1
MỞ ĐẦU
1 . Tính cấp thiết của đề tài
Dân chủ là ước vọng của con người, là thước đo chất lượng cuộc sống
xã hội và năng lực quản lý của nhà nước. Dân chủ thể hiện trình độ văn minh
và tiến bộ xã hội. Chính vì vậy, từ xưa đến nay, dân chủ đã trở thành mục tiêu
đấu tranh của loài người cả trong lý luận và thực tiễn. Ở Việt Nam, sau khi
cách mạng tháng 8/1945 thành công, Tuyên ngôn độc lập đã khẳng định nước
ta là một nước dân chủ. Việc lấy tên nước là: Việt Nam dân chủ cộng hịa điều
đó cho thấy, dân chủ là nhu cầu, lý tưởng, nguyện vọng của dân tộc ta, của
Đảng, của nhân dân ta. Đó cũng là mục tiêu phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân
ta trong suốt hơn 80 năm qua.
Xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam là sự nghiệp của cả hệ thống chính
trị và tồn thể nhân dân. Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã nêu cao ngọn cờ dân
tộc, dân chủ, dân quyền. Đó là mục tiêu phấn đấu của Đảng và của nhân dân
ta, trong đó dân chủ là mục tiêu để nhân dân thực sự làm chủ xã hội. Suốt hơn
80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm tốt cơng tác đoàn kết toàn dân
tộc, tạo thành sức mạnh to lớn cho việc thực hiện nền dân chủ ở nước ta. Đất
nước được độc lập và thống nhất, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc - đó là tiền đề của công cuộc xây dựng nền dân chủ. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, cùng với sự quản lý thống nhất của các cấp chính quyền và sự phối
hợp hành động của các đoàn thể mới tiến hành được dân chủ. Nhân dân vừa là
chủ thể sang tạo ra lịch sử, vừa là lực lượng thực hiện mọi cuộc cách mạng, là
chủ thể và là đối tượng hưởng thụ thành quả của nền dân chủ. Phát huy tốt vai
trò của nhân dân là nhân tố quyết định cho thắng lợi của mọi cuộc cách mạng.
Trong suốt hơn 80 năm qua, là lực lượng rộng lớn nhất, là sức mạnh tổng hợp
nhất, nhân dân ta đã làm nên những kỳ tích trong đấu tranh giải phóng dân
tộc, xây dựng đất nước. Ngày nay, nhân dân sẽ là lực lượng tổng hợp đầy đủ
2
quyền và sức mạnh để tiến hành công cuộc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa trên đất nước ta.
Thấy rõ tầm quan trọng và sức mạnh của nhân dân cũng như nhu cầu
của nhân dân trong việc thực hiện dân chủ; đồng thời, nhận thấy thực hiện dân
chủ có kết quả phải được tiến hành từ trong các đơn vị cơ sở, từ dưới lên trên.
Từ năm 1998, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị 30 CT/TW về xây dựng quy
chế dân chủ ở cơ sở. Từ đó đến nay, với Quy chế thực hiện dân chủ cơ sở
theo các Nghị định của Chính phủ và từ 2007 là Pháp lệnh Thực hiện dân chủ
cơ sở ở xã, phường, thị trấn, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự vào cuộc của cả
hệ thống chính trị, nhân dân ta đã đẩy mạnh thực hiện dân chủ ở cơ sở và
giành được nhiều thành tựu. Tuy nhiên, cho đến nay vấn đề thực hiện dân chủ
ở cơ sở vẫn cịn nhiều hạn chế, bất cập, thậm chí nhiều bức xúc; vai trò của
nhân dân trong thực hiện dân chủ ở cơ sở nhìn chung cịn mờ nhạt. Đây là vấn
đề đang đặt ra cần nghiên cứu.
Nam Đàn là một huyện có truyền thống cách mạng của tỉnh Nghệ An,
ln luôn đi đầu trong các phong trào cách mạng, trong dựng xây đất nước,
trong đổi mới và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương. Trong
những năm qua, Nam Đàn cũng là một trong những địa phương đi tiên phong
trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn và đã đạt được nhiều kết quả quan trong, đưa đời sống kinh
tế, văn hóa, xã hội tiến một bước đáng kể.
Một trong những chủ thể thực hiện dân chủ ở cơ sở là nhân dân và qua
thực tiễn thực hiện, có thể nói, nhân dân là chủ thể quan trọng đưa đến thực
chất của thực hiện dân chủ cơ sở. Phát huy hiệu quả vai trò của nhân dân, vấn
đề dân chủ nói chung và dân chủ ở cơ sở nói riêng sẽ được thực hiện tốt, tạo
môi trường xã hội lành mạnh, mọi nguồn lực sẽ được khai thác hiệu quả,
chính trị xã hội sẽ ổn định, niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước sẽ
được nâng cao. Quá trình và kết quả thực hiện dân chủ ở cơ sở tại Nam Đàn
3
thời gian qua vừa là kinh nghiệm bước đầu cho việc thực hiện trong thời gian
tiếp theo, đồng thời cũng cịn có nhiều điểm cần tiếp tục nghiên cứu, đẩy
mạnh để giành được nhiều thành tựu lớn hơn nữa.
Từ lý luận và thực tiễn thực hiện dân chủ ở cơ sở tại huyện Nam Đàn,
Nghệ An, một vấn đề lớn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đặt ra là phải quan
tâm đặc biệt tới vai trò của nhân dân trong quá trình thực hiện dân chủ ở cơ
sở, vì đây là chủ thể đặc biệt đưa đến sự thực chất của dân chủ hóa cơ sở.
Với những vấn đề và những lý do nêu trên, học viên chọn vấn đề:
"Nhân dân trong thực hiện dân chủ ở cơ sở - khảo sát tại huyện Nam Đàn,
tỉnh Nghệ An" làm luận văn thạc sĩ Chính trị học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
* Các nghiên cứu về dân chủ và thực hiện dân chủ ở nước ngoài
Đây là mảng đề tài mà các nhà khoa học trên thế giới đặc biệt quan tâm.
Điều đó thể hiện ở chỗ hàng loạt cơng trình về dân chủ từ nhiều khía cạnh khác
nhau được cơng bố, xuất bản. Có thể nêu một số cơng trinh tiêu biểu như:
- Lijphat A: Các mơ hình dân chủ - nghiên cứu so sánh ở 21 quốc gia,
Nxb Đại học Yale, Bản dịch của Nguyễn Đăng Quang, Học viện chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội 1994.
- Dân chủ và chủ nghĩa tư bản, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á,
Xinhgapo 1993, Bản dịch của Viện Khoa học chính trị, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, 1995.
- Mc Gree R: Khuôn khổ pháp lý cho việc tham gia của người dân: Báo
cáo tổng hợp, Sussex-Logolink, 2003.
- Antlov H và các tác giả khác: Sự tham gia của người dân trong quản
trị địa phương - Kinh nghiệm của Thái Lan, Inddooneeeexxia và Philippin,
Sussex - Logolink, 2004.
