Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở hiện nay (qua khảo sát thực tế ở ninh bình)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (733.59 KB, 107 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hệ tư
tưởng chính trị được coi là kim chỉ nam trong thời kỳ này là chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong hệ thống những quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận với thực tiễn là một nội dung căn bản, xuyên suốt trong tồn bộ hệ thống
lý luận cũng như q trình lãnh đạo phong trào cách mạng của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh.
Bàn về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, C.Mác trong “Luận
cương về Phoi ơ bắc” đã khẳng định:
Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý
khách quan khơng, hồn tồn khơng phải là một vấn đề lý luận mà
là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải
chứng minh chân lý, nghĩa là chứng minh tính hiện thực và sức
mạnh, tính trần tục của tư duy của mình [31, tr.9-10].
Cũng đồng quan điểm, V.I.Lênin cho rằng:
Trong khi nhấn mạnh như thế sự cần thiết, tầm quan trọng và quy
mô rộng lớn của công tác lý luận của những người dân chủ - xã hội,
tôi không hề muốn nói rằng cơng tác đó phải được đặt vào vị trí
hàng đầu trước cơng tác THỰC TIỄN, và càng không hề cho rằng
người ta hãy đợi cho đến khi nào công tác thứ nhất xong xuôi rồi
mới làm cơng tác thứ hai…Trong điều kiện đó, cả hai cơng tác lý
luận và cơng tác thực tiễn sẽ hịa làm một… [25, tr.381 -382].
Như vậy, các nhà kinh điển Mác - Lênin đều khẳng định mối quan hệ
thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, xem đây là nguyên tắc cơ bản
của nhận thức và hành động.
Kế thừa tư tưởng của Mác - Ăngghen và Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khi nói về vai trị của ngun tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đã từng



2
khẳng định: “Thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù
qng. Lý luận mà khơng liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” [411, tr.496].
Đồng thời khi nói đến trình độ của người cán bộ Hồ Chí Minh cũng từng căn
dặn: “Cán bộ của Đảng phải hiểu biết lý luận cách mạng, và lý luận cùng thực
hành phải luôn đi đôi với nhau” [38, tr.249]. Người yêu cầu cán bộ đảng viên
phải tuân thủ quán triệt nguyên tắc này cho nhận thức và hành động. Bản thân
Người cũng là tấm gương sáng cho việc vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa
lý luận với thực tiễn trong quá trình hoạt động cách mạng của mình.
Việt Nam hiện đang thực hiện cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước
trong xu thế tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh đó, chúng ta có
thêm nhiều cơ hội cho sự phát triển đất nước nhưng cũng đứng trước nhiều
thử thách khó khăn. Một loạt vấn đề mới nảy sinh trong quá trình phát triển kinh
tế xã hội đòi hỏi lý luận phải tổng kết, giải đáp. Vai trò của lý luận ngày càng
tăng lên. Cùng với điều đó, mỗi cán bộ đảng viên phải nâng cao trình độ của
mình, nắm vững những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối
chính sách của Đảng và nhà nước để vận dụng vào thực tiễn một cách sáng tạo,
có như thế, chúng ta mới có thể thực hiện được mục tiêu đã đặt ra.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy cịn khơng ít cán bộ, đảng viên nói
chung, lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở nói riêng vi phạm nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, biểu hiện cụ thể như tách rời lý luận và
thực tiễn, coi trọng lý luận xem nhẹ thực tiễn hoặc ngược lại, coi nhẹ lý luận
đề cao thực tiễn. Điều đó dẫn đến tình trạng một bộ phận cán bộ lãnh đạo mắc
phải bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều, bệnh chủ quan duy ý chí, xa rời quần
chúng, xa rời thực tế, hình thức, quan liêu… Một bộ phận cán bộ lãnh đạo
quan liêu, xa rời thực tiễn, không quan tâm tới tổng kết kinh nghiệm thực tiễn
để khái quát lý luận, bổ sung lý luận, khơng quan tâm tới việc nâng cao trình
độ lý luận, vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn hoặc tổng kết thực tiễn
chưa có mục đích đúng đắn, chưa dựa vào ngun tắc khách quan, cịn tơ



3
hồng, hoặc bôi đem thực tiễn, vận dụng lý luận cịn giáo điều, hình thức. Tại
đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X của Đảng, tổng kết vấn đề lý luận, thực
tiễn qua 20 năm đổi mới, Đảng ta nhận định rằng: “Một bộ phận cán bộ đảng
viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt, yếu kém về phẩm chất và năng lực, vừa
thiếu tính tiên phong, gương mẫu, vừa khơng đủ trình độ hồn thành nhiệm
vụ” [13, tr.66]. Thực tế trên đang làm giảm vai trò của cán bộ lãnh đạo trong
quá trình xây dựng, phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đồng thời làm
giảm niềm tin của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên, cản trở việc thực hiện
mục tiêu xã hội chủ nghĩa của Đảng và nhân dân ta.
Trong thời gian qua, việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
với thực tiễn vào hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở
tỉnh Ninh Bình tương đối tốt. Nhờ đó kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển ổn
định, đời sống nhân dân được cải thiện cả về vật chất và tinh thần. Bên cạnh
những kết quả đạt được đó vẫn cịn có những hạn chế nhất định như trình độ
lý luận, trình độ tổ chức thực tiễn, khả năng hiện thực hóa chủ trương chính
sách của Đảng và Nhà nước vào thực tế của địa phương vẫn chưa đáp ứng
được nhu cầu đổi mới, hội nhập trong xu thế tồn cầu hóa ở tỉnh. Do đó địi
hỏi cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở tỉnh Ninh Bình phải quán triệt và vận dụng tốt
hơn nữa nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn. Xét thấy tầm quan
trọng của vấn đề và tính bức thiết của nó trong giai đoạn hiện nay, chúng tôi
chọn vấn đề “Quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở hiện nay.
(Qua khảo sát thực tế ở Ninh Bình)” làm đề tài nghiên cứu và viết luận văn
tốt nghiệp thạc sĩ triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây đã có nhiều bài viết, cơng trình khoa học do
nhiều tác giả thực hiện nghiên cứu về nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn ở nhiều khía cạnh khác nhau. Có thể kể ra một số cơng trình tiêu biểu sau:



