Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh ninh bình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (752.97 KB, 113 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LÊ THỊ MINH THẢO

CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở TỈNH NINH BÌNH
HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC

Hà nội - 2011

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------------

LÊ THỊ MINH THẢO

CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở TỈNH NINH BÌNH
HIỆN NAY

Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 602285

Người hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Thanh Xuân


Hà nội – 2011

2


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Triết học
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn đã giúp đỡ tôi trong quá trình
học tập. Đặc biệt tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới
TS. Nguyễn Thanh Xuân, người đã tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Đồng thời tôi cũng xin cảm ơn Ban Tôn giáo tỉnh Ninh Bình đã tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình làm luận văn.
Tác giả luận văn

Lê Thị Minh Thảo

3


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của tôi và chưa được
công bố, tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Lê Thị Minh Thảo

4



DANH MỤC CÁC BẢNG BI ỂU

Bảng 2.1. Phong chức bổ nhiệm, thuyên chuyển chức sắc.............................58
Bảng 2.2. Đào tạo, bồi dưỡng chức sắc...........................................................58
Bảng 2.3. Công tác tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ...................................70

5


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1
Chương 1. NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO ........................................ 8
1.1. Một số vấn đề lý luận ................................................................... 8
1.2. Tình hình kinh tế, xã hội và tôn giáo của tỉnh Ninh Bình ..................32
Chương 2THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG TÔN GIÁO Ở TỈ NH NI NH BÌNH VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT
RA HI ỆN NAY ..................................................................................49
2.1. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của công tác quản lý nhà nước đối
với hoạt động tôn giáo ở Ninh Bình .....................................................49
2.2. Bài học kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra từ công tác quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Ninh Bình .................................77
2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo.............................................................................85
KẾT LUẬN........................................................................................99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................ 101

6



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cuối thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI nhân loại đã chứng kiến
hàng loạt các xung đột, chiến tranh rải rác khắp các châu lục, từ châu Á, châu
Phi, cho đến châu Mỹ. Nhưng một điều đặc biệt là các cuộc xung đột đó đều
liên quan đến vấn đề tôn giáo và sắc tộc gây lo lắng cho cộng đồng quốc tế.
Có thể nói, hiện nay niềm tin tôn giáo trên thế giới có xu hướng phục hồi trở
lại và phát triển một cách mạnh mẽ, đó là dấu hiệu cho thấy sự thay đổi trong
đời sống tâm lý của con người.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tôn giáo là một hình thái ý
thức xã hội, đồng thời là một thực thể xã hội ra đời ra đời từ hàng ngàn năm
lịch sử và là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Trong quá trình tồn tại và phát triển,
tôn giáo ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống chính trị, văn hóa xã hội, tâm lý,
lối sống, phong tục tập quán và an ninh trật tự của nhiều quốc gia dân tộc. Do
vậy hoạt động tôn giáo cần phải đặt dưới sự quản lý của nhà nước, nói một
khác là, bất cứ nhà nước thế tục nào cũng đều thực hiện sự quản lý của mình
đối với các hoạt động tôn giáo, nếu có khác thì chỉ khác nhau về hình thức,
cách thức và mức độ quản lý mà thôi.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, có lịch sử ngàn năm văn hiến, tín
ngưỡng, đã trở thành một bộ phận đặc sắc của đạo đức và văn hóa truyền
thống. Với sự hội tụ của nhiều tôn giáo, cùng với tín ngưỡng, tôn giáo bản địa
giữa các tôn giáo có sự hòa hợp lẫn nhau. Tuy nhiên vấn đề tôn giáo là vấn đề
phức tạp và nhạy cảm, các thế lực thù địch luôn coi vấn đề tôn giáo là một
vấn đề quan trọng trong chiến lược diễn biến hòa bình nhằm can thiệp vào đời
sống kinh tế, chính trị, xã hội ở nước ta gây mất ổn định hòng xóa bỏ chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nhưng kẻ thù có thực hiện được điều đó hay không
1