- Maluxep D: Dân chủ hóa ở phương Dơng thời kỳ hậu Xơviết: Mơ
hình và hiện thực, Tạp chí Kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế (Nga). Thông
4
tin những vấn đề lý luận - Viện Thông tin khoa học, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, số 10, tháng 5 -2005.
- Xiao Gongqin: Cong zhengzhi fazhan jiaodu kan dangnei minzhuhua,
Zhengzhixue, 2004n, d5q, 48-56y: Thuyết dân chủ hóa trong Đảng nhìn từ
góc độ phát triển chính trị, Tài liệu phục vụ nghiên cứu. Viện Thông tin khoa
học xã hội, TN-2005 - 09, TN 2005-10, Hà Nội 2005.
- Helge Batt: Dân chủ trực tiếp trong so sánh các nước châu Á,
http//www.bpb.de/pubhkationen Aus Pohtik und zeitgeschichte, Apuz 10-2006.
- Philip Cam: Tồn cầu hóa và dân chủ, Tạp chí Triết học, số 2, tháng 2 - 2006.
- Rudenco V.N: Về triển vọng phát triển dân chủ trực tiếp trong xã hội
hiện đại, Tạp chí Nghiên cứu chính trị (Nga), số 4 - 2006.
Và nhiều cơng trình nghiên cứu khác của nhiều học giả.
Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã đi sâu và phân tích
rõ về lý luận dân chủ, dân chủ hóa và nội dung, biện pháp thực hiện dân chủ
tại các quốc gia khác nhau; vai trị của người dân trong tiến trình dân chủ hóa.
Những vấn đề lý luận đó đã cung cấp cho chúng ta những hiểu biết rất quan
trọng và những kinh nghiệm q báu, giúp cho tiến trình thực hiện dân chủ
hóa ở nước ta, nhất là về vai trò của các chủ thể trong việc thực hiện dân chủ
trong đời sống.
* Tình hình nghiên cứu trong nước
Vấn đề dân chủ nói chung và dân chủ cơ sở nói riêng từ trức đến nay đã
được nhiều cơ quan, ban ngành từ Trung ương đến địa phương quan tâm và
được nhiều chuyên gia, học giả, các nhà khoa học nghiên cứu.
Một số bài phát biểu của lãnh đạo Đảng, Nhà nước nhấn mạnh ý nghĩa,
tầm quan trọng của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, như: Đỗ Mười
(1998), “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở”, Tạp chí Cộng sản,
số 20. Lê Khả Phiêu (1998), “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây
dựng và thực hiện thiết chế dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Cộng sản, số 3.
5
Một số bài nghiên cứu của chuyên gia, nhà khoa học luận giải về yêu
cầu, cách thức tổ chức và con đường, biện pháp thực hiện Quy chế dân chủ và
dân chủ cơ sở, như: Hồng Chí Bảo: “Dân chủ trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Thông tin lý luận, số 7-1989; Ngô Hữu Thảo.
“Những luận điểm của Lênin về chính trị và vấn đề dân chủ hóa chính trị ở
nước ta”, Tạp chí Triết học, số 3- 1990; Thái Minh Hồng - Hoàng Chí Bảo:
“Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa”, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1991;
Hồng Chí Bảo: “Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta: quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu”, Thông
tin lý luận, số 9-1992; Trần Quang Nhiếp: “Thực hiện dân chủ ở cơ sở”, Tạp
chí Cộng sản, 1998, số 13.
Nhiều cơng trình khoa học đã cơng bố: Đào Trí Úc (chủ biên): Cơ
chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà
nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2009; Dương Xuân Ngọc (chủ biên): Quy chế thực hiện dân chủ cấp xã Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000;
Nguyễn Cúc: Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện nay Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002;
Trần Bạch Đằng: Dân chủ cơ sở, một sức mạnh truyền thống của dân tộc
Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 35 (12/2003); Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn
Thông (Đồng chủ biên): Thực hiện Quy chế dân chủ và xây dựng chính
quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2003;
Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông (chủ biên): Thể chế dân chủ và phát triển
nông thôn Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội-2005. Hồng
Chí Bảo: Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong tiến trình đổi mới,
Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội -2010. Lê Minh Quân: Về quá
trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội 2011.
6
Nhìn chung, các bài viết, các cơng trình nghiên cứu thời gian qua đã
làm nổi rõ cơ sở lý luận và ý nghĩa thực tiễn của vấn đề dân chủ ở cơ sở và
việc thực hiện Quy chế dân chủ và dân chủ cơ sở, đồng thời phân tích, lý giải
làm rõ vai trò của các chủ thể trong quá trình thực hiện, nhất là các tổ chức
trong hệ thống chính trị cấp cơ sở. Tuy nhiên, về vai trị của cơng dân và phát
huy vai trị của cơng dân trong thực hiện dân chủ cơ sở thì chưa được quan
tâm đúng mức, mặc dù vai trị đó khơng chỉ thể hiện trong Pháp lệnh 34-PLUBTVQH11, mà còn trong các văn bản pháp luật khác như: Luật bầu cử Đại
biểu Quốc hội; Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; Luật tổ chức
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp; Luật Phòng chống tham
nhũng; Luật Đất đai; Luật Thanh tra; Luật Khiếu nại, Tố cáo; Luật Cơng
chức; Luật Xây dựng; ...
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận về vai trò của nhân dân trong
thực hiện dân chủ ở cơ sở, trên cơ sở đó, khảo sát làm rõ thực trạng của việc
thực hiện dân chủ ở cơ sở tại huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An trong thời gian
qua. Trên cơ sở đó, đề xuất phương hướng và các giải pháp nhằm phát huy vai
trò của nhân dân trong thực hiện dân chủ ở cơ sở, góp phần nâng cao dân chủ
ở cơ sở tại huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích nêu trên, Luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề về dân chủ cơ sở, thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn, vai trị của cơng dân và việc phát huy vai trò của người dân
của cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể.
