Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Các huyện uỷ huyện ven biển tỉnh thanh hoá lãnh đạo phát triển văn hoá giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.51 KB, 108 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hố có vai trò rất quan trọng, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát
triển toàn diện đất nước, là nền tảng tinh thần của tồn xã hội. Vì thế trong
mọi thời kỳ cách mạng, phát triển văn hố ln là mục tiêu phấn đấu của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Đặc biệt trong thời kỳ đổi mới hiện nay, văn hoá
lại càng quan trọng và cần thiết. Từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay,
Đảng ta vẫn luôn quan tâm đến vấn đề xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên
tiên, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (khoá
VIII) năm 1998 đánh dấu sự phát triển to lớn của văn hố khơng chỉ dừng lại
ở tư duy lý luận mà cịn ở giá trị thực tiễn của nó. Trong sự nghiệp đổi mới
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước, mở cửa hợp tác giao lưu và
hội nhập thế giới, Đảng ngày càng nhận rõ vai trị quan trọng của văn hố đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội. Văn hố khơng chỉ là nguồn lực nội sinh mà
cịn tạo dựng cho chúng ta khả năng tiếp thu, cải biến tinh hoa văn hoá thế
giới thành yếu tố nội sinh, phục vụ cho sự phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa của đất nước. Để đưa công cuộc đổi mới đến thắng lợi, xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, Đảng ta nhất quán khẳng định
và thực hiện ba nhiệm vụ cơ bản: “Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát
triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với phát triển văn hoá nền tảng tinh thần của xã hội’’ [21, tr.213]. Văn kiện Đại hội lần thứ XI của
Đảng nhấn mạnh: “Chăm lo phát triển văn hoá’’[22, tr.223], “Tiếp tục xây dựng
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bảo tồn và phát huy các
giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
loại’’[22, tr.189].
Như vậy, phát triển văn hoá là một trong ba nhiệm vụ trọng tâm đảm bảo
cho công cuộc đổi mới thắng lợi. Song, văn hố chỉ có thể phát triển đúng


2


hướng, phục vụ đắc lực công cuộc đổi mới, xứng đáng với vai trị của mình,
khi được Đảng coi trọng và tăng cường sự lãnh đạo. Nghiên cứu tìm giải pháp
cho vấn đề này, trong giai đoạn hiện nay, thực sự cần thiết.
Sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh (CNH, HĐH) đất nước đang đi vào chiều
sâu, diễn ra rất đa dạng, phong phú ở các địa phương trong cả nước. Hơn nữa,
cùng với những mặt tích cực của nền kinh tế thị trường, của hội nhập, mở cửa,
mặt trái của nó cũng đã tác động mạnh mẽ vào đời sống văn hố, tinh thần của
nhân dân. Trong khi đó, các thế lực thù địch lại tăng cường phá hoại công
cuộc đổi mới mà một trong những trọng tâm phá hoại của chúng là văn hố.
Vì vậy, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phát triển văn hoá là nhiệm
vụ to lớn, vừa thưòng xuyên, vừa lâu dài của mỗi đảng bộ.
Trong gần 30 năm lãnh đạo công cuộc đổi mới, nhất là từ khi Đảng ban
hành Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5, Khóa VIII (năm 1998) “về
xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc”, các Huyện uỷ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá đã coi trọng lãnh đạo thực
hiện Nghị quyết và đạt được những kết quả quan trọng. Văn hoá ở các huyện
đã phát triển một bước trên tất cả các phương diện: tư tưởng, đạo đức, lối
sống; giáo dục, khoa học; văn học, nghệ thuật; thơng tin đại chúng; giao lưu
văn hố với nước ngồi; thể chế văn hố...góp phần quan trọng thúc đẩy sự
nghiệp đổi mới ở địa phương. Tuy nhiên, văn hoá ở các huyện phát triển chưa
mạnh mẽ và liên tục, nhiều vấn đề bức xúc về văn hoá chưa được giải quyết
cơ bản, như: chất lượng giáo dục còn thấp; tỷ lệ sinh con thứ ba cao hơn mức
bình quân chung của tỉnh; tư tưởng, đạo đức, lối sống không lành mạnh có xu
hướng phát triển ở nhiều nơi, thang giá trị đạo đức biến đổi; hiệu quả hoạt
động hệ thống thơng tin đại chúng thấp; giao lưu văn hố với nước ngồi hạn
chế; các thế chế văn hố thiếu đồng bộ, việc thực hiện ở khá nhiều nơi chưa
nghiêm túc; các tiêu cực và tệ nạn xã hội ở cơ sở còn diễn biến phức tạp, chưa
được ngăn chặn và đẩy lùi.



3
Các huyện ủy còn lúng túng trong lãnh đạo phát triển văn hoá, chất lượng
hiệu quả lãnh đạo hạn chế, nội dung và phương thức lãnh đạo chưa được đổi
mới. Có nơi cịn có biểu hiện bng lỏng lãnh đạo phát triển văn hoá; chưa
thường xuyên sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm. Những yếu kém đó đã hạn
chế khơng nhỏ sự phát triển văn hoá của địa phương dẫn đến tình trạng văn
hố phát triển khơng tương xứng với phát triển kinh tế.... Vì thế, việc nghiên
cứu tìm giải pháp tăng cường lãnh đạo phát triển văn hoá của các Huyện uỷ
huyện ven biển tỉnh Thanh hoá hiện nay là vấn đề cần thiết.
Để góp phần giải quyết vấn đề bức thiết nêu trên, tôi chọn và thực hiện
đề tài luận văn thạc sĩ: “Các Huyện uỷ huyện ven biển Tỉnh Thanh Hoá
lãnh đạo phát triển văn hoá giai đoạn hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đảng lãnh đạo phát triển văn hoá và các cấp uỷ địa phương lãnh đạo
phát triển văn hoá trong điều kiện hiện nay là chủ trương lớn của Đảng, được
các cơ quan, các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, đạt kết quả quan trọng.
Kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa học được thể hiện ở các đề tài
khoa học, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ và được đăng tải trên các sách, báo,
tạp chí. Tiêu biểu là:
* Sách
- PGS Lê Văn Lý (chủ biên), (1999); Sự lãnh đạo của Đảng trong một số
lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội nước ta; Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Duy Bắc- Tuyển chọn, Về lãnh đạo, quản lý văn học nghệ
thuật trong cơng cuộc đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2001),
- Nguyễn Vũ Tiến, Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trong thời
ký đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.2005….)
- Bộ Văn hóa Thơng tin, Cục văn hóa Thơng tin cơ sở (1997), Một số
vấn đề xây dựng làng - ấp văn hóa hiện nay, Nxb Hà Nội.
- Bộ Văn hóa Thơng tin, Cục Văn hóa Thơng tin cơ sở (1997), Xây dựng
gia đình văn hóa trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.



