1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, dựa vào nhân
dân để xây dựng Đảng; là hạt nhân đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành
sự nghiệp cách mạng, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời tơn trọng
và phát huy vai trị của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể
chính trị - xã hội.
Ngay từ khi thành lập, Đảng ta rất coi trọng việc giáo dục, tổ chức,
động viên đưa quần chúng ra đấu tranh chính trị và xây dựng đội quân chính
trị quần chúng cách mạng. Tại kỳ họp Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần I
(khoá I) từ 14/10 đến cuối tháng 10 năm 1930, “Nông hội đỏ” (ngày nay là
Hội Nông dân Việt Nam) chính thức ra đời. Sự kiện thành lập Nơng hội đỏ
đánh dấu sự trưởng thành quan trọng về chất của giai cấp nông dân Việt Nam.
Lần đầu tiên đưa giai cấp nơng dân có đồn thể cách mạng của mình, trải qua
các thời kỳ và để phù hợp với từng giai đoạn lịch sử, tổ chức Hội nông dân
Việt Nam liên tục phát triển dưới nhiều hình thức và tên gọi phù hợp để thực
hiện nhiệm vụ chính trị của mình và trở thành một thành viên chủ lực của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam.
Hội Nông dân Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai
cấp nơng dân, đồn kết chặt chẽ với các tổ chức thành viên khác trong Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam quyết tâm tiến theo con đường cách mạng do Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra. Sau hơn 26 năm thực hiện
đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, Hội Nông dân Việt
Nam tiếp tục phát huy vai trò trung tâm, nịng cốt trong các phong trào nơng
dân và xây dựng nông thôn mới. Nhiều phong trào do Hội Nông dân Việt
Nam phát động, tổ chức đạt hiệu quả thiết thực. Cuộc vận động lớn "Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" trong nơng dân đã và đang đi
2
vào cuộc sống, chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn từng bước được
nâng lên, diện mạo nông thôn Việt Nam đã đổi thay theo chiều hướng văn
minh, hiện đại.
Tỉnh Bắc Ninh được tái lập và hoạt động theo đơn vị hành chính mới
từ ngày 01.01.1997 đến nay đã được gần 17 năm. Trong những năm qua,
Hội nông dân các cấp với tư cách là tổ chức chính trị - xã hội, thành viên
của Mặt trận Tổ quốc đã cùng với các tầng lớp nhân dân trong tỉnh có
nhiều nỗ lực, cố gắng và giành được nhiều thành tựu quan trọng. Được sự
lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ, cơng tác Hội Nơng dân tỉnh có nhiều tiến
bộ, tăng cường đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, hướng về cơ sở,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính
quyền và quản lý xã hội. Mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền, Mặt trận và
các tổ chức Chính trị - xã hội ngày càng được củng cố, gắn bó, khối đại
đồn kết tồn dân ngày càng được tăng cường và mở rộng. Trong những
năm qua, nhờ vào chính sách khốn hộ, giao quyền sử dụng đất nơng
nghiệp, chính sách miễn thuế nơng nghiệp, miễn thủy lợi phí và tăng đầu tư
cho nơng nghiệp đã làm cho nông nghiệp, nông thôn phát triển mạnh, đời
sống vật chất và tinh thần của nông dân Bắc Ninh từng bước được cải
thiện, trình độ dân trí được nâng lên; dân chủ ở nông thôn được mở rộng,
quyền làm chủ của người nông dân được phát huy.
Tuy nhiên, trong q trình cơng nghiệp hóa, đơ thị hóa, nguồn đất canh
tác bị thu hẹp, nhiều nông dân Bắc Ninh phải chuyển đổi nghề nghiệp, một bộ
phận không nhỏ lao động ở nông thôn phải ra thành thị và các khu cơng
nghiệp tìm kiếm việc làm. Một bộ phận nơng dân chuyển đổi cây trồng, vật
nuôi đúng hướng, thành lập được trang trại… nhưng gặp rất nhiều khó khăn
trong tiêu thụ sản phẩm. Hiện nay, vấn đề thu hồi đất nông nghiệp cho phát
triển công nghiệp, đô thị và hậu công nghiệp đang là những mối lo của một bộ
phận nông dân chuyển đổi nghề nghiệp ở Bắc Ninh. Đời sống của nông dân
3
Bắc Ninh tuy đã được cải thiện, song ở nhiều vùng nơng thơn, nơng dân vẫn
gặp khó khăn.
Hơn thế, Tỉnh ủy Bắc Ninh cũng cịn những hạn chế, khó khăn trong
công tác lãnh đạo các cấp Hội Nông dân trong tỉnh. Nhận thức của cấp ủy có
thời điểm chưa thấy rõ được vị trí, vai trị của Hội Nơng dân trong tiến trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh Bắc Ninh. Việc đổi mới phương thức lãnh
đạo của Tỉnh ủy đối với Hội Nơng dân cịn chậm và lúng túng trong chỉ đạo
các cấp Hội Nông dân tăng cường đổi mới về nội dung, phương thức hoạt
động. Một số nghị quyết quan trọng của Đảng về công tác Hội Nông dân
chưa được Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh cụ thể hóa
bằng quyết định, chính sách. Cơng tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy cịn
chung chung, chưa cụ thể, có thời điểm chưa thực sự quan tâm. Do vậy,
Hội Nông dân chưa phát huy được đầy đủ vị trí, vai trị và hoạt động chưa
thực sự hiệu quả.
Trước thực trạng ấy, để góp phần nâng cao đời sống nông dân, thực
hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng
thơn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh cũng như sự nghiệp công nghiệp hố, hiện đại hố
đất nước, đồng thời để góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Bắc Ninh
đối với Hội Nông dân tỉnh trong thời kỳ mới hiện nay, tôi chọn đề tài “Tỉnh ủy
Bắc Ninh lãnh đạo Hội Nông dân tỉnh trong giai đoạn hiện nay” làm luận văn
tốt nghiệp cao học chuyên ngành xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề nông dân và công tác vận động nơng dân từ trước đến nay đã có
khá nhiều cơng trình nghiên cứu và bài viết, tuỳ thuộc từng góc độ, phạm vi
nghiên cứu mà có cách tiếp cận và nội dung đề cập khác nhau, đáng chú ý là
một số cơng trình nghiên cứu khoa học sau:
- "Lịch sử phong trào nông dân và Hội nông dân Việt Nam (1930 1995)" của Hội nông dân Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
4
- "Một số vấn đề về công tác vận động nông dân ở nước ta hiện
nay"của Ban dân vận Trung ương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
- "Đặc điểm và xu hướng biến đổi của giai cấp nông dân nước ta trong
giai đoạn hiện nay”. Luận án tiến sĩ Triết học của Bùi Thị Thanh Hương, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000.
- "Cơng tác vận động nơng dân của Đảng trong thời kì đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước”, Luận án tiến sĩ Lịch sử của tác giả Lê
Kim Việt, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2003.