4
- Hồng Chí Bảo, “Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong tư
tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí khoa học xã hội, 2003, số 1. Trong bài viết này,
tác giả đã làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn thông qua quá trình tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
vào Việt Nam. Tác giả cũng đưa ra một số giải pháp để vận dụng những tư
tưởng của Người vào quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa thời kỳ đổi mới.
- Trần Văn Phòng, “Quán triệt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong hoạt động lý luận của chúng ta hiện nay”, Tạp chí Nghệ thuật quân sự,
số 2, 1998. Bài viết trên tác giả đã phân tích về nội dung của nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn và sự vận dụng nguyên tắc này trong nghiên cứu
các lĩnh vực cụ thể như trong quá trình đổi mới, hoạt động nghiên cứu
- Trần Văn Phòng, “quán triệt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong quá trình đổi mới của Đảng”, tạp chí Khoa học chính trị, số 4, 2005
- Đặng Tuyết Em, Vấn đề thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
phong cách làm việc của người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh nước ta
hiện nay, Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội - 2000. Tác giả của luận văn đã phân tích tầm quan trọng của
việc thực hiện sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong phong cách làm
việc của người lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh; đồng thời khái quát thực trạng thực
hiện nguyên tắc này ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh Kiên Giang.
Qua đó luận văn đã đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm thực hiện tốt sự thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn trong phong cách làm việc của người cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp tỉnh.
- Nguyễn Thị Thủy, “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong việc ra
quyết định của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh Quảng Ninh hiện
nay”, luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ
Chí Minh, 2010. Luận văn đã nêu ra tầm quan trọng của nguyên tắc thống

nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động cụ thể của công tác lãnh đạo


5
quản lý, việc ra quyết định. Trên cơ sở phân tích thực trạng quán triệt sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong việc ra quyết định của đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh Quảng Ninh, luận văn đã đề xuất một số giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao việc quán triệt sự thống nhất này trong việc ra
quyết định của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh Quảng Ninh hiện nay.
- Vũ Công Thương, “Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong hoạt động lãnh đạo của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở nước ta hiện nay”,
luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh, 2007. Trong cơng trình nghiên cứu này, tác giả đã làm rõ yêu cầu
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn và những biểu hiện của
nguyên tắc này trong hoạt động lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ
sở. Tác giả cũng đã phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong việc
quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động
lãnh đạo của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở qua thực tiễn ở tỉnh Bình Phước.
Đồng thời, tác giả đã chỉ ra một số phương hướng và giải pháp nhằm quán
triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo
của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã bàn đến nhiều khía
cạnh khác nhau của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn như nội
dung, yêu cầu của nguyên tắc, việc quán triệt nguyên tắc trong công tác lãnh
đạo, trong công tác ra quyết định của cán bộ lãnh đạo, cấp cơ sở. Những cơng
trình nghiên cứu trên sẽ là tài liệu tham khảo có giá trị của tác giả luận văn.
Mặc dù vậy, trong tình hình mới hiện nay vẫn cần có sự nghiên cứu cơng phu,
nghiêm túc trên cơ sở khoa học về vấn đề này. Đặc biệt, trên một tỉnh đang có
nhiều đổi mới về kinh tế - xã hội như Ninh Bình hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích thực trạng việc quán triệt nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận với thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán


6
bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở qua khảo sát ở tỉnh Ninh Bình hiện nay, luận
văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động lãnh
đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ tầm quan trọng của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở.
- Phân tích thực trạng và chỉ ra một số vấn đề đặt ra từ thực trạng quán
triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn trong hoạt động lãnh
đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Ninh Bình hiện nay.
+ Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả quán triệt
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo,
quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Ninh Bình hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở, chủ yếu là cán bộ chủ chốt cấp xã.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo quản lý của cán bộ chủ chốt cấp xã
ở tỉnh Ninh Bình (giai đoạn 2000 -2012)
5. Cơ sở lý lụận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn vận dụng lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; các văn kiện Đại hội Đảng và các nghị

quyết hội nghị Trung ương; các cơng trình khoa học trong và ngồi nước đã
nghiên cứu, cơng bố trên các phương tiện thông tin đại chúng về vấn đề này.
Luận văn sử dụng những chỉ thị, nghị quyết, quyết định cùng các tài
liệu khác được cung cấp bởi Uỷ ban nhân dân, Hội đồng nhân nhân dân các
cấp ở tỉnh Ninh Bình trong những năm từ 2000 - 2012.


7
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp cùng các phương pháp nghiên
cứu khoa học khác như: phân tích, tổng hợp; lịch sử và lơgíc; trừu tượng và
cụ thể, điều tra xã hội học, so sánh, tổng kết thực tiễn.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Góp phần làm sáng tỏ nét riêng về việc quán triệt nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận với thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở, đưa ra giải pháp nhằm quán triệt tốt nguyên tắc nàytrong
hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở nước ta nói
chung, tỉnh Ninh Bình nói riêng.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn dùng làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu giảng dạy ở các trường Chính trị tỉnh, các trung tâm bồi dưỡng
chính trị cấp huyện…
8. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn có 2 chương, 5 tiết.


8
Chương 1

TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC QUÁN TRIỆT NGUYÊN TẮC
THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG HOẠT
ĐỘNG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP
CƠ SỞ
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP
CƠ SỞ VÀ THỰC CHẤT HOẠT ĐỘNG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA CÁN BỘ
CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ

1.1.1. Cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở
C.Mác và Ph. Ăngghen là những người đặt nền móng cho vấn đề cán
bộ của giai cấp vô sản. Hai ông không chỉ đề cập đến sự xuất hiện của những
con người vĩ đại trong mỗi thời đại mà còn cho rằng muốn thực hiện tư tưởng
thì cần có những người sử dụng lực lượng thực tiễn.
Kế thừa tư tưởng đó của Mác và Ăngghen, Lênin đã đánh giá rất cao vị
trí, vai trị của người cán bộ trong hàng ngũ của Đảng Bơn - sê- vích Nga.
“Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị nếu nó
khơng đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị,
những đại biểu tiền phong cú đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”
[30, tr.473]. “Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có đủ bản chất hiện
nay đó là then chốt. Nếu khơng thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định chỉ là
mớ giấy lộn” [30, tr.449]. Do xác định đúng vị trí, tầm quan trọng của cán bộ,
Lênin đã lãnh đạo Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 giành thắng lợi,
đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn chế độ Nga hoàng, xây dựng xã hội mới, xã hội
chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới.
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cho rằng, một khi đã có đường lối cách mạng đúng thì cán bộ là khâu quyết
định. Động lực của mọi cuộc cách mạng là quần chúng nhân dân mà hạt nhân