4
- Bộ Văn hóa Thơng tin, Cục Văn hóa Thơng tin cơ sở (1998), Hỏi và
đáp về xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa, nếp sống văn hóa, tổ chức
và quản lý lễ hội truyền thống, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Dương Thanh Tam, Lê Văn Thinh (1999), Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa mới ở khu dân cư, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Ban chỉ đạo Trung ương (2000), Hỏi và đáp về phong trào Toàn dân
xây dựng đời sống văn hóa, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
- Văn Đức Thanh, Về xây dựng Mơi trường văn hóa cơ sở(2001), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Lê Quý Trấn, Nguyễn Văn Tam, Trần Thị Ánh Tuyết Hội nông dân
Việt Nam với phong trào gia đình văn hố, thơn ấp, bản, làng văn
hoá"(2001), Nxb Lao Động, Hà Nội.
* Luận văn, luận án
- Võ Công Anh, Nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng bộ thành phố
Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp phát triển và quản lý văn hoá trên địa bàn
Thành phố giai đoạn hiện nay (2005), Luận văn thạc sỹ xây dựng Đảng.
- Nguyễn Đức Nhuận, Tỉnh uỷ Thái Bình lãnh đạo công tác giáo dục
phổ thông, (2007), Luận văn thạc sỹ Xây dựng Đảng.
- Bun Thoong Chít Ma Ni (2010), “Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lãnh
đạo xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn hiện nay”. Luận án tiến sĩ
- Nguyễn Hồng Quân, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng đời
sống văn hố nơng thơn từ năm 1997 đến năm 2010 (2012), Luận văn thạc sĩ
Lịch sử Đảng.
- Bùi Thị Kim Chi, Những quan điểm cơ bản về văn hoá của Đảng trong
thời kỳ đổi mới (2006), Luận văn thạc sĩ Văn hoá học.
- Nguyễn Danh Tiên, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp văn hoá
trong những năm đổi mới từ 1991 đến 2001 (2002), Luận văn thạc sĩ Lịch sử.



5
- Trần Thị Bích Hiền, Q trình thực hiện Nghị quyết hội nghị lần thứ
năm BCH Trung ương Đảng (khoá VIII) về xây dựng và phát triển nền văn
hoá Việt Nam từ năm 1998 đến 2006 (2008), Luận văn Lịch sử Đảng.
- Lê Văn Thư, huyện uỷ Từ Liêm, thành phố Hà Nội lãnh đạo cơng tác
văn hố - xã hội trong giai đoạn hiện nay (2009), Luận văn thạc sĩ Xây dựng
Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Lê Văn Diến, Các huyện uỷ ở tỉnh Bắc Ninh lãnh đạo xây dựng nông
thôn mới trong giai đoạn hiện nay (2012), Luận văn thạc sĩ Xây dựng Đảng.
- Nguyễn Quốc Thế, Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp lãnh đạo xây dựng nông
thôn mới giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Xây dựng Đảng.
Đến nay, chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu toàn diện về các
huyện uỷ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo phát triển văn hoá giai
đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về các huyện uỷ
huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo phát triển văn hoá, luận văn đề xuất
những giải pháp chủ yếu, khả thi tăng cường sự lãnh đạo của các huyện uỷ đối
với phát triển văn hoá trong những năm tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về các huyện uỷ
huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo phát triển văn hoá giai đoạn hiện nay.
- Dự báo những nhân tố tác động, đề xuất phương hướng và những giải
pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo của các huyện uỷ huyện ven biển tỉnh
Thanh Hoá đối với phát triển văn hoá đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Các Huyện uỷ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo phát triển văn
hoá giai đoạn hiện nay.


6
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu: sự lãnh đạo phát triển văn hoá của các huyện uỷ ở
các huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá, gồm: Huyện uỷ Nga Sơn; Huyện uỷ Hậu
Lộc; Huyện uỷ Hoằng Hoá; Huyện uỷ Quảng Xương; Huyện uỷ Tĩnh Gia.
- Thời gian khảo sát đánh giá thực tiễn từ năm 1998 (từ khi Đảng ban
hành Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5, Khóa VIII “về xây dựng và
phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”) đến nay.
- Phương hướng và giải pháp đề xuất trong luận văn có giá trị đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của luận văn
- Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và đường lối của Đảng ta về lĩnh vực văn hoá và Đảng lãnh đạo văn hoá.
- Cơ sở thực tiễn của luận văn là thực trạng phát triển văn hoá ở các
huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá và thực trạng các huyện uỷ các huyện ven
biển tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo phát triển văn hoá từ năm 1998 đến nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và các
phương pháp: lịch sử kết hợp với lôgic; phân tích kết hợp với tổng hợp; điều
tra, khảo sát, thống kê, tổng kết thực tiễn…
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn về các huyện uỷ
huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo phát triển văn hoá; những kinh
nghiệm về các huyện uỷ vùng này, lãnh đạo phát triển văn hoá từ năm 1998
đến nay; những giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của các huyện uỷ huyện ven
biển tỉnh Thanh Hoá đối với phát triển văn hoá trong những năm tới.

- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho các huyện uỷ ở ven biển tỉnh Thanh Hoá trong lãnh đạo phát triển
văn hoá đến năm 2020.


7
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho các huyện uỷ ở ven biển tỉnh Thanh Hoá trong lãnh đạo phát triển
văn hoá đến năm 2020.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn cịn có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy và học tập mơn xây dựng Đảng ở
Trường Chính trị tỉnh Thanh Hố và các trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh Thanh Hoá.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÁC HUYỆN UỶ
HUYỆN VEN BIỂN TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN
VĂN HÓA GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1. HUYỆN, HUYỆN ỦY VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở CÁC HUYỆN VEN
BIỂN TỈNH THANH HỐ

1.1.1. Khái qt về tỉnh Thanh Hố, các huyện, Huyện uỷ ven biển
của tỉnh Thanh Hoá
1.1.1.1. Khái quát về tỉnh Thanh Hoá, các huyện ở ven biển tỉnh

Thanh Hoá
* Khái quát về tỉnh Thanh Hoá
Thanh Hoá nằm ở cực Bắc miền Trung nước ta. Phía Bắc giáp với ba
tỉnh Sơn La, Hồ Bình và Ninh Bình; phía Nam giáp tỉnh Nghệ An; phía Tây
giáp tỉnh Hủa Phăn (nước Cộng hồ Dân chủ Nhân dân Lào), phía Đơng là
Vịnh Bắc Bộ. Tỉnh có diện tích tự nhiên 11.168km2, chia làm 3 vùng rõ rệt,
gồm: vùng núi và trung du; vùng đồng bằng, có đồng bằng sơng Mã là đồng
bằng thứ ba sau đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sơng Hồng; vùng
ven biển có diện tích 110.655 ha, chiếm 9,95% diện tích tồn tỉnh,với bờ biển
dài 102 km, địa hình tương đối bằng phẳng, có nhiều cửa lạch: Lạch Sung,
Lạch Trường. Lạch Trào, Lạch Hới, Lạch Bạng…
Tỉnh chịu tác động từ vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, các tỉnh Bắc Lào
và vùng trọng điểm kinh tế Trung Bộ, ở vị trí cửa ngõ nối liền Bắc Bộ với Trung
Bộ, có hệ thống giao thơng thuận lợi như: đường sắt xuyên Việt, đường Hồ Chí
Minh, các quốc lộ 1A, 10, 45, 47, 217; cảng biển nước sâu Nghi Sơn và hệ thống
sơng ngịi thuận tiện cho lưu thơng Bắc Nam, với các vùng trong tỉnh và đi quốc
tế. Hiện tại, Thanh Hóa có sân bay Sao Vàng và đang dự kiến mở thêm sân bay
quốc tế sát biển phục vụ cho Khu kinh tế Nghi Sơn và khách du lịch.


