Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn quận hà đông hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.06 KB, 100 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giữa nhà nước và tín ngưỡng, tơn giáo có mối quan hệ khăng khít với
nhau. Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của nhân dân và các triều đại
phong kiến Việt Nam. Dưới thời Bắc thuộc, Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo
với tính cách là một tơn giáo được du nhập. Các tơn giáo lúc đó có quan hệ
với chính trị, đó là chính trị đơ hộ của người phương Bắc.
Năm 1533, đạo Công giáo bắt đầu truyền bá vào nước ta. Song với vai
trị của Nho giáo và hồn cảnh thực tế của nền chính trị, về cơ bản các Nhà
nước chính trị khơng chấp nhận. Cơng giáo bị người đương thời nhận thấy có
nhiều nội dung trái với văn hoá truyền thống của dân tộc, hơn nữa, hệ tư
tưởng Nho giáo khi đó mặc dù đã suy tàn nhưng vẫn được đơng đảo tầng lớp
trí thức, quan lại chính trị lưu giữ và tơn thờ.
Từ khi Đảng cộng sản Việt Nam trở thành người lãnh đạo cách mạng
nước ta, mối quan hệ giữa chính trị với tơn giáo được giải quyết và tiến hành
dựa trên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là việc tơn trọng
quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo; tách tơn giáo khỏi ảnh hưởng và sự lợi dụng
của chính trị đế quốc thực dân; đoàn kết lương - giáo, đoàn kết giữa các tơn
giáo khác nhau, vì nền độc lập tự do của dân tộc. Mặt khác, đồng bào các tơn
giáo ở nước ta cũng đã tham gia tích cực vào sự nghiệp cách mạng giành độc
lập dân tộc, thống nhất đất nước.
Ngày nay, thời kỳ phát triển mới đã và đang mở ra đối với Việt Nam
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước trong bối cảnh tồn
cầu hố. Đồng bào tơn giáo và giáo hội các tôn giáo ở nước ta khẳng định lập
trường đi theo định hướng phát triển đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội do
Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Vì thế, mối quan hệ giữa tơn giáo với
chính trị có sự đồng thuận cao, đó là việc, chính trị bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tơn giáo bằng Hiến pháp, pháp luật và bằng mọi hoạt động của bộ



2
máy chính trị trong tồn bộ hệ thống chính trị. Từ đó, khối đại đồn kết tồn dân,
đồn kết lương giáo được mở rộng và tăng cường; các tôn giáo hoạt động tự do
theo pháp luật, tín đồ các tơn giáo phấn đấu sống “tốt đời, đẹp đạo”, xây dựng
quê hương, đất nước giàu mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Từ mối quan hệ giữa tôn giáo với chính trị ở nước ta đã và đang đặt ra
một số vấn đề đối với các cơ quản quản lý nhà nước, trước hết là đối với lực
lượng lãnh đạo, quản lý xã hội.
Cần tăng cường công tác nghiên cứu về tơn giáo học nói chung và về
mối quan hệ giữa tơn giáo với chính trị nói riêng, trên nền tảng là chủ nghĩa
Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo, nhằm làm cơ sở lý luận cho
công tác tôn giáo của Đảng và Nhà nước.
Thường xuyên tiếp cận đến vấn đề chính trị và tôn giáo ở các nước
trên thế giới hiện nay, xem đó là một tham khảo khơng thể thiếu và có ý nghĩa
không nhỏ đối với công tác tôn giáo ở nước ta.
Chủ động tự giác trong việc làm ổn định tình hình tơn giáo, loại bỏ
những nhân tố chính trị phản động lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng.
Tăng cường vai trò và trách nhiệm của từng tổ chức chính trị trong hệ thống
chính trị vào việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tơn giáo và tự do khơng tín
ngưỡng tơn giáo của nhân dân. Đồng thời thường xun quan tâm đến cơng tác
vận động tín đồ, chức sắc các tơn giáo, để họ khơng chỉ hồn thành nghĩa vụ
cơng dân mà cịn làm trịn bổn phận của người có đạo đối với giáo hội của mình.
Ln nâng cao cảnh giác cách mạng, kịp thời đấu tranh chống địch lợi
dụng tơn giáo phá hoại chế độ chính trị do Đảng lãnh đạo.
Hơn hẳn các mối quan hệ của tôn giáo với các lĩnh vực khác, mối quan
hệ giữa tơn giáo với chính trị có nội dung rất đa dạng trên cả phương diện
nhận thức cũng như thực tiễn. ở nước ta, phát triển nhận thức về bản chất,
tính quy luật của mối quan hệ giữa tôn giáo với chính trị là một u cầu phải
có, khơng dừng lại đối với ngành tôn giáo học, mà rất quan trọng là đối với



3
đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo. Từ đó là cơ sở cần thiết cho việc làm
sâu sắc thêm chính sách đối với tín ngưỡng, tơn giáo dưới thời kỳ phát triển
mới hiện nay, góp phần làm ổn định chính trị, xã hội, tạo tiền đề cho sự phát
triển kinh tế và các lĩnh vực xã hội khác.
Việt Nam là nước đa dân tộc, đa tôn giáo và văn hóa. Lịch sử tơn giáo ở
Việt nam lâu đời, phát triển đan xen, hòa đồng trên cơ sở tâm thức tôn giáo cởi
mở của dân tộc. Về mặt lý thuyết, trong lịch sử Việt nam chưa bao giờ có một
tôn giáo thực sự là “quốc giáo”, kể cả phật giáo ở thế kỷ XI-XIII; sau này, dù
Nho giáo có là rường cột tư tưởng chính trị cho chế độ phong kiến, nhưng
nó lại khơng hồn tồn là một tơn giáo. Về bản chất, quan hệ giữa Nhà
nước- tôn giáo ở nước ta hiện nay khơng có mâu thuẫn đối kháng về lợi ích.
Chủ thể quản lý (Nhà nước), khách thể quản lý (cá nhân và tổ chức tôn giáo)
ngày càng xác định rõ quyền lợi và nghĩa vụ mỗi bên, hướng đến đích chung
là xây dựng “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì
dân”. Hơn thế nữa, Nhà nước ta hiện nay ngày càng có khả năng sử dụng
“lực lượng tơn giáo” và phát huy những mặt tích cực của nó trong q trình
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cũng nhờ đó, xu
hướng đồng hành với dân tộc đang thể hiện rõ trên lĩnh vực pháp lý và các
hoạt động tôn giáo ngày càng vận hành đúng trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật của nhà nước.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo có nhiều điểm mới,
trải qua 83 năm xây dựng và trưởng thành, chưa có thời kỳ lịch sử nào mà
Đảng ta lại có hệ thống quan điểm, chủ trương thể hiện sự vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo như thời kỳ này.
Nhận thức, quan điểm và chính sách tơn giáo của Đảng, nhà nước ta về tôn
giáo và công tác tơn giáo thời kỳ thời kỳ 1990-2006 có nhiều điểm mới được
đúc rút từ những bài học ở nhiều giai đoạn lịch sử, cũng như sự biến động của
thế giới đương đại.