9

chủ yếu của nó là lực lượng cán bộ. Theo Người, cán bộ là dây chuyền của bộ
máy, là cầu nối giữa Đảng, nhà nước với nhân dân, “là những người đem
chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi
hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cho Đảng, cho Chính phủ
hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng” [38, tr.269]. Người cũng khẳng định:
“Cán bộ là gốc của mọi công việc”, “muôn việc thành công hay thất bại là đều
do cán bộ tốt hay kém”. Bởi, cán bộ là lực lượng tinh túy nhất của xã hội, có
vị trí vừa tiên phong, vừa là trung tâm của xã hội và có vai trị cực kỳ quan
trọng của hệ thống chính trị nước ta.
Trên cơ sở kế thừa quan điểm của các nhà kinh điển Mác - Lênin và Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới khơng ngừng
coi trọng vai trị của cán bộ và công tác cán bộ. Trải qua các kỳ Đại hội, Đảng
ta đều khẳng định công tác cán bộ là khâu then chốt trong toàn bộ hoạt động
của Đảng và là nhân tố quan trọng quyết định sự thành công của sự nghiệp
đổi mới. Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII khẳng định cán bộ có vai trị cực
kỳ quan trọng hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm tiến trình đổi mới. Cán bộ nói
chung có vai trị rất quan trọng, cán bộ cơ sở nói riêng có vị trí nền tảng cơ sở.
Cơ sở xã phường, thị trấn mạnh hay yếu một phần quan trọng phụ thuộc vào
chất lượng đội ngũ cán bộ xã phường, thị trấn.
Quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay càng đòi hỏi người
cán bộ chủ chốt các cấp, đặc biệt là cấp cơ sở phải có bản lĩnh, dám nghĩ dám
làm, có năng lực lãnh đạo, quản lý nhất định. Vậy cán bộ lãnh đạo quản lý cấp
cơ sở (hay cán bộ chủ chốt cấp cơ sở) là những ai?
Để hiểu rõ hơn về khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ
sở trước hết cần tìm hiểu về hoạt động lãnh đạo, quản lý.
Hoạt động lãnh đạo quản lý là nhu cầu khách quan được hình thành
trong xã hội loài người. Lịch sử đã chứng minh rằng, mỗi chế độ xã hội sẽ
sinh ra một đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý có trình độ, năng lực, phẩm chất



10
nhất định. Lãnh đạo, quản lý tồn tại dưới nhiều hình thức như ở thị tộc là tộc
trưởng - người đứng đầu thị tộc, quản lý điều hành mọi thành viên trong thị
tộc; đến bộ tộc, tộc trưởng là người đứng đầu trực tiếp điều hành quản lý mọi
hoạt động của bộ tộc mình. Tuy nhiên, khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý
mang đầy đủ ý nghĩa của nó khi xã hội có giai cấp và nhà nước. Đây là khái
niệm gồm hai từ ghép lãnh đạo và quản lý, chỉ hoạt động của chủ thể lãnh
đạo, chủ thể quản lý tác động tới khách thể, đối tượng bị lãnh đạo, quản lý.
Theo Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách Khoa, 2008, lãnh đạo là:
“Đề ra chủ trương, đường lối, tổ chức động viên thực hiện” [55, tr.431]. Như
vậy, hoạt động lãnh đạo là hoạt động sáng tạo có định hướng của chủ thể lãnh
đạo tác động tới khách thể thông qua các phương pháp như động viên, giáo
dục, thuyết phục, chỉ đạo…nhằm đạt mục đích đã định cải tạo tự nhiên, xã hội
và tư duy con người. Lãnh đạo tạo hiệu ứng điều khiển, dẫn dắt người khác
dựa trên cơ chế nhận thức, niềm tin, tiêu chuẩn đạo đức, lý tưởng…mà khơng
mang tính cưỡng bức đối với người khác. Nói cách khác, lãnh đạo là hoạt
động tích cực, có tính chất tất yếu đối với cuộc sống và xã hội của con người,
bất cứ nơi đâu và lúc nào có nhiều người tập hợp lại với nhau vì một mục đích
chung nào đó thì sẽ có một thành viên nổi trội hơn về năng lực, về ý chí, về
tích cực hoạt động nhằm đạt mục đích chung cho cả nhóm, thành viên đó
được gọi là lãnh đạo.
Quản lý, theo từ điển tiếng việt, Nxb Từ điển Bách khoa, 2008, là:“Tổ
chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định” [55, tr.686].
Có nghĩa, hoạt động quản lý là hoạt động của chủ thể quản lý thơng qua sự
sắp xếp, tổ chức, chỉ huy của mình trực tiếp điều khiển, tác động đối tượng
quản lý theo những yêu cầu nhất định.
Qua hai khái niệm trên cho thấy, hoạt động lãnh đạo, quản lý là hai khái
niệm khác nhau nhưng chúng lại có mối quan hệ qua lại chặt chẽ với nhau.
Điểm chung của hai hoạt động này là đều đạt đến mục đích mong muốn thơng



11
qua hành động của người khác, có nghĩa, hai hoạt động này thể hiện quyền
lực, uy quyền tác động đến đối tượng là những người dưới quyền để thực hiện
một nhiệm vụ nào đó theo u cầu và mục đích định trước.
Nếu xét về mục tiêu, nội dung, phương pháp thì có sự khác nhau căn
bản giữa hai khái niện trên.
Về mục tiêu, hoạt động lãnh đạo là hoạt động định hướng chung, còn
hoạt động quản lý là hoạt động tổ chức sắp xếp các vấn đề theo một trật tự
nhất định nhằm đạt hiệu quả cao nhất các quyết định của lãnh đạo
Về nội dung, hoạt động lãnh đạo là đề ra những quan điểm, chủ trương,
đường lối, hoạch định các kế hoạch mang tính chất định hướng chung. Còn
hoạt động quản lý là xây dựng những phương án, chỉ tiêu, kế hoạch cụ thể, tổ
chức lực lượng để thực thi nhiệm vụ.
Về phương pháp, hoạt động lãnh đạo chủ yếu dùng phương pháp giáo
dục, thuyết phục, động viên, cổ vũ nhằm phát huy tính tự giác của đối tượng.
Hoạt động quản lý là sử dụng mệnh lệnh, mang tính nguyên tắc bắt buộc với
những chế tài biện pháp hành chính nhất định.
Sự phân biệt giữa lãnh đạo và quản lý ở đây khơng mang tính biệt lập
tuyệt đối, máy móc. Lãnh đạo và quản lý là những nội dung có quan hệ mật
thiết, tác động lẫn nhau, đan xen nhau. Xét về mặt nội dung, tính chất thì giữa
hai khái niệm này có điểm gần giống nhau nên người ta thường sử dụng cụm
từ chung là lãnh đạo, quản lý. Vì thế hoạt động lãnh đạo cũng đồng thời thực
hiện chức năng quản lý và hoạt động quản lý cũng đồng thời thực hiện chức
năng lãnh đạo.
Vậy cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở là gì?
Cán bộ lãnh đạo hiểu theo nghĩa rộng là người giữ chức vụ và trách
nhiệm cao trong một tổ chức, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của tổ chức, của
bộ máy, có vai trị tham gia định hướng, điều khiển hoạt động của bộ máy.
Cán bộ lãnh đạo là người có chức năng lãnh đạo, được giao đảm đương