- "Công tác vận động nông dân ở Đảng bộ tỉnh Cà Mau trong giai
đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị của Đặng Trí Thủ, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2006.
- "Nâng cao chất lượng công tác vận động nông dân của các Đảng bộ xã
ở tỉnh Thái Bình trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Khoa học lịch sử
của Phạm Đức Hố, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2003.
- "Tổ chức và hoạt động của Hội nông dân Việt Nam trong giai đoạn
mới" của Vũ Ngọc Kì, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
- "Nông nghiệp và nông thôn trên con đường cơng nghiệp hố, hiện đại
hố và hợp tác hố, dân chủ hố"của Vũ Oanh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1998.
- "Công tác vận động nông dân trong thời kì đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước", của Trung ương Hội nông dân Việt Nam và đề
tài nghiên cứu khoa học KHBD 12, Nxb nông nghiệp, Hà Nội, 1999.
- "Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong thời kì đổi mới đất nước,
vấn đề và kinh nghiệm”, của Nguyễn Văn Sáu, Trần Xuân Sầm, Lê Doãn Tá
đồng chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
- "Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thơn trong thời kì
CNH - HĐH đất nước”, bài đăng trên báo Nhân dân từ số 19203, ngày 17
tháng 3 năm 2008 đến số 19207 ngày 21 tháng 3 năm 2008.
5
- Nông nghiệp và nông dân Việt Nam phải làm gì để hội nhập kinh tế
quốc tế, của Võ Tịng Xuân, Tạp chí Cộng sản số 6(150), tháng 3/2008.
- Đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn trong
tình hình mới, của Hồ Văn Vĩnh, Tạp chí Cộng sản số 7(151), tháng 4/2008.
- Đề tài: “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trên một số lĩnh
vực trọng yếu của đời sống xã hội” của Trần Đình Nghiêm làm chủ nhiệm,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2002.
- Đề tài: “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong thời kỳ mới”, TS Đỗ
Quang Tuấn, chủ biên, PGS.TS Trần Hậu, TS Nguyễn Văn Hùng, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
- Đề tài: “Đổi mới quan hệ giữa Đảng, chính quyền và đồn thể nhân
dân cấp phường trong điều kiện kinh tế thị trường”, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội năm 1995.
Ngồi ra cịn nhiều cơng trình nghiên cứu và các bài viết đăng trên các
báo, tạp chí, các hội thảo khoa học khác có liên quan đến đề tài nơng dân và
cơng tác vận động nơng dân.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập khá nhiều nội
dung về vấn đề nông dân và công tác vận động nông dân dưới các góc độ
khác nhau. Nhiều bài viết luận giải khá sâu sắc về vị trí, vai trị của nơng dân
Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng của Đảng. Một số cơng trình, bài viết đề
cập đến thực trạng nơng thôn, nông nghiệp, nông dân và công tác vận động
nông dân, đồng thời đề xuất nhiều giải pháp nhằm tăng cường công tác vận
động nông dân của các cấp uỷ đảng, chính quyền trong thời kỳ mới.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có cơng trình, bài viết nào đề cập, nghiên
cứu một cách toàn diện, sâu sắc về Tỉnh ủy Bắc Ninh lãnh đạo Hội nông dân
tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
6
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn và đánh giá thực trạng
về sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Bắc Ninh đối với Hội Nông dân tỉnh. Trên cơ sở
đó, luận văn đề xuất các giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với
Hội Nông dân tỉnh hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở khoa học về Tỉnh ủy Bắc Ninh lãnh đạo Hội Nông dân tỉnh.
- Đánh giá đúng thực trạng sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Bắc Ninh đối với
với Hội Nông dân tỉnh. Chỉ rõ nguyên nhân và những kinh nghiệm.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường
sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Bắc Ninh đối với Hội Nông dân tỉnh trong giai đoạn
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu: Tỉnh ủy Bắc Ninh lãnh đạo Hội Nông dân tỉnh
trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ đối với
Hội Nông dân tỉnh, không nghiên cứu các tổ chức khác trong hệ thống chính
trị ở tỉnh.
- Thời gian nghiên cứu từ 2005 đến nay. Các giải pháp đưa ra có giá trị
đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên
cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
7
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
nơng dân và Hội Nơng dân.
- Luận văn có kế thừa các cơng trình nghiên cứu đã cơng bố; các nghị
quyết, chương trình, các báo cáo tổng kết cơng tác lãnh đạo của Tỉnh ủy đối
với Hội Nông dân tỉnh những năm qua.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp chủ yếu được sử dụng trong luận văn này là phương
pháp logic và lịch sử; phân tích, tổng hợp; so sánh; khảo sát và đặc biệt chú
trọng phương pháp tổng kết thực tiễn.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Góp phần làm rõ quan niệm, nội dung, phương thức và quy trình lãnh
đạo của Tỉnh ủy đối với Hội Nông dân tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng Tỉnh ủy Bắc Ninh lãnh đạo Hội Nông dân
tỉnh, nêu nguyên nhân của thực trạng và rút ra những kinh nghiệm bước đầu
về sự đạo lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với Hội Nông dân tỉnh từ 2005 đến nay.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu khả thi nhằm tăng cường sự lãnh đạo
của Tỉnh ủy Bắc Ninh đối với Hội Nông dân tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy ở Trường
Chính trị tỉnh và các Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 6 tiết.
8
Chương 1
TỈNH ỦY BẮC NINH LÃNH ĐẠO HỘI NÔNG DÂN TỈNH NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. TỈNH ỦY BẮC NINH VÀ HỘI NÔNG DÂN TỈNH BẮC NINH
1.1.1. Đặc điểm, tình hình của tỉnh và Tỉnh ủy Bắc Ninh
1.1.1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế, văn hóa - xã
hội tỉnh Bắc Ninh
Bắc Ninh là tỉnh nằm trong vùng châu thổ Sông Hồng, thuộc khu vực
đồng bằng Bắc Bộ. Vị trí địa lý nằm trong phạm vi từ 20 o 58’ đến 21o 16’ vĩ
độ Bắc và 105o 54’ đến 106o 19’kinh độ Đơng. Phía Bắc giáp tỉnh Bắc Giang;
Phía Đơng và Đơng Nam giáp với tỉnh Hải Dương; Phía Nam giáp tỉnh Hưng
Yên; Phía Tây giáp thành phố Hà Nội.