9
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với 4 mùa rõ rệt, Thanh Hố
có nhiều thuận lợi về phát triển nơng nghiệp. Tỉnh có nguồn tài ngun đất,
rừng, biển, khoáng sản, nước rất đa dạng, phong phú với trữ lượng lớn. Tồn tỉnh
có 27 đơn vị hành chính, gồm 24 huyện, 1 thành phố, 2 thị xã. Theo kết quả điều
tra dân số năm 2009, Thanh Hóa có 3.400.239 người, đứng thứ ba nước ta, sau
Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Trên địa bàn tỉnh các dân tộc sinh sống chủ
yếu là Kinh, Mường, Thái, Thổ, Dao, Mông, Khơ mú. Người Kinh chiếm phần
lớn dân số của tỉnh và có địa bàn phân bố rộng khắp. Tỉnh có 4 tơn giáo chính,
số tín đồ khơng lớn: (Phật giáo: khoảng 20.000 tín đồ, Cơng giáo: khoảng

139.170 tín đồ, Tin lành: khoảng 186 tín đồ, Cao đài: khoảng 100 tín đồ).
Tỉnh có bề dày lịch sử và truyền thống văn hố độc đáó, nổi bật là văn hố
Đơng Sơn, đã toả sáng rực rỡ trong đất nước của các Vua Hùng. Suốt mấy ngàn
năm lịch sử dựng nước và giữ nước, Thanh Hóa đã xuất hiện nhiều anh hùng dân
tộc, danh nhân tiêu biểu như: Bà Triệu, Lê Hồn, Lê Lợi, Khương Cơng Phụ, Lê
Văn Hưu, Lê Thánh Tông, Đào Duy Từ,... Cùng với những trang lịch sử oai
hùng, tỉnh có 1.535 di tích, trong đó có 134 di tích được xếp hạng quốc gia, 412
di tích đã xếp hạng cấp tỉnh với các di tích nổi tiếng như Núi Đọ, Đơng Sơn, khu
di tích Bà Triệu, Lê Hồn, thành Nhà Hồ, Lam Kinh, Ba Đình, Hàm Rồng...
càng khẳng định xứ Thanh là một vùng “Địa linh nhân kiệt”.
* Các huyện ven biển tỉnh Thanh Hố
Thanh Hố có 5 huyện đồng bằng ven biển là: Tĩnh Gia, Quảng Xương,
Hoằng Hóa, Hậu Lộc và Nga Sơn. Tổng diện tích là 813 km 2, chiếm 22,8%
diện tích cả tỉnh; với 1.075.363 người ( chiếm 25% dân số cả tỉnh). Các huyện
ven biển có điều kiện tự nhiên, địa hình, thổ nhưỡng phong phú, đa dạng.
Song chủ yếu là đất chua phèn, đất mặn, đất cát pha.
Các huyện có tiềm năng, thế mạnh về kinh tế nông nghiệp, kinh tế biển
và du lịch. Qua gần 30 năm đổi mới, nhất là những năm gần đây, kinh tế của
các huyện đã có bước phát triển khá toàn diện. Tăng trưởng kinh tế thời kỳ


10
2001 - 2005 bình quân đạt từ 8 đến 10%/năm, từ năm 2005 đến nay bình quân
đạt trên 10%/năm; GDP bình quân đầu người năm 2005 đạt gần 5.000.000
đồng, từ năm 2005 đến nay đạt từ 12 -gần 20 triệu đồng/người/năm. Kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường.
Cơ cấu kinh tế của các huyện chuyển dịch đúng hướng, đã tận dụng và
khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh về kinh tế. Một số địa phương đã
và đang triển khai xây dựng các mơ hình cánh đồng đạt giá trị trên 50 triệu
đồng/ha/năm và hộ nơng dân có thu nhập trên 50 triệu đồng/năm trở lên. Các

dự án cải tạo tầm vóc đàn bị, ni bò sữa, lợn ngoại hướng nạc theo hướng
trang trại đã và đang phát triển ở nhiều địa phương. Một số cụm sản xuất tiểu
thủ công nghiệp, làng nghề ở các huyện Nga Sơn, Quảng Xương, Hoằng Hóa
đã hình thành và đi vào hoạt động có hiệu quả. Sự nghiệp xây dựng nông thôn
mới đang được triển khai mạnh mẽ, đạt kết quả bước đầu, đến nay có 3 xã
được cơng nhận đạt 19 tiêu chí xây dựng nơng thơn mới; 100% hộ sử dụng
điện thắp sáng; mạng điện thoại mở rộng đến 100% số xã; trên 80% trường
học được xây dựng khang trang, kiên cố; đường giao thông nông thôn được
rải nhựa hoặc bê - tông. Sự nghiệp giáo dục - đào tạo phát triển toàn diện ở tất
cả các ngành học, cấp học, chất lượng giáo dục có nhiều tiến bộ. Đến nay, 171
xã, thị trấn đã hoàn thành và giữ vững phổ cập tiểu học đúng độ tuổi, 5 huyện
hoàn thành phổ cập trung học cơ sở; phong trào xây dựng trường chuẩn quốc
gia đang được triển khai rộng khắp. Giáo dục dạy nghề đã từng bước đáp ứng
được yêu cầu hướng nghiệp cho người lao động. Hoạt động y tế, chăm sóc
sức khỏe nhân dân đã cơ bản đáp ứng được u cầu. Cơng tác chăm sóc và
bảo vệ bà mẹ và trẻ em có nhiều tiến bộ, đã hạ tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi suy
dinh dưỡng xuống còn 18%, tỷ lệ tăng dân số dưới 1%.
Các hoạt động văn hóa, thơng tin, thể dục, thể thao được mở rộng và
nâng cao về chất lượng. Phong trào xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa
được triển khai rộng khắp các xã; đến nay hơn 80% số thơn, làng đăng kí xây


11
dựng thơn, làng văn hóa, trên 80% gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa.
Cơng tác giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo được triển khai đồng bộ
thơng qua các chương trình dự án. Số hộ nghèo đã giảm từ trên 20% năm
2001 xuống dưới 15% năm 2010. Hơn 85% số hộ có nhà kiên cố và bán kiên
cố. Đời sống nhân dân nhìn chung ổn định và được cải thiện, số hộ giàu và
khá tăng lên, số hộ phải cứu tế hàng năm giảm dần.
An ninh chính trị được đảm bảo, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.