4
Văn kiện Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Tôn giáo là vấn đề cịn tồn
tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân...”. Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác tôn giáo, những năm qua,
Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết và chính sách về tín
ngưỡng, tơn giáo, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của đồng bào các tôn giáo,
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện, đồng bào các tôn
giáo ngày càng tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng “sống tốt đời, đẹp
đạo” hăng hái thi đua lao động sản xuất, xây dựng khối đại đoàn kết, góp phần
xây dựng quê hương, đất nước. Để đạt được những kết quả quan trọng này,
phải khẳng định rằng có sự tham gia và đóng góp tích cực của công tác tư
tưởng trong vấn đề quản lý xã hội về tôn giáo.
Thời gian qua, công tác tư tưởng đã bám sát yêu cầu, nhiệm vụ cách
mạng, truyền tải nhiều chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước về tôn giáo đến với các tầng lớp nhân dân, nhất là những nơi có
đơng đồng bào các tơn giáo. Bằng nhiều hình thức hoạt động, cơng tác tư tưởng
đã chú trọng tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa yêu nước, truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, cổ vũ phong trào thi đua, chủ động nắm bắt tư tưởng và dư luận xã
hội, kịp tham mưu với cấp ủy, chính quyền các giải pháp sát, đúng về cơng tác
tơn giáo, tích cực đấu tranh với những ý đồ lợi dụng tơn giáo của các thế lực
thù địch.
Trong đó phải kể đến công tác vận động quần chúng, đồng bào có đạo,
nhất là khi có Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo; Nghị định số 92/2012/NĐ-CP
của Chính phủ đồng bào có tín ngưỡng, tơn giáo phấn khởi, tin tưởng vào Đảng
và Nhà nước, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước do Mặt trận Tổ
quốc các cấp phát động, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, giữ gìn an ninh
chính trị, trật tự và an tồn xã hội.
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”

trong thời gian qua đã phát huy nhiều yếu tố tích cực trong đồng bào tơn giáo,


5
làm chuyển biến mạnh mẽ về mặt nhận thức trong đồng bào tơn giáo, góp phần
cổ vũ động viên các tầng lớp nhân dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân
cư, tạo thành phong trào rộng lớn trong toàn xã hội.
Các hoạt động truyền đạo trái phát luật, khiếu kiện đã có chiều hướng
giảm. Cơng tác vận động quần chúng đi vào chiều sâu đã đạt được những kết
quả đáng khích lệ. Sự có mặt đơng đảo cán bộ trong các cơ quan Đảng, chính
quyền là người có đạo là điều kiện thuận lợi cho công tác tư tưởng để triển khai
các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, đồng
thời góp phần phịng ngừa, đấu tranh có hiệu quả với các thế lực lợi dụng tự do
tôn giáo để hoạt động chống phá cách mạng, ổn định tình hình tư tưởng trong
Đảng và các tầng lớp nhân dân, củng cố niềm tin của đồng bào các tơn giáo đối
với Đảng, điều đó càng khẳng định rõ Đảng và Nhà nước ta luôn tơn trọng tự
do tín ngưỡng, tơn giáo.
Tuy nhiên, vấn đề quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo và việc phát
huy vai trị của cơng tác tư tưởng trong quản lý xã hội về tôn giáo thời gian qua
vẫn cịn hạn chế, bất cập. Đó là, một số cấp ủy đảng, chính quyền ở cơ sở chưa
nhận thức đúng vị trí, vai trị và tầm quan trọng của cơng tác tư tưởng trong
quản lý xã hội về tôn giáo, việc tuyên truyền về chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo ở một số nơi cịn mang tính hình thức, chưa
sâu rộng, chưa sát đối tượng, chưa phù hợp với đặc điểm tâm lý, trình độ đồng
bào dân tộc vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào có đạo.
Cơng tác đấu tranh chống các luật tục, các hiện tượng khiếu kiện về
đất đai, các quan điểm sai trái, các luận điệu phản động chưa kịp thời, thiếu
sắc bén, có nơi cịn chủ quan nóng vội. Trình độ năng lực và sự hiểu biết về
tôn giáo của một bộ phận đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng còn yếu. Sự
phối hợp giữa các lực lượng làm cơng tác tư tưởng ở nơi có đơng đồng bào

tôn giáo, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số còn hạn chế, chưa đồng bộ và
thường xuyên...


6
Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, các thế lực thù địch vẫn đang thực hiện
“diễn biến hịa bình” trên mặt trận tư tưởng - văn hóa, nhất là trong lĩnh vực
dân tộc, tôn giáo. Hoạt động tôn giáo trái phép đang diễn ra ở nhiều nơi, tồn tại
việc truyền đạo trái pháp luật gắn với ý đồ chính trị phản động của một số phần
tử đội lốt tôn giáo, lợi dụng tự do tín ngưỡng kích động, lơi kéo một bộ phận
nhân dân sinh hoạt đạo bất hợp pháp, gây rối, chia rẽ tôn giáo này với tôn giáo
khác, giữa đồng bào có tơn giáo và khơng tơn giáo, đặc biệt âm mưu chia rẽ
đồng bào tôn giáo với Đảng, Nhà nước nhằm phá hoại khối đại đoàn kết dân
tộc, gây mất ổn định chính trị.
Những vấn đề phức tạp đó đã gây khơng ít khó khăn trong việc quản lý
xã hội về tôn giáo và ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình tư tưởng trong quần
chúng nhân dân nói chung và đồng bào các tơn giáo nói riêng.
Sau gần 30 năm đổi mới, Đảng và nhà nước ta đã có nhiều chủ
trương, chính sách đối với cơng tác tơn giáo, nhưng thực tiễn cịn nhiều bất
cập, chưa có sự thống nhất từ trung ương đến địa phương và giữa các địa
phương cũng còn nhiều cách giải quyết khác nhau. Điều đó đã tạo sơ hở
cho các thế lực thù địch lợi dụng tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chính
sách của Đảng, thực tiễn đó đã đặt ra cho công tác nghiên cứu cần phải
tổng kết và rút ra những kết luận bổ ích nhằm giúp cho các cấp ủy Đảng và
chính quyền nhìn nhận rõ hơn vấn đề quản lý nhà nước về hoạt động tơn
giáo trong tình hình hiện nay.
Mặt khác vào những năm gần đây, tình hình tơn giáo trên thế giới có
nhiều diễn biến phức tạp. Nằm trong dòng chảy của lịch sử nhân loại, Việt
Nam là một quốc gia đa tôn giáo, bên cạnh các tơn giáo lớn có tổ chức với số
lượng tín đồ đơng đảo cịn có các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian truyền thống.