Với vị trí nằm trong vùng đồng bằng Bắc Bộ nên địa hình của tỉnh Bắc
Ninh khá bằng phẳng, có hướng dốc chủ yếu từ Bắc xuống Nam và từ Tây
sang Đông, được thể hiện qua các dịng chảy nước mặt đổ về sơng Cầu, sơng
Đuống và sơng Thái Bình. Mức độ chênh lệch địa hình trên tồn tỉnh khơng
lớn. Vùng đồng bằng chiếm phần lớn diện tích tồn tỉnh có độ cao phổ biến từ
3 - 7m so với mực nước biển và một số vùng thấp trũng ven đê thuộc các
huyện Gia Bình, Lương Tài, Quế Võ. Địa hình trung du đồi núi chiếm tỷ lệ rất
nhỏ khoảng (0,53%) so với tổng diện tích tự nhiên tồn tỉnh được phân bố rải
rác thuộc thành phố Bắc Ninh, thị xã Từ Sơn, huyện Quế Võ, các đỉnh núi có
độ cao phổ biến từ 60 - 100m, đỉnh cao nhất là núi Bàn Cờ (thành phố Bắc
Ninh) cao 171m, tiến đến là núi Bu (huyện Quế Võ) cao 103m, núi Phật Tích
(huyện Tiên Du) cao 84m và núi Thiên Thai (huyện Gia Bình) cao 71m.
Mạng lưới sơng ngịi thuộc tỉnh Bắc Ninh khá dày đặc, mật độ khá cao
từ 1,0 - 1,2km/km2 (theo số liệu của đài Khí tượng thủy văn Bắc Bộ) với 3 hệ
thống sông lớn chảy qua gồm sông Đuống, sông Cầu, sơng Thái Bình...
9
Theo số liệu kiểm kê đất năm 2010, tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh
Bắc Ninh là 82,271.2 km2; Diện tích lớn nhất là đất nơng nghiệp chiếm
65,85%, trong đó đất lâm nghiệp chiếm tỷ lệ nhỏ chỉ với 0,81%; Đất phi nơng
nghiệp chiếm 33,31% trong đó đất ở chiếm 12,83%; Diện tích đất chưa sử
dụng chiếm 0,84%.
Bắc Ninh là tỉnh nghèo về tài nguyên khoáng sản, chủ yếu thiên về vật
liệu xây dựng với các loại khoáng sản sau: đất sét, cát xây dựng và than bùn.
Trong đó, đất sét được khai thác làm gạch, ngói, gốm có trữ lượng lớn được
phân bổ dọc theo sông Cầu, sông Đuống thuộc phạm vi các huyện Thuận
Thành, Gia Bình, Quế Võ, Yên Phòng và Tiên Du; đất sét làm gạch chịu lửa
phân bổ chủ yếu tại khu vực phường Thị Cầu, thành phố Bắc Ninh. Cát xây
dựng cũng là nguồn tài ngun chính có trữ lượng lớn của Bắc Ninh được
phân bố hầu như khắp tồn tỉnh, dọc theo sơng Cầu, sông Đuống.
Thực vật của Bắc Ninh chủ yếu là cây trồng hàng năm, cây trồng lâu
năm và rừng trồng. Trong đó diện tích cây trồng hàng năm chiếm 54% diện
tích đất tự nhiên, diện tích đất tự nhiên, diện tích đất trồng cây lâu năm và đất
rừng trồng chiếm diện tích chỉ xấp xỉ 1%.
Về kinh tế:
Sau gần 17 năm tái lập tỉnh, cho dù gặp rất nhiều những khó khăn,
thách thức, song kinh tế ln tăng trưởng với mức độ khá cao. Tổng sản phẩm
(GDP) tăng bình quân giai đoạn 2005 - 2012 đạt 14,7% cơ cấu kinh tế chuyển
dịch tích cực theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng ngành cơng
nghiệp, xây dựng cơ bản năm 2012 là 76%, dịch vụ là 17%, nông lâm nghiệp
và thủy sản là 7%. Trong sản xuất công nghiệp thì ngành cơng nghiệp chế
biến và điện tử cơng nghệ cao có tốc độ tăng nhanh, thu hút được các tập đồn
lớn như SamSung, Nokia, Canon... có khả năng trở thành ngành cơng nghiệp
mũi nhọn của tỉnh. Tồn tỉnh có 15 khu công nghiệp tập trung được Thủ
10
tướng chính phủ phê duyệt, tổng diện tích 6.847 ha đất, trong đó có 08 khu
cơng nghiệp đang hoạt động, tỷ lệ lấp đầy đạt 75%. Tổng số công nhân lao
động đang làm việc tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh là trên 130.000
người. Nông nghiệp phát triển ổn định, chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa
và tích cực xây dựng nông thôn mới; công nghiệp hỗ trợ bước đầu hình thành,
khu vực làng nghề tiếp tục phát triển. Thu ngân sách nhà nước tăng nhanh,
đáp ứng nhu cầu chi trong tỉnh và nộp về Ngân sách Trung ương (năm 2012
thu đạt 9.200 tỷ đồng).
Bắc Ninh có các làng nghề truyền thống tiêu biểu như tranh Đông Hồ,
đúc đồng Đại Bái, đồ gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ, gốm Phù Lãng. Năm 2012, thu
nhập bình quân đầu người hơn 22,2 triệu đồng, khu vực nông thôn đạt 17,4
triệu đồng.
Dân số Bắc ninh hiện nay có 1.038.229 người. Trong đó dân cư nông
thôn chiếm trên 74,1%, dân số thành thị chiếm 26,9%. Thành phần dân số này
có xu hướng chuyển dịch theo cơ cấu tăng dân số thành thị và giảm dần số
nông thôn. Dân số Bắc Ninh là dân số trẻ, trên 60% trong độ tuổi lao động.
Với chất lượng ngày càng được nâng cao đội ngũ dân số trẻ này là lực lượng
lao động hùng hậu trong công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển kinh tế văn hố - xã hội của tỉnh.
Về văn hóa - du lịch:
Bắc Ninh, miền đất sinh thành vị tổ của nền khoa bảng Việt Nam, nơi
có làng Tam Sơn (xã Tam Sơn - Từ Sơn), địa phương duy nhất trong cả nước
có đủ tam khơi với 22 vị tiến sĩ trong đó có 2 trạng nguyên. Truyền thống hiếu
học đất Kinh Bắc năm xưa đã và đang được lớp lớp con cháu kế thừa và phát
huy. Bắc Ninh là một trong 3 tỉnh hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học đầu
tiên trong cả nước vào năm 2000, đến năm 2002 đã hoàn thành phổ cập trung
học cơ sở và đang tiến hành phổ cập trung học phổ thông. Mạng lưới trường
11
học ở tất cả các bậc học từ mầm non, phổ thơng phát triển đều khắp trên địa
bàn tồn tỉnh. Cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên trong các trường ngày càng
được củng cố về chất lượng và phát triển về số lượng theo hướng chuẩn
hố. Tính đến nay tồn tỉnh đã có hơn 200 trường ở các ngành học, bậc học
được công nhận là trường chuẩn Quốc gia. Theo đó chất lượng giáo dục
cũng từng bước được nâng cao. Bắc Ninh là một trong những tỉnh có tỷ lệ
học sinh đỗ tốt nghiệp các cấp cao so với cả nước. Đặc biệt, Bắc Ninh ln
được xếp vào nhóm 10 tỉnh có tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các trường đại học,
cao đẳng cao nhất trong cả nước. Đi liền với các thành tích trên, cơng tác
xã hội hoá giáo dục được đẩy mạnh và phát triển bằng các hoạt động thiết
thức thông qua các trung tâm giáo dục cộng đồng, các hội khuyến học từ
tỉnh, huyện đến các thơn làng, dịng họ đã góp phần đáng kể vào sự phát triển
của giáo dục tỉnh nhà.