Tuy nhiên, ở các huyện vẫn còn nhiều khó khăn trong phát triển kinh
tế, văn hố, xã hội. Luôn phải đối mặt với những thách thức do tác động của
tự nhiên như: lũ lụt, bão lớn, nắng nóng, khô hạn, thiếu nước ngọt, công
nghiệp và tiểu thủ công nghiệp quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu; kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Các
tệ nạn xã hội như cờ bạc, ma túy, mê tín dị đoan, tập tục lạc hậu trong việc
cưới, tang, lễ hội chưa được đẩy lùi một cách cơ bản, ở nhiều nơi lại có xu
hướng gia tăng phức tạp.
Nhân dân các huyện ven biển tỉnh Thanh Hố, có truyền thống yêu nước,
kiên cường, bất khuất trong chống giặc ngoại xâm, đóng góp rất lớn sức người,
sức của cho các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm dành độc lập dân tộc, nhất là
trong kháng chiến chống thực dân pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Trong lao
động sản xuất xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhân dân cần cù, chịu khó, sáng tạo,
tiết kiệm đã góp phần đáng kể vào cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nói
chung và nhất là sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo hiện nay.
1.1.1.2. Các Huyện uỷ huyện ven biển tỉnh Thanh Hố - Chức năng,
nhiệm vụ, vai trị và đặc điểm
* Chức năng:
Các Huyện ủy huyện ven biển tỉnh Thanh hoá là cơ quan lãnh đạo của
Đảng bộ huyện giữa hai kỳ đại hội và có các chức năng sau đây:
Chức năng quan trọng hàng đầu của các Huyện ủy là lãnh đạo tất cả các
hoạt động trên địa bàn huyện, bao gồm các nội dung: Lãnh đạo các tổ chức đảng


12
xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh, lãnh đạo các lĩnh vực của đời sống xã
hội; lãnh đạo chính quyền huyện và Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân,
xây dựng các tổ chức đó vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Chức năng lãnh đạo của các Huyện ủy huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá
được thể hiện cụ thể:

- Ban hành quy chế hoạt động, chương trình làm việc tồn khóa của Ban
Chấp hành Đảng bộ huyện; quy chế làm việc của Uỷ ban Kiểm tra Huyện ủy.
- Quán triệt, triển khai và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương,
nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh ủy, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện;
cụ thể hóa thành chương trình hành động, kế hoạch thực hiện và nghị quyết
chuyên đề trong từng thời gian và trên từng lĩnh vực hoạt động.
- Quyết định những chủ trương, nhiệm vụ và giải pháp lớn về kinh tế-xã
hội, quốc phịng, an ninh, xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân. Tổ chức triển khai thực hiện và kiểm tra, đôn đốc, giải
quyết những vấn đề phát sinh do yêu cầu thực tiễn đặt ra.
- Quyết định những vấn đề về tổ chức và cán bộ thuộc diện Huyện ủy
quản lý, giới thiệu những cán bộ ra ứng cử vào các chức vụ chủ chốt của Hội
đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân huyện, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể.
- Quyết định việc khen thưởng, kỷ luật và xem xét giải quyết những
khiếu nại kỷ luật Đảng theo quy định của Điều lệ Đảng.
Như vậy, sự lãnh đạo của các Huyện ủy ở các huyện ven biển tỉnh
Thanh hoá là: trên cơ sở các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh uỷ
Thanh Hố, tình hình đặc điểm của huyện xác định các nhiệm vụ cụ thể, đề ra
các chủ trương, biện pháp và lãnh đạo, chỉ đạo các cấp tổ chức nhân dân thực
hiện. Huyện ủy thống nhất lãnh đạo công tác tổ chức và cán bộ, trực tiếp quản
lý đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý theo phân cấp quản lý
cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời phát huy trách nhiệm của
các tổ chức trong hệ thống chính trị và người đứng đầu trong các tổ chức này.


13
Ngồi ra Huyện ủy cịn có chức năng đề xuất, kiến nghị với Tỉnh ủy về
những chủ trương, biện pháp thực hiện đường lối của Đảng, nghị quyết của
Tỉnh ủy trên địa bàn huyện, về những vấn đề liên quan đến huyện trước khi

cấp trên quyết định.
* Nhiệm vụ
Điều 19 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định: ‘Cấp uỷ huyện,
quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh uỷ (gọi tắt là Huyện uỷ, Quận uỷ, Thị
uỷ, Thành uỷ) lãnh đạo thực hiện nghị quyết đại hội đại biểu, nghị quyết, chỉ
thị của cấp trên’’. Trên cơ sở quy định của Điều lệ Đảng và từ thực tiễn cho
thấy nhiệm vụ chủ yếu của các Huyện uỷ huyện ven biển tỉnh Thanh hố là:
Các Huyện uỷ có nhiệm vụ cụ thể hóa nghị quyết đại hội Đảng bộ
huyện thành các chương trình cơng tác tồn khóa, chương trình cơng tác năm,
từ đó ra các quyết định lãnh đạo (chỉ thị, nghị quyết, thông báo, kết luận, đề
án, kế hoạch...) trên tất cả các lĩnh vực như lãnh đạo phát triển kinh tế, văn
hố - xã hội, quốc phịng, an ninh, xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền,
Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể... trong đó trọng tâm là lãnh đạo phát triển
kinh tế-xã hội, an ninh quốc phòng, cơng tác xây dựng Đảng, xây dựng chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân từ huyện đến cơ sở.
Các Huyện ủy có nhiệm vụ triển khai và tổ chức thực hiện các nghị
quyết, chỉ thị của cấp trên thơng qua việc xây dựng chương trình hành động,
đề án công tác, phân công cấp ủy viên phụ trách từng mặt công tác. Sơ kết và
tổng kết việc thực hiện chỉ thị, nghị quyết, đề xuất và kiến nghị với Tỉnh ủy
và Trung ương những vấn đề vượt quá phạm vi thẩm quyền của cấp mình.
Các Huyện ủy cịn có nhiệm vụ cụ thể hóa các chủ trương, chính sách
của Đảng, nghị quyết của Tỉnh ủy trong nhiệm kỳ, chuẩn bị nội dung và kế
hoạch tiến hành đại hội tổ chức cơ sở Đảng và đại hội Đảng bộ huyện theo
quy định của Điều lệ Đảng và sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ. Xây dựng và thực
hiện quy chế làm việc của Huyện ủy, đảm bảo phát huy vai trị lãnh đạo tồn


14
diện của Huyện ủy trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của các tổ chức cơ sở Đảng, cán bộ,