12
các nhiệm vụ quan trọng trong bộ máy lãnh đạo, quản lý để điều hành và tổ
chức thực hiện các nhiệm vụ được giao. Chịu trách nhiệm trước tập thể và cấp
trên về nhiệm vụ được giao trên cương vị ở một cấp và các lĩnh vực khác
nhau mà họ đảm nhiệm. Là người đứng đầu một cơ quan, tập thể giữ vị trí
quan trọng trong việc hoạch định chiến lược, xác định mục tiêu, phương
hướng, đề ra các quyết định, chủ trương chính sách và tổ chức động viên thực
hiện tốt các nhiệm vụ đề ra ở cấp mình và những nhiệm vụ cấp trên giao phó.
Trong bộ phận lãnh đạo, có một nhóm người được gọi là cán bộ lãnh đạo chủ
chốt. Đó là những người đứng đầu quan trọng nhất, có chức vụ cao nhất trong
một tập thể, có quyền ra những quyết định về chủ trương, có trách nhiệm và
quyền điều hành một tập thể, một đơn vị, một tổ chức để thực hiện những
nhiệm vụ của tập thể hoặc tổ chức ấy, thậm chí có thể chi phối, dẫn dắt toàn
bộ hoạt động của một tổ chức nhất định.
Theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi 2001), ở nước ta cơ cấu tổ chức của
hệ thống chính trị chia làm 4 cấp: Trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương; quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và cơ sở. Cấp cơ
sở là cấp cuối cùng trong sự phân cấp hành chính. Cấp cơ sở là nơi nhân
dân cư trú, sinh sống, gắn bó chặt chẽ trong các quan hệ kinh tế, dòng tộc
và văn hóa. Cấp cơ sở là nơi trực tiếp sản xuất vật chất, là nền tảng vật chất
cơ bản của xã hội, là nơi có thể tổ chức, huy động, phát huy cao độ nội lực
của quần chúng nhân dân. Trong hệ thống chính trị của nước ta, cấp cơ sở
có một vị trí rất quan trọng, là đơn vị cuối cùng trực tiếp và chủ yếu thể
hiện sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện sự quản lý của Nhà nước đối với nhân
dân. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước được
chuyển hóa thơng qua hoạt động lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh, cấp huyện và
cuối cùng được triển khai thực hiện trực tiếp ở cơ sở. Nếu cấp tỉnh và thành
phố trực thuộc Trung ương được coi là địa bàn vĩ mô trong sự phát triển

kinh tế, xã hội của đất nước ở địa phương thì cấp cơ sở được coi là đơn vị


13
vi mơ nền tảng của vĩ mơ đó.
Trong tồn bộ những thiết chế chính trị ở nước ta thì Nhà nước là tổ
chức thể hiện tập trung yêu cầu của nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân.
Nhà nước là công cụ quyền lực cao nhất để thực hiện quyền lực của nhân dân,
do nhân dân bầu ra và mọi hoạt động đều vì lợi ích của nhân dân. Ủy ban
nhân dân xã, phường, thị trấn là một thiết chế chính trị, cùng với Hội đồng
nhân dân xã, phường, thị trấn hình thành nên cấp chính quyền cơ sở trong hệ
thống chính trị chính quyền bốn cấp của nhà nước ta hiện nay.
Với hệ thống chính trị chia thành bốn cấp, ở mỗi cấp, Đảng và Nhà
nước ta có quy định cụ thể, rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, về quyền hạn và
tính chất hoạt động nhất định. Nếu cương vị phụ trách của cấp nào có quy mơ
rộng thì chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn lớn, tính chất hoạt động lãnh đạo,
quản lý ở tầm vĩ mô thì ảnh hưởng, tác động lớn. Ngược lại, phạm vi chức
năng, nhiệm vụ quyền hạn nhỏ, tính chất hoạt động của nó cũng nhỏ hơn. Dựa
trên cơ sở này mà phân cấp cán bộ trong hệ thống chính trị của ta thành ba
cấp: Cán bộ cao cấp, cán bộ trung cấp và cán bộ cơ sở.
Cán bộ cao cấp là cán bộ ở tầm chiến lược lãnh đạo, quản lý ở tầm vĩ
mơ, có chức năng, nhiệm vụ đề ra những đường lối, chủ trương, chính sách
chung để lãnh đạo, quản lý chung.
Cán bộ trung cấp là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp tỉnh, huyện,
ở tầm chiến thuật có chức năng, nhiệm vụ vận dụng chủ trương, đường lối,
chính sách của trung ương và của ngành đề ra phương hướng, kế hoạch cho
phù hợp với đặc điểm của địa phương, cũng như ở cơ quan, đơn vị mình đồng
thời phải kiểm tra, tổ chức thực hiện phương hướng, kế hoạch đó.
Cán bộ cấp cơ sở là cán bộ có chức năng, nhiệm vụ tổ chức thực hiện
chủ trương, đường lối, chính sách, kế hoạch, phương hướng của trung ương

và cấp quản lý trực tiếp để phù hợp với tình hình cụ thể của từng địa phương.
Tuy có sự khác nhau về tầm lãnh đạo, quản lý cũng như chức năng,


14
nhiệm vụ và tính chất giữa ba cấp, nhưng họ đều là cán bộ lãnh đạo, quản lý
chủ chốt và tạo thành đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt trong hệ
thống chính trị của nước ta.
Trong hệ thống chính trị cơ sở, cơ cấu đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
chủ chốt luôn vận động và phát triển cùng với sự vận động và phát triển của
nền kinh tế - xã hội với nhiệm vụ chính trị của địa phương. Muốn có đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở năng động, hoạt động có hiệu quả
cao thì cơ cấu tổ chức nơi đó phải đồng bộ, hợp lý, phù hợp với xu thế phát
triển chung. Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở thông qua các chức danh, dựa vào các
chức danh để thể hiện vai trò lãnh đạo, quản lý của mình trong các tổ chức.
Đội ngũ cán bộ cấp cơ sở có cơ cấu đa dạng bao gồm:
Những người lãnh đạo chính trị, làm cơng tác đảng chun nghiệp, nắm
giữ trọng trách hàng đầu trong sự lãnh đạo toàn diện của đảng ủy xã, phường,
thị trấn như: Bí thư, phó bí thư đảng ủy.
Những người làm cơng tác chính quyền như: chủ tịch, phó chủ tịch hội
đồng nhân dân và chủ tịch, phó chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
Những cán bộ lãnh đạo, quản lý các đồn thể, các tổ chức chính trị - xã
hội trong hệ thống chính trị cấp cơ sở như Đồn thanh niên, Hội liên hiệp Phụ
nữ, Hội nông dân xã, Hội cựu chiến binh xã, phường, thị trấn …
Những cán bộ, lãnh đạo, quản lý là trưởng các ban ngành của xã,
phường, thị trấn trong các lĩnh vực: Kinh tế, văn hóa, xã hội chính trị, tư
tưởng, giáo dục, y tế…các bộ phận tham mưu cho đảng ủy, ủy ban nhân dân
xã, phường, thị trấn.
Do đó, cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở là những người
đứng đầu, có chức vụ quan trọng nhất thuộc ban lãnh đạo của các cơ quan