Bắc Ninh được biết đến như là một miền đất của các di tích lịch sử,
văn hố. Tiêu biểu nhất là chùa đền, đình miếu gắn liền với các lễ hội: đền thờ
Kinh Dương Vương, đền Đô, chùa Bút Tháp, chùa Dâu, chùa Phật Tích, đền
Bà Chúa Kho, Văn Miếu, hội Lim…và đặc biệt một loại hình nghệ thuật làm
nên bản sức văn hoá rất riêng của Bắc Ninh là các làn điện dân ca Quan họ
đằm thắm, trữ tình đã ln là nguồn tài nguyên phong phú cho phát triển du
lịch của tỉnh. Sự kiện văn hóa quan trọng đặc biệt, niềm tự hào của quê hương
Bắc Ninh chính là việc UNESSCO công nhận Dân ca quan họ Bắc Ninh là di
sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Những thành tựu về kinh tế, văn hoá xã hội, các kinh nghiệm tích luỹ
được trong gần 17 năm qua cùng với truyền thống cách mạng, năng động
sáng tạo, truyền thống hiếu học, những ưu đãi của thiên nhiên và nét văn hoá
đặc sắc của người dân Kinh Bắc là nguồn tài sản quý báu của tỉnh Bắc Ninh,
tạo cơ sở vững chắc để hội nhập và phát triển những năm tới.
12
1.1.1.2. Khái quát đảng bộ Tỉnh Bắc Ninh
Đầu tháng 7-1929, đồng chí Ngơ Gia Tự, ủy viên Ban chấp hành Trung
ương lâm thời Đông Dương Cộng sản Đảng đã trực tiếp chỉ đạo thành lập Chi
bộ Cộng sản đầu tiên ở hai tỉnh Bắc Ninh - Bắc Giang, gồm ba đảng viên Phạm
Văn Chất, Bí thư; 2 đảng viên là Hồ Ngọc Lân và Nguyễn Hữu Căn. Giao chi bộ
nhiệm vụ tun truyền Chính cương, Điều lệ và Tun ngơn của Đông dương
Cộng sản Đảng đến các chi hội của Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng. Từ
việc ra đời của chi bộ Cộng sản đầu tiên ở hai tỉnh là dấu mốc quan trọng về sự
phát triển mới của phong trào cách mạng Bắc Ninh - Bắc Giang, tạo ra nhân tố
mới cho sự biến đổi về chất của phong trào cách mạng.
Đến ngày 4-8-1929 tại núi Hồng Vân (thị trấn Lim - Tiên Du) đã có
hơn 20 hội viên tiêu biểu của Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng của hai
tỉnh được triệu tập để thành lập đảng bộ Đông dương Cộng sản Đảng Bắc
Ninh - Bắc Giang. Sau hội nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam ngày 3-21930, thì đổi tên thành đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Bắc Ninh - Bắc
Giang. Lúc mới thành lập, đảng bộ có 4 chi bộ gồm: chi bộ thị xã Bắc Ninh;
chi bộ trại lính khố đỏ Bắc Ninh; chi bộ làng Lạc Thổ (Thuận Thành ); chi bộ
Nhà máy gạch Hưng Ký (Từ Sơn).
Ngày 6-11-1996, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá IX, Quốc hội đã ra
Nghị quyết điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh. Ngày 1/1/1997, tỉnh
Bắc Ninh được tái lập, trên cơ sở chia tách tỉnh Hà Bắc thành hai tỉnh Bắc
Ninh và Bắc Giang.
Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh có 5 đảng bộ huyện là: Yên Phong, Thuận
Thành, Gia Lương, Tiên Sơn, Quế Võ và Đảng bộ thị xã Bắc Ninh; 3 đảng bộ trực
thuộc là: Đảng bộ Công an, Đảng bộ Quân sự, Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh.
Từ khi tái lập tỉnh Bắc Ninh, đảng bộ tỉnh Bắc Ninh đã tổ chức 4 kỳ
Đại hội, từ Đại hội XV đến XVIII.
13
Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh hiện nay có trên 46.871 đảng viên (tính đến 30
-11- 2012), được tổ chức thành 12 đảng bộ trực thuộc, bao gồm 8 đảng bộ các
huyện, thành phố, thị xã; 01 đảng bộ Quân sự; 01 đảng bộ Công an; 01 đảng
bộ khối các cơ quan; 01 đảng bộ khối doanh nghiệp. Tổng số có 603 tổ chức
cơ sở đảng; có 1.873 chi bộ thuộc đảng bộ cơ sở. Ban chấp hành đảng bộ
khóa XVIII có 55 đồng chí, Ban Thường vụ Tỉnh ủy có 14 đồng chí.
Năm 2012, kết quả đánh giá, phân loại có 72,9% tổ chức cơ sở đảng đạt
trong sạch vững mạnh, 15,2% tổ chức cơ sở đảng hoàn thành tốt nhiêm vụ,
5,5% tổ chức cơ sở đảng hoàn thành nhiệm vụ, 1,2% tổ chức cơ sở đảng yếu
kém; đánh giá, phân loại chi bộ thuộc đảng bộ cơ sở: 81,8% chi bộ đạt trong
sạch vững mạnh, 12,6% chi bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ, 5,3% chi bộ hoàn
thành nhiệm vụ, 0,3% chi bộ yếu kém.
Bình quân từ năm 2009 - 2012, mỗi năm toàn đảng bộ kết nạp được
1.385 đảng viên mới, tuổi đời bình quân của đảng viên mới được kết nạp là
30,2 tuổi.
+ Đặc điểm đảng bộ tỉnh Bắc Ninh:
- Cơ cấu của Ban Chấp hành đảng bộ tỉnh có sự điều chỉnh khá hợp lý,
cán bộ trẻ và cán bộ nữ đã được chú trọng: Tỉnh ủy viên là nữ có 3 đồng chí
chiếm 5,45%; cán bộ trẻ dưới 40 tuổi là 5 đồng chí chiếm 9%.
- Trình độ đội ngũ đảng viên trong BCH đảng bộ ngày càng được nâng
lên: trình độ Tiến sĩ 01 đồng chí chiếm 1,8%, thạc sĩ 24 đồng chí chiếm
43,63%, đại học 30 đồng chí chiếm 45,5%; 100% các đồng chí trong BCH
đảng bộ có trình độ cao cấp hoặc cử nhân về chính trị.