Tôn giáo đã và đang trở thành nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân,
các hoạt động của tôn giáo được khôi phục và phát triển mạnh mẽ, số người
theo tôn giáo ngày càng tăng. Hiện nay, ngoài xu hướng hành đạo đồng hành


7
cùng dân tộc, thuần túy tôn giáo, tuân thủ Hiến pháp, pháp luật cũng đã xuất
hiện các hoạt động tôn giáo khơng bình thường, có phần lấn lướt chính quyền,
vi phạm một số qui định của Nhà nước về hoạt động tôn giáo, một số chức sắc
tôn giáo ngấm ngầm hoạt động chống đối chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, có tư tưởng vọng ngoại, tìm mọi cách cung cấp thơng tin sai lệch
về tình hình tơn giáo ở trong nước;
Khoảng một thập kỷ trở lại đây tôn giáo đã và đang phục hồi, phát triển
ở nhiều vùng miền khác nhau của Tổ quốc. Với vị trí đặc thù là một quận nằm
trong vùng trung tâm về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, quận Hà Đơng có
02 tơn giáo chính là Phật giáo và Cơng giáo, với số lượng tín đồ chức sắc các
tơn giáo đơng đảo; Bên cạnh đó đạo Tin lành đang trong quá trình hình thành
và phát triển. Chịu nhiều ảnh hưởng về tình hình tơn giáo của các quận nội
thành lân cận như Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Đống Đa ... Các tơn giáo ở Hà
Đơng đều có đường hướng tập trung củng cố đức tin, tuyên truyền phát triển
đạo. Tuy nhiên tình hình hoạt động tơn giáo ở Hà Đơng cũng có nhiều biểu
hiện phát triển theo chiều hướng phức tạp như việc kích động giáo dân khiếu
kiện địi đất trái pháp luật của Nhà thờ Hà Đông tại Số 4 Hoàng Văn Thụ hiện
là trụ sở Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân quận, xưởng in công ty cổ
phần Báo Hà Nội mới; việc mở lớp trẻ mầm non tại nhà thờ Nhân Huệ
phường Đồng Mai, các hoạt động xây dựng trái phép; lấn lướt chính quyền
của một số chức sắc, nhà tu hành cực đoan; các thế lực thù địch cũng tăng
cường lợi dụng vấn đề tôn giáo phục vụ cho ý đồ chính trị, làm ảnh hưởng
đến tình hình an ninh chính trị, an tồn xã hội gây khó khăn trong cơng tác
quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn

định an ninh chính trị.
Từ những luận cứ trên đây, tác giả chọn đề tài: “Công tác quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn quận Hà Đông hiện nay” làm
luận văn tốt nghiệp.


8
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua các cơng trình nghiên cứu về tơn giáo, tín
ngưỡng được quan tâm nhiều hơn và được xem xét trên nhiều bình diện khác
nhau như: Tơn giáo học, khoa học xã hội, văn hoá dân gian, dân tộc học, quản
lý nhà nước... Trong mỗi bình diện đó, vấn đề tơn giáo, tín ngưỡng được đề
cập ở những mức độ khác nhau. Đáng kể là những cơng trình sau đây:
- Lý luận về tơn giáo và chính sách tơn giáo ở Việt nam, PGS.TS
Nguyễn Đức Lữ (chủ biên), Nxb Tơn giáo (2007). Cơng trình đề cập đến chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo, tín ngưỡng; tơn giáo
trên thế giới, các tơn giáo lớn ở Việt Nam, chính sách và việc thực hiện chính
sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta...
- Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam, PGS.TS
Nguyễn Đức Lữ (chủ biên), Nxb Tôn giáo (2005). Cơng trình đề cập đến
những bài viết về vai trị tín ngưỡng dân gian trong đời sống tinh thần người
dân Việt Nam; một số lễ hội điển hình trong tín ngưỡng dân gian Việt nam;
thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc ở nước ta...
- Những thay đổi của đời sống tín ngưỡng, tơn giáo Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới, Viện nghiên cứu tôn giáo và tín ngưỡng, Kỷ yếu hội thảo
khoa học (2006). Cơng trình đề cập gồm những bài viết của nhiều tác giả
nghiên cứu về sự phát triển quan điểm về tôn giáo trong q trình đổi mới đất
nước; đời sống tín ngưỡng Việt Nam trước tác động của sự biến đổi xã hội thế
giới và trong nước; đổi mới quản lý nhà nước đối với tôn giáo trong thời kỳ
đổi mới...

- Thực trạng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Hà Nội hiện nay, Phạm Thị
Thuận, Viện nghiên cứu tôn giáo và tín ngưỡng, Kỷ yếu hội thảo khoa học
(2007). Cơng trình đề cập đến tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thực trạng, xu hướng
vận động và những vấn đề đặt ra, một số phương hướng và giải pháp nhằm giữ
gìn và phát huy truyền thống thờ cúng tổ tiên trên địa bàn thành phố Hà Nội.


9
- Thuật ngữ tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Nguyễn Văn Đồn, Viện
nghiên cứu tơn giáo và tín ngưỡng, Kỷ yếu hội thảo khoa học (2008).
- Mai Thanh Hải (1998), Các tôn giáo trên thế giới và Việt Nam,
Nxb.CAND và TS.Nguyễn Thanh Xuân (2005), Một số tôn giáo ở Việt Nam,
Nxb.Tôn giáo, tuy là hai cuốn sách của hai tác giả khác nhau, nhưng về cơ bản
đã cung cấp cho người đọc những kiến thức cơ bản về lịch sử, giáo lý, cơ cấu
tổ chức của các tôn giáo trên thế giới và Việt Nam.
- GS.Đặng Nghiêm Vạn (2012), Lý luận về tơn giáo và tình hình tơn
giáo ở Việt Nam, Nxb.Chính trị, là cuốn sách cung cấp những kiến thức căn
bản và quan trọng về lý luận tôn giáo học mác-xít đồng thời người đọc có thể
nhìn nhận được khái quát thực trạng một số tôn giáo ở Việt Nam.
GS.TS Đỗ Quang Hưng (2003) với hai cuốn sách: Nhà nước và giáo
hội và Bước đầu tìm hiểu mối quan hệ nhà nước và giáo hội, Nxb.Tôn giáo,
tác giả đã lý giải sâu sắc về vai trò, chức năng và mối quan hệ của nhà nước
thế tục đương đại đối với tổ chức giáo hội các tôn giáo.
- PGS.TS Nguyễn Hồng Dương (2012) Công giáo thế giới những tri thức
cơ bản và Một số vấn đề cơ bản của Công giáo ở Việt Nam hiện nay, Nxb.Từ
điển Bách khoa. Đây là hai cuốn sách không thể bỏ qua khi nghiên cứu về những
tín điều căn bản, lễ nghi, hệ thống tổ chức và những vấn đề liên quan đến Công
giáo thế giới và Giáo hội Công giáo ở Việt Nam.
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Kỷ yếu
nghiên cứu đề tài nhánh Thực trạng và xu hướng phát triển Công giáo ở nước

ta, thuộc đề tài độc lập cấp nhà nước. Như tên gọi, đề tài đã luận chứng một
cách khoa học về thực trạng và dự báo rõ xu hướng phát triển của Công giáo ở
nước ta trong thời kỳ mới, thời kỳ hội nhập quốc tế.
- PGS.TS Hồng Minh Đơ (2007), Dịng tu Công giáo ở nước ta hiện
nay và những vấn đề đặt ra cho công tác quản lý nhà nước. Đề tài cấp Bộ,
Viện Nghiên cứu tơn giáo và tín ngưỡng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí


10
Minh. Đề tài đã trình bày rõ thực trạng, phân tích những vấn đề đặt ra và đề
xuất giải pháp giải quyết vấn đề dòng tu ở Việt Nam.
- TS.Nguyễn Hồng Dương (2000), Hoạt động tơn giáo và chính trị của
Thiên Chúa giáo thời kỳ Mỹ - Ngụy (1954 - 1975), Nxb.Tp Hồ Chí Minh; Kỷ
yếu hội thảo khoa học 11 - 12/3/1988, Một số vấn đề lịch sử Đạo Thiên Chúa
trong lịch sử dân tộc Việt Nam, là tập kỷ yếu do Ủy ban Khoa học xã hội Việt
Nam và Ban Tơn giáo Chính phủ phối hợp tổ chức, nhân sự kiện Vatican phong
Thánh tử đạo cho 117 người tại Việt Nam; TS.Đỗ Quang Hưng (1990), Một số
vấn đề lịch sử Thiên Chúa giáo ở Việt Nam, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Những cơng trình nêu trên đã cung cấp những tư liệu chân thực về hoạt
động chính trị liên quan đến Giáo hội Công giáo ở nước ta, nhất là ở miền
Nam trong công cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc;
- Nguyễn Đình Đầu (1993), Cơng giáo ở Nam Bộ và thành phố Hồ Chí
Minh, Nxb.Thành phố Hồ Chí Minh; Linh mục Cao Thế Dung - Bộ Ngoại
giao Vatican (2003), Việt Nam Công giáo sử Tân Biên (1553 - 2000), gồm 3
quyển, cơ sở Truyền Thông Dân Chúa (Hoa Kỳ).
- Linh mục Trần Tam Tỉnh (1998), Thập giá và lưỡi gươm, Nxb.Trẻ;
Linh mục Trương Bá Cần có các cơng trình sau: Lịch sử Cơng giáo ở Việt
Nam (1998), 2 tập, Nxb.Tôn giáo; Việc thành lập Giáo phận Sài Gịn - Thành
phố Hồ Chí Minh (1996), và Cơng giáo Việt Nam sau quá trình 50 năm 1945 1995, Nguyệt san Công giáo và Dân tộc (7 - 8).
- Hội đồng Giám mục Việt Nam (1983), Giáo luật Công giáo, Nxb Tôn

giáo; Hội đồng Giám mục Việt Nam (2004) Niên giám Giáo hội Cơng giáo
Việt Nam, Nxb Tơn giáo.
Tịa Giám mục Xuân Lộc (2003), Kỷ yếu Giáo phận Xuân lộc 19652003, Nxb Tơn giáo.
Những cơng trình trên là những nghiên cứu của giới Công giáo viết về
lịch sử Công giáo ở Việt Nam được trình bày theo quan điểm của Giáo hội


11
Cơng giáo. Vì vậy, khi nghiên cứu, kế thừa những cơng trình ấy cần phải
khách quan, thận trọng.
- PGS.TS Nguyễn Hồng Dương có các cơng trình: Tổ chức xứ, họ đạo
Cơng giáo ở Việt Nam (2011), Nxb.KHXH; Tìm hiểu tổ chức xứ, họ đạo Công
giáo ở Miền Bắc từ thế kỷ thứ XVII đến đầu thế kỷ thứ XX (3/2002), Tạp chí Nghiên
cứu Tơn giáo; Tìm hiểu tổ chức xứ, họ đạo Công giáo Nam bộ (đến đầu thế kỷ thứ
XX)- (4/2002), Tạp chí Nghiên cứu Tơn giáo; TS. Nguyễn Phú Lợi, (1/2009) Tổ
chức xứ đạo trong Giáo hội Công giáo, tạp chí Nghiên cứu Tơn giáo.
Những tác phẩm này, tuy chủ yếu nghiên cứu về tổ chức cơ sở của Giáo
hội Cơng giáo, nhưng ít nhiều có liên quan đến tổ chức hành chính đạo cấp
trên của giáo xứ - tức cấp giáo phận, ở cả 02 miền Nam và Bắc Việt Nam, làm
cơ sở để người viết luận văn có thể so sánh, đối chiếu.
- GS.TS Đỗ Quang Hưng (2005), Vấn đề tôn giáo trong cách mạng
Việt Nam- lý luận và thực tiễn,Nxb Lý luận chính trị; Nguyễn Thanh
Xuân (2005) Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo; Lê Hữu Nghĩa
và Nguyễn Đức Lữ (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo và cơng
tác tơn giáo, Nxb Tôn giáo; PGS. TS Ngô Hữu Thảo- chủ nhiệm đề
tài(1998), Mối quan hệ giữa chính trị và tơn giáo trong thời kỳ mở rộng
giao lưu quốc tế và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay, đề tài khoa học cấp bộ; PGS. TS Hồng Minh
Đơ- Chủ nhiệm đề tài (2002), Đạo Tin lành ở Việt Nam- Thực trạng, xu
hướng phát triển và những vấn đề đặt ra hiện nay trong công tác lãnh

đạo, quản lý, thuộc đề tài độc lập cấp nhà nước,…
Về vấn đề liên quan trực tiếp đến công tác quản lý nhà nước đối với
hoạt động tơn giáo có các đề tài sau:
Ban Tơn giáo Chính phủ (2005), Tập bài giảng tôn giáo và công tác
quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam; Nxb Tôn giáo;
Bùi Đức Luận (chủ biên), Tôn giáo và công tác quản lý nhà nước đối
với các hoạt động tôn giáo, Nxb Tôn giáo, 2005;