- Đánh giá thực trạng của việc thực hiện dân chủ ở cơ sở tại huyện
Nam Đàn; làm rõ mặt thành công cũng như những hạn chế và nguyên nhân
trong vai trò thực hiện dân chủ cơ sở của nhân dân; vạch rõ những vấn đề
7
đang đặt ra trong việc thực hiện dân chủ ở cơ sở của nhân dân ở huyện
Nam Đàn hiện nay.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy
vai trò của nhân dân trong việc thực hiện dân chủ trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu vai trò của nhân dân trong thực hiện dân chủ ở cơ sở.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Thực hiện dân chủ ở cơ sở (xã, phường, thị trấn) tại huyện Nam Đàn,
tỉnh Nghệ An trong thời gian 10 năm trở lại đây (2002 - 2012).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận về dân chủ, về chính trị, về
vai trò của quần chúng nhân dân của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các văn kiện của Đảng và Nhà nước Việt Nam, nhất là Chỉ thị 30
CT/TW của Bộ Chính trị về Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh
34/2007 PL-UBTVQH11 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Luận
văn cũng kế thừa có chọn lọc những thành tựu nghiên cứu của các cơng trình
khoa học của nhiều tác giả đã được công bố.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử, đồng thời, sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: lịch sử và
logic, phân tích và tổng hợp, khái quát hóa, phương pháp thống kê, gắn lý
luận với thực tiễn.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Với kết quả nghiên cứu, luận văn góp phần làm rõ và sâu hơn về vấn đề
dân chủ và thực hiện dân chủ ở cơ sở, đặc biệt làm rõ vai trò của nhân dân
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An trong việc thực hiện dân chủ ở cơ sở; nêu lên
8
những gợi ý có cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc phát huy vai trò của nhân
dân trong thực hiện dân chủ cơ sở nói chung.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về lý luận: Góp phần vào việc nghiên cứu dân chủ ở cơ sở và vai trò
của nhân dân, cũng như phát huy vai trò của nhân dân trong việc thực hiện
dân chủ ở cơ sở.
- Về thực tiễn: Luận văn là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng
dạy chuyên đề; đồng thời cũng là tài liệu tham khảo cho các cơ quan có chức
năng lãnh đạo, quản lý và vận động quần chung thực hiện dân chủ ở cơ sở.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
VÀ VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG VIỆC THỰC HIỆN DÂN CHỦ
Ở CƠ SỞ
1.1. DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
1.1.1. Dân chủ
* Quan niệm về dân chủ từ thời cổ đại đến trước thế kỷ XVII
Dân chủ thuộc phạm trù chính trị, có nguồn gốc từ xã hội Hy Lạp cổ
đại. Dân chủ trong tiếng Hy Lạp, đó là nhân dân là chủ và làm chủ xã hội;
đó cũng là quyền lực, là sự thống trị, nền cai trị của người bình dân; nó
được biểu hiện theo nghĩa đối lập với chế độ độc tài. Theo đó, dân chủ có
nghĩa là quyền lực của nhân dân, là sự cai trị của nhân dân đối với xã hội.
Nhân dân là chủ thể của quyền lực, sử dụng quyền lực, trong đó quyền lực
chính trị là quan trọng nhất để tổ chức xã hội, thực thi quyền lực chính trị,
thực hiện sự nghiệp giải phóng xã hội, giải phóng con người, xây dựng và
phát triển xã hội.
Từ khi xuất hiện cho đến nay, nội dung của khái niệm dân chủ càng
ngày càng mở rộng với nhiều nội dung mới mẻ hơn, được gắn với ý thức
chính trị, gắn với chính quyền nhân dân, gắn với tiến trình lịch sử của xã hội
lồi người. Nó cũng là giá trị xã hội nhân văn, đánh dấu sự tiến bộ của xã hội
loài người. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, dân chủ là một hiện
tượng lịch sử ra đời trong giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Mác và
Ăngghen cho rằng: dân chủ là một hình thức nhà nước, và hơn thế cịn là một
chế độ xã hội. Khơng thể có một chế độ dân chủ chung chung, mà chỉ có một
chế độ dân chủ có tính giai cấp, cũng như nhà nước ln có tính giai cấp.
Thích ứng với chế độ dân chủ là một kiểu nhà nước dân chủ và ngược lại. Khi
giai cấp và nhà nước thay đổi thì tính chất của dân chủ cũng thay đổi, khi giai
10
cấp và nhà nước khơng cịn thì dân chủ với tính cách là một hình thức nhà
nước cũng khơng cịn.
Kế thừa C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin cho rằng: dân chủ là một chế
độ nhà nước, nên dân chủ mang tính giai cấp. Dân chủ tồn tại dưới những
hính thức cụ thể, biến đổi cùng với sự thay đổi của phương thức sản xuất và
kết cấu giai cấp của xã hội, vì vây nó có q trình tiến hóa lâu dài qua các
hình thái kinh tế - xã hội.
Trong xã hội Cộng sản nguyên thủy, cuộc sống của con người là hái
lượm từ tự nhiên. Để tồn tại và phát triển, con người buộc phải gắn bó với
nhau thành cộng đồng, sử dụng sức mạnh cộng đồng để thực hiện quyền sống.
Toàn thể các thành viên của thị tộc đều là những người tự do, có
nghĩa vụ bảo vệ tự do của nhau; họ đều có những quyền cá nhân
ngang nhau - cả Tù trưởng và Thủ lĩnh quân sự đều không đòi hỏi
những quyền ưu tiên nào cả, họ kết thành một tập thể thân ái, gắn bó
với nhau bởi những quan hệ dịng máu. Tự do, bình đẳng, bác ái tuy
chưa bao giờ được nêu thành công thức, nhưng vẫn là nguyên tắc cơ
bản của thị tộc [36, tr.136].
Quá trình phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã
hội, chế độ Công xã nguyên thủy tan ra, chế độ Chiếm hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất ra đời, cùng với đó là sự xuất hiện giai cấp và một bộ máy quyền lực
thuộc về giai cấp thống trị - đó là Nhà nước. Ngay từ khi ra đời, Nhà nước đã
thể hiện sự tham vọng, đặc quyền đứng trên xã hội để giải quyết những vấn đề
xã hội. Giai cấp thống trị nhân danh xã hội chiếm đoạt Nhà nước, biến Nhà
nước thành công cụ thực hiện quyền lợi chính trị của mình và thực hiện dân
chủ cho giai cấp thống trị.
Theo quy luật phát triển của xã hội lồi người, Hình thái kinh tế xã hội
sau bao giờ cũng cao hơn, tiến bộ hơn Hình thái kinh tế xã hội trước. Điều đó
có nghĩa rằng, kiểu Nhà nước sau bao giờ cũng tiến bộ hơn kiểu Nhà nước
11
trước, hay chế độ dân chủ sau bao giờ cũng cao hơn chế độ dân chủ của xã
hội trước đó. Ở thời kỳ cổ đại, việc hình thành và phát triển chế độ Nô lệ đã
sản sinh ra những tầng lớp cơng dân tự do. Điển hình là tại Aten - Hy Lạp, số
cơng dân tự do này có sự độc lập tương đối về kinh tế và quân sự, được ni
dưỡng và khuyến khích bởi các cách thức dân chủ trong tổ chức và đời sống
cộng đồng. Họ họp nhau lại, tổ chức đại hội nhân dân, bầu cử các quan chức
cộng đồng thực hiện chức năng chấp hành của Đại hội nhân dân, thay mặt nhân
dân quản lý cơng việc hàng ngày. Đại hội nhân dân cịn làm nhiệm vụ lập pháp,
xét xử và quyết định các công việc trọng đại của thành bang. Có thể nói Aten là
đỉnh cao của sự hình thành và phát triển dân chủ thời bấy giờ. Tuy nhiên, nền
dân chủ Aten chỉ tồn tại khoảng hai thế kỷ và trong phạm vi thành bang nhỏ với
số dân cư rất ít (khoảng 30.000 đến 45.000 người). Đặc trưng cơ bản của nền
dân chủ Aten là quyền lực nhà nước không nằm trong tay một thiểu số mà thuộc
về toàn thể nhân dân, mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật; cơng dân
được sắp đặt trách nhiệm công cộng theo khả năng thực tế; mọi cơng dân đều có
thể tham gia vào đời sống chính trị; cơng dân tự do và bao dung trong đời sống
riêng, nhưng lại duy trì và tuân thủ pháp luật trong đời sống công cộng; công dân
không chỉ quan tâm đến cơng việc riêng, mà cịn quan tâm đến cơng việc nhà
nước. Các q trình của nhà nước đều dựa trên sự thừa nhận quyền bình đẳng
của của công dân trong việc tự do tranh luận về các vấn đề cơng cộng. Chính sự
thống nhất, đồn kết và sự tham gia tích cực của người dân vào cơng việc của
nhà nước tạo ra sự độc đáo của nền dân chủ Aten.