đảng viên, các cấp chính quyền, các ngành
* Vai trò của các Huyện ủy huyện ven biển tỉnh Thanh hoá được thể
hiện trên các phương diện sau đây:
Trong mối quan hệ với Tỉnh ủy Thanh hoá: các Huyện ủy là cấp dưới trực
tiếp của Tỉnh ủy lãnh đạo toàn diện các mặt hoạt động trên địa bàn huyện, bao
gồm: Lãnh đạo xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh, lãnh đạo các lĩnh
vực kinh tế, văn hoá- xã hội, quốc phòng-an ninh, lãnh đạo hoạt động của các tổ
chức trong hệ thống chính trị, các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Trong mối quan hệ với các tổ chức cơ sở đảng trong huyện: các Huyện
ủy là cấp trên trực tiếp của các tổ chức đó. Lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra mọi
hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng, đảm bảo thực hiện thắng lợi các nhiệm
vụ chính trị ở các địa phương trong huyện.
Đối với hệ thống chính trị: các Huyện uỷ là cơ quan lãnh đạo của các
Đảng bộ huyện - thành viên của hệ thống chính trị và là hạt nhân lãnh đạo của hệ
thống chính trị.
Các Huyện ủy quyết định mọi vấn đề về tổ chức và cán bộ trong hệ thống
chính trị bao gồm, quyết định việc phân cơng, phân cấp công tác tổ chức và cán
bộ, công tác đánh giá, công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng,
đề bạt, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện chính sách cán bộ.
Đối với Mặt trận Tổ quốc huyện: các Huyện uỷ là cơ quan lãnh đạo của
các đảng bộ huyện - thành viên của Mặt trận Tổ quốc và là hạt nhân lãnh đạo
Mặt trận Tổ quốc huyện.
Vai trò của các Huyện ủy còn được thể hiện bởi vai trò của cấp huyện
đối với sự phát triển của tỉnh và cả nước về các mặt kinh tế, chính trị, văn
hóa-xã hội, quốc phịng-an ninh. Huyện là đơn vị nối liền cơ sở với tỉnh nên
huyện mạnh thì tỉnh mạnh và cả nước mạnh.


15
Các Huyện ủy là chủ thể lãnh đạo triển khai các chương trình dự án trên

địa bàn, khai thác tiềm năng, thế mạnh, huy động các nguồn lực trong và
ngoài khu vực phục vụ xây dựng các cơng trình trọng điểm có ý nghĩa chiến
lược về kinh tế, xã hội, quốc phòng-an ninh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Các Huyện ủy lãnh đạo chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
để các tổ chức này có đủ tư cách và khả năng giao lưu, liên kết với các địa
phương, các ngành, các cơ quan trong tỉnh và cả nước vì sự phát triển mọi mặt
của huyện.
* Đặc điểm của các huyện uỷ ở ven biển tỉnh Thanh Hoá
Đặc điểm về đối tượng lãnh đạo của các Huyện uỷ
- Về các đảng bộ trực thuộc Huyện uỷ, đội ngũ đảng viên
Các đảng bộ ở các huyện ven biển đều có hệ thống tổ chức từ huyện
đến cơ sở và được thành lập từ rất sớm, phát triển nhanh cả về số lượng đảng
viên cũng như về tổ chức đảng. Hiện nay có 356 tổ chức cơ sở đảng, 2.293 chi
bộ dưới cơ sở, gần 49.000 đảng viên. Tất cả các xã, thị trấn, các cơ quan, trường
học, các thơn làng trong huyện đều có tổ chức đảng. Ngồi các đảng bộ xã, thị
trấn cịn có các đảng bộ trực thuộc như: Đảng bộ cơ quan Uỷ ban nhân dân
(UBND) huyện; Đảng bộ Quân sự Huyện; Đảng bộ cơ quan Công an huyện...
Đặc điểm về tổ chức của các huyện uỷ: các Huyện uỷ đều có Ban
Thường vụ, Thường trực và các ban tham mưu theo quy định của Đảng. Số
lượng huyện uỷ viên của 5 đảng bộ huyện nhiệm kỳ 1996 - 2000 là 165; Tuổi
đời trung bình là 45,64; tổng số nữ 26; Trình độ văn hố bậc phổ thơng trung
học là 137; Trình độ chun mơn bậc đại học có 99, bậc trung cấp 37; Trình
độ lý luận chính trị trung cấp: 108, cao cấp, cử nhân: 48. Nhiệm kỳ 2010 2015 số lượng huyện uỷ viên là 225; Tuổi đời trung bình 45,64; tổng số nữ
30; Trình độ chun mơn bậc đại học là 149, bậc trung cấp 37, khơng có trình
độ sơ cấp; Trình độ văn hố bậc phổ thơng trung học là 200; trình độ lý luận
chính trị trung cấp: 39, cao cấp, cử nhân: 179


16
Qua khảo sát cho thấy, số lượng và chất lượng huyện uỷ viên đã được

tăng cường và nâng cao, đáp ứng nhu cầu lãnh đạo trong thời kỳ mới; Ở các
đảng bộ xã, thị trấn có số lượng đảng viên đơng so với bình qn chung của
cả tỉnh, tuổi đời bình quân khá cao. Số đảng viên là cán bộ hưu trí chiếm gần
50%. Các đảng bộ huyện đều có số lượng khá lớn đảng viên đi làm ăn xa quê
hương dài ngày. Ví dụ: Đảng bộ huyện Nga Sơn hằng năm có 282 đảng viên,
Đảng bộ huyện Hậu Lộc có trên 350 đảng viên; Đảng bộ huyện Hoằng Hố
có trên 400 đảng viên thường xuyên đi làm ăn xa quê từ 3 tháng đến trên một
năm hoặc từ 2 đến 3 năm.
Đặc điểm về nhiệm vụ chính trị, mơi trường hoạt động:
Nhiệm vụ chính trị của các Đảng bộ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá rất
to lớn, nặng nề. Các Huyện uỷ chịu trách nhiệm trước hết và cao nhất về tổ
chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đó. Tổ chức thực hiện công cuộc đổi mới,
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở địa phương, phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giữ ổn định chính
trị, đảm bảo quốc phòng an ninh, trên địa bàn kinh tế thị trường nhìn chung
chưa phát triển mạnh, tiềm năng, thế mạnh về phát triển kinh tế chưa có nhiều
điều kiện thuận lợi để khai thác và phát huy; xuất phát điểm đi vào xây dựng
chủ nghĩa xã hội theo cơ chế mới còn rất thấp; là những huyện trọng điểm về
an ninh, về giữ gìn trật tự xã hội, góp phần quan trọng giữ vững lãnh hải của
tổ quốc...Nhiệm vụ chính trị nặng nề ấy là thước đo năng lực lãnh đạo của các
Huyện uỷ nói chung, các cấp uỷ đảng nói riêng, cũng là điều kiện thuận lợi để
các Huyện uỷ thể hiện rõ vai trị của mình trong điều kiện hiện nay.
Các Huyện uỷ huyện ven biển tỉnh Thanh Hố hoạt động trong mơi
trường có thuận lợi, song cịn rất nhiều khó khăn: các huyện uỷ lãnh đạo phát
triển kinh tế xã hội đảm bảo quốc phòng an ninh trong điều kiện dân số của
các huyện rất lớn (lớn nhất so với các huyện của Thanh Hố), ln phải đối
phó với những hậu quả của những cơn bão áp thấp nhiệt đới (số lượng cơn