- Ban Thường vụ là người Cơng giáo 01 đồng chí (7,1%), có trình độ
thạc sĩ 4 đồng chí (28,57%), đại học 10 đồng chí (71,42%).
- Trình độ cán bộ, đảng viên của Tỉnh ủy tương đối đồng đều về chất
lượng: thạc sĩ là 24 đồng chí (15,09%), Đại học 85 đồng chí (53,45%), cao
14
đẳng 18 đồng chí (11,3%), trung cấp là 12 đồng chí (7,54%); trình độ cử nhân
về chính trị là 15 đồng chí (9,43%), cao cấp là 42 đồng chí (26,41%).
- Tuy cán bộ trẻ đã được vhú trọng, song tuổi bình qn tồn đảng bộ
cịn khá cao: 48,6 tuổi.
1.1.2. Khái quát về Hội Nông dân tỉnh Bắc Ninh hiện nay
1.1.2.1. Về tổ chức bộ máy
Hội Nông dân Việt Nam mà tiền thân là Nông hội đỏ, do Đảng cộng
sản Việt Nam sáng lập ngày 14 tháng 10 năm 1930, trải qua các thời kỳ cách
mạng luôn trung thành với Đảng và dân tộc. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam luôn là tổ chức trung tâm, nịng
cốt trong các phong trào nơng dân và xây dựng nông thôn mới.
Ngay sau khi chia tách tỉnh, ngày 3-1-1997, Ban Thường vụ Tỉnh ủy
lâm thời Bắc Ninh ra Quyết định số 02-QĐ/TU thành lập cơ quan Hội Nông
dân tỉnh. Thực hiện Quyết định số 21 QĐ/HND ngày 14 tháng 01 năm 1997
của Ban Thường vụ Hội Nông dân Việt Nam về việc chỉ định Ban Chấp hành
lâm thời Hội Nơng dân tỉnh Bắc Ninh gồm 21 đồng chí. Năm 1997 tồn tỉnh
có 96.496 hội viên và 661/668 chi hội theo thôn, đạt tỷ lệ 98,9% và 273 chi
hội nghề nghiệp với 5.104 hội viên hội nông dân.
Hội Nông dân tỉnh gồm 6 đơn vị trực thuộc: Ban Tổ chức, Ban Kiểm
tra, Ban Kinh tế - Xã Hội, Ban Tuyên Huấn, Văn phịng, Trung tâm Dạy nghề
và Hỗ trợ nơng dân.
Ban Thường vụ gồm 08 đồng chí, trong đó có 01 đồng chí Chủ tịch, 03
đồng chí Phó chủ tịch.
Đội ngũ cán bộ Hội được tăng cường về số lượng và có sự trẻ hóa; cán
bộ nữ 10 đồng chí chiếm tỉ lệ 40%; dưới 40 tuổi 11 đồng chí chiếm tỉ lệ 44%.
Có trình độ cử nhân chính trị 02 đồng chí (8%), cao cấp chính trị 09 đồng chí
15
(36%), trung cấp chính trị 07 đồng chí (28%). Có trình độ thạc sĩ 01 đồng chí
(4%), đại học 22 đồng chí (88%), cao đẳng 01 đồng chí (4%).
Tuổi bình quân Hội Nông dân tỉnh là 43,7 tuổi.
Tổ chức Hội: Tồn tỉnh có 121/121 cơ sở có nơng dân đều có tổ chức Hội;
675/675 số thơn, làng trong tồn tỉnh có Chi Hội Nơng dân và 1.297 tổ Hội.
Tổng số Ủy viên BCH Hội Nông dân cấp cơ sở là 1.261 đồng chí, tỷ lệ
nữ đạt 25% (tăng so nhiệm kỳ trước 3%); đảng viên đạt 54% (tăng so với
nhiệm kỳ trước là 5%); tuổi đời bình quân là 47 tuổi; tỷ lệ tái cử là 59%.
Tổng số BCH Hội Nơng dân cấp huyện là 191 đồng chí, tỷ lệ nữ đạt 25%
(cao hơn nhiệm kỳ trước là 3%); đảng viên đạt 98% (tăng so nhiệm kỳ trước là
3%); tuổi đời bình qn là 43 tuổi; trình độ chun mơn: Sơ cấp 15 đồng chí,
Trung cấp 84 đồng chí, Đại học, cao đẳng 89 đồng chí; tỷ lệ tái cử 67%.
Công tác kết nạp hội viên mới luôn được quan tâm cả về số lượng và
chất lượng. Trong nhiệm kỳ toàn tỉnh đã kết nạp được 32.051 hội viên mới,
nâng tổng số hội viên toàn tỉnh lên 161.284 hội viên (tính đến cuối năm
2012), chiếm 84,6% so với tổng số hộ nông nghiệp. Chất lượng hội viên được
nâng lên, sinh hoạt định kỳ đi vào nền nếp hơn.
1.1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của Hội Nông dân tỉnh Bắc Ninh
Hội nông dân tỉnh chịu sự quản lý về tổ chức, biên chế của Tỉnh uỷ,
UBND tỉnh; sự chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của cơ
quan chuyên trách Trung ương Hội. Có chức năng tham mưu, giúp việc cho
Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Hội nông dân tỉnh trong lãnh đạo, chỉ đạo
xây dựng tổ chức, hoạt động của Hội và phong trào nông dân. Trực tiếp tổ
chức các hoạt động hướng dẫn, tư vấn, hỗ trợ, dịch vụ và dạy nghề cho nông
dân theo sự chỉ đạo của Ban Thường vụ, Ban Chấp hành Hội nông dân tỉnh.
Hội nơng dân tỉnh có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu, tham mưu cho Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Hội nơng
dân tỉnh về chủ trương, nghị quyết, chương trình, kế hoạch công tác của Hội
và phong trào nông dân trên địa bàn tỉnh và tổ chức thực hiện.
16
- Hướng dẫn, kiểm tra các cấp Hội trong tỉnh thực hiện Điều lệ Hội, Nghị
quyết Đại hội Hội các cấp, Nghị quyết Ban Chấp hành và các chương trình, kế
hoạch công tác của Trung ương Hội nông dân Việt Nam và Hội nông dân tỉnh.
- Xây dựng, quản lý cơ sơ vật chất, trang thết bị, phương tiện làm việc
của Cơ quan, đảm bảo điều kiện hoạt động của Ban Chấp hành, Ban Thường
vụ Hội nông dân tỉnh.
- Tham mưu trong việc quản lý nhân sự, thực hiện chính sách đối với
cán bộ, hội viên theo quy định của pháp luật và Điều lệ Hội.
- Tổ chức các hoạt động hướng dẫn, tư vấn, dịch vụ, hỗ trợ và dạy nghề cho
nông dân theo sự chỉ đạo của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Hội nông dân tỉnh.