Từ thế kỷ thứ I sau Công nguyên, thế gới quan Kito giáo và tư tưởng
thần học ngự trị. Khả năng phán xét và tham chính tích cực của người cơng
dân bị lịng tin giáo điều chi phối, phục tùng ý Chúa. Tư tưởng bình đẳng
chính trị chỉ được giữ lại trong phạm vi hẹp, phục vụ cho sự cai trị của chế độ
phong kiến, nông nô kéo dài 10 thế kỷ. Thời kỳ này khơng có chỗ cho việc
suy tưởng về dân chủ.
12
Cuối thế kỷ XI, nền cộng hòa bắt đầu được phục hồi, trước hết là một
số đô thị ở vùng miền Bắc Italia. Trong nền cộng hịa đơ thị đó, một số cải
cách về nhà nước được thực hiện; các chức vụ trong chính quyền đều do dân
bầu cử theo nhiệm kỳ và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Mô hình mới này
đánh vào tư tưởng thần học, coi nhà nước là của Chúa ban tặng. Mơ hình đó
cũng đã thôi thúc người dân chống lại tư tưởng thần quyền và khẳng định vai
trò của người dân trong quyết định cơng việc của mình. Đến giữa thế kỷ XIII,
thuật ngữ “dân chủ” mới bắt đầu trở thành ngơn từ chính trị của châu Âu do
có sự tái xuất hiện tác phẩm chính trị của Arixtơt. Cốt lõi của dân chủ lúc này
là tư tưởng về quyền tự trị của công dân, người cai trị là người đại diện hay
những người thi hành cơng lý. Nhà nước có chức năng điều chỉnh sao cho mọi
cơng dân đều có thể sống tốt và hiện thực hóa được các cơ hội mà họ có.
Nhân dân là người lập pháp tối cao, ước nguyện của nhân dân là cơ sở phán
quyết cuối cùng cho mọi định hướng mà cộng đồng muốn hướng tới.
* Dân chủ dưới chế độ tư bản chủ nghĩa
Từ thế kỷ XVII - XVIII, xã hội tư bản chủ nghĩa ra đời cùng với sự ra
đời của nhà nước tư sản với mơ hình tổ chức theo hình thức chính thể cộng
hịa thì lịch sử của nền dân chủ có bước tiến bộ mới. Các nhà tư tưởng đã dựa
trên lập trường tư sản, đã đề xuất nhiều lý thuyết về dân chủ, nhưng nhìn
chung họ đều thống nhất ở tư tưởng về quyền tự nhiên của con người, nhất là
quyền tự do và quyền sở hữu. Với các quyền tự nhiên bất khả xâm phạm đó,
các cá nhân hợp thành xã hội công dân, tạo thành nền tảng của quốc gia. Sự ra
đời của nền dân chủ tư sản đánh dấu một bước tiến đáng kể trong quá trình
dân chủ hóa trong xã hội lồi người. Trong q trình phát triển, nền dân chủ
tư sản đã để lại những tư tưởng tiến bộ về dân chủ. Đó là tư tưởng về xã hội
công dân, về nhà nước pháp quyền, là sự phát triển của quyền con người và
quyền công dân, là những tư tưởng về thể chế đảm bảo dân chủ. Từ đây hình
thành mơ hình dân chủ tự do với hai biến thể của nó là: dân chủ bảo hộ và dân
13
chủ phát triển. Mơ hình dân chủ bảo hộ cho rằng, con người là một thực thể tư
lợi, do đó cần tạo ra các thể chế có trách nhiệm để không bị người khác thống
trị. Đại diện cho tư tưởng này là Lốccơ, Người cho rằng, các thể chế nhà nước
nên được xem là công cụ để bảo vệ cuộc sống, tự do và tài sản của cơng dân. Sự
hình thành nhà nước khơng phải là sự ủy quyền tồn bộ quyền cá nhân cho lĩnh
vực chính trị. Quyền lập pháp và hành pháp được chuyển giao, nhưng các quá
trình này đều bị chế định bởi một mục tiêu cốt lõi là bảo vệ cuộc sống, tự do và
của cải của các cá nhân. Quyền lực chính trị tối cao vẫn ở phía người dân.
Lý thuyết dân chủ phát triển, đại biểu tiêu biểu là Rútxô đề cao chủ
quyền tối thượng của nhân dân, không phân biệt nô lệ và dân tự do, với quyền
tự nhiên của con người và khế ước xã hội. Một trong những mục tiêu của nhà
nước là phát triển tự do của con người, phát triển mọi năng lực của con người
thông qua cơ chế dân chủ trực tiếp của tất cả các công dân. Mọi cơng dân phải
tham dự trực tiếp vào q trình sáng tạo luật pháp nhằm quy định và điều
chỉnh cuộc sống của mình. Người bị cai trị phải là người cai trị. Nhà nước tạo
lập các cơ hội bình đẳng cho mọi công dân tham gia các vấn đề công cộng.
Chính sự tham gia chính trị là một giá trị và đó cũng là cơ chế cho phép phát
triển tinh thần cơng dân tích cực.
Mơ hình dân chủ bảo hộ và dân chủ phát triển theo lý thuyết của dân
chủ tư sản thời cận đại được hình thành và phát triển dựa trên cơ sở kinh tế và
xã hội tư bản thời kỳ cách mạng tư sản, thời kỳ hình thành và phát triển của
chủ nghĩa tư bản. Từ sau thế kỷ XVIII, sau những diễn biến chính trị - xã
hội của thời kỳ cách mạng tư sản ở chấu Âu và Bắc Mỹ, hàng loạt hệ thống
dân chủ được hình thành, tạo dựng các mơ hình dân chủ với những mục
tiêu, nhiệm vụ, biểu hiện khác nhau ở những khía cạnh và mức độ nhất
định. Tuy nhiên vẫn có cái chung là thừa nhận các quyền tự do cá nhân trên
cơ sở đảm bảo lợi ích cộng đồng; nhân dân có quyền tham gia vào các q
trình chính trị.