17

bão và áp thấp nhiệt đới vào các huyện và gây ảnh hưởng lớn đến các huyện
vào loại lớn nhất nước ta) trong khi đó kinh tế biển của các huyện luôn là một
trong những mũi nhọn trọng yếu trong phát triển kinh tế - xã hội, trình độ dân
trí tuy đã được nâng lên song vẫn còn thấp so với nhiều huyện trong tỉnh; các
huyện lại xa trung tâm nên việc thu hút đầu tư còn nhiều hạn chế; kinh tế thị
trường tuy đã phát triển song nhìn chung chưa mạnh mẽ; cơ sở hạ tầng kinh tế
- xã hội ở nhiều nơi xuống cấp nghiêm trọng; điểm nóng vẫn còn sảy ra ở một
số nơi, nhất là ở các huyện triển khai các dự án phải giải phóng mặt bằng lớn
như ở huyện Tĩnh Gia; tỉ lệ hộ dân nghèo vẫn còn cao so với nhiều huyện
trong tỉnh; các tệ nạn xã hội ở một số nơi rất phức tạp...
1.1.2. Văn hoá và phát triển văn hoá ở các huyện ven biển tỉnh
Thanh Hoá - Khái niệm, nội dung, đặc điểm và vai trò
1.1.2.1. Khái niệm, nội dung, đặc điểm và vai trị của văn hố ở các
huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá
* Khái niệm và nội dung của văn hoá.
Thuật ngữ văn hoá xuất hiện từ lâu đời trong ngôn ngữ nhân loại và cho
đến nay chưa có khái niệm nào về văn hố được sự đồng thuận tuyệt đối. Để
có thể đưa ra khái niệm về văn hố có nhiều nhân tố hợp lý, đúng đắn và tạo
được sự đồng thuận, phù hợp với xu hướng phát triển, tiến bộ của nhân loại,
không thể không nhận thức sâu sắc quan niệm mácxit về văn hoá. Trước hết là
những quan điểm của C.Mác và Ph. Ănghen xem văn hố như là hình thức
biểu hiện và là kết quả hoạt động lao động của con người. Các Mác và
Ph.Ăngghen viết: "Đối với con người, bản chất con người đã trở thành giới tự
nhiên đến mức nào, hoặc tự nhiên đã trở thành bản chất của con người đến
mức nào. Do đó căn cứ vào quan hệ đó có thể xét đốn về trình độ văn hố
chung của con người" [55].
Như vậy, văn hoá là sự phát triển “lực lượng bản chất người’’ nhằm
khám phá tự nhiên, phát triển xã hội và hồn thiện chính bản thân mình. Văn



18
hoá và bản chất con người là mối quan hệ khăng khít, tác động qua lại lẫn
nhau. Do đó, nói tới văn hố là nói tới con người, nói tới việc phát huy “lực
lượng bản chất người" để khám phá tự nhiên, phát triển xã hội và hồn thiện
chính bản thân con người.
V.I. Lênin đã phát triển cụ thể hoá quan điểm về văn hoá của C.Mác và
Ănghen khi bàn về cách mạng văn hố. Trong q trình Đảng lãnh đạo sự
nghiệp xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Người nhấn mạnh:
trước đây cách mạng vơ sản phải đặt trọng tâm vào vấn đề chính trị và việc
giành chính quyền; ngày nay, khi giai cấp cơng nhân đã giành được chính
quyền, bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội thì những nhiệm vụ văn hố được
đặt ra. Đồng thời Người khẳng định: "Bây giờ chúng ta chỉ cần hồn thành
cuộc cách mạng văn hố là đủ để nước ta trở thành một nước hoàn toàn xã hội
chủ nghĩa’’ [44, tr.429].
Điều đó cho thấy văn hố là sức mạnh to lớn, là điều kiên cần để xây
dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội. Hồn thành cuộc cách mạng văn hố tức là
xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng đó được khái quát trong định
thức “văn hố vơ sản = chủ nghĩa cộng sản’’ [65, tr.17-19].
Hiện nay, đáng chú ý là khái niệm “Văn hóa” của UNESCO được sử
dụng nhiều và được nhiều người trích dẫn
Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt
về tinh thần và vật chất, về trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách
của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao
gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ
bản của người, những hệ thống các giá trị, những truyền thống và
tín ngưỡng [72, tr.5-6].
Theo định nghĩa của Tổng thư ký UNESCO: văn hóa là tổng thể sống
động các hoạt động sáng tạo của các cá nhân và các cộng đồng trong quá
khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành



19
nên hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định
đặc tính riêng của mỗi dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra định nghĩa đầy đủ và dễ hiểu về “văn
hoá” như sau:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, lồi người mới sáng
tạo và phát minh ra ngơn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa
học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Tồn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa [56, tr.431].
Như vậy, văn hóa chứa đựng bản chất nhân văn, nhân bản. Cơ sở của
mọi hoạt động văn hóa là khát vọng hướng tới chân, thiện và mỹ. Đây là ba
trụ cột vĩnh hằng của sự phát triển văn hóa nhân loại.
Tiếp tục phát triển quan niệm về văn hoá, tại Hội nghị lần thứ tư Ban
chấp hành (BCH) Trung ương khoá Đảng khoá VII (năm 1993), ngun Tổng
Bí thư Đỗ Mười đã nói:
"Văn hố là nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện tầm cao và chiều sâu
về trình độ phát triển của một dân tộc, là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất
trong quan hệ giữa người với người, với xã hội và với thiên nhiên" [16, tr.12-13].
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ tư BCH Trung uơng (khoá VII), Đảng
ta chỉ rõ hơn: ‘Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội’’ [16, tr.51].
Đến Hội nghị Trung ương lần thứ 5 khoá VIII, khái niệm văn hoá đã
được mở rộng, bao quát tất cả các lĩnh vực của đời sống tinh thần, xã hội,
tập trung vào các lĩnh vực lớn như; tư tưởng, đạo đức, lối sống, phong tục
tập quán, giáo dục và khoa học, văn chương nghệ thuật, thông tin đại chúng,
giao lưu văn hoá với thế giới, thể chế và thiết chế văn hoá. Đồng thời, chỉ ra
nội hàm của khái niệm văn hoá theo nghĩa rộng, tập trung vào văn hố tinh
thần: “trong đó đề cập tám lĩnh vực lớn, trong tám lĩnh vực này thì tư tưởng,
đạo đức, lối sống và đời sống văn hoá được coi là những lĩnh vực quan trọng

nhất hiện nay cần đặc biệt quan tâm” [18, tr.19-20].