Đảng, chính quyền và các cơ quan chuyên trách ở cấp cơ sở (còn gọi là cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở).
Trong phạm vi luận văn này, chức danh thuộc đội ngũ cán bộ lãnh đạo,


15
quản lý chủ chốt cấp cơ sở đề cập tới chủ yếu là cán bộ chủ chốt cấp xã. Theo
đó bao gồm: Bí thư, phó bí thư Đảng ủy xã; Chủ tịch, phó chủ tịch Hội đồng
nhân dân xã, Chủ tịch, phó chủ tịch Ủy ban nhân dân xã; Chủ tịch Mặt trận tổ
quốc Việt Nam, chủ tịch Hội Nông dân; Chủ tịch Hội Phụ nữ; Chủ tịch Hội
Cựu chiến binh; Bí thư Đồn thanh niên.
1.1.2. Đặc trưng của cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở
Trong hệ thống chính trị của nước ta, cấp cơ sở được coi là cấp quan
trọng nhất, là nền tảng của chế độ chính trị và đời sống xã hội. Đây là nơi mà
sự vận hành của thể chế chính trị từ trung ương, tỉnh, huyện tác động đến.
Trong hệ thống ấy, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là cầu nối giữa sự lãnh đạo của
các cấp với nhân dân lao động với từng công dân. Đồng thời họ là những
người đại diện cho các cơ quan Đảng, chính quyền, nhà nước và tổ chức xã
hội trực tiếp lãnh đạo, quản lý hoạt động của nhân dân ở cơ sở.Thực tế ở
nhiều địa phương trong thời gian qua cho thấy, cùng một điều kiện như nhau
nhưng có nơi kinh tế - xã hội phát triển tốt, đời sống nhân dân được ấm no,
tình hình chính trị xã hội ổn định, tuy nhiên, có một số địa phương lại ngược
lại. Như vậy, tốt hay chưa tốt không chỉ do tác động của thể chế mà còn phụ
thuộc vào nhân tố chủ quan - đó là đội ngũ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở có đủ
phẩm chất và năng lực. Bởi vì, cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở có
những đặc trưng cụ thể sau:
Thứ nhất, cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở là người gắn bó
trực tiếp với cơ sở, với nhân dân. Cấp cơ sở là cấp gần dân nhất, là nơi biểu
hiện tập trung nhất, rõ nhất những ưu việt của chế độ XHCN. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định cấp xã là cấp gần gũi với dân nhất, là nền tảng của hành

chính. Cấp xã làm được thì mọi việc đều xong xi. Chính vì vậy, cán bộ lãnh
đạo, chủ chốt cấp cơ sở là những người trực tiếp tiếp xúc với quần chúng
nhân dân và bà con nông dân. Đa số họ là những người sinh ra, lớn lên và
trưởng thành từ cơ sở, từ chính quê hương mình. Do vậy, họ là những người


16
hiểu quần chúng nhân dân, hiểu tâm tư, nguyện vọng, thuận lợi, khó khăn của
quần chúng nhân dân; hiểu phong tục, tập quán, đặc điểm văn hóa trên địa
bàn mà họ phụ trách, họ gắn bó với cơ sở. Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở không
chỉ gần gũi, tiếp xúc với dân trong giờ hành chính, trong thời gian làm việc ở
văn phòng mà còn trong các buổi sinh hoạt ở địa bàn, ngồi giờ hành chính.
Họ làm nhiệm vụ của mình thơng qua các biện pháp hành chính đồng thời cịn
phải trực tiếp làm cơng tác vận động quần chúng, tạo nên tinh thần đồn kết
nhất trí trong nhân dân, bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống, những
phong tục tập quán lâu đời của địa phương mình.
Hoạt động của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở bị chi phối bởi cả
quan hệ gia đình, dòng tộc, phong tục, tập quán của địa phương đến việc
chung của xã hội. Họ đóng nhiều vai trị khác nhau trong giao tiếp, ứng xử để
điều hòa hoạt động. Chẳng hạn, họ đóng vai trị hịa giải trong mối quan hệ
giữa các công dân, làm chứng cho các quan hệ có tính chất cơng dân giữa
nhân dân lao động với nhau và giữa công dân với nhà nước. Họ là người giải
quyết tranh chấp dân sự lần đầu trên địa bàn, là chỗ dựa tin cậy của nhân dân
cũng như các cơ quan quản lý khác trong việc xác định tư cách, xác định thân
nhân của các đối tượng khác nhau ở địa phương.
Thứ hai, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là cầu nối trực tiếp quan trọng
giữa Đảng - Nhà nước với nhân dân; giữa chính quyền Trung ương với cơ sở,
họ là gốc của mọi công việc ở cơ sở. Họ là người trực tiếp tổ chức, triển khai
thực hiện chỉ thị, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước đến tận người
dân. Các chủ trương, chính sách, nghị quyết của cấp trên có thành hiện thực

hay khơng, có đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội hay khơng phụ thuộc vào trình
độ, năng lực thực hiện của đội ngũ này. Đồng thời họ cũng là người đại biểu
cho nguyện vọng, quyền lợi của quần chúng nhân dân. Họ phản ánh lại nhu
cầu, khát vọng của quần chúng nhân dân lên lãnh đạo cấp trên, để cấp trên kịp
thời nghiên cứu, điều chỉnh, bổ sung đường lối, chính sách và pháp luật của


17
Đảng và Nhà nước phù hợp với đòi hỏi khách quan của thực tiễn.
Đặc thù của cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở là khi giải
quyết những công việc lớn, nhỏ họ vừa là cán bộ lãnh đạo, quản lý, lại vừa là
một công dân với những mối quan hệ nhiều chiều trong tổ, thôn, khu phố, tổ
dân phố nên cách làm việc của họ phải bảo đảm thấu tình, đạt lý. Đồng thời,
họ lại là những người đại diện cho Đảng và Nhà nước để lãnh đạo bà con
nông dân phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng, bảo đảm an ninh, chính
trị - xã hội, xây dựng nông thôn mới ở cơ sở. Chính đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý chủ chốt cấp cơ sở là những người làm cho ý Đảng, lòng dân được
thống nhất; làm cho Đảng và Nhà nước có cơ sở ăn sâu, bám rễ trong quần
chúng, tạo nên quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân, trực tiếp củng cố
niềm tin của nhân dân với Đảng, với Nhà nước. Quần chúng nhân dân chỉ biết
tới Đảng, Nhà nước thông qua đội ngũ cán bộ này. Vì vậy, đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở như là người thay mặt Đảng, Nhà nước ở
địa phương. Phẩm chất, tài năng của họ sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới uy tín của
Đảng và Nhà nước
Thứ ba, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là người đóng vai trị quyết định
trong việc lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực tiễn ở địa phương. Họ đóng vai trị
chủ đạo trong việc ra quyết định ở cơ sở, là những người vận dụng sáng tạo,
góp phần phát triển đường lối của Đảng trong tổ chức thực hiện các phong
trào quần chúng ở cơ sở. Là đội ngũ quan trọng trong lãnh đạo, quản lý và
điều hành ở địa phương. Họ là người luôn tiếp xúc gần gũi với nhân dân, kịp

thời phát hiện những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn hoặc những vấn đề
không phù hợp, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, lắng nghe tiếng nói từ quần
chúng nhân dân, trực tiếp tháo gỡ khó khăn. Đối với hệ thống bộ máy cấp cơ
sở, họ là trụ cột, là trung tâm sắp xếp lực lượng, là linh hồn của tổ chức hệ
thống đó. Họ tác động trực tiếp tới năng lực quản lý điều hành của chính
quyền địa phương. Do đó, để hồn thành nhiệm vụ cách mạng của mình, mỗi