14
Trong xã hội tư bản hiện đại cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xuất hiện
dân chủ tư sản hiện đại với các mơ hình: dân chủ tinh hoa cạnh tranh; dân chủ
đa nguyên; dân chủ tập đoàn; dân chủ của cánh hữu mới và dân chủ của cánh
tả mới. Mơ hình dân chủ tinh hoa cạnh tranh với tư tưởng cho rằng nền dân
chủ chịu ảnh hưởng tiêu cực của xã hội cơng nghiệp, do đó, xã hội ngày càng
thu hẹp phạm vi tự do cá nhân và sự tham gia chính trị của cơng dân. Ở xã hội
đó, thực hiện dân chủ là hình thức, phương tiện để công dân lựa chọn ra
những nhà lãnh đạo. Trong nền dân chủ tinh hoa cạnh tranh, nghị viện vẫn là
nơi duy trì cởi mở và cơng khai việc cai trị, nơi diễn ra tranh luận về chính
sách cơng, nơi tạo cơ hội cho các tư tưởng và lợi ích cạnh tranh nhau, nơi thử
thách các nhà lãnh đạo và đàm phán, thỏa hiệp giữa các khu vực lợi ích khác
nhau. Cử tri ít có khả năng lực chọn chính sách, mà chỉ có khả năng lựa cọn
lãnh đạo. Nền dân chủ sẽ loại bỏ những kẻ yếu kém và chấp nhận những
người có khả năng trong các cuộc đấu tranh giành lá phiếu và quyền lực. Đó
là nền dân chủ mà việc trưng cầu ý dân chỉ là cơ chế đảm bảo sự lãnh đạo
chính trị có hiệu quả. Q trình “dân chủ hóa” chính là q trình xác lập hình
thức “độc tài hóa” của những người do dân bầu, đảm bảo sự cân bằng giữa
thẩm quyền và trách nhiệm chính trị của người cầm quyền. Dân chủ là trao
cho một số cá nhân quyết định các vấn đề sau khi họ giành được đa số phiếu
bầu của người dân. Nhân dân không phải là người thực sự và trực tiếp cai trị,
nhân dân chỉ có cơ hội chấp nhận hay từ chối những người cai trị họ mà thơi.
Dân chủ có nghĩa là sự cai trị của các nhà chính trị được nhân dân bầu ra.
Nhân dân chỉ tham gia chính trị ở mức tối thiểu.
Mơ hình dân chủ đa nguyên coi trọng tính năng động của các nhóm xã
hội, cơng dân được tham gia đầy đủ, bình đẳng về cơ hội, cơng dân được bỏ
phiếu bình đẳng ở giai đoạn quyết định và thực sự bình đẳng trước tịa án,
bình đẳng trong phát hiện và lựa chọn tốt nhất phục vụ lợi ích của họ; cơng
dân kiểm sốt các chương trình nghị sự, thực sự quyết định những vấn đề
15
chính trị. Mọi cơng dân có “cổ phần” hợp pháp trong q trình chính trị. Nền
dân chủ đó tồn tại một phức hợp biến động của các mối quan hệ xã hội. Mọi
người dân đều tham gia vào các nhóm tổ chức với những lợi ích khác nhau,
mỗi nhóm lợi ích lại có sự phân chia để nắm lấy phần quyền lực phù hợp với
mình. Mơ hình dân chủ đa ngun đó quan tâm đến q trình mà theo đó dân
chúng thực hiện quyền kiểm soát các nhà lãnh đạo bằng bầu cử định kỳ và
cạnh tranh giữa các đảng phái và các nhóm lợi chs. Dân chủ là sự cai trị bởi
nhiều nhóm thiểu số. Trong xã hội, con người hợp nhau lại thành các nhóm và
sự cạnh tranh giữa các nhóm lợi ích là sự đảm bảo cho nền dân chủ. Nhà nước
bảo vệ tự do của các nhóm, ngăn chặn tình trạng nhóm này gây phương hại
đến lợi ích nhóm khác. Mơ hình dân chủ đa ngun xem nhẹ sự tham gia của
các công dân vào quá trình chính trị, coi sự tham gia ở mức độ tối thiểu.
Nền dân chủ tập đồn được hình thành do những thay đổi trong nền
kinh tế của thế kỷ XX. Chủ nghĩa tập đoàn là một hệ thống đại diện lợi ích mà
trong đó các yếu tố cấu thành của nó được tổ chức thành một số nhóm đơn
nhất, bắt buộc, được cấu trúc thứ bậc và khác biệt về chức năng - những cái
được thừa nhận và cho phép bởi nhà nước được trao cho đại diện độc quyền
nhóm để đổi lấy sự kiểm sốt q trình chọn lọc lãnh đạo và khớp nối các nhu
cầu và sự ủng hộ. Theo mơ hình chủ nghĩa tập đồn, các cơ quan chức năng
của nhà nước tạo ra những thể chế chính thức và khơng chính thức để thương
thuyết với các đại diện của các nhóm lợi ích cơ bản. Nghị viện đại diện theo
lãnh thổ được thay thế bằng hình thức đại diện chức năng. Vai trị hoạch định
chính sách của nghị viện và của nền chính trị bị xói mịn. Sự tham gia chính
trị của người dân cũng bị xói mịn, sự cai trị của nhân dân chỉ là giấc mơ.
Cùng với các mơ hình dân chủ truyền thống, xuất hiện mơ hình dân chủ
pháp lý của cánh hữu mới và dân chủ tham gia của cánh tả mới. Theo mơ hình
dân chủ pháp lý, ngun tắc đa số được coi là hiệu quả trong việc duy trì và
bảo vệ tự do cá nhân trước sự chuyên quyền của nhà nước. Nguyên tắc đa số
16
đó được hạn chế bởi nguyên tắc pháp quyền. Đặc trưng cơ bản của mơ hình
này là nhà nước hiến định, phân quyền theo đặc trưng của các nền chính trị;
tôn trọng các nguyên tắc pháp quyền, nhà nước can thiệp tối thiểu vào xã hội
công dân và đời sống cá nhân, thị trường tự do được mở rộng tối đa, tối thiểu
hóa sự điều chỉnh hành chính, hạn định vai trị của các nhóm lợi ích.
Dưới ngọn cờ dân chủ, giai cấp tư sản đã thiết lập nền dân chủ tư sản.