- Tập hợp, vận động, giáo dục hội viên, nông dân phát huy quyền làm
chủ, tích cực học tập nâng cao trình độ, năng lực về mọi mặt, đồn kết giai
cấp nơng góp phần xây dựng, củng cố khối đồn kết tồn dân, nhằm thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ kinh tế, xã hội, quốc phòng - an ninh và xây dựng hệ
thống chính trị (HTCT) ở các địa phương.
- Xây dựng đồn kết giữa giai cấp nông dân và các giai cấp, tầng lớp khác
thực hiện sự bình đẳng, củng cố mối quan hệ hòa hợp giữa các giai cấp, tầng lớp.
- Đại diện giai cấp nông dân của tỉnh tham gia xây dựng Đảng, Nhà
nước và khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở địa phương.
- Chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nơng dân; tổ
chức các hoạt động dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ nông dân trong sản xuất và đời sống.
1.2. TỈNH ỦY BẮC NINH LÃNH ĐẠO HỘI NÔNG DÂN TỈNH - QUAN
NIỆM, NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC
1.2.1. Quan niệm về Tỉnh ủy Bắc Ninh lãnh đạo Hội Nông dân tỉnh
Để đưa ra quan niệm về Tỉnh ủy Bắc Ninh lãnh đạo Hội nông dân tỉnh,
cần làm rõ khái niệm lãnh đạo và nội dung lãnh đạo của Đảng đối với Hội
nông dân Việt Nam.
17
Theo Đại từ điển tiếng Việt, “Lãnh đạo” là dẫn dắt, tổ chức phong trào
theo đường lối cụ thể [56, tr.997].
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân
tích một cách khoa học và đưa ra khái niệm “Lãnh đạo” và “Lãnh đạo đúng”.
Theo Người: Lãnh đạo đúng nghĩa là: Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho
đúng; phải tổ chức thi hành cho đúng; phải tổ chức sự kiểm soát [35, tr.285].
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội
và HTCT. Hội nông dân Việt Nam là một tổ chức chính trị - xã hội do Đảng
thành lập, là thành viên của MTTQ, do vậy Hội nông dân là bộ phận của
HTCT, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo.
Là người lãnh đạo, Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng
đắn, đáp ứng yêu cầu nguyện vọng và lợi ích chính đáng của các tầng lớp
nhân dân, trong đó có nơng dân. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Hội Nông dân
là vấn đề có tính ngun tắc, đảm bảo cho Hội nơng dân không ngừng được
củng cố, mở rộng và phát triển.
Tỉnh ủy Bắc Ninh là một bộ phận trong hệ thống tổ chức của Đảng.
Tỉnh ủy lãnh đạo chính quyền, lãnh đạo MTTQ, các đồn thể, lãnh đạo các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phịng an ninh trên địa bàn
tỉnh. Đối với Hội nông dân tỉnh, Tỉnh ủy Bắc Ninh có trách nhiệm lãnh đạo và
định hướng, kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của Hội nơng dân.
Từ những điều trình bày ở trên có thể quan niệm: Sự lãnh đạo của Tỉnh
ủy Bắc Ninh đối với Hội Nơng dân tỉnh là tồn bộ hoạt động của Tỉnh ủy, đề
ra các quyết định lãnh đạo nhằm xây dựng, hoàn thiện tổ chức, chăm lo xây
dựng đội ngũ cán bộ; lãnh đạo Hội phát huy vai trò, chức năng, nhiệu vụ;
định hướng về nội dung và phương thức hoạt động của Hội; lãnh đạo Hội cụ
thể hoá và tổ chức thực hiện các quyết định của Tỉnh ủy; tổ chức kiểm tra,
18
giám sát hoạt động của Hội, đảm bảo cho Hội Nơng dân hoạt động có hiệu
quả, theo đúng chủ trương, nghị quyết, quyết định của Tỉnh ủy.
1.2.2. Nội dung Tỉnh ủy Bắc Ninh lãnh đạo Hội Nông dân tỉnh
Xuất phát từ nhiệm vụ của Hội Nông dân, bám sát quan điểm chỉ đạo
của Đảng, trên cơ sở tình hình địa phương và đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ
của Hội Nông dân tỉnh, cũng như thực tiễn lãnh đạo của Tỉnh ủy, nội dung
lãnh đạo của Tỉnh ủy Bắc Ninh đối với Hội Nông dân tỉnh gồm:
Một là: Tỉnh ủy định hướng về chính trị cho Hội Nơng dân: Vấn đề cốt
lõi trong sự lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với Hội Nơng dân tỉnh là định hướng về
chính trị. Đó là định hướng về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ của Hội
Nông dân tỉnh trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cho phù hợp với đặc điểm,
tình hình địa phương, xu thế của đất nước trong tình hình mới.
Hai là: Lãnh đạo Hội Nông dân tỉnh xây dựng, củng cố, kiện tồn tổ
chức: Sự lãnh đạo chính trị khơng tách rời, biệt lập sự lãnh đạo về tổ chức. Về
vấn đề này V.I.Lênin đã chỉ ra rằng:
Thực ra, không thể phân ranh giới dứt khoát vấn đề nào là vấn đề
chính trị và vấn đề nào là vấn đề tổ chức và ngược lại...khơng thể
máy móc tách chính trị khỏi tổ chức. Chính trị là do những người
này thực hiện, nhưng nếu thảo các văn bản lại do những người khác,
thì sẽ chẳng có hiệu quả gì cả [31, tr.42].
Nội dung Tỉnh ủy lãnh đạo Hội Nông dân tỉnh xây dựng, củng cố, kiện
tồn tổ chức có nhiều vấn đề, nhưng chủ yếu là định hướng về xây dựng củng
cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ của Hội. Nguyên
tắc chung là Tỉnh ủy thống nhất lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ và quản lý đội
ngũ cán bộ của Hội Nông dân tỉnh, đồng thời phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo
và trách nhiệm của Hội Nông dân tỉnh trong việc xây dựng, đổi mới tổ chức và
cán bộ cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ mới và đặc điểm của tỉnh.
19
Ba là: Lãnh đạo hoạt động của Hội Nông dân tỉnh: Tỉnh ủy khơng chỉ
định hướng chính trị, lãnh đạo xây dựng, củng cố, kiện tồn tổ chức mà cịn
quan tâm lãnh đạo các mặt hoạt động của Hội Nông dân tỉnh như:
- Hoạt động tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng.
- Tham gia giám sát việc thi hành chính sách, pháp luật, tổ chức thực
hiện các phong trào thi đua yêu nước; triển khai xây dựng đời sống văn hóa ở cơ
sở, xóa đói giảm nghèo, các hoạt động từ thiện nhân đạo, đền ơn đáp nghĩa.
- Xây dựng mơ hình điểm; sơ kết, tổng kết rút ra những kinh nghiệm
về hoạt động của mình trong từng giai đoạn.
- Thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh quốc phịng.