18
người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải là những tấm gương sáng trong việc rèn
luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng vô tư. Họ phải là những người gương mẫu trong mọi phong trào cách
mạng ở cơ sở, là người đi đầu trong những phong trào đó.
Thứ tư, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là một trong những cán bộ dự nguồn
quan trọng cung cấp cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện và tương
đương. Những cán bộ lãnh đạo quản lý ở cơ sở có năng lực hoạt động thực
tiễn, có trình độ và tri thức, có khả năng sáng tạo là nguồn cơ bản cung cấp
cho cán bộ cấp trên và tăng cường cho cơ sở. Họ khơng chỉ là khâu liên hệ mà
cịn là cái kho dồi dào cho Đảng lấy thêm nhân lực mới bổ sung cho đội ngũ
cán bộ của Đảng và Nhà nước. Họ là những người vận dụng sáng tạo và góp
phần phát triển đường lối của Đảng trong tổ chức thực hiện phong trào quần
chúng ở cơ sở. Mọi sáng kiến đổi mới, những sáng tạo và nhu cầu đổi mới
thường bắt nguồn từ cơ sở. Khơng có hướng dẫn chỉ đạo nào của cấp trên có
thể chỉ ra một cách cụ thể mọi vấn đề cho phù hợp với từng địa phương khác
nhau. Trên cơ sở có trình độ khoa học và năng lực thực tiễn, cán bộ lãnh đạo,
quản lý phải phát huy tính năng động sáng tạo để tìm tịi ra các cách thức,
biện pháp phù hợp với phong trào ở địa phương mình. Trực tiếp làm việc ở cơ
sở, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có điều kiện thuận lợi trong việc phát
hiện, nắm bắt, tổng kết thực tiễn thực hiện phong trào ở địa phương, góp phần
vào sự hồn thiện, phát triển đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Đứng trước những nhiệm vụ to lớn của thời kỳ đổi mới, trước những
hoàn cảnh và tình thế mới địi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt
cấp cơ sở phải có trình độ và hiểu biết tồn diện trên mọi lĩnh vực, khơng chỉ
có trình độ chun mơn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị, thấu hiểu phong
tục tập quán, tâm tư, nguyện vọng của người dân mà còn phải có kiến thức
quản lý nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, …Có
khả năng tiếp nhận và xử lý thông tin nhạy bén phục vụ cho công tác lãnh


19
đạo, quản lý ở cơ sở; đồng thời qui tụ được quần chúng tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương. Có như vậy mới đáp
ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra hiện nay.
1.1.3. Thực chất hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở
Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị cấp cơ sở ở nước ta
có vai trị, nhiệm vụ lãnh đạo và quản lý hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội, an ninh quốc phòng ở địa phương. Họ là người đóng vai trị quan
trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của các lĩnh vực hoạt động ở cơ sở. Để
thực hiện được vai trò lãnh đạo, quản lý đối với quần chúng, cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở thực hiện những hoạt động cụ thể sau:
Thứ nhất, hoạt động ra quyết định
Ra quyết định là một dạng hoạt động lý luận của người lãnh đạo, quản
lý. Đó là quá trình tư duy tìm ra những giải pháp, bước đi để nhằm đưa đối
tượng quản lý từ trạng thái này sang trạng thái khác, phù hợp với nhiệm vụ
quản lý, là sự phát hiện mâu thuẫn giữa tình huống quản lý với đòi hỏi nhiệm
vụ phải thực hiện, dựa vào các nguồn lực để lựa chọn và tìm ra phương án tối
ưu để giải quyết chúng. Suy cho cùng, hiệu quả của quyết định lãnh đạo, quản
lý phụ thuộc vào nhận thức của người lãnh đạo, vào mức độ luận cứ khoa học
của nó.

Để ra quyết định, người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có nhận thức
đúng vấn đề thực tiễn nảy sinh, dựa trên cơ sở đó mới đưa ra những quyết
định đúng. Khơng thể có quyết định đúng khi nhận thức sai lệch hiện thực
khách quan và vấn đề đặt ra từ thực tiễn. Quyết định theo ý muốn chủ quan,
áp đặt sẽ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Như vậy, quyết định là sản phẩm
sáng tạo và là phương tiện quan trọng để người lãnh đạo, quản lý thực hiện
chức trách của mình. Người lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở thường ra quyết định
và trực tiếp tổ chức thực hiện quyết định. Các nghị quyết của cấp ủy cơ sở


20
cũng phải được thông qua, ký ban hành và tổ chức thực hiện, mặc dù phải trải
qua nhiều khâu, nhiều bước khác nhau. Cho nên, việc suy nghĩ, tìm hiểu, lựa
chọn nhằm đưa ra quyết định đúng đắn và tổ chức thực hiện thắng lợi trong
thực tiễn là nhiệm vụ chính trị nặng nề của cán bộ lãnh đạo, quản lý. Bởi vì,
thực tiễn ln vận động, phát triển, phát sinh những vấn đề mới, do đó địi hỏi
cán bộ lãnh đạo, quản lý phải là người có đầy đủ năng lực nhận thức, từ đó
đưa ra các quyết định phù hợp. Thơng qua các quyết định của họ, nó có tác
động trực tiếp đến mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội tại cơ sở, có
thể thúc đẩy hoặc cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở.
Để hoạt động lãnh đạo, quản lý có hiệu quả thì việc ra quyết định đúng
đắn, kịp thời và khả thi là một yêu cầu tiên quyết, có tính chất bắt buộc. Có
nghĩa là sự phát triển của thực tiễn, của kinh tế xã hội ở địa phương phụ
thuộc rất nhiều vào việc ra quyết định đúng đắn hay sai lầm của cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở. Quyết định đúng sẽ thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển,
ngược lại quyết định khơng chính xác, thiếu tính khả thi sẽ gây lãng phí các
nguồn lực của địa phương và thậm chí kéo dài lịch sử phát triển của địa
phương. Do đó, để đưa ra quyết định, người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải
đầu tư nghiên cứu, bám sát điều kiện lịch sử - cụ thể ở địa phương. Trên cơ
sở đó, người cán bộ lãnh đạo, quản lý mới có thể phát hiện ra những vấn đề