còn tùy thuộc vào sự nỗ lực chủ quan của Đảng, nhà nước, và nhân dân Việt
Nam. Qua các giai đoạn cách mạng, Đảng và nhà nước ta luôn xác định công
tác tôn giáo có ý nghĩa to lớn trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ, chính sách “tín ngưỡng tự do, lương
giáo đoàn kết” do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra đã góp phần to lớn vào sự
nghiệp đoàn kết toàn dân kháng chiến thắng lợi. Trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa, năm 1990, Bộ chính trị ra Nghị quyết 24 về công tác tôn giáo cũng đã
xác định: “Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu
cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù
hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”.
Đồng bào các tôn giáo đã có những đóng góp tích cực vào công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhìn chung các tổ chức tôn giáo đã xây dựng
đường hướng lãnh đạo, hoạt động theo pháp luật, các tôn giáo được nhà nước
công nhận đã hành đạo gắn bó với dân tộc, tập hợp đông đảo tín đồ trong khối
đại đoàn kết toàn dân, xây dựng cuộc sống tốt đời đẹp đạo, góp phần vào
công cuộc đổi mới đất nước. Các cấp các ngành đã chủ động, tích cực thực
hiện các chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước, phát triển
kinh tế xã hội và giữ vững an ninh chính trị ở các vùng đồng bào tôn giáo,
đồng thời đấu tranh ngăn chặn làm thất bại những hoạt động lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta.
Những năm gần đây, sinh hoạt tôn giáo có phần phát triển, nhà thờ,
đình chùa, miếu mạo, thánh thất được tu sửa và tôn tạo, xây cất lại, in ấn kinh
sách, đào tạo chức sắc,… Số người tham gia các hoạt động tôn giáo gia tăng.
Bên cạnh xu hướng hành đạo cùng dân tộc, thuần túy tôn giáo, tuân thủ Hiến
pháp, pháp luật cũng đã xuất hiện hoạt động tôn giáo không bình thường, vi
phạm một số quy định chung của Nhà nước, lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để
2



hành nghề mê tín dị đoan. Ngoài ra, một số người lợi dụng tự do tín ngưỡng
tiến hành hoạt động chống đối chính quyền, kích động tín đồ tạo điểm nóng
tôn giáo gây mất ổn định chính trị. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta
xác định phải tăng cường công tác quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo,
một mặt vừa đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân, mặt khác phải cảnh
giác chống âm mưu lợi dụng tôn giáo của kẻ địch.
Ninh Bình là tỉnh có truyền thống văn hóa lịch sử lâu đời, cùng với tín
ngưỡng bản địa, Ninh Bình còn là sự du nhập của hai tôn giáo lớn đó là Phật
giáo và Công giáo. Các tôn giáo trong tỉnh nhìn chung chấp hành tốt chính
sách pháp luật, không có điểm nóng về tôn giáo xảy ra, các chức sắc tín đồ
giáo phấn khởi hành đạo và thực hiện tốt phương châm sống: “Tốt đời đẹp
đạo” đã góp phần tích cực và đạt được những kết quản khả quan trên lĩnh vực
kinh tế - xã hội. Song cũng vẫn còn hiện tượng “vượt rào” tách khỏi sự quản
lý của nhà nước trong một số lĩnh vực như: xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự,
lễ hội, tranh chấp, khiếu kiện về vấn đề đất đai.
Trong những năm qua, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo ở tỉnh Ninh Bình đã có nhiều tiến bộ, đạt được những kết quả nhất định.
Nhưng bên cạnh đó cũng còn một số bất cập: một bộ phận cán bộ Đảng viên
nhận thức về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với tôn giáo
còn hạn chế, sự phối hợp giữa các cấp các ngành liên quan còn chưa đồng bộ
thiếu tập trung. Đặc biệt, việc thực hiện chức năng quản lý của nhà nước đối
với tôn giáo của chính quyền ở nhiều lúc nhiều nơi, nhất là ở cơ sở còn vướng
mắc, công tác xây dựng, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn
giáo còn chưa được quan tâm đúng mức.
Để khắc phục tình trạng trên, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh
Ninh Bình đã quan tâm và tăng cường chỉ đạo công tác quản lý nhà nước đối
với hoạt động tôn giáo. Một mặt nhằm nâng cao nhận thức về tín ngưỡng, tôn
3



giáo và vai trò của nó trong đời sống tinh thần của nhân dân và trong sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà, mặt khác để thực hiện đầy đủ,
nghiêm túc đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước về công tác tôn giáo
và hoạt động tôn giáo chống mọi âm mưu lợi dụng tôn giáo chống phá sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Từ tình hình đó, tôi chọn đề tài: “Công tác quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo ở tỉnh Ninh Bình hiện nay” để làm đề tài luận văn thạc sĩ
triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Tình hình nghiên cứu
Tôn giáo, tín ngưỡng là một đề tài rộng lớn về nội dung, phạm vi, góc
độ,… từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu vấn đề này như: GS
Đặng Nghiêm Vạn (2003), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt
Nam, Nxb CTQG; GS.TS Đỗ Quang Hưng (2005), Vấn đề tôn giáo trong
cách mạng Việt Nam - lý luận và thực tiễn, Nxb Lý luận chính trị; Nguyễn
Văn Kiệm (1997), Tôn giáo và đời sống hiện đại, Nxb Viện thông tin khoa
học xã hội; Nguyễn Thanh Xuân (2005), Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb
Tôn giáo, Hà Nội; Mai Thanh Hải (1998) Tôn giáo thế giới và Việt Nam, Nxb
Công an nhân dân; Lê Hữu Nghĩa và Nguyễn Đức Lữ (2003), Tư tưởng Hồ
Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo, Nxb Tôn giáo; PGS.TS Ngô Hữu
Thảo - chủ nhiệm đề tài (1998), Mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo trong
thời kỳ mở rộng giao lưu quốc tế và phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, đề tài khoa học cấp bộ; PGS.TS Hoàng
Minh Đô - Chủ nhiệm đề tài (2002), Đạo tin lành ở Việt Nam - Thực trạng, xu
hướng phát triển và những vấn đề đặt ra hiện nay trong công tác lãnh đạo,
quản lý, thuộc đề tài độc lập cấp nhà nước,…
Về vấn đề liên quan trực tiếp đến công tác quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo có các đề tài sau: Ban Tôn giáo Chính phủ (2005), Tập bài
4