- Giải quyết các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, tôn giáo; thực hiện
Quy chế dân chủ, tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật; chăm lo và bảo
vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân góp phần củng cố mối quan
hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và chính quyền ở các địa phương...
Có như vậy mới giúp cho Hội Nông dân tỉnh thực hiện đúng chủ
trương của Tỉnh ủy.
Bốn là: Lãnh đạo Hội Nông dân tỉnh xây dựng quy chế phối hợp với
UBND, MTTQ và các tổ chức thành viên của Mặt trận nhằm tăng cường phối hợp
và thống nhất thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội; quản lý xã hội.
Năm là: Lãnh đạo Hội Nơng dân tham gia cơng tác xây dựng Đảng và
chính quyền trên địa bàn toàn tỉnh. Thực hiện giám sát nhân dân đối với đội
ngũ cán bộ, đảng viên; tổ chức lấy phiếu tín nhiệm các chức danh do dân cử
và mở rộng các chức danh khác theo yêu cầu.
1.2.3. Phương thức lãnh đạo của Tỉnh ủy Bắc Ninh đối với Hội
Nơng dân tỉnh
Theo Đại từ điển tiếng Việt thì “ phương thức” là phương pháp và hình
thức tiến hành công việc” [56].
20
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Cộng sản Việt Nam đầu tiên nêu ra tư
tưởng về phương thức lãnh đạo của Đảng trong các khái niệm về “cách tổ
chức”, “sách lược của Đảng”, “cách lãnh đạo”, “lề lối làm việc”, tức là nói
đến “phương thức lãnh đạo”. Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng thuật ngữ “phương
thức lãnh đạo” đầu tiên trong “Báo cáo về những Nghị quyết của Trung ương
Đảng Cộng sản Đông dương” (khoảng tháng 10-1930). Sau này khi đã giành
được Chính quyền, Người thường dùng thuật ngữ “cách lãnh đạo”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “phương thức lãnh đạo phải linh hoạt”, đó
là sự kết hợp hài hòa giữa cái chung với cái riêng, cái tổng thể với cái cụ thể,
biết dựa vào ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để định ra nội dung, hình
thức, phương pháp lãnh đạo. Trong các văn kiện của Đảng tại các Hội nghị và
các kỳ Đại hội của Đảng, khái niệm “phương thức lãnh đạo” được trình bày
dưới dạng cách lãnh đạo, cách thức hoạt động sau khi đề ra đường lối.
Tại hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 5 (khóa X) ngày 30-72007 đã ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TW về “Tiếp tục đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị”. Phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị là cách thức,
phương pháp Đảng tác động lên hoạt động của hệ thống đó nhằm đạt mục tiêu
đề ra. Trong điều kiện ở nước ta, một đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng
sản Việt Nam thì phương thức lãnh đạo của Đảng tác động trực tiếp đến hoạt
động của tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị. Phương thức lãnh đạo tốt,
sẽ tạo động lực cho các tổ chức trong hệ thống chính trị phát huy vai trị, vị trí
của mình. Ngược lại nếu phương thức lãnh đạo của Đảng khơng tốt, sẽ kìm
hãm sự phát huy năng lực của các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Trong cuốn “ Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng” do Trần Đình
Nghiêm chủ biên, các tác giả cho rằng: Phương thức lãnh đạo của Đảng là hệ
thống các hình thức, phương pháp, biện pháp, quy trình, lề lối làm việc, tác
21
phong công tác...mà Đảng sử dụng nhằm làm cho đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng được thực hiện có hiệu quả cao nhất.
Điều lệ Đảng tại Đại hội XI đã quy định: Đảng lãnh đạo Nhà nước và
các đoàn thể chính trị - xã hội bằng Cương lĩnh chính trị, chiến lược chính
sách chủ trương, bằng cơng tác tư tưởng, tổ chức, cán bộ và kiểm tra giám sát
việc thực hiện.
Dựa trên những cơ sở khoa học nêu trên, có thể quan niệm: Phương
thức lãnh đạo của Tỉnh ủy Bắc Ninh đối với Hội Nông dân tỉnh là hệ thống
các hình thức, phương pháp, biện pháp, quy trình, lề lối làm việc, tác phong
công tác mà Tỉnh ủy sử dụng để lãnh đạo Hội Nông dân thực hiện thắng lợi
nội dung lãnh đạo của Tỉnh ủy trong từng thời kỳ.
Từ những vấn đề trên, phương thức lãnh đạo của Tỉnh ủy Bắc Ninh đối
với Hội Nông dân tỉnh gồm:
- Tỉnh ủy thường xuyên định hướng về chính trị tư tưởng nhằm bảo
đảm cho mọi hoạt động của Hội Nông dân theo đúng chủ trương, đường lối
của Đảng, Nghị quyết của Tỉnh ủy, đồng thời phát huy được tính sáng tạo của
Hội Nông dân các cấp trong tỉnh.
- Tỉnh ủy lãnh đạo bằng việc ban hành các Nghị quyết, chỉ thị lãnh đạo
Hội Nông dân thực hiện các Nghị quyết của Trung ương, Đại hội đảng bộ, các
chương trình, đề án để Hội Nông dân tổ chức thực hiện. Đây là phương thức
lãnh đạo cơ bản, phổ biến nhất, xuất phát từ bản chất sự lãnh đạo của Đảng.
- Tỉnh ủy lãnh đạo Hội Nông dân tỉnh thông qua công tác tổ chức, cán
bộ. Đây là phương thức lãnh đạo khoa học, hiệu quả hàng đầu, bảo đảm sự
lãnh đạo chặt chẽ.
- Tỉnh ủy lãnh đạo Hội Nông dân tỉnh thơng qua tổ chức đảng và việc
phát huy vai trị tiền phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong hệ
thống Hội Nông dân. Với hệ thống tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên trong
22
Hội nông dân từ tỉnh đến cơ sở, đây là cơ sở vững chắc cho sự lãnh đạo của
Tỉnh ủy đối với Hội Nông dân tỉnh.
- Tỉnh ủy lãnh đạo Hội Nông dân tỉnh bằng công tác kiểm tra, giám sát
hoạt động của Hội Nông dân. Kiểm tra, giám sát Hội Nông dân thực hiện
chức năng, nhiệm vụ, các chương trình cơng tác, các cuộc vận động do Hội
Nơng dân chủ trì; việc chấp hành nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với Hội
Nông dân và những nguyên tắc hoạt động của Hội Nơng dân. Trên cơ sở đó
Tỉnh ủy kịp thời phát hiện sai sót, lệch lạc, hồn chỉnh các quyết định, phát
huy những mặt tích cực và hạn chế đến mức thấp nhất những tiêu cực.