Từ ngọn cờ dân chủ, giai cấp tư sản đã phát động nhân dân đánh đổ chế độ
chuyên chế phong kiến và đã đưa ra lý tưởng dân chủ tư sản với tuyên bố về
các quyền tự do, bình đẳng, bác ái, về quyền tự do cá nhân của con người, về
các quyền tự quyết của dân tộc. Đó là tư tưởng về xã họi cơng dân, về nhà
nước pháp quyền, là những tư tưởng và các thể chế đảm bảo dân chủ. Nhưng
nền dân chủ tư sản bị hạn chế bởi tính giai cấp của nó. Đó là dân chủ cho
thiểu số, cho giai cấp tư sản, vì giai cấp tư sản. Quyền lực nhà nước nằm
trong tay giai cấp tư sản, do đó, sự tha hóa quyền lực nhân dân là không thể
tránh khỏi ở các nước tư bản chủ nghĩa. Rútxô nhận xét: “Nhân dân Anh
tưởng mình là tự do; thật ra họ lầm to. Họ chỉ tự do trong khi đi bầu các đại
biểu nghị viện mà thôi; bầu xong đại biểu họ trở lại là nơ lệ, khơng cịn là cái
thá gì nữa. trong những ngày tự do ngắn ngủi đó, cái quyền tự do họ được
dung thật xứng với cái mất tự do phải chịu sau đó” (mục 15, Quyển 3, Khế
ước xã hội). C.Mác cũng nhận xét: Chế độ bầu cử tự do trong chủ nghĩa tư
bản biến thành “tự do” của nhân dân lựa chọn người thống thị mình. Tuyệt
nhiên không phải là sự lựa chọn những người đại diện cho lợi ích của bản
thân mình. Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, Lênin đã viết: “Chế độ
đại nghị tư sản là chế độ kết hợp chế độ dân chủ (không phải cho nhân dân)
với chế độ quan liêu (chống nhân dân) [30].
* Dân chủ theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin
Thế giới ngày càng phát triển, cùng với sự phát triển của khoa học công
nghệ và kinh tế tri thức, nền dân chủ tư sản ngày càng bộc lộ những hạn chế
17
của nó, buộc nhà nước tư sản phải điều chỉnh để thích nghi nhằm duy trì chế
độ tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, măc dù có những sự điều chỉnh, nhưng nó
vẫn khơng thốt khỏi sự khủng hoảng và những mâu thuẫn cơ bản trong lịng
nó. Điều kiện khách quan đó, cùng với sự lớn mạnh của giai cấp cơng nhân và
các Đảng mác xít - lêninnit, tất yếu sẽ dẫn cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
để lập nên nền dân chủ mới - nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, dân chủ là vấn đề có ý nghĩa to lớn đối
với cuộc đấu tranh của giai cấp vơ sản vì chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản. Đấu tranh cho dân chủ ở những mức độ và tính chất nào cũng nằm trong
mục tiêu chung của tiến trình giải phóng giai cấp vơ sản, “bước thứ nhất trong
cuộc cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị,
giành lấy dân chủ” [35, tr.626]. Đó là nền dân chủ cho giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, cho đa số. Nền dân chủ đó tạo điều kiện giải phóng con
người, đảm bảo cho con người phát triển toàn diện, đem lại cho họ quyền làm
chủ cuộc sống, quyền sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Nền dân chủ đó
ra đời, như Mác nói, đã thay thế xã hội cũ với những giai cấp và đối kháng
giai cấp bởi một liên hợp tự nguyện, trong đó sự phát triển tự do của mọi
người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mỗi người.
Tiếp thu và phát triển tư tưởng dân chủ của Mác, trong điều kiện mới,
Lênin khẳng định: giai cấp vô sản phải xây dựng một chế độ dân chủ thì mới
có thể hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình, “khơng có con đường nào khác
dẫn đến chủ nghĩa xã hội, ngoài cách kinh qua chế độ dân chủ, qua tự do
chính trị” [25, tr.52]. Chế độ dân chủ gắn chặt hữu cơ với chủ nghĩa xã hội,
Lênin nói:
Khơng có chế độ dân chủ thì chủ nghĩa xã hội khơng thể thực hiện
được theo hai ý nghĩa sau đây: 1) Giai cấp vô sản khơng thể hồn
thành được cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nếu họ không được
chuẩn bị cho cuộc cách mạng đó thong qua cuộc đấu tranh cho chế
18
độ dân chủ; 2) Chủ nghĩa xã hội chiến thắng sẽ khơng giữ được thắng
lợi của mình và sẽ khơng dẫn được nhân loại đi đến chỗ thủ tiêu nhà
nước, nếu không thực hiện được đầy đủ chế độ dân chủ [27, tr.167].
Nhà nước vô sản được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc dân chủ,
phương pháp dân chủ và phấn đấu vì mục tiêu dân chủ. Các nội dung dân chủ
đươc đảm bảo bằng hiến pháp và toàn bộ hệ thống pháp luật. “Dân chủ là sự
thống trị của đa số. Chỉ có thể gọi cuộc bầu cử là dân chủ khi nào nó là phổ
thong, trực tiếp và bình đẳng. Chỉ có những ủy ban nào do toàn dân bầu ra
trên cơ sở quyền phổ thong đầu phiếu mới là những ủy ban dân chủ” [26,
tr.66]. Đồng thời phải thực hiện quyền bãi miễn một cách đầy đủ, nghiêm túc,
nếu từ chối thực hiện hoặc trì hỗn thực hiện đều là phản dân chủ. Phải thực
hiện quyền bình đẳng trong xét xử. Lênin chỉ ra rằng: Tính chất xã hội của
chế độ dân chủ vô sản là ở chỗ: một là, các cử tri đều phải là quần chúng lao
động; hai là, mọi thủ tục và những sự hạn chế có tính chất quan liêu đều bị xóa
bỏ, quần chúng tự quy định lấy thể thức và thời hạn bầu cử, hồn tồn có quyền
tự do bãi miễn những người mà họ bầu ra; ba là, hình thành một tổ chức quần
chúng tốt nhất của đội tiền phong của những người lao động để làm thế nào mà
toàn thể nhân dân thực sự đều được làm chủ trong thực tế. Ngoài ra, cần xây
dựng chế độ tự quản như là một hình thức của dân chủ vơ sản. Từng bước thiết
lập được một nền tự quản địa phương hết sức rộng rãi [29, tr.525].
Trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, Lênin đặc biệt nhấn mạnh
quyền tham gia quản lý nhà nước của những người lao động, coi sự tham gia
của những người lao động vào chính quyền như là mục đích của chính quyền
Xơviết. Lênin cho rằng: “Việc thu hút mọi người lao động tham gia quản lý là
một trong những ưu thế quyết định của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa … Vì
rằng, một thiểu số người, tức là Đảng không thể thực hiện được chủ nghĩa xã
hội” [31, tr.67-68]. Theo Lênin, chính quyền Xơviết khơng phải là một cái gì
xa vời, mà đó là bộ máy gần gũi với nhân dân. Nhân dân bất kể ở cương vị
19
nào, ngành nghề gì cũng có thể tham gia quản lý bộ máy đó. Lênin phê phán
những quan điểm lệch lạc cho rằng: “một người cơng dân bình thường hoặc là
một nơng dân bình thường, khơng thể điều khiển nhà nước được” [30, tr.333].