giảng tôn giáo và công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở
Việt Nam; Nxb Tôn giáo; Bùi Đức Luận (chủ biên) (2005), Quản lý hoạt động
tôn giáo – cơ sở lý luận và thực tiễn, Nxb Tôn giáo, Hà Nội; TS Nguyễn Hữu
Khiển (2001), Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trong điều kiện
xây dựng nhà nước dân chủ, pháp quyền Việt Nam hiện nay, Nxb CAND; TS
Trần Minh Thư (2005), Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là một
yêu cầu khách quan; cùng nhiều bài viết về công tác quản lý nhà nước về tôn
giáo đăng trên Tạp chí Công tác tôn giáo,…
Nhìn chung những công trình trên đã đề cập nhiều khía cạnh khác nhau,
đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm của vấn đề tôn giáo và quản lý nhà nước
đối với hoạt động tôn giáo. Các nhận định, đánh giá của những công trình đó
sẽ được tác giả kế thừa có chọn lọc làm nguồn tài liệu tham khảo cho đề tài
luận văn này.
Ở tỉnh Ninh Bình có một số công trình khoa học nghiên cứu về tôn giáo
như: Nguyễn Phú Lợi (2001), Tìm hiểu tổ chức giáo hội công giáo cơ sở ở địa
phận Phát Diệm, tỉnh Ninh Bình (luận văn thạc sĩ tôn giáo); Lê Anh Thơ
(2006), Quản lý nhà nước đối với hoạt động của tôn giáo- Công giáo ở huyện
Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình hiện nay (luận văn thạc sĩ triết học); Đáng chú ý có
các công trình nghiên cứu của các tác giả Phan Đại Doãn – Nguyễn Quang
Ngọc (chủ biên), Về một số làng Công giáo ở huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình
đầu thế kỷ XIX, Nxb CTQG, 1994; Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên), Làng Công
giáo Lưu Phương (Ninh Bình) từ năm 1829 đến năm 1945, Nxb KHXH,
1997; Nguyễn Hồng Dương - Thượng tọa Thích Thọ Lạc (đồng chủ biên)
(2010), Phật giáo thời Đinh và Tiền Lê trong công cuộc dựng nước và giữ
nước, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Hầu hết các công trình tập trung nghiên
cứu tôn giáo, ít đề cập đến tình hình công tác quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo ở Ninh Bình nói chung. Tuy nhiên, những kết quả của các
5



nghiên cứu nói trên đã là những tài liệu quý để tôi kế thừa thực hiện tốt đề tài.
Hướng đề tài mà tôi lựa chọn, sẽ góp sức vào một vấn đề mang tính lý luận và
thực tiễn không chỉ trước mắt mà còn lâu dài đối với công tác quản lý nhà
nước về hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Đánh giá thực trạng tình hình tôn giáo và công tác quản lý
nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Ninh Bình, từ đó đề xuất một số
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo trên địa bàn tỉnh.
Nhiệm vụ: Để đạt được mục tiêu đó, đề tài tập trung giải quyết nhiệm
vụ cơ bản sau:
- Khái quát một số vấn đề lý luận về tôn giáo và công tác quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo;
- Thực trạng tình hình tôn giáo ở Ninh Bình;
- Tìm hiểu thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở
tỉnh Ninh Bình, những vấn đề cần giải quyết;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong tình hình mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: là công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: đề tài chỉ nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
- Về thời gian: đề tài tiến hành nghiên cứu trong giai đoạn từ khi thực
hiện công cuộc đổi mới đất nước, nhưng tập trung chủ yếu từ năm 2000 đến
nay.