12
Hồng Cơng Khơi (2001), Quản lý nhà nước đối với Đạo Thiên chúa
giáo trên địa bàn Thành phố Hà Nội
Ngoài ra có các cơng trình nghiên cứu như "Tìm hiểu mặt chính trị của
vấn đề Thiên chúa giáo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", "Công tác vận
động quần chúng theo đạo thiên chúa ở miền Bắc nước ta hiện nay";... " Một
số vấn đề lịch sử thiên chúa giáo ở Việt Nam" (Đỗ Quang Hưng); "Âm mưu
lợi dụng thiên chúa giáo của chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam";
"Đời sống đạo của người dân theo đạo Công giáo ở Thành phố Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh" (Nguyễn Hồng Dương); "Vận dụng quan điểm khoa
học về tôn giáo trong công tác đối với thiên chúa giáo hiện nay ở Việt Nam"
của tiến sĩ Nguyễn Văn Long... và nhiều cơng trình của các tác giả Đỗ Quang
Hưng, Phong Hiền, Vũ Khiêu, Quang Huy, Nguyễn Đức Lữ, Nguyễn Hữu Vui
cùng các nhà nghiên cứu ở Ban tơn giáo chính phủ, viện nghiên cứu tơn giáo,
trung tâm khoa học về tín ngưỡng và tơn giáo... luận văn thạc sỹ nghiên cứu
về công tác quản lý nhà nước về hoạt động tơn giáo tỉnh Lạng Sơn, quận
Hồn Kiếm…
Để hồn thành luận văn tác giả đã kế thừa có chọn lọc những thông tin
tư liệu nêu trên ở nhiều khía cạnh để làm rõ vấn đề quản lý nhà nước về hoạt
động tôn giáo trên địa bàn quận Hà Đơng hiện nay.
Tính đến nay chưa có cơng trình khoa học nào trực tiếp nghiên cứu về

công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở quận Hà Đông. Với
đề tài này, học viên mong muốn sẽ đóng góp một đề tài nghiên cứu khoa học
có tính khả thi, vận dụng lâu dài đối với thực tiễn công tác quản lý nhà nước
về hoạt động tôn giáo trên địa bàn quận.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Đánh giá thực trạng tình hình tôn giáo và công tác quản lý nhà nước đối
với hoạt động tơn giáo Hà Đơng, từ đó đề xuất một số giải pháp và kiến nghị


13
nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa
bàn quận.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục tiêu trên luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Nhận thức chung về công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
- Thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên
địa bàn quận Hà Đông và những vấn đề đặt ra.
- Giải pháp tăng cường công tác quản lý đối với hoạt động tôn giáo trên
địa bàn quận Hà Đông.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Là công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn
quận Hà Đông.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu trên địa bàn quận Hà Đông.
Về thời gian: Đề tài tiến hành nghiên cứu chủ yếu trong giai đoạn từ
sau khi đất nước tiến hành đổi mới (Đại hội VI năm 1986) nhưng tập trung
chủ yếu từ năm 2003 đến nay, đặc biệt là từ giai đoạn hợp nhất Hà Tây và Hà

Nội (2008-2013)
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo và
quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở quận Hà Đông.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Kết hợp các phương pháp lịch sử và lơgíc, phương pháp điều tra xã hội
học, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, thống kê và tổng hợp, đặc
biệt chú trọng đến phương pháp tổng kết thực tiễn.


14
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
- Đây là cơng trình khoa học đầu tiên nghiên cứu, tổng kết đánh giá về
tình hình hoạt động của các tơn giáo trên địa bàn quận Hà Đông, cũng như
công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở quận Hà Đông.
- Trên cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo,
bước đầu luận văn làm sáng tỏ một số vấn đề cấp bách đang đặt ra trong quản
lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở quận Hà Đông.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản có tính khả thi góp phần nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở quận Hà Đông .
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để xây dựng chủ trương, biện
pháp và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở
quận Hà Đơng
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và học tập.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được chia ra làm 3 chương, 6 tiết.



15
Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ TÔN GIÁO

1.1.1. Khái niệm tơn giáo
Tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, trong đời sống hàng
ngày, tôn giáo là một khái niệm dùng để khái quát tồn bộ các hình thức tơn
giáo cụ thể khác nhau đang tồn tại trong xã hội như Ki tô giáo, Cơng giáo, Tin
lành, Phật giáo, Hồi giáo, Cao đài, Hịa hảo... Tôn giáo ra đời từ rất sớm cùng
sự xuất hiện của con người, điều đó chứng tỏ tơn giáo đã có một thời gian
hình thành, phát triển và tồn tại hàng ngàn năm cùng với với chiều dài của
lịch sử. Giữa các tôn giáo cụ thể, sự sùng bái, thờ cúng, các hình thức lễ nghi,
cách tổ chức... có sự tương đồng rất rõ đó là sự thần bí, nghi lễ thiêng, tuy
nhiên cũng có sự biến thiên khác nhau, rất đa dạng, phức tạp.
Ngược dòng lịch sử của tơn giáo từ khi xuất hiện đến nay có thể thấy
các hình thức tơn giáo ngun thủy tơn thờ một dạng vật chất nào đó mà con
người cảm thấy có sự thần bí, có tính siêu nhiên như: tơ tem giáo, bái vật
giáo, ma thuật giáo. Cùng với lao động sản xuất, thực tiễn của quá trình lao
động sản xuất tạo ra của cải vật chất duy trì sự sống, nhận thức của con người
ngày càng được nâng cao, khi con người xuất hiện ý niệm “thế giới bên này”
và “thế giới bên kia”, tơn giáo chính thức chuyển sang “vật linh giáo”, tôn thờ
yếu tố linh hồn và hướng tới “thế giới bên kia” một thế giới hư ảo, thế giới
siêu linh, đã làm cơ sở cho nhiều tôn giáo tiếp sau xuất hiện. Một số tơn giáo
có ý niệm, niềm tin, dẫn đến tôn thờ “Chúa trời”, “Đấng cứu thế”, thượng đế,
thánh thần... như đạo Công giáo, Tin lành... Có tơn giáo lại tơn thờ những

nhân vật, những con người có thật đã mở ra con đường chân tu thoát tục cho


16
con người như Phật giáo nguyên thủy. Những điều đó cho thấy tôn giáo luôn
vận động biến đổi, phát triển không ngừng cùng với thay đổi nhận thức của
con người.
Cùng với sự biến động của lịch sử, sự khác biệt về vị trí địa lý đã sản
sinh ra nhiều tơn giáo khác nhau, đồng thời cũng tồn tại nhiều quan niệm khác
nhau về tôn giáo:
Đại từ điển tiếng Việt ghi tơn giáo là: “hình thái ý thức xã hội nhờ vào
lòng tin và sự sùng bái thượng đế, thần linh” của con người
Trong tác phẩm “Chống Đuy rinh”, Ăng ghen viết “Mọi tôn giáo chẳng
qua là sự phản ánh hư ảo vào đầu óc con người của những lực lượng bên
ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ là sự phản ánh, trong đó lực
lượng ở trần thế mang hình thức lực lượng siêu nhiên trần thế”
Tơn giáo theo nghĩa đầy đủ có những yếu tố cấu thành cơ bản của nó:
Một là, xuất hiện hình thành niềm tin và sự tôn thờ của con người, của
cộng đồng người đối với lực lượng siêu nhiên - “Đấng siêu nhiên” (như Thích
ca mầu ni của Phật giáo, Đức chúa Jesus - đấng cứu thế của Ki tô giáo, Thánh
Ala của Hồi giáo...) Mỗi tơn giáo có thể tơn thờ một hoặc một số “ đấng siêu
nhiên” trong niềm tin và sự tơn thờ của tín đồ là “đấng tối cao” có vai trị chi
phối và quyết định đối với số phận của con người cả trong cuộc sống hiện tại
và cả khi đã sang “thế giới bên kia”.
Hai là, hình thành hệ thống biểu tượng, hình thức lễ nghi, phương tiện
để tín đồ giao tiếp với “ đấng siêu nhiên” bao gồm: nhà thờ, đền đài, thánh
thất, biểu tượng kiến trúc tượng đài “đấng siêu nhiên”, cùng với các hình thức
lễ nghi: cầu nguyện, tâm niệm, tụng kinh, làm lễ, rước sách, nhạc hát... Đó là
phương tiện để thực hành tơn giáo, để tín đồ chiêm nghiệm, thể hiện lòng
ngưỡng mộ, sự thờ phụng thiêng liêng, biểu thị lòng tin tưởng cũng như cầu

xin được ban phước lành, được hưởng ân huệ may mắn, được siêu thoát linh
hồn... Điều đó cho thấy, mỗi tơn giáo đều chú trọng xây dựng hình thành hệ