cần giải quyết và kịp thời đưa ra các giải pháp. Các quyết định lãnh đạo,
quản lý chỉ sát hợp, khả thi khi nó được xây dựng trên cơ sở thực tiễn của
địa phương chứ không phải do ý muốn chủ quan, duy ý chí của cán bộ lãnh
đạo, quản lý mang lại. Có được như vậy địi hỏi cán bộ lãnh đạo quản lý
phải hết sức nhạy bén, tỉnh táo trong việc nắm bắt và xử lý thơng tin để có
thể phân tích, tổng hợp, đánh giá một cách kịp thời, chính xác các vấn đề
mà thực tiễn đặt ra; phải am hiểu tường tận địa bàn mình quản lý; phải gần
dân, lắng nghe ý kiến, tâm tư nguyện vọng của nhân dân; phải nắm được
tâm lý của những người sẽ thực hiện quyết định và những người có liên


21
quan đến kết quả thực hiện quyết định của mình đưa ra.
Hoạt động thực tiễn ở địa phương tương đối phong phú. Phù hợp với
nó, quyết định của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở cũng có nhiều loại khác
nhau. Có những quyết định mang tính chất chung cho địa phương như quyết
định phát triển kinh tế - xã hội, quyết định thực hiện chính sách, giữ vững an
ninh chính trị, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh. Bên cạnh những
quyết định chung cịn có những quyết định mang tính chất riêng từng lĩnh
vực, từng ngành cụ thể ở địa phương như công tác cán bộ, vốn, tài chính,
chăm sóc sức khỏe cho nhân dân… Do đó, để ra quyết định, người cán bộ
lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở phải xác định được nội dung cụ thể của việc ra
quyết định, đặc điểm, tình hình vấn đề ra quyết định từ đó đưa ra quyết định
đúng và trúng.
Một điểm quan trọng trong quá trình ra quyết định mà người cán bộ
lãnh đạo, quản lý phải lưu ý đó chính là đối tượng thực hiện quyết định. Đối
với cơ sở, đối tượng của quyết định hướng tới chính là các hoạt động thực tiễn
của quần chúng nhân dân. Chính vì vậy, quyết định của người lãnh đạo quản
lý không chỉ cần sự sát hợp với thực tiễn địa phương mà còn phải phù hợp với
nguyện vọng của quần chúng, đáp ứng được nguyện vọng của quần chúng

nhân dân, phù hợp với văn hóa, phong tục, tập quán của địa phương. Khi đó
quyết định mới có tính khả thi, mới mang lại hiệu quả cao.
Thứ hai, hoạt động tổ chức thực hiện quyết định
Sau khi ra quyết định, nhiệm vụ tiếp theo mà người cán bộ lãnh đạo,
quản lý cần thực hiện là tuyên truyền, phổ biến và tổ chức thực hiện quyết
định. Đây là một khâu quan trọng trong lãnh đạo, quản lý. Bởi, nếu không tiến
hành tuyên truyền, phổ biến, tổ chức thực hiện thì mọi quyết định chỉ là lý
luận sng, khơng có ý nghĩa và giá trị thực tiễn. Giá trị của các quyết định
chỉ có được khi nó được quần chúng nhân dân biết, hiểu, tin tưởng và sử dụng
lực lượng vật chất thực hiện. Vì vậy, muốn thực hiện các quyết định, trước hết


22
người lãnh đạo quản lý phải tổ chức tuyên truyền sâu rộng chủ trương, đường
lối phát triển kinh tế - xã hội của địa phương vào trong quần chúng nhân dân,
đồng thời tổ chức bộ máy cán bộ, sử dụng và bố trí cán bộ phù hợp để thực
hiện quyết định. Q trình bố trí và sử dụng cán bộ hiệu quả đòi hỏi người cán
bộ lãnh đạo, quản lý phải có trình độ lý luận và kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý
nhằm truyền đạt quyết định, biến quyết tâm của người ra quyết định thành
quyết tâm của người thực hiện quyết định - biến khả năng thành hiện thực
giữa lý luận và thực tiễn. Đồng thời, người lãnh đạo, quản lý phải dự đoán về
xu hướng vận động của những sự kiện, nghĩa là những tình huống có thể xảy
ra để chuẩn bị biện pháp ngăn chặn những thay đổi bất lợi của tiến trình. Điều
này có liên quan trực tiếp đến việc giao nhiệm vụ cho từnng cán bộ thực hiện
cụ thể, điều khiển trực tiếp tổ chức quá trình thực tiễn. Muốn vậy, người lãnh
đạo, quản lý phải năng động, sáng tạo, có bản lĩnh, có năng lực chuyên môn
và phải xuất hiện đúng lúc, đúng nơi cần thiết trong quá trình thực hiện quyết
định. Đây là vấn đề rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của
quá trình tổ chức thực tiễn. Sự xuất hiện của người lãnh đạo là điều rất quan
trọng và cần thiết để giải quyết kịp thời những khó khăn, trở ngại, động viên,

khuyến khích kịp thời những thành tích và sáng kiến của những người thực
hiện. Trong thực tế, các quyết định ở cơ sở được thực hiện nhanh chóng hay
khơng, chất lượng và hiệu quả đến đâu phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố này.
Không ai có thể thay thế được người lãnh đạo, quản lý trong khả năng nắm
bắt nhạy bén, sáng suốt, chu đáo trước sự cảm nhận trực tiếp của người lao
động. Ngoài việc người cán bộ lãnh đạo, quản lý cần có năng lực chuyên
môn, biết tổ chức thực hiện quyết định thì bản thân họ phải gương mẫu đi đầu
trong mọi cơng việc. Hồ Chí Minh từng cho rằng “…một tấm gương sống có
giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” [35, tr.263].
Nhưng, quá trình tổ chức thực hiện không chỉ phụ thuộc vào người lãnh
đạo, quản lý. Để đạt được mục tiêu đề ra của quyết định, đòi hỏi phải có bộ