6



5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận và thực tiễn: Luận văn được thực hiện trên cơ sở
phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo và quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo ở tỉnh Ninh Bình thời gian qua.
Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện luận văn này tác giả dựa trên
cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử, đồng thời sử dụng một số phương pháp cụ thể như: phương pháp
lịch sử và logic, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê,
phương pháp so sánh.
6. Đóng góp và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Trên cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo,
bước đầu luận văn làm sáng tỏ một số vấn đề cấp bách đang đặt ra trong quản
lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Ninh Bình.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản có tính khả thi góp phần nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Ninh Bình.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để xây dựng chủ trương, biện
pháp và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh
Ninh Bình.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và học
tập tại trường chính trị tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, luận văn gồm 2 chương và 5 tiết

7


Chương 1
NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO

1.1. Một số vấn đề lý luận
Qua các giai đoạn cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định công
tác tôn giáo là vấn đề chiến lược có ý nghĩa rất quan trọng. Quản lý nhà nước
đối với hoạt động tôn giáo là yêu cầu khách quan của công tác tôn giáo. Các
nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác tôn giáo đều nhấn mạnh đến vai trò
của lĩnh vực công tác này. Gần đây, Nghị quyết số 25 – NQ/TW ngày
12/3/2003 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác tôn giáo
tiếp tục khẳng định cần “Tăng cường quản lý nhà nước về tôn giáo” [28,
tr.340].
Để thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về tôn giáo và hoạt động
tôn giáo, về mặt lý luận cần nhận thức thống nhất một số vấn đề cơ bản sau
đây:
1.1.1. Những khái niệm cơ bản
* Khái niệm quản lý:
Hoạt động quản lý xuất hiện từ rất lâu, nhưng thuật ngữ “quản lý” cho
đến nay vẫn có nhiều cách hiểu. Tùy từng mục tiêu nghiên cứu khác nhau,
dưới các góc độ nghiên cứu khác nhau, người ta đưa ra những quan điểm khác
nhau về quản lý. Có quan điểm coi quản lý là tiến trình bao gồm các khâu lập
kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra những nỗ lực của các thành viên trong
tổ chức và sử dụng tất cả các nguồn lực khác nhau của tổ chức để đạt mục tiêu
đã định trước. Cũng có quan điểm cho rằng quản lý là sự tác động định hướng
bất kỳ lên một hệ thống nào đó nhằm trật tự hóa nó và hướng nó phát triển
phù hợp với những quy luật nhất định.
8


Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau, song thuật ngữ quản lý đều
được các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, nhà quản lý thống nhất ở hai nội
dung:
Thứ nhất, quản lý là sự tác động mang tính tổ chức, tính mục đích của

chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý.
Thứ hai, mục tiêu quản lý là nhằm làm cho đối tượng quản lý hoạt động
(vận hành) phù hợp với ý chí của chủ thể quản lý đã định ra từ trước.
Nói đến quản lý trước hết đó là sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của
chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý. Sự tác động này không phải mang tính
đơn lẻ, tự phát mà nó mang tính tổ chức, tính mục đích rõ ràng. Mục đích mà
chủ thể quản lý đặt ra là hướng đối tượng quản lý hoạt động phù hợp với ý chí
của mình.
Từ hai nội dung trên, có thể đưa ra khái niệm về quản lý: “Quản lý là
sự tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý
nhằm đạt được mục tiêu đã đặt ra từ trước [46, tr.8].
* Khái niệm quản lý nhà nước:
Hoạt động quản lý xuất hiện từ rất lâu và bao gồm nhiều loại, trong đó
quản lý xã hội là một dạng quản lý đặc biệt. Quản lý xã hội xuất hiện từ khi
lao động của con người bắt đầu được xã hội hóa. Quản lý xã hội là sự tác
động có ý thức để chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành
vi hoạt động của con người phù hợp với ý chí của nhà quản lý và quy luật
khách quan. Quản lý xã hội do nhiều chủ thể tiến hành, khi nhà nước xuất
hiện, những công việc quản lý xã hội quan trọng nhất do nhà nước đảm
nhiệm.
Hiện nay, khái niệm quản lý nhà nước được hiểu theo hai nghĩa:
- Nghĩa rộng: Là dạng quản lý xã hội của nhà nước, sử dụng quyền lực
nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và các hành vi hoạt động của con
9


người do tất cả các cơ quan nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp) tiến hành
để thực hiện các chức năng nhà nước đối với xã hội.
- Nghĩa hẹp: Là dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà nước với
chức năng chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan

trong hệ thống hành pháp (Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp) [46, tr.9].
* Khái niệm tôn giáo:
Theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, tôn giáo là một hình thái ý thức
xã hội phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan. Qua
hình thức phản ánh của tôn giáo, những sức mạnh tự phát trong tự nhiên và xã
hội đều trở thành thần bí “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua là sự phản ánh hư ảo
– vào trong đầu óc của con người – của những lực lượng ở bên ngoài chi phối
cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở
trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế” [51, tr.22]. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo dựa trên những luận điểm chủ yếu của chủ
nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo, vừa là sự vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát
triển vào điều kiện Việt Nam và thời đại. Trên cơ sở quan điểm chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đề ra những chủ
truơng, chính sách pháp luật, một mặt thể hiện tự do tín ngưỡng của nhân dân,
mặt khác chống lại âm mưu lợi dụng tôn giáo chống phá nước ta của các thế
lực thù địch.
Hiện nay ở Việt Nam, khái niệm tôn giáo chưa được giải thích cụ thể,
tuy nhiên, tùy cách tiếp cận mà đưa ra cách hiểu khác nhau về tôn giáo. Về
phương diện quản lý nhà nước, tôn giáo được hiểu là một cộng đồng người có
chung niềm tin vào thế lực siêu nhiên, huyền bí, có hệ thống giáo lý hay một
giáo chủ, có một kết cấu là tổ chức giáo hội.

10


* Khái niệm hoạt động tôn giáo: Điều 3, Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn
giáo đã khẳng định: “Hoạt động tôn giáo là việc truyền bá, thực hành giáo lý,
giáo luật, quản lý tổ chức của tôn giáo” [37, tr.346].
Việc truyền bá giáo lý, giáo luật (còn gọi là truyền đạo) là tuyên truyền
những lý lẽ về nguồn gốc sự ra đời, luật lệ của tổ chức tôn giáo. Thông qua

hoạt động truyền giáo, niềm tin tôn giáo của tín đồ được củng cố, luật lệ trong
tôn giáo của tín đồ được thực hiện. Đối với những người chưa phải tín đồ,
hoạt động truyền giáo giúp họ hiểu, tin theo tôn giáo và thông qua hoạt động
truyền đạo để phát triển thêm số lượng tín đồ.
Thực hành giáo luật, lễ nghi (còn gọi là hành đạo) là hoạt động của tín
đồ, nhà tu hành, chức sắc tôn giáo thể hiện sự tuân thủ giáo luật, thỏa mãn
đức tin tôn giáo của cá nhân tôn giáo hay cộng đồng tín đồ.
Hoạt động quản lý tổ chức tôn giáo (còn gọi là quản đạo) nhằm thực
hiện quy định của giáo luật, thực hiện hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn
giáo, đảm bảo duy trì trật tự, hoạt động trong tổ chức tôn giáo.
Trong các hoạt động trên, việc phân định ranh giới giữa hoạt động
truyền đạo với hoạt động hành đạo cũng chỉ là tương đối, có không ít trường
hợp trong hoạt động hành đạo có truyền đạo.
* Khái niệm quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
Từ các khái niệm quản lý, quản lý nhà nước, tôn giáo, hoạt động tôn
giáo, có thể đưa ra khái niệm về quản lý nhà nước đối với tôn giáo theo hai
nghĩa như sau:
- Nghĩa rộng: Là quá trình dùng quyền lực nhà nước của các cơ quan
nhà nước theo quy định của pháp luật để tác động, điều chỉnh, hướng các quá
trình tôn giáo và hành vi hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo
diễn ra phù hợp với pháp luật và đạt được mục tiêu cụ thể của chủ thể quản lý.

11


- Nghĩa hẹp: Là quá trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện
pháp lụât của các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ và Ủy ban
nhân dân các cấp) để điều chỉnh các quá trình tôn giáo và mọi hành vi hoạt
động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra theo quy định của pháp
luật [46, tr.11].

1.1.2. Yêu cầu khách quan, mục tiêu và nguyên tắc của công tác
quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
* Yêu cầu khách quan
Quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo là công việc tất yếu của nhà nước, trong đó có nhà nước Việt Nam.
Trong quá trình quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo có
một số quan điểm cho rằng, hoạt động tôn giáo là hoạt động mang tính chất
nội bộ của tôn giáo, nhà nước không cần phải quản lý, điều chỉnh vì nếu nhà
nước quản lý thì sẽ không còn tự do tôn giáo. Tuy nhiên, hoạt động tôn giáo
không chỉ thuần tuý nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần của tín đồ, chức sắc,
nhà tu hành, mà còn liên quan đến các lĩnh vực đời sống xã hội. Ví dụ như
việc xây dựng nơi thờ tự, không chỉ đơn thuần là việc củng cố, phát triển cơ
sở vật chất của giáo hội, mà còn liên quan đến những quy định của Nhà nước
về đất đai, quy hoạch, xây dựng; hoạt động in ấn kinh bổn, sản xuất đồ dùng
việc đạo liên quan đến những quy định về văn hoá, xuất bản; hoạt động quan
hệ với các tổ chức, cá nhân tôn giáo nước ngoài liên quan đến chính sách,
pháp luật trên lĩnh vực đối ngoại, xuất nhập cảnh của nhà nước,... Mọi hoạt
động của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội và mọi công dân liên
quan đến các lĩnh vực đời sống xã hội đều phải tuân thủ pháp luật của Nhà
nước. Tôn giáo và hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng ở bất kỳ quốc gia nào cũng
không thể đứng ngoài pháp luật của quốc gia đó. Thực tiễn hiện nay cho thấy,
ở đâu có hoạt động tôn giáo thì đều có sự can thiệp, quản lý của nhà nước.
12