17
thống biểu tượng, hình thức lễ nghi tơn giáo của mình mang tính thiêng liêng,
tơn nghiêm, thuyết phục và thu hút tín đồ.
Ba là, có hệ thống giáo thuyết phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan,
các niệm về đạo đức, luân lý của tôn giáo. Hệ thống giáo thuyết bao gồm: các
quan niệm, truyền thuyết, giáo lý, giáo luật, kinh thánh... của tôn giáo. Hệ
thống giáo thuyết làm cơ sở để xây dựng tôn giáo, hướng cuộc sống và hoạt
động của những người tu hành và các tín đồ theo các chuẩn mực, mục đích
mà các tơn giáo đã xác định. Trong thực tế, giáo thuyết tôn giáo không phải
bất biến mà sự bổ sung, biến đổi để thích nghi với điều kiện chính trị, kinh tế,
văn hóa xã hội, phong tục tập quán, truyền thống đạo đức ... của dân tộc, quốc
gia, thời đại.
Bốn là, có tổ chức quản lý, hình thành cộng đồng tơn giáo. Tơn giáo
nào hình thành, tồn tại cũng thường phải có những người chun hành đạo và
hệ thống tín đồ theo tơn giáo của mình. Với cộng đồng đó, nhất định phải có
tổ chức quản lý. Mỗi tơn giáo có hình thức tổ chức quản lý và mối quan hệ
cộng đồng tôn giáo riêng của mình. Bộ máy tổ chức quản lý thường gọi là
“giáo hội”, những người chuyên hành đạo thường gọi là các chức sắc tôn giáo
(như giám mục, linh mục, mục sư, hịa thượng, thượng tọa, ...) Đó là những
người tổ chức truyền đạo, phát triển tín đồ, điều hành q trình hành đạo,
hướng dẫn tín đồ thỏa mãn nhu cầu, nguyện vọng, niềm tin tơn giáo của mình.
Tín đồ tơn giáo là những người dân có niềm tin sùng bái, tôn thờ các “đấng
siêu nhiên”, tuân theo các quy định của tổ chức tơn giáo. Tín đồ cùng chức
sắc có quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành mức độ “sầm uất” của tôn giáo, trở
thành một lực lượng xã hội tồn tại khách quan.
Như vậy, trên phương diện quản lý nhà nước đối với tôn giáo cần lưu ý

khi nói đến một tơn giáo hồn chỉnh phải chú ý đến những dấu hiệu cơ bản
sau: Tôn giáo là cộng đồng người có chung niềm tin vào một thế lực siêu
nhiên, huyền bí, có hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi, có tổ chức.


18
1.1.2. Khái niệm hoạt động tơn giáo
Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo 21/2004/PL-UBTVQH11, Điều 5, đã
khẳng định: “Hoạt động tôn giáo là việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo
luật, quản lý tổ chức của tôn giáo.
Việc truyền bá giáo lý, giáo luật (còn gọi là truyền đạo) là tuyên truyền
những lý lẽ về nguồn gốc sự ra đời, luật lệ của tổ chức tôn giáo. Thông qua
động truyền giáo, niềm tin tơn giáo của tín đồ được củng cố, luật lệ trong tơn
giáo của tín đồ được thực hiện. Đối với những người chưa phải tín đồ, hoạt
động truyền giáo giúp họ hiểu, tin theo tôn giáo và thông qua hoạt động
truyền đạo để phát triển thêm số lượng tín đồ.
Thực hành giáo luật, lễ nghi (cịn gọi là hành đạo) là hoạt động của tín
đồ, nhà tu hành, chức sắc tôn giáo thể hiện sự tuân thủ giáo luật, thỏa mãn
đức tin tôn giáo của cá nhân tôn giáo hay cộng đồng tín đồ.
Hoạt động quản lý tổ chức tơn giáo (cịn gọi là quản đạo) nhằm thực
hiện quy định của giáo luật, thực hiện hiến chương, điều lệ của tổ chức tơn
giáo, đảm bảo duy trì trật tự, hoạt động trong tổ chức tôn giáo.
Tuy nhiên, trong các hoạt động này việc phân định ranh rới giữa hoạt
động truyền đạo với hoạt động hành đạo cũng chỉ là tương đối, có khơng ít
trường hợp trong hoạt động hành đạo có truyền đạo.
1.1.3. Khái niệm cơng tác tơn giáo
Hiện tại vẫn cịn có ý kiến khác nhau về cơng tác tơn giáo, có quan
niệm cho rằng đó là hoạt động riêng của cơ quan Nhà nước nhằm đấu tranh
với hoạt động lợi dụng tôn giáo. Quan niệm khác cho rằng đó chính là hoạt
động vận động quần chúng tín đồ của Mặt trận, các đồn thể, tổ chức xã hội.

Các quan niệm trên là không đầy đủ. Trong thực tế, công tác tôn giáo bao
gồm rất nhiều nội dụng:
- Cơng tác vận động quần chúng tín đồ
- Cơng tác tranh thủ hàng ngũ chức sắc tôn giáo.


19
- Công tác đối ngoại về tôn giáo.
- Công tác xử lý vi phạm pháp luật của các cá nhân và tổ chức tôn giáo.
- Công tác tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của nhà nước về tôn giáo.
- Công tác nghiên cứu lý luận và tổ chức hoạt động thực tiễn trên lĩnh
vực tôn giáo.
Chủ thể của các hoạt động này là các cơ quan, ban ngành nhà nước; tổ
chức, đoàn thể xã hội, thuộc hệ thống chính trị của Đảng và nhà nước ta từ
trung ương tới địa phương tiến hành.
Như vậy, có thể thấy công tác tôn giáo là hoạt động của các cơ quan
Nhà nước, các tổ chức khác thuộc hệ thống chính trị tiến hành theo chức
năng, nhiệm vụ của Đảng nhằm mục đích bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo của quần chúng đồng thời đấu tranh với hoạt động lợi dụng tôn giáo
chống phá Nhà nước.
1.1.4. Khái niệm quản lý
Hiện nay khái niệm quản lý vẫn còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Tùy
từng mục tiêu nghiên cứu khác nhau, dưới các góc độ nghiên cứu hay cách
tiếp cận vấn đề khác nhau, người ta đưa ra những quan điểm khác nhau về
quản lý. Có quan điểm coi quản lý là tiến trình bao gồm các khâu lập kế
hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra những nỗ lực của các thành viên trong tổ
chức và sử dụng tất cả các nguồn lực khác nhau của tổ chức để đạt mục tiêu
đã định trước. Cũng có quan điểm cho rằng quản lý là sự tác động định hướng
bất kỳ lên một hệ thống nào đó nhằm trật tự hóa nó và hướng nó phát triển

phù hợp với những quy luật nhất định.
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau, song thuật ngữ quản lý đều
được các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, nhà quản lý thống nhất với hai nội
dung cơ bản:
Thứ nhất, quản lý là sự tác động mang tính tổ chức, tính mục đích của
chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý.