Và Người khẳng định: “Người công dân bình thường và người nơng dân bình
thường có thể điều khiển nhà nước nếu người đó bắt tay vào điều khiển nhà
nước” [30, tr.333]. Lênin cũng rất coi trọng sự cơng khai của chính quyền
trong thực hiện cơng việc quản lý. Người nói: Điều khác nhau căn bản giữa
nhà nước xã hội chủ nghĩa và các nhà nước khác là ở chỗ chính quyền cơng
khai với mọi người, làm mọi việc trước mặt quần chúng, quần chúng dễ dàng
gần gũi nó, nó trực tiếp sinh ra từ quần chúng, là cơ quan trực tiếp đại biểu
cho quần chúng nhân dân và ý chí củ họ. Có người lo sợ cơng khai những yếu
kém khuyết điểm sẽ gây khó khăn cho quản lý, điều hành, làm mất uy tín của
Đảng và Nhà nước. Thực tế cho thấy, nếu báo cáo trước quần chúng về những
yếu kém khuyết điểm và khó khăn trong cơng tác thì đều được quần chúng độ
lượng thơng cảm, tận tình giúp đỡ để hồn thành nhiệm vụ.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về Dân chủ
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển trong suốt cuộc
đời hoạt động cách mạng của Người. Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Người
đã xác định đấu tranh cho dân chủ là một trong những mục tiêu của cách
mạng Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ có nghĩa dân là chủ, dân làm
chủ. Người nói: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân làm chủ” [39,
tr.251]. Với việc lấy tên nước là Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Đảng ta
và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nước ta là một nước dân chủ, bao nhiêu lợi
ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây
dựng đều là trách nhiệm của dân … Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều
ở nơi dân” [38, tr.698]. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ và thực hành
dân chủ không chỉ là mục tiêu và động lực của cách mạng, mà cong là
phương thức, phương pháp và là chìa khóa để giải quyết hết thảy mọi vấn đề.
20
Theo Người, để có dân chủ thì trước hết “trong Đảng thực hành dân chủ rộng
rãi” [40, tr.497], cịn ngồi xã hội thì “việc gì cũng hỏi dân chúng, cùng dân chúng
bàn bạc”, “đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết” [38,
tr.294, 297]. Dân chủ là dựa vào lực lượng quần chúng, đi đúng đường lối quần
chúng để từ đó phát huy sáng kiến, giải phóng được những tiềm năng sáng tạo của
nhân dân, tạo động lực cho sự phát triển và tiến bộ của đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thấy rất rõ sức mạnh của quần chúng
nhân dân và Người ln tìm mọi phương pháp phát huy sức mạng to lớn đó.
Người chỉ rõ “dân là gốc nước”, Người thường hay nhắc mọi người về câu
nói của nhân dân vùng Vĩnh Linh những năm kháng chiến chống Mỹ cứu
nước: “Dễ trăm lần khơng dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”,
Người nói: “Dân chúng đồng lịng việc gì cũng làm được. Dân chúng khơng
ủng hộ, việc gì làm cũng khơng nên” [38, tr.249]. Hồ Chí Minh cho rằng dân
chủ với quan lieu là hai mặt đối lập nhau do vậy chốn tham ô, quan lieu là dân
chủ. Mặt khác thực hành dân chủ có tầm quan trọng đặc biệt, dân chủ xã hội
chủ nghĩa khơng có mục đích tự than; hiểu dân chủ, thực hành dân chủ trên
các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội là vì mục tiêu đem lại hạnh
phúc, ấm no, tự do, bình đẳng cho mọi người dân lao động trong đời sống một
cách thiết thực, Người nói: “Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có
thể giải quyết mọi khó khăn” [39, tr.249]. Trước lúc “đi xa”, trong Bản Di
chúc của mình, với muon ngàn tình thương yêu để lại cho toàn Đảng, toàn
dân và cho các thế hệ con cháu mn đời sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn:
“Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hịa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào
sự nghiệp cách mạng thế giới”.
* Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, nhân dân ta đã tiến hành thành công các cuộc cách mạng dân tộc, dân
21
chủ nhân dân, lập nên Nhà nước Dân chủ Cộng hòa, đánh đuổi ngoại xâm,
thống nhất đất nước, mở ra kỷ ngun mới cho q trình dân chủ hóa ở Việt
Nam. Hơn 80 năm lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập và xây dựng
chủ nghĩa xã hội, lúc nào Đảng ta cũng xác định dân chủ là một nội dung
quan trọng trong đường lối cách mạng của mình và coi việc mở rộng dân chủ
xã hội chủ nghĩa và phát huy quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu, động
lực để chúng ta vượt qua khó khăn, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm
vụ chiến lược, đồng thời, đó cũng là bản chất và đặc trưng của chế độ mới.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc
cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân. Hai mục tiêu dân tộc và dân chủ gắn
chặt chẽ với nhau ngay từ buổi đầu sự nghiệp cách mạng của Đảng. Nội dung
dân chủ trong giai đầu của cách mạng từ khi có Đảng được nêu rõ trong
“Chánh cương vắn tắt của Đảng” là: Dân chúng được tự do tổ chức; nam, nữ
bình quyền; nước Nam được hoàn toàn độc lập; dân cày có ruộng.
Sau cách mạng dân tộc dân chủ thành cơng, Đảng ta tiếp tục lãnh đạo
đất nước chuyển sang giai đoạn cách mạng mới - cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Mục đích của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là giải phóng xã hội, giải
phóng con người, phát huy quyền làm chủ của nhân dân với trình độ hoàn
thiện và toàn diện hơn, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, đem lại ấm
no, hạnh phúc và các giá trị cao cả, tiến bộ cho con người. Đưa địa vị người
dân nô lệ, làm thuê, bị áp bức, bóc lột trở thành người làm chủ nước nhà, làm
chủ xã hội, xây dựng nền dân chủ rộng rãi cho nhân dân.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã xác định chế độ làm
chủ tập thể xã hội chủ nghĩa là một trong bốn mục tiêu cơ bản của cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta với nội dung tồn diện. Q trình đó phải được
tiến hành kiên trì, lâu dài, hồn thiện dần theo tiến trình phát triển, Đại hội
khẳng định:
22
Xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa là xây dựng một
xã hội mà trong đó người làm chủ là nhân dân lao động có tổ chức,
mà nịng cốt là lien minh cơng nơng, do giai cấp công nhân lãnh
đạo. Nội dung làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa bao gồm nhiều mặt:
Làm chủ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; làm chủ xã hội, làm
chủ thiên nhiên, làm chủ bản than, làm chủ trong phạm vi cả nước,
trong mỗi địa phương, mỗi cơ sở. Quyền làm chủ tập thể bao gồm
quyền tự do chân chính của cá nhân. Xây dựng chế độ làm chủ tập
thể xã hội chủ nghĩa là một quá trình phát triển khơng ngừng từ thấp
đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện [14].