Tuy nhiên sự quản lý, điều chỉnh của nhà nước ở mức độ nào thì có sự khác
nhau, còn tùy thuộc vào từng nhà nước. Bên cạnh đó, yêu cầu của quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo không chỉ xuất phát từ ý chí của nhà nước mà
còn xuất phát từ thực tiễn khách quan của sự hình thành, tồn tại, phát triển và
những ảnh hưởng của tôn giáo trong lịch sử, trong đời sống xã hội hiện tại và

tương lai.
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, đồng thời là thực thể xã hội,
tôn giáo luôn biến động, phản ánh sự biến đổi của lịch sử nhân loại. Tôn giáo
ra đời và tồn tại đều liên quan đến những yếu tố từ kinh tế - xã hội. Thừa nhận
những thực tế khách quan này, một mặt, nhà nước cần tăng cường quản lý các
hoạt động của tôn giáo để tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật theo phương châm tốt đời, đẹp đạo, mặt khác, cần tôn trọng và bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân.
Tuy nhiên, trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, tôn giáo ảnh
hưởng khá sâu sắc đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội của nhiều quốc gia.
Tôn giáo cũng có nhiều chức năng đối với xã hội như: chức năng thế giới
quan, chức năng liên kết cộng đồng, chức năng đền bù hư ảo “Tôn giáo là
tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái
tim, là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện
của nhân dân”, chức năng điều chỉnh hành vi, đạo đức của con người. Thực
hiện các chức năng này, tôn giáo đáp ứng yêu cầu tinh thần của con người,
đoàn kết những người bị áp bức trong cuộc đấu tranh chống lại những bất
công của xã hội, khuyên răn con người hướng thiện, làm điều tốt, tránh điều
xấu. Vì vậy, trong Nghị quyết số 24 – NQ/TW về tăng cường công tác tôn
giáo trong tình hình mới, Đảng ta đã chỉ ra rằng: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu
cầu của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điểm phù hợp với
công cuộc xây dựng xã hội mới” [12, tr.2].
13


Bên cạnh đó, tôn giáo cũng mang những hạn chế, tiêu cực như: hạn chế
trong việc nhận thức thế giới quan. Ngoài ra, tôn giáo cũng thường bị kẻ xấu
lợi dụng vì mục đích chính trị đen tối. Tôn giáo có khả năng liên kết con
người trong cùng một cộng đồng cùng tín ngưỡng, nhưng cũng có thể đẩy
người ta đến chỗ nghi kị, đối đầu, hận thù, và xung đột gây nên những thảm

họa cho nhân loại.
Để đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, phát huy
những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của tôn giáo, nhà nước cần
phải quản lý và tăng cường công tác quản lý tôn giáo, để các hoạt động tôn
giáo diễn ra phù hợp với ý chí của nhà nước, phù hợp với sự phát triển chung
của xã hội và nhu cầu tâm linh của quần chúng.
Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, cần thiết phải tăng cường
công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, xuất phát từ những lý
do sau:
Thứ nhất, quá trình đổi mới ở nước ta đang diễn ra sâu rộng trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tôn giáo. Trong lĩnh vực
này, ngay sau ngày giành độc lập, khai s inh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, trong Hiến pháp đầu tiên năm 1946, Điều 10, chương II, mục B (Quyền
lợi và Nghĩa vụ) viết: “Mọi công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng”.
Trong những năm gần đây, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn
đề tôn giáo ngày càng chứa đựng những nội dung mới và cụ thể: “Tín
ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, Đảng và
Nhà nước ta chủ trương và thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng tự do tín
ngưỡng tôn giáo và không tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân” [52, tr.236].
Đồng thời, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định rõ: “Công dân có quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước

14


bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Không ai được xâm
phạm quyền tự do ấy. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật” [50, tr.1].
Quán triệt những quan điểm chỉ đạo của Đảng, công tác quản lý nhà
nước đối với các hoạt động tôn giáo cần phải được tăng cường để đáp ứng
được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước.