20
Thứ hai, mục tiêu quản lý là nhằm làm cho đối tượng quản lý hoạt động
(vận hành) phù hợp với ý chí của chủ thể quản lý đã xác định ra từ trước.
Nói đến quản lý trước hết đó là sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của
chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý. Sự tác động này khơng phải mang tính
đơn lẻ, tự phát mà nó mang tính tổ chức, tính mục đích rõ ràng. Mục đích mà
chủ thể quản lý đặt ra là hướng đối tượng quản lý hoạt động phù hợp với ý chí
của mình.
Từ hai nội dung cốt lõi trên, có thể hiểu khái niệm về quản lý như sau:
quản lý là sự tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý lên đối
tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã đặt ra từ trước.
1.1.5. Khái niệm quản lý nhà nước
Hoạt động quản lý xuất hiện từ rất lâu và bao gồm nhiều loại, trong đó
quản lý xã hội là một dạng quản lý đặc biệt. Quản lý xã hội xuất hiện từ khi
lao động của con người bắt đầu được xã hội hóa. Quản lý xã hội là sự tác
động có ý thức để chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành
vi hoạt động của con người phù hợp với ý chí nhà quản lý và quy luật khách
quan. Quản lý xã hội do nhiều chủ thể tiến hành. Khi nhà nước xuất hiện,
những công việc quản lý xã hội quan trọng nhất do nhà nước đảm nhiệm-quản
lý nhà nước xuất hiện.
Hiện nay theo cách hiểu thống nhất, khái niệm quản lý nhà nước được
hiểu theo hai nghĩa:

- Nghĩa rộng: Là dạng quản lý xã hội của nhà nước, sử dụng quyền lực
nhà nước để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con
người, do tất cả các cơ quan nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp) tiến
hành để thực hiện các chức năng của nhà nước đối với xã hội.
- Nghĩa hẹp: Là dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà nước với
chức năng chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan
trong hệ thống hành pháp (Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp).


21
1.1.6. Khái niệm quản lý nhà nước đối với hoạt động tơn giáo
Từ việc tìm hiểu các khái niệm cơ bản về quản lý, quản lý nhà nước,
tôn giáo, hoạt động tơn giáo có thể đưa ra những nhận định ban đầu về quản
lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo theo hai nghĩa như sau:
- Nghĩa rộng: Là quá trình dùng quyền lực nhà nước của các cơ quan
nhà nước theo quy định của pháp luật để tác động, điều chỉnh, hướng các q
trình tơn giáo và hành vi hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo
diễn ra phù hợp với pháp luật và đạt được mục tiêu cụ thể của chủ thể quản lý.
- Nghĩa hẹp: Là quá trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp
luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp (chính phủ và ủy ban nhân dân
các cấp) để điều chỉnh các q trình tơn giáo và mọi hành vi hoạt động tôn giáo
của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, trong thực tế khi xác định chủ thể quản lý nhà nước đối với
các hoạt động tôn giáo người ta thường hiểu theo nghĩa hẹp, coi quản lý nhà
nước đối với các hoạt động tôn giáo chỉ là quá trình chấp hành và điều hành
của hệ thống cơ quan hành pháp để điều chỉnh các quá trình tôn giáo và mọi
hành vi trong hoạt động tôn giáo. Hiểu như vậy sẽ không thấy và phát huy
được vai trò của hệ thống cơ quan lập pháp, cơ quan tư pháp trong quản lý
nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, không đảm bảo thực thi đúng quy định
pháp luật về tôn giáo.

1.1.7. Mục tiêu, nguyên tắc và nội dung công tác quản lý nhà nước
về hoạt động tôn giáo
* Mục tiêu
Mục tiêu là cái hướng tới và cần đạt được. Công tác quản lý nhà nước
về các hoạt động tôn giáo cần hướng tới và đạt được những mục tiêu chủ yếu
nhất sau đây:
Một là, quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trước hết phải bảo
đảm được quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của công dân, đảm bảo cho các
hoạt động tôn giáo được diễn ra bình thường theo qui định của pháp luật.


22
Quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo là một trong những quyền cơ bản của
con người được Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1996) của
Liên hợp quốc ghi nhận. Trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng giải phóng
dân tộc, xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo, coi đó là một quyền cơ bản của công dân.
Hiến pháp qua các thời kỳ 1946, 1954, 1980, 1992 và Hiến Pháp 1992 (sửa
đổi) đều ghi nhận: “cơng dân có quyền tư do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào. Bộ luật Dân sự 1995, Điều 40 quy định: “cá
nhân có quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo
nào”. Cùng với bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của cơng dân, phải
bảo đảm cho tổ chức và cá nhân tôn giáo được thực hiện các hoạt động hành
đạo, truyền đạo và quản lý tổ chức. Quản lý nhà nước cần nhận thức đúng và
đầy đủ về hoạt động tơn giáo để có những biện pháp quản lý phù hợp, tránh
can thiệp vào công việc nội bộ của tôn giáo. Trong hoạt động tơn giáo, các tổ
chức tơn giáo, tín đồ, chức sắc, nhà tu hành phải tuân thủ các quy định của
pháp luật, mọi hành vi vi phạm đều phải bị phê phán, nghiêm cấm và xử lý
theo quy định của pháp luật.
Hai là, quản lý nhà nước đối với hoạt động tơn giáo phải phát huy được

những mặt tích cực, khắc phục được những hạn chế, tiêu cực của tôn giáo đối
với sự phát triển của xã hội.
Vai trị tích cực và những hạn chế tiêu cực của tôn giáo trong công cuộc
đổi mới ở nước ta là rất rõ, bởi vậy quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo phải phát huy những yếu tố tích cực thể hiện trong hoạt động tơn giáo.
Tính hướng thiện, từ bi, bác ái, vì con người của tơn giáo và các giá trị đạo
đức của tôn giáo phải được khơi dậy trong ứng xử giữa con người với con
người trong xã hội. Tạo điều kiện cho tổ chức cá nhân tôn giáo tham gia cùng
Nhà nước và xã hội giải quyết những vấn đề của xã hội như: vấn đề hoạt động
giáo dục, y tế, cứu trợ thiên tai, từ thiện, nhân đạo, ... thông qua quản lý nhà