20
Toàn bộ tinh thần của Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (khóa
VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc đã chỉ rõ nền văn hoá Việt Nam là nền văn hóa với vai trị là nền
tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực thúc đẩy kinh tế- xã hội phát
triển, gắn với sự nghiệp CNH- HĐH đất nước, gắn với những vấn đề nảy sinh
trong xu thế tồn cầu hóa và nền kinh tế thị trường.
Từ phân tích trên, có thể quan niệm: Văn hố là do lồi người tạo ra
và phát triển trong mối quan hệ giữa con người và xã hội, tham gia vào quá
trình tạo nên con người và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội, được truyền
từ thế hệ này qua thế hệ khác; là trình độ phát triển của con người và xã hội,
được biểu hiện trong các phương thức tổ chức đời sống và hoạt động của con
người và trong giá trị vật chất, tinh thần do con người tạo ra.
* Nội dung và đặc điểm của văn hoá ở các huyện ven biển tỉnh
Thanh Hoá
Nội dung của văn hoá ở các huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5 Khoá VIII “về xây dựng và
phát triển nền văn hoá Việt Nam, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc’’, đã kiểm
điểm, đánh giá thực trạng văn hoá nước ta trên các nội dung chủ yếu: tư
tưởng, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán, giáo dục và khoa học, văn
chương nghệ thuật, thông tin đại chúng, giao lưu văn hoá với thế giới, thể
chế và thiết chế văn hố. Đây là điều rất quan trọng để có thể chỉ ra nội dung
văn hoá nước ta hiện nay nói chung và nội dung văn hố ở các huyện ven
biển tỉnh Thanh Hố nói riêng.
Từ những luận giải ở trên và việc xem xét, đánh giá về văn hoá ở nước
ta của Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5 Khố VIII nêu trên, có thể
thấy, nội dung chủ yếu của văn hoá ở các huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá, gồm:

Tư tưởng, đạo đức, lối sống, phong tục, tập quán của nhân dân trong
các huyện.


21
Sự nghiệp giáo dục, khoa học của các huyện
Hoạt động văn học, nghệ thuật của các huyện
Hoạt động thông tin đại chúng trên địa bàn các huyện.
Giao lưu văn hoá giữa các huyện và với những địa phương khác trong
tỉnh, trong nước và với nước ngồi
Thể chế văn hố của địa phương (những qui định chung của huyện, xã,
thị trấn và những quy định, hương ước của các thôn, làng...)
Trong đó, tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hoá ở các huyện
là những bộ phận quan trọng nhất.
Đặc điểm của văn hoá ở các huyện ven biển tỉnh Thanh Hố
Một là, Trong q trình xây dựng nền kinh tế thị trường, mở cửa, hội
nhập quốc tế, văn hố ở các huyện ven biển tỉnh Thanh Hố ln thể hiện rõ
điều nêu trên và dần dần trở thành đặc điểm rất trọng yếu của văn hoá ở các
huyện vùng này. Văn hoá ở các huyện ven biển tỉnh Thanh Hố ln song
song tồn tại, cùng hồ đồng giữa dịng văn hố văn minh, hiện đại của đơ thị
và những nét văn hố của một vùng nơng thơn ven biển được lưu giữ từ xa
xưa. Chính sự tồn tại đó và trong q trình lịch sử, các huyện ven biển đã chịu
ảnh hưởng, tác động mạnh của những mặt tích cực và tiêu cực của các dịng
văn hố đó, nhưng đồng thời vừa bảo vệ, giữ gìn phát huy những nét đẹp văn
hoá truyền thống của một vùng quê ven biển đã được lưu truyền qua các thế
hệ người dân nơi đây.
Hai là, trong quá trình sinh sống, cấu kết cộng đồng để tiến hành nghề
biển, đánh bắt hải sản đã nảy sinh, phát triển và lưu truyền trong cư dân nơi
đây một nền văn hoá đa dạng, phong phú, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc
kinh, với những nét đặc sắc riêng của văn hoá các dân tộc vùng biển sứ

Thanh. Đó là văn hố trong lao động, sản xuất, văn hoá trong xây dựng kiến
trúc nhà cửa, văn hoá ẩm thực, trang phục..., phản ánh cách nhìn nhận về thế
giới quan, quan niệm về đạo đức, nhân văn...


22
Những đặc trưng văn hoá của cư dân ven biển Thanh Hố khơng những
khơng bị mai một mà lại ln được củng cố, phát triển trong điều kiện xây
dựng nền kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế. Nền văn hố đó ln
tiếp thu một cách chọn lọc những hạt nhân hợp lý, những đặc điểm tiến bộ
của văn hoá tiên tiến của thế giới do mở cửa, hội nhập đem lại và phát triển
làm cho nền văn hoá của cư dân vùng này phát triển trong đa dạng phong phú
trong điều kiện hiện nay.
Các huyện ven biển có đường giao thơng thuỷ bộ thuận tiện, nên sự du
nhập của các dịng phái tơn giáo vào đây rất sớm, nhất là Đạo Phật, Thiên
chúa giáo. Tơn giáo, tín ngưỡng phát triển đa dạng là một nét đặc trung của
văn hố ở các huyện ven biển. Tơn giáo, tín ngưỡng phát triển gồm thờ cúng
tổ tiên và các vị thần nghề biển, cầu mong thuận lợi trong lao động sản xuất,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Người dân nơi đây rất
tơn kính các vị thần gần gũi, có ảnh hưởng lớn đến nghề biển. Những vị thần
được thờ cúng trang nghiêm như: thần cá Ông nằm trong quần thể kiến trúc
Nghè Diêm Phố ( Hậu Lộc); thần Tứ vị Thánh Nương, thần Đức vua Đảo Nẹ.
Hàng năm dân làng thường tổ chức lễ cúng linh đình ở các làng, sự phát triển
của các tôn giáo đã chi phối, ảnh hưởng tương đối mạnh mẽ tới đời sống tâm
linh của nhân dân trong huyện, bên cạnh những mặt tích cực như khuyến
thiện, bài trừ những điều ác...thì những ảnh hưởng tiêu cực của nó như làm
nảy sinh tư tưởng cầu an, bảo thủ và nhiều các hủ tục mê tín, lạc hậu. Tình
hình đó đã đưa tới đời sống xã hội, tinh thần của nhân dân vừa phong phú,
vừa khá phức tạp.
Ba là, các lễ hội được tổ chức hằng năm ở hầu hết các vùng nơng thơn

các huyện ven biển tỉnh Thanh Hố và đang có sự giao thoa với văn hố nơi
khác trong Tỉnh. Đây là vùng có nhiều lễ hội vào bậc nhất so với các vùng
nông thôn ở nhiều tỉnh vùng Bắc và Trung Bộ. Hầu như thôn làng nào cũng
có lễ hội; mỗi lễ hội lại có những nét đặc sắc riêng. Song đều có nét chung là,


