biểu hiện ra như là những mặt
đối lập nhưng lại thống nhất trong một sự vật, hiện tượng như: Nhân tố vật chất,
nhân tố tinh thần, nhân tố cơ bản và nhân tố không cơ bản, nhân tố chủ yếu và
nhân tố thứ yếu, nhân tố chi phối - quyết định và nhân tố tác động - ảnh hưởng.
Nhân tố ở góc độ xã hội học hay là tiếp nhận các nhân tố, các yếu tố từ đời sống
xã hội, từ góc độ của một hình thái kinh tế - xã hội, người ta lại thấy các nhân tố,
yếu tố kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội.
Ở góc độ chính trị học, tiếp cận của đề tài, nhân tố, yếu tố của đời sống
chính trị, nhà nước v.v.., người ta lại thấy các nhân tố về tư tưởng, về thể chế, về
phương thức hoạt động, về con người chính trị, trong đó có cán bộ chính trị.
Nghiên cứu các nhân tố, yếu tố về tổ chức chính trị trong đó hoạt động
chính trị của Đảng chính trị là nghiên cứu về những bộ phận cấu thành, những


24
tiền đề cần thiết lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Việc làm sáng tỏ các nhân tố
là rất có ý nghĩa quá trình nghiên cứu của các khoa học trong đó có chính trị
học.
1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở
đảng trong Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh
1.2.2.1. Nhân tố về lịch sử - xã hội
Trong lịch sử phát triển của mình, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mỗi giai
cấp, tầng lớp xã hội đều chịu ảnh hưởng chi phối của các nhân tố tự nhiên, kinh
tế - xã hội và lịch sử. Các nhân tố lịch sử - xã hội này ảnh hưởng ở những mức
độ khác nhau đến hoạt động chính trị, một lĩnh vực hoạt động chính trị quan
trọng của con người trong xã hội có giai cấp, có chính trị và Nhà nước.
Dân tộc Việt Nam từ Văn Lang, Âu Lạc cho đến Đại Việt rồi Việt Nam,

đã trải qua mấy nghìn năm lịch sử lâu dài có thể sánh vai cùng các quốc gia, dân
tộc hình thành sớm trên thế giới. Trong lịch sử ấy, dẫu thuở một nghìn năm Bắc
thuộc đất nước vẫn chói sáng với những cuộc khởi nghĩa vũ trang, những anh
hùng dân tộc, những tinh thần quật cường và quật khởi, ý chí độc lập dân tộc.
Lịch sử dân tộc lại càng rạng danh hơn từ khi có Đảng ra đời, tên tuổi Việt Nam
không chỉ được khôi phục mà ngày càng thêm rạng rỡ trước toàn thế giới. Dân
tộc Việt Nam ngẩng cao đầu đi lên.
Có được trang sử vẻ vang mấy ngàn năm lịch sử đó chính là nhờ dân tộc
Việt Nam có tinh thần yêu nước nồng nàn, tinh thần đoàn kết dân tộc vững chắc
và truyền thống đánh giặc giữ nước anh hùng bất khuất. Những nhân tố quan
trọng này được thấm nhuần, ngấm sâu đối với mỗi con người Việt Nam trong
suốt cả chiều dài lịch sử. Nhìn lại lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của
dân tộc Việt Nam; đánh giá vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
chúng ta càng khẳng định vai trò to lớn của giá trị truyền thống lịch sử - xã hội,
cũng như vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản việt Nam.


25
Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế, Việt Nam vẫn là một quốc gia có lợi thế về địa kinh tế, địa chính trị và địa
văn hoá, trong bối cảnh có nhiều thuận lợi và khó khăn thách thức lớn đan xen
nhau, thì việc phát huy và nhân lên sức mạnh lịch sử - xã hội, kế thừa có chọn
lọc và phát huy vai trò lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng trong sự nghiệp đổi
mới là vấn đề cần kíp, được quan tâm lãnh đạo của Đảng ta, bởi lẽ đây là những
nhân tố để vun đắp và xây dựng nên của bao thế hệ cha ông, chính vì thế mà họ
nâng niu, quý trọng. Các giá trị truyền thống trong Đảng càng có ảnh hưởng trực
tiếp đến mỗi cá nhân, đảng viên trong các tổ chức cơ sở đảng ở Đảng bộ khối
các cơ quan tỉnh ở tỉnh Thanh hoá và tăng thêm vai trò lãnh đạo của Đảng ở
từng tổ chức cơ sở đảng cũng như khả năng, năng lực lãnh đạo của đảng viên
trong các chi bộ. Tuy nhiên, cũng phải chú trọng khắc phục những mặt trái của

nhân tố lịch sử - xã hội như tính chất họ hàng, dòng tộc, cục bộ địa phương, gia
trưởng độc đoán, thói quen tập quán cũ đã ăn sâu bén rễ trong mỗi cán bộ, đảng
viên, đây chính là những nhân tố gây cản trở sự phát triển của lịch sử và làm
giảm uy tín của Đảng đối với nhân dân.
1.2.2.2. Nhân tố về tổ chức, cán bộ và hoạt động của tổ chức cơ sở đảng
Công tác tổ chức, cán bộ là một trong những nhân tố quan trọng, bảo đảm
sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng.
Thuật ngữ “tổ chức” (organization) bắt nguồn từ chữ Hy Lạp (organon),
có nghĩa là công cụ, dụng cụ, khái niệm công cụ ở đây chỉ chức năng của các
loại hình tổ chức; tổ chức chính trị, tổ chức xã hội, tổ chức đoàn thể v.v.. Trên
thực tế cho đến nay tuỳ góc độ nhận thức khác nhau mà người ta đưa ra những
định nghĩa khác nhau. Ở phương diện chung nhất có thể nhận thấy rằng tổ chức
luôn phản ánh hình ảnh của xã hội, là sợi dây liên kết, gắn bó con người, các
thành viên lại với nhau, thành các nhóm, các bộ phận xã hội tồn tại và hoạt động
trên cơ sở mục tiêu chung, có sự quy định của pháp luật. Vì thế, khái niệm tổ
chức được hiểu như sau: Tổ chức là một nhóm xã hội (một tập thể) bao gồm


×