23
nước đối với hoạt động tôn giáo phải giúp cho quần chúng từng bước xóa bỏ
được những nhận thức lệch lạc về thế giới và con người, những luật lệ khắt
khe trong tôn giáo. Đặc biệt phải tăng cường đấu tranh chống lại những âm
mưu lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo, chống lại Đảng, Nhà nước, xâm hại đến
các quan hệ xã hội đã được nhà nước bảo hộ.
Ba là, quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo phải thực hiện được
mục tiêu đồn kết đồng bào có tín ngưỡng, tơn giáo và đồng bào khơng có tín
ngưỡng, tơn giáo trong khn khổ đại đồn kết tồn dân tộc, thực hiện nhiệm
vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Mục tiêu đoàn kết dân tộc, đoàn kết lương giáo ln là bài học quan
trọng trong suốt q trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc của nước ta, là truyền
thống quý báu của dân tộc ta. Đoàn kết tạo nên sức mạnh của dân tộc: “Đoàn
kết, đoàn kết, đại đồn kết - Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”. Trong
cơng tác tơn giáo, mục tiêu đồn kết dân tộc, đồn kết lương giáo càng quan
trọng khi tơn giáo ln là một trong những công cụ, phương tiện được các thế
lực thù địch, phản động trong và ngoài nước lợi dụng chia rẽ dân tộc, chia rẽ
nhân dân với Đảng, với Nhà nước, chia rẽ người theo đạo và người khơng

theo đạo, thực hiện âm mưu diễn biến hịa bình. Nghị quyết số 25/NQ-TW
ngày 12/3/2003 của Ban chấp hành Trung ương Đảng coi mục tiêu đoàn kết
dân tộc, đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn
giáo và đồng bào không theo tôn giáo là một quan điểm và chính sách lớn
trong cơng tác tơn giáo, đồng thời cịn có ý nghĩa chiến lược cơ bản, lâu dài
trong sự nghiệp cách mạng nước ta.
Bốn là, quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo phải đảm bảo sự
tăng cường vai trò của Nhà nước trong việc điều chỉnh các hoạt động tôn giáo.
Tổ chức, cá nhân tôn giáo là một bộ phận của xã hội, được nhà nước thừa
nhận, phải đặt dưới sự quản lý của nhà nước. Hoạt động tôn giáo phải tuân thủ
những quy định của nhà nước. Mọi hành vi nhằm biến tôn giáo thành một lực


24
lượng đối trọng với nhà nước, thoát ly khỏi sự quản lý của nhà nước đều là bất
hợp pháp. Hoạt động tơn giáo nằm ngồi khn khổ pháp luật mà nhà nước đã
đặt ra đều phải bị xử lý theo quy định của pháp luật. Khi vai trò của nhà nước
trong điều chỉnh các hoạt động tôn giáo được tăng cường, hiệu lực, hiệu quả của
quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này sẽ được nâng cao, các quyết định quản lý
nhà nước được các tổ chức, cá nhân tôn giáo tự giác thực hiện nghiêm chỉnh,
triệt để, pháp chế trong công tác tôn giáo được giữ vững.
* Nguyên tắc
Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo khơng ngồi mục đích
bảo đảm cho hoạt động tơn giáo diễn ra trong khn khổ Hiến pháp và pháp
luật vì lợi ích chung, trong đó có lợi ích của đồng bào có đạo và lợi ích của
các tổ chức tơn giáo. Quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo có một số
ngun tắc chính sau đây:
Một là, ngun tắc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo cho mọi
cơng dân.
Đảng và Nhà nước ta coi tự do tín ngưỡng là một nguyện vọng tha thiết

với đồng bào có đạo, bởi vậy đi đôi với việc cải thiện đời sống cho nhân dân,
Đảng và Nhà nước ta cũng tôn trọng tự do tín ngưỡng của đồng bào các tơn giáo.
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (11/1946),
Cương lĩnh của Đảng Lao động Việt Nam (3/1951), Sắc lệnh số 234/SL, ban
hành chính sách tơn giáo, do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 14/6/1955 đều
khẳng định “Chính phủ bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng,
quyền theo hoặc không theo một tơn giáo nào”. Pháp lệnh Tín ngưỡng tơn giáo
21/2004/PL-UBTVQH11 cũng đã khẳng định: “Cơng dân có quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước đảm bảo
quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của cơng dân. Các tơn giáo đều bình đẳng
trước pháp luật. Cơng dân có tín ngưỡng, tơn giáo hoặc khơng có tín ngưỡng tơn
giáo cũng như cơng dân có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau phải tôn trọng lẫn


25
nhau”.
Tuy nhiên, quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo khơng phải là vơ giới hạn.
Tự do theo nghĩa chân chính của nó là tự do của người khác, cộng đồng khác:
“Khơng được lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo để phá hoại hịa bình,
độc lập thống nhất đất nước; kích động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến tranh,
tuyên truyền trái pháp luật, chính sách của nhà nước; chia rẽ nhân dân, chia rẽ
các dân tộc, chia rẽ tôn giáo; gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản trở việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ cơng dân; hoạt động mê tín dị đoan và thực hiện
các hành vi vi phạm pháp luật khác”. Nhà nước có trách nhiệm quản lý và
điều chỉnh các hoạt động của cá nhân và tổ chức tôn giáo để hoạt động ấy
diễn ra trong khuôn khổ của pháp luật, không ảnh hưởng đến hoạt động chung
của xã hội.
Hai là, nguyên tắc về tính thống nhất giữa sinh hoạt tơn giáo và bảo tồn
các giá trị văn hóa.

Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo bao giờ cũng thể hiện qua sinh hoạt vật
chất của con người. Niềm tin tín ngưỡng, tơn giáo được vật chất hóa trong đời
sống xã hội thể hiện qua kinh sách, luật lệ, lễ nghi. Các cơ sở thờ tự của tôn
giáo thường là nơi thờ phụng của các tín đồ tơn giáo, đồng thời cũng là gìn
giữ văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Những cơng trình kiến trúc, những
tác phẩm hội họa, điêu khắc, những bản nhạc, bài ca, trang phục đến bày biện,
trang trí thực hiện các lễ nghi tơn giáo, ... đều thể hiện nét văn hóa đặc trưng
của từng tơn giáo cụ thể. Vì vậy, sự tồn tại của tơn giáo cũng có nghĩa là sự
bảo lưu văn hóa. Việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc khơng thể
khơng quan tâm đến sinh hoạt tín ngưỡng dân gian và tôn giáo truyền thống
mà nhân dân ta đã lưu giữ qua nhiều đời nay
Tuy nhiên bên cạnh những giá trị văn hóa đích thực, vẫn có những hiện
tượng thương mại hóa tơn giáo. Những hủ tục cũ trỗi dậy, mê tín dị đoan gia


×