Những quan điểm trên đây tiếp tục được Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ V khẳng định và cụ thể hóa trên các lĩnh vực nhằm phát huy tốt hơn
quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đại hội mở đầu sự nghiệp đổi mới
đất nước của Đảng ta đã đưa ra một quan điểm mới của việc phát huy dân
chủ, đó là: Lấy dân làm gốc, phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế để
giải phóng mọi năng lực và lực lượng sản xuất; từ đó đổi mới nội dung và
phương pháp lãnh đạo của Đảng trên cơ sở nắm vững nguyên tắc, kiên định
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu những thành tựu văn minh nhân loại, bảo
đảm quá trình đổi mới diễn ra đúng nguyên tắc tập trung dân chủ … Bởi vậy,
trên thực tế, quyền làm chủ của nhân dân từng bước được hoàn thiện và phát
huy. Tiếp tục quán triệt bài học “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”,
Đại hội đã chỉ rõ: “Ở đâu nhân dân lao động có ý thức làm chủ và được là chủ
thực sự, thì ở đấy xuất hiện phong trào cách mạng” [15, tr.115], từ đó, Đảng
chỉ rõ: làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ dân chủ xã hội
chủ nghĩa cần được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vấn đề
dân chủ nhân dân, vấn đề làm chủ của người dân được xác định rõ hơn, đó là:
23
Đối với những chủ trương có quan hệ trức tiếp tới đời sống nhân
dân trên phạm vi cả nước cũng như ở các địa phương và đơn vị cơ
sở, cấp ủy Đảng hoặc cơ quan chính quyền phải trưng cầu ý kiến
nhân dân trước khi quyết định. Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra, đó là nề nếp hang ngày của xã hội mới, thể hiện chế độ nhân dân
lao động tự quản lý nhà nước của mình [15, tr.118].
Như vậy làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa một lần nữa được khẳng định
them nội dung mới đó là: tôn trọng con người, phát huy sức sáng tạo của mọi
tầng lớp nhân dân vào sự nghiệp xây dựng xã hội mới và phát triển đất nước,
đồng thời thông qua đó mà rèn luyện, đào tạo con người mới xã hội chủ nghĩa.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng thông qua Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo đó,
một trong những tiêu chí của mơ hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây
dựng đó là một xã hội “do nhân dân lao động làm chủ”, “Con người được giải
phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng, làm theo năng lực, hưởng theo lao động,
có cuộc sống ấm no, tự do, hạn phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá
nhân” [15, tr.315-316]. Như vây, từ những kết quả bước đầu thực hiện dân
chủ xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đại hội tiếp tục
khẳng định cần phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân, đảm bảo xây
dựng nền dân chủ thực sự. Để thực hiện điều đó, Đại hội khẳng định: “Tồn
bộ tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là
nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm quyền lực thuộc về nhân dân” [16, tr.19], “Thực hiện dân chủ xã hội chủ
nghĩa là thực chất của việc đổi mới và kiện tồn hệ thống chính trị. Đây vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới” [17, tr.90]. Đại hội cũng đã
xác định các giải pháp quan trọng cho việc đảm bảo thực hiện dân chủ, đó là:
hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng
cao dân trí, nâng trình độ hiểu biết và ý thức thự thi pháp luật của nhân dân;
24
các q trình chính sách của Đảng và Nhà nước phải phản ánh được trí tuệ
của tồn Đảng và của nhân dân; chốn quan lieu và các hành vi xâm phạm
quyền làm chủ của nhân dân; ngăn chặn và khắc phục dân chủ hình thức, cực
đoan, các hành vi gây rối, phá hoại.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, tiếp tục khẳng định
tiếp tục phát huy vai trò làm chủ của nhân dân nhằm đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa:
Xây dựng cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách lớn
của Đảng và Nhà nước. Thực hiện tốt các cơ chế làm chủ của nhân
dân: Làm chủ thong qua đại diện là các cơ quan dân cử; làm chủ
trực tiếp bằng các hình thức nhân dân tự quản, bằng các quy ước,
hương ước tại cơ sở phù hợp với luật pháp Nhà nước. Đảng và Nhà
nước tiếp tục đổi mới phong cách bảo đảm dân chủ trong quá trình
chuẩn bị ra nghị quyết và thực hiện các quyết định [15, tr.508].
Hội nghị lần thứ ba, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII
(6/1997) nhấn mạnh: để giữ vững và phát huy được bản chất tốt đẹp của Nhà
nước ta, thì điều quan trọng nhất là phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thu
hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, tham gia kiềm chế, kiểm soát nhà
nước, khắc phục tình trạng suy thối, quan lieu, mất dân chủ và nạn tham
nhũng. Đồng thời, Hội nghị cũng đã đưa ra vấn đề quan trọng và cấp bách là:
phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở - Đó chính là nơi quyền làm
chủ của nhân dân được thực hiện trực tiếp và rộng rãi nhất. Việc ban hành Chỉ
thị 30 CT/TW của Bộ Chính trị khóa VIII “về xây dựng và thực hiện quy chế
dân chủ cơ sở”, cũng với việc ra đời các Nghị định của Chính phủ và Pháp
lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về quy chế dân chủ cơ sở là sự cụ thể
hóa các quan điểm nêu trên của Đảng và Nhà nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng. Đại hội tổng kết 15
năm đổi mới, đưa ra bài học quý báu về mối quan hệ giữa thực hiện dân chủ
25
và đổi mới, phát triển đất nước: Đổi mới phải dựa vào dân, vì lợi ích của nhân
dân, khơng máy móc phụ thuộc vào mơ hình bên ngồi; nhân dân tích cực
thực hiện đổi mới thì thành cơng; coi cơng cuộc đổi mới là của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Từ đây, nội dung dân chủ tiếp tục được coi trọng và
được đặt trong mối quan hệ với các mục tiêu chiến lược của quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” [15, tr.635]. Xây
dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân để làm
công cụ chủ yếu thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Hoàn thiện hệ thống
pháp luật về bầu cử để phát huy dân chủ. “Mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở,
tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định
những vấn đề quan trọng” [15, tr.676] nhằm khắc pục mọi biểu hiện của dân
chủ hình thức; chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mọi người; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người
mà Việt Nam tham gia ký kết; các cơ quan giải quyết tốt các khiếu nại, tố cao
và kiến nghị của công dân; đảm bảo kỷ cương, pháp luật.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, tiếp tục nhấn mạnh
việc phát huy dân chủ, khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể
hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân” [18, tr.125].
Nhân dân được tham gia ý kiến vào q trình chính sách của Đảng và Nhà
nước; cán bộ, đảng viên và công chức là công bộc của nhân dân; đề cao trách
nhiệm của tổ chức Đảng và Nhà nước với nhân dân; xác định các hình thức và
cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trên các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội.
Đại hội Đại biểu lần thứ XI của Đảng, đánh giá 25 năm thực hiện công
cuộc đổi mới, nhận định: dân chủ xã hội chủ nghĩa có tiến bộ. Đảng và Nhà
nước đã có nhiều chủ trương, chính sách phát huy quyền làm chủ và đảm bảo