23
các lễ hội đó mang đậm nét văn hố thơn làng của cư dân ven biển tỉnh Thanh
Hoá. Nổi bật nhất là lễ hội Cầu Ngư. Đây là lễ hội lớn nhất của các cư dân
vùng này, không chỉ thu hút tồn dân tham gia, mà cịn thu hút nhiều du khách
ở các vùng, miền trong cả nước. Nét đặc sắc của các lễ hội, nhất là lễ hội Cầu
ngư là sau phần lễ là phần hội gồm các trò chơi dân gian, đa dạng, phong phú
và hát đối giao duyên, hò, vè...được nhiều nơi trong nước biết đến và ca ngợi.
Các lễ hội được lưu truyền từ đời này sang đời khác, đồng thời đang có xu
hướng giao thoa giữa văn hoá vùng núi với văn hoá vùng trung du, đồng
bằng, nhất là văn hố vùng đồng bằng sơng Mã, tiếp thu những giá trị văn hoá
tiên tiến của dân tộc và nhân loại.
* Vai trị của văn hố ở các huyện ven biển tỉnh Thanh Hố
Vai trị của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế- xã hội
Thực tiễn ở các huyện ven biển Thanh hoá cho thấy rằng, phát triển
kinh tế đòi hỏi phải bảo vệ và phát triển văn hóa. Hai q trình đó phải gắn bó
chặt chẽ với nhau. Kinh tế khơng tự mình phát triển nếu thiếu nền tảng văn
hóa, văn hóa khơng phải là sản phẩm thụ động của kinh tế. Phát triển trên cơ
sở kết hợp hài hòa kinh tế và văn hóa là sự phát triển năng động, hiệu quả và
bền vững. Ở các huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá, văn hóa đóng vai trị quan
trọng trong đời sống, do vậy, góp phần đắc lực hạn chế tác động của các nhân
tố tiêu cực trong nền kinh tế thị trường, định hướng con đường phát triển của
đất nước phù hợp với đặc điểm của dân tộc và xu hướng phát triển của thời
đại. Sẽ khơng có phát triển bền vững nếu sự phát triển đó khơng nhằm duy trì
và làm nở rộ nền văn hóa dân tộc cùng với tinh hoa văn hóa nhân loại. Chính

vì thế, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa VIII) đã khẳng định: Chăm lo văn hóa là nhằm xây dựng củng cố nền
tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh,
không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ
và công bằng xã hội thì khơng có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Xây


24
dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội cơng bằng,
văn minh, con người phát triển tồn diện [18, tr.5].
Vai trị của văn hóa đối với sự phát triển con người và nguồn nhân lực.
Văn hóa và con người là hai khái niệm khơng tách rời nhau. Con người
là chủ thể sáng tạo ra văn hóa, đồng thời chính con người cũng là sản phẩm
của văn hóa. Văn hóa là tồn bộ những thành tựu được tạo ra nhờ hoạt động
lao động, sáng tạo của con người. Con người tạo ra nền văn hóa của mình,
sống trong nền văn hóa đó và làm cho nền văn hóa đó ngày một phát triển và
hồn thiện vì một cuộc sống ngày càng cao đẹp và một xã hội nhân văn, công
bằng, dân chủ, văn minh.
Muốn phát triển văn hóa và con người, các huyện cần có chiến lược
đúng đắn, trong đó trung tâm của chiến lược văn hóa chính là vấn đề con
người và chiến lược con người phải gắn bó với chiến lược văn hóa. Đối với
các huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá, nhiệm vụ trung tâm của sự nghiệp văn
hóa là bồi dưỡng cơng dân thành những con người có trí tuệ cao, bản lĩnh
vững vàng, đạo đức tốt, tâm hồn cao đẹp, tình cảm trong sáng, lối sống lành
mạnh, hướng công dân của huyện đi tới những giá trị Chân - Thiện - Mỹ. Do
đó, mọi chính sách văn hóa cũng đều hướng vào việc xây dựng và phát triển
con người Việt Nam có tinh thần yêu nước, yêu dân tộc, có trách nhiệm cao
trong lao động, có lương tâm nghề nghiệp, có tác phong cơng nghiệp, phát
triển một cách tồn diện về Nhân, Trí, Dũng, những phẩm chất mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh thương xuyên chăm lo giáo dục cho nhân dân.

Vai trị của văn hóa đối với an ninh quốc phịng
Cơng tác tư tưởng, văn hố đóng vai trị quan trọng trong bảo vệ và
phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối
của Đảng. Như thế, đối với chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới,
cơng tác tư tưởng có vai trị, vị trí quan trọng, đặc biệt là khi đặt công tác tư
tưởng với việc thực hiện các mục tiêu bảo vệ Tổ quốc mà Nghị quyết Hội


25
nghị Trung ương lần thứ 8 (khóa IX) đã xác định: Một là, bảo vệ vững chắc
độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; hai là, bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; ba là, bảo vệ sự nghiệp đổi mới,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bốn là, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân
tộc; năm là, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội và nền văn hóa; sáu
là, giữ vững ổn định chính trị và mơi trường hịa bình, phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Có thể khẳng định rằng, cơng tác tư tưởng, văn
hố có vai trị quan trọng trong tồn bộ q trình triển khai thực hiện Chiến
lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới của cả nước nói chung và ở các huyện
ven biển tỉnh Thanh Hố nói riêng, khơng chỉ là phổ biến, qn triệt nâng cao
nhận thức và trách nhiệm chính trị của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong
huyện về mục tiêu, quan điểm, phương châm, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu để
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, mà cịn có vai trị trực tiếp trong việc thực
hiện mục tiêu bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa và nền văn hóa
tại địa phương.
Vai trị của văn hố đối với xây dựng Đảng, chính quyền và đồn thể
các cấp
Văn hóa có mối quan hệ thống nhất biện chứng với kinh tế, chính trị.
Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu cuối cùng là văn hóa. Văn
hóa có khả năng khơi dậy tiềm năng sáng tạo của con người- nguồn nhân lực
quyết định sự phát triển xã hội. Chính vì văn hóa có vai trò vừa là mục tiêu,

vừa là động lực nên các Huyện uỷ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá đặc biệt
quan tâm đến văn hóa trong q trình xây dựng Đảng, chính quyền và đồn
thể các cấp. Phát triển xã hội trên cơ sở coi văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là
động lực, là hệ điều tiết - đó là con đường phát triển bền vững. Công tác tư
tưởng, văn hố có vai trị trực tiếp đối với việc thực hiện nhiệm vụ then chốt
là xây dựng Đảng, kết hợp chặt chẽ với bảo vệ Đảng, bảo vệ vững chắc an
ninh chính trị nội bộ. Trong thực hiện nhiệm vụ này, cơng tác tư tưởng có vai


×