Thứ hai, thực tiễn quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở nước
ta trong thời gian vừa qua cho thấy, chính quyền và đội ngũ cán bộ có trách
nhiệm ở một số nơi chưa nhận thức đúng và quán triệt đầy đủ các chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về vấn đề tôn giáo. Trong quản
lý có nơi còn chủ quan, nóng vội và đơn giản khi giải quyết những vấn đề liên
quan đến tôn giáo, dẫn đến vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
nhân dân; có nơi lại thụ động, buông lỏng quản lý dẫn đến việc một số hoạt
động tôn giáo lấn lướt chính quyền, kỷ cương, phép nước không được giữ
nghiêm.
Chính vì vậy, cần phải tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo, để một mặt khắc phục được những lệch lạc, phiến diện trong công
tác quản lý, mặt khác vừa bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân
dân và góp phần làm cho các hoạt động của tôn giáo theo đúng pháp luật.
Thứ ba, chính sách pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất trong công tác
quản lý hoạt động xã hội nói chung và hoạt động tôn giáo nói riêng, hiện nay
trước yêu cầu xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật và trước yêu
cầu cải cách nền hành chính nhà nước về quản lý các hoạt động tôn giáo đang
đặt ra cấp thiết.
Ngày nay nhà nước ta đang tiến hành đổi mới, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhiều lĩnh vực hoạt động của xã hội đã được
luật hóa một cách cụ thể. Trong đó, quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo được Đảng và Nhà nước ta xác định là những chính sách xã hội quan
15


trọng, có tính đặc thù, vì vậy cải cách hệ thống pháp luật quản lý các hoạt
động tôn giáo là một yêu cầu khách quan.
Hệ thống luật pháp về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là
một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam. Hiện nay hệ thống pháp luật
điều chỉnh các hoạt động tôn giáo ở nước ta đã có những bước phát triển đáng

kể, ngày càng hoàn thiện, cơ bản đáp ứng được yêu cầu bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Cụ thể là từ khi có Nghị quyết 24 –
NQ/TW năm 1990 của Bộ chính trị Về tăng cường công tác tôn giáo trong
tình hình mới ra đời, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản luật nhằm quản
lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo. Đặc biệt, năm 2004, Pháp lệnh Tín
ngưỡng, tôn giáo, được ban hành, đây là văn bản pháp luật có giá trị pháp lý
cao nhất về quản lý và điều chỉnh mọi hoạt động trong lĩnh vực tôn giáo. Bên
cạnh đó, những quy định pháp lý liên quan đến hoạt động tôn giáo còn nằm
trong những quy định của văn bản pháp luật về dân sự, về đất đai, về bảo tồn
bảo tàng, về xây dựng,… Đó là những cơ sở pháp lý để nhà nước ta thực hiện
chức năng quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo và là những minh
chứng cụ thể đấu tranh với các thế lực thù địch vu cáo Nhà nước Việt Nam vi
phạm tự do tôn giáo, vi phạm nhân quyền, góp phần ngăn chặn hành vi lợi
dụng tôn giáo.
Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay, hệ thống pháp luật về tôn giáo đang
trong quá trình hoàn thiện nên chưa bao quát hết được một số nội dung những
hoạt động tôn giáo, chưa có tính cụ thể, đó là một trong những nguyên nhân
gây ra tình trạng lúng túng của các cấp chính quyền trong công tác quản lý
hoạt động tôn giáo ở cơ sở. Vì vậy, trước yêu cầu của việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân và trước yêu cầu của công tác tôn
giáo hiện nay, việc xây dựng hệ thống pháp luật về quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo cần tiếp tục được củng cố và hoàn thiện.
16


Thứ tư, xuất phát từ âm mưu và hoạt động của các thế lực thù địch triệt
để lợi dụng các sơ hở, thiếu sót của ta trong việc quản lý nhà nước đối với tôn
giáo và thực hiện chính sách tôn giáo.
Lợi dụng mở cửa, hội nhập, các thế lực thù địch, phản động tiếp tục
chống phá sự nghiệp đổi mới của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Tôn giáo