23
Chương 2
TỈNH ỦY BẮC NINH LÃNH ĐẠO HỘI NÔNG DÂN TỈNH THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM
2.1. MỘT SỐ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI NÔNG DÂN TỈNH TỪ
2008 ĐẾN NAY
Được sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, từ năm 2008 đến nay,
Hội Nông dân tỉnh đã bám sát những nội dung chỉ đạo của Tỉnh ủy trong nghị
quyết Đại hội đảng bộ Tỉnh lần thứ XVIII và Nghị quyết Đại hội VII Hội
Nông dân tỉnh. Với tinh thần đoàn kết, năng động, sáng tạo; nỗ lực phấn đấu,
khắc phục mọi khó khăn, thách thức, các hoạt động của Hội ngày càng đi vào
nền nếp và đã đạt được một số kết quả như sau:
Một là: Về công tác xây dựng, củng cố tổ chức Hội các cấp
Các cấp Hội trong tỉnh đã xác định công tác xây dựng, củng cố tổ chức
Hội là nhiệm vụ trọng tâm, có ý nghĩa then chốt quyết định chất lượng hoạt
động công tác Hội và phong trào nông dân. Các cấp Hội đã quan tâm chỉ
đạo thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/HND (khoá IV) về nâng cao chất
lượng tổ chức Hội các cấp và Nghị quyết số 06-NQ/HND ngày 19/7/2010
của BCH Trung ương Hội (khóa V) về tiếp tục xây dựng tổ chức Hội các
cấp vững mạnh.
- Công tác xây dựng tổ chức Hội:
Thực hiện Chỉ thị số 15-CT/TU ngày 22/02/2012 của Ban Thường vụ
Tỉnh uỷ về việc lãnh đạo Đại hội Hội Nông dân các cấp; Kế hoạch số 66KH/HND ngày 04/9/2011 của Ban Thường vụ Hội Nông dân tỉnh về tổ chức
Đại hội Hội Nông dân các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
Hội Nông dân Việt Nam. Ban Thường vụ Hội Nông dân các huyện, thành
phố, thị xã đã chủ động tham mưu với cấp uỷ có Thơng tri, Chỉ thị để chỉ đạo
24
các cấp uỷ lãnh đạo Đại hội. Kết quả đến tháng 8/2012, có 100% cơ sở đã tổ
chức Đại hội theo đúng kế hoạch; đến tháng 10/2012 đã hoàn thành việc tổ
chức Đại hội cấp huyện. Tồn tỉnh có 121/121 cơ sở có nơng dân đều có tổ
chức Hội; 675/675 số thơn, làng... có Chi Hội Nơng dân và 1.297 tổ Hội.
Thực hiện Quyết định số 673-QĐ/TTg ngày 10/5/2011 của Thủ tướng
Chính phủ và chỉ đạo của Ban Thường vụ Trung ương Hội Nông dân Việt
Nam, Ban Thường vụ Hội Nông dân tỉnh đã chủ động phối hợp với các sở,
ban, ngành xây dựng Đề án thành lập Trung tâm Dạy nghề và Hỗ trợ nơng
dân tỉnh Bắc Ninh trình Ban Thường vụ Tỉnh ủy và UBND tỉnh Quyết định
phê duyệt.
- Công tác hội viên:
Hội nông dân tỉnh đã chỉ đạo hội nông dân các cấp quan tâm, chăm lo
đến công tác kết nạp hội viên mới.
Những năm gần đây công tác kết nạp hội viên mới luôn được các cấp
Hội từ tỉnh đến cơ sở quan tâm cả về số lượng và chất lượng, thơng qua nhiều
hình thức như: tăng cường tun truyền về vai trị, vị trí của tổ chức Hội; tổ
chức các hoạt động đem lại lợi ích thiết thực cho hội viên để thu hút, tập hợp
hội viên tham gia sinh hoạt Hội. Trong 5 năm qua, toàn tỉnh đã kết nạp được
32.051 hội viên mới, nâng tổng số hội viên toàn tỉnh lên 161.284 hội viên
(tính đến cuối năm 2012), chiếm 84,6% so với tổng số hộ nông nghiệp. Chất
lượng hội viên được nâng lên, sinh hoạt định kỳ đi vào nền nếp hơn.
- Công tác xây dựng quỹ Hội được các cấp Hội quan tâm chỉ đạo, 100%
Chi Hội xây dựng được quỹ hoạt động. Tổng số quỹ tính đến năm 2012 đạt
trên 11,128 tỷ đồng, bình quân 69.000đồng/hội viên (vượt chỉ tiêu Đại hội và
tăng 24.000đồng/hội viên so với đầu nhiệm kỳ). Công tác quản lý, sử dụng
quỹ Hội được thực hiện đúng Điều lệ, sử dụng đúng mục đích, hiệu quả; việc
thu nộp Hội phí được thực hiện nghiêm túc theo quy định.
25
Hai là: Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Hội
Ban Chấp hành Hội Nông dân các cấp thường xuyên được củng cố,
kiện toàn và thực hiện nghiêm quy chế làm việc, chú trọng công tác kiểm tra,
sâu sát cơ sở, nắm chắc tình hình, nhất là những vấn đề bức xúc trong nông
nghiệp, nông dân, nông thôn. Hoạt động của Ban Chấp hành đã đi vào các nội
dung thiết thực nhằm đáp ứng quyền lợi chính đáng của hội viên nông dân.
Trong chỉ đạo tổ chức thực hiện chức năng nhiệm vụ luôn bám sát các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ
phát triển kinh tế xã hội của địa phương và Nghị quyết của Hội cấp trên. Hội
Nông dân tỉnh đã bám sát Kết luận số 61-KL/TW, ngày 03/12/2010 của Ban
Bí thư TW Đảng về “Nâng cao vai trị, trách nhiệm của Hội Nông dân Việt
Nam trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, xây dựng giai
cấp nông dân Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020”; Quyết định số 673/QĐ-TTg,
ngày 10/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc “Hội Nông dân Việt Nam
trực tiếp và phối hợp thực hiện một số chương trình, đề án phát triển kinh tế,
văn hố, xã hội nơng thơn giai đoạn 2011 - 2020” đồng thời chủ động tham
mưu và đề xuất với Ban Thường vụ Tỉnh uỷ quyết định thành lập Ban Chỉ đạo
thực hiện Kết luận số 61-KL/TW trên địa bàn tỉnh.
Ban Chấp hành Hội Nông dân các cấp chỉ đạo có trọng tâm, trọng
điểm, phát huy vai trị chủ động của các đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành.
Những vấn đề lớn, trọng tâm của tổ chức Hội đều được bàn bạc, thống nhất
dân chủ trong Ban Chấp hành. Tăng cường kiểm tra gắn với sơ kết, tổng kết;
giữ mối liên hệ với các cấp, các ngành, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, doanh
nghiệp để khai thác các nguồn lực giúp hội viên nông dân phát triển sản xuất.
Ba là: Công tác Thi đua - Khen thưởng
Nhận thức sâu sắc, đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng về công tác thi
đua khen thưởng, hàng năm các cấp Hội bám sát vào nhiệm vụ chính trị của