23
máy và con người tổ chức thực hiện. Bộ máy cán bộ ở đây đóng vai trị là lực
lượng tổ chức trực tiếp, điều khiển trực tiếp các quá trình thực hiện quyết
định. Nói tới bộ máy là nói tới con người vì con người là chủ thể của bộ máy.
Ở đây là đảng viên và quần chúng nhân dân. Chính họ đóng vai trị chủ thể
trong q trình tổ chức thực tiễn. Nếu khơng có bộ máy và con người tổ chức
thực hiện thì sẽ khơng có q trình tổ chức thực tiễn, các quyết định sẽ không
được thực hiện trong thực tế. Muốn quyết định đạt được hiệu quả đòi hỏi bộ
máy thực hiện phải là những cán bộ năng động, sáng tạo, nắm bắt được bản
chất nội dung quyết định, có thể nhanh chóng đưa ra các giải pháp thay thế
khi quá trình triển khai thực hiện quyết định nảy sinh những tình huống khó
khăn. Q trình tổ chức thực hiện phải đảm bảo được sự đồng bộ, đoàn kết,
thống nhất cao độ giữa người cán bộ và nhân dân, những người trực tiếp thực
hiện quyết định. Bởi chỉ có sự thống nhất, đồn kết bộ máy tổ chức mới có thể
vận hành tốt, đạt được kết quả cao.
Bên cạnh đó,tính khả thi của quyết định, hiệu quả của tổ chức thực hiện
quyết định phụ thuộc cả vào việc người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở

biết sử dụng các lợi thế của địa phương vào triển khai thực hiện. Việc tận dụng,
khai thác thế mạnh của địa phương vào thực hiện quyết định không chỉ giúp rút
ngắn thời gian triển khai mà còn giúp tiết kiệm các nguồn lực vật chất.
Như vậy, đối với hoạt động tổ chức thực hiện quyết định muốn có kết
quả cao phải kết hợp hài hòa nhiều yếu tố, từ người lãnh đạo, quản lý đến
người trực tiếp thực hiện, từ cán bộ đến nhân dân, từ con người đến những lực
lượng vật chất cụ thể. Các yếu tố ấy phải thống nhất với nhau thì bộ máy tổ
chức thực hiện mới tốt. Trong đó, vai trị lãnh đạo, quản lý của người cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở vẫn là quan trọng nhất.
Thứ ba, vấn đề tổng kết, rút kinh nghiệm việc thực hiện quyết định.
Tổng kết thực tiễn là một khâu khơng thể thiếu trong q trình hoạt
động thực tiễn của người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Vì tổng kết thực tiễn là


24
q trình phân tích và khái qt những vấn đề thực tiễn để rút ra bài học cho
chỉ đạo tiếp theo cũng như bổ sung, phát triển lý luận nói chung, chủ trương
đường lối, chính sách nói riêng. Khơng có tổng kết thực tiễn thì khơng có lý
luận, khơng có lý luận thì khơng có phong trào cách mạng. Đối với người cán
bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở, tổng kết rút kinh nghiệm việc thực hiện quyết
định đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo,
quản lý. Thông qua tổng kết thực tiễn, giúp người cán bộ lãnh đạo, quản lý
đưa ra những quyết định phù hợp với thực tế ở địa phương mình. Thơng qua
tổng kết thực tiễn họ mới có điều kiện phân tích, so sánh tổng hợp để thấy
được những gì đã đạt được, những khó khăn, hạn chế, những vướng mắc mà
quá trình tổ chức thực hiện quyết định gặp phải. Tổng kết thực hiện quyết
định giúp phát hiện ra những vấn đề thực tiễn đặt ra chưa được giải quyết,
những quyết định chưa phù hợp, chưa hiệu quả cần phải sửa đổi, bổ sung. Mặt
khác, chính thơng qua quá trình tổng kết thực hiện quyết định mỗi cán bộ lãnh
đạo, quản lý có điều kiện để rèn luyện tư duy lý luận, tư duy biện chứng, khả

năng vận dụng lý luận vào thực tiễn, trên cơ sở đó nâng cao năng lực lãnh
đạo, quản lý.
Trong tổng kết thực hiện quyết định đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo quản
lý phải tuân thủ nguyên tắc khách quan. Điều đó có nghĩa là việc tổng kết
phải dựa trên những biểu hiện cụ thể của việc triển khai thực hiện quyết định,
dựa trên những kết quả đạt được mà đánh giá cho chính xác, khơng được tổng
kết một cách cảm tính, tơ hồng, hoặc bơi đen hiện thực khách quan. Nếu tổng kết
thiếu khách quan thì những kết luận được rút ra cũng như xây dựng chương trình
hành động cũng như cụ thể hóa đường lối, chính sách sẽ khơng chính xác vì sẽ bị
bệnh kinh nghiệm hay bệnh chủ quan, duy ý chí chi phối.
Yêu cầu tiếp theo của tổng kết thực hiện quyết định là những vấn đề lý
luận được khái quát từ tổng kết phải đạt trình độ cao. Q trình tổng kết tổ
chức thực hiện địi hỏi người cán bộ lãnh đạo, quản lý thực hiện một quy trình


25
nhiều bước: Lựa chọn, xác định vấn đề tổng kết, thu thập thơng tin liên quan
đến q trình tổng kết, tổ chức lực lượng cán bộ tham gia quá trình tổng kết
rút ra các bài học kinh nghiệm; vận dụng các bài học kinh nghiệm và tổ chức
thực hiện. Để tổng kết có tính khái qt địi hỏi người cán bộ lãnh đạo, quản
lý cấp cơ sở phải chọn vấn đề đúng và trúng, phải có năng lực tư duy lý luận
để phân tích, khái quát rút ra được những kết luận có có tính phổ biến, điển
hình và có giá trị thực tế cao, tức là có tác dụng định hướng, dẫn đường,chỉ
đạo hoạt động thực tiễn không chỉ trong giai đoạn trước mắt mà cả ở giai
đoạn tiếp theo.
Bên cạnh đó, người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở phải xác định
được mục đích đúng đắn của việc tổng kết. Tổng kết thực hiện quyết định để
đánh giá tính chính xác, phù hợp của nội dung quyết định đối với thực tiễn địa
phương, để xác định phương án triển khai quyết định có hiệu quả hay khơng.
Những kết luận rút ra từ q trình tổng kết nhằm phục vụ mục đích chung

phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh trật tự ở địa phương chứ khơng vì
quyền lợi, lợi ích của một cá nhân hay một nhóm người nào. Mục đích đúng
đắn thể hiện ở chỗ, những kết luận đó làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch,
phương án thực hiện của hoạt động phát triển kinh tế - xã hội tiếp theo. Với
mục đích đó địi hỏi người cán bộ lãnh đạo, quản lý tiến hành tổng kết một
cách công tâm, khoa học để có những kết luận thực sự chính xác, khách quan.
Khi đó q trình tổng kết mới mang lại hiệu quả cho phát triển ở địa phương.
Tổng kết, rút kinh nghiệm trong việc thực hiện quyết định lãnh đạo,
quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là vấn đề có vai trị hết sức quan trọng.
Bởi vì, có tổng kết rút kinh nghiệm mới có thể rút ra được những bài học bổ
ích trong q trình lãnh đạo, quản lý. Thực tế cho thấy, không phải mọi cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở nào cũng tổng kết rút kinh nghiệm thực tiễn một cách có
hiệu quả và có thể khái quát thành lý luận, mà chỉ có những cán bộ chủ chốt
có năng lực thật sự mới có thể rút ra được những tổng kết mang tính khái quát


×