tiếp tục là một trong những con bài quan trọng để chúng lợi dụng chống phá
cách mạng, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân, giữa những người có tín
ngưỡng, tôn giáo với những người không có tín ngưỡng, tôn giáo, thực hiện
âm mưu diễn biến hòa bình. Trong âm mưu diễn biến hoà bình chống Việt
Nam, các thế lực thù địch, phản động luôn tìm cách lợi dụng tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, kích động chống đối,
nhằm làm mất ổn định chính trị - xã hội, tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ
của ta. Điều đáng chú ý là mỗi khi Nhà nước ta bổ sung hoặc ban hành văn
bản pháp luật mới về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo bảo đảm phù hợp với
tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, thì họ lại dấy lên chiến dịch xuyên tạc,
vu cáo Nhà nước Việt Nam bóp nghẹt tự do tôn giáo, đòi phải bãi bỏ những
văn bản pháp luật đó. Họ đòi tôn giáo phải độc lập và không chịu sự quản lý
của Nhà nước. Họ tâng bốc, ca ngợi tự do tôn giáo ở các nước tư bản: "Tôn
giáo được tự do hoạt động, không chịu sự quản lý của Nhà nước". Đây không
chỉ là luận điệu cố tình xuyên tạc công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn
giáo ở nước ta, mà còn kích động, nhằm làm cho dư luận ngộ nhận rằng, việc
Nhà nước ta ban hành các văn bản pháp luật về hoạt động tín ngưỡng, tôn
giáo là đi ngược lại sự tiến bộ xã hội, tạo phản ứng tiêu cực trong một bộ phận
chức sắc, nhà tu hành và quần chúng tín đồ.
Từ những thực tế như trên, đòi hỏi chúng ta phải tăng cường quản lý
nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, qua đó nhằm đáp ứng nhu cầu tín

17


ngưỡng, tôn giáo chính đáng của nhân dân, mặt khác phải luôn cảnh giác
chống lại âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch.
Tất nhiên, tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
không đồng nhất với việc hạn chế quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công
dân. Mà thông qua tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo,

thì những hoạt động tôn giáo chính đáng, hợp pháp sẽ được Nhà nước bảo hộ,
những hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để thực hiện hành vi trái pháp
luật sẽ bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
* Mục tiêu quản lý
Mục tiêu là cái hướng tới và cần đạt được. Đối với công tác quản lý nhà
nước về hoạt động tôn giáo, cần những mục tiêu chủ yếu sau đây:
+ Mục tiêu tổng quát
Nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của quần chúng có
đạo, đồng thời chống lại những âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo vì mục
đích phi tôn giáo, làm cho những hoạt động tôn giáo diễn ra trong khuôn khổ
của pháp luật, thực hiện đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
ta đối với tôn giáo.
+ Mục tiêu cụ thể
Thứ nhất, quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trước hết phải
bảo đảm được quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, bảo đảm cho
các hoạt động tôn giáo được diễn ra bình thường theo quy định của pháp luật
của Nhà nước.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của
con người đã được Công ước Quốc tế Về các quyền dân sự và chính trị của
Liên hợp quốc ghi nhận. Nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo là một nhu cầu còn tồn
tại lâu dài cùng với sự phát triển của xã hội loài người, chừng nào mà những
nguồn gốc làm nảy sinh nó chưa giải quyết được.
18


Trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng
đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của công dân. Năm 1945, chỉ một ngày sau khi đọc Tuyên
ngôn độc lập ở quảng trường Ba Đình lịch sử, ngay trong phiên họp đầu tiên
của Hội đồng lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát biểu: “Tất cả công dân

trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu
nghèo, tôn giáo, dòng giống…”; “Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: tín
ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết” [41, tr.130].
Trong các Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992, và Hiến pháp 1992 (sửa
đổi) đều ghi nhận: “Công dân có quyền theo hoặc không theo một tôn giáo
nào”. Ngày nay Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Thực hiện nhất quán chính sách
tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo
của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật” [29,
tr.122].
Cùng với bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, phải
bảo đảm cho các tổ chức, cá nhân tôn giáo được thực hiện các hoạt động tôn
giáo và hành đạo một cách thuận lợi. Để đảm bảo quyền này, Pháp lệnh Tín,
ngưỡng tôn giáo đã quy định: “người có tín ngưỡng, tín đồ được tự do bày tỏ
đức tin, thực hành các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện và tham gia các hình
thức sinh hoạt, phục vụ lễ hội, lễ nghi tôn giáo và học tập giáo lý tôn giáo mà
mình tin theo” [37, tr.349-350].
Trong quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo cần phân biệt rõ mặt
chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo. Mặt tư tưởng thể
hiện tín ngưỡng tôn giáo thuần túy. Mặt chính trị thể hiện sự lợi dụng tôn giáo
để chống lại sự nghiệp đấu tranh cách mạng, xây dựng chủ nghĩa xã hội của
những phần tử phản động đội lốt tôn giáo. Giải quyết vấn đề này vừa phải
khẩn trương kiên quyết vừa phải thận trọng và có sách lược đúng. Bên cạnh
19


×