Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện mê linh, thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 120 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN THỊ MINH NGHĨA

THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG HOẠT ĐỘNG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở HUYỆN MÊ LINH,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN THỊ MINH NGHĨA

THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG HOẠT ĐỘNG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở HUYỆN MÊ LINH,


THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY

Chuyên ngành : Triểt học
Mã số

: 60 22 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. VŨ CÔNG THƢƠNG

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn
là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Đề tài nghiên
cứu này chưa được công bố trong bất kỳ cơng trình
nào khác.

.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Minh Nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................ 1


Chƣơng 1: THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG
HOẠT ĐỘNG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN .......... 10

1.1. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn - một nguyên tắc căn bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin ............................................................................ 10
1.2. Biểu hiện của việc vận dụng sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở ......................................................................................... 21
1.3. Vai trò của việc vận dụng sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở ................................................................................................. 44
Chƣơng 2: THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG
HOẠT ĐỘNG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở HUYỆN MÊ LINH, THÀNH
PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ........... 53

2.1. Thực trạng việc vận dụng sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở ở huyện Mê Linh, Thành phố Hà Nội hiện nay ....................... 53
2.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả việc vận dụng
sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo,
quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Mê Linh,
Thành phố Hà Nội hiện nay .................................................................... 84
KẾT LUẬN .................................................................................................... 106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 108
PHỤ LỤC



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
87 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc ta
đã giành được nhiều thắng lợi vĩ đại mang tính chất bước ngoặt lịch sử. Tổng
kết 30 năm đổi mới của nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra những bài
học kinh nghiệm chủ yếu, trong đó bài học quan trọng là phải kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ
XII khẳng định: “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam” [22, tr.46].
Vì vậy, việc nghiên cứu, học tập để nắm vững, biết vận dụng sáng tạo và phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nhiệm vụ và trách
nhiệm hàng đầu của mỗi cán bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam trong
mọi giai đoạn cách mạng của dân tộc.
Trong hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc
căn bản nhất, xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống lý luận cũng như quá trình
lãnh đạo phong trào cách mạng của C.Mác, Ph.Ăngghen,V.I.Lênin và Hồ Chí
Minh. Đây cũng là một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Sức mạnh của lý luận chính
là mối liên hệ của nó với thực tiễn, cũng như sức mạnh của thực tiễn là ở mối
quan hệ của nó với lý luận. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là sự thống
nhất biện chứng, cơ sở của sự thống nhất ấy chính là vai trị của thực tiễn đối
với lý luận và ngược lại.
Nước ta hiện nay đang thực hiện cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước
trong xu thế tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh đó, chúng ta có



2
thêm nhiều cơ hội cho sự phát triển đất nước, nhưng cũng đứng trước nhiều
thách thức, khó khăn. Một loạt vấn đề mới nảy sinh trong quá trình phát triển
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội địi hỏi lý luận phải nghiên cứu, tổng kết và
giải đáp. Vai trò của lý luận ngày càng được tăng lên. Cùng với điều đó, mỗi
cán bộ, đảng viên phải khơng ngừng trau dồi, nâng cao trình độ của mình,
nắm vững những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước và các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên để vận dụng vào thực tiễn một
cách sáng tạo, có hiệu quả, có như vậy, chúng ta mới có thể thực hiện được
mục tiêu đã đề ra. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII khẳng định: “Đổi mới
phải tồn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan,
xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn
đặt ra” [22, tr.69].
Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy, bên cạnh đa số cán bộ, đảng viên
nói chung, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng đã vận dụng tốt nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, thì cũng cịn khơng ít cán bộ, đảng viên
nói chung, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng vi phạm nguyên tắc này, biểu
hiện cụ thể như tách rời giữa lý luận và thực tiễn, coi trọng lý luận xem nhẹ
thực tiễn hoặc ngược lại, xem nhẹ lý luận đề cao thực tiễn. Thực trạng đó làm
cho một bộ phận cán bộ chủ chốt cấp cơ sở mắc phải các căn bệnh như: bệnh
chủ quan duy ý chí, xa rời quần chúng, xa rời thực tiễn, bệnh kinh nghiệm,
bệnh giáo điều, bệnh hình thức, bệnh quan liêu... Một bộ phận cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở không quan tâm đến việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để
khái quát, bổ sung, hồn chỉnh, phát triển lý luận, khơng quan tâm tới việc
nâng cao trình độ lý luận, vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn, hoặc tổng
kết thực tiễn chưa có mục đích đúng đắn, chưa qn triệt tốt nguyên tắc khách



3
quan, quan điểm thực tiễn, cịn tơ hồng, bơi đen thực tiễn, vận dụng lý luận
cịn giáo điều, hình thức. Thực tế này đã và đang làm suy giảm vai trị của đội
ngũ cán bộ, đảng viên nói chung, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng
trong q trình xây dựng, phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất
nước. Đồng thời, làm giảm niềm tin của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên
nói chung, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng, cản trở việc thực hiện mục
tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng, của Nhà nước và của nhân dân ta.
Huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội được tách ra từ tỉnh Vĩnh Phúc và
được sáp nhập về Hà Nội vào tháng 8 năm 2008, là huyện phía Bắc của Thủ
đô Hà Nội, với điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội có những bước
phát triển mới. Trong những năm qua, việc vận dụng sự thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở ở huyện Mê Linh tương đối tốt. Nhờ đó, kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội của huyện phát triển ổn định, đời sống nhân dân được nâng cao cả
về vật chất lẫn tinh thần. Bên cạnh những kết quả đạt được đó vẫn cịn những
hạn chế nhất định như trình độ lý luận, năng lực tổ chức thực tiễn, khả năng
vận dụng, cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên vào thực tiễn của địa phương
vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới, hội nhập trong xu thế tồn cầu hóa
của huyện. Do đó, địi hỏi đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở của huyện Mê
Linh phải vận dụng tốt hơn nữa sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
hoạt động lãnh đạo, quản lý của mình.
Xét thấy tầm quan trọng của vấn đề và tính bức thiết của nó trong giai
đoạn hiện nay, tơi chọn vấn đề: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện
Mê Linh, thành phố Hà Nội hiện nay”, làm đề tài nghiên cứu và viết luận
văn tốt nghiệp của mình.



4
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây đã có nhiều bài viết, cơng trình khoa học do
nhiều tác giả thực hiện nghiên cứu về nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn ở nhiều khía cạnh khác nhau. Có thể kể ra một số cơng trình tiêu
biểu sau:
- Vi Thái Lang, “Về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực
tiễn”, Tạp chí triết học, số 1/1999.
Quan điểm mà tác giả đề cập đến trong bài viết này về mối quan hệ
biện chứng giữa lý luận và thực tiễn được vạch rõ trên cả bình diện bản thể
luận và nhận thức luận. Quan hệ này là một q trình mang tính lịch sử - xã
hội cụ thể, nên khi nắm được tính chất biện chứng của q trình này để nhận
thức và vận dụng sẽ thiết lập được một lập trường thực tiễn sáng suốt, tránh
được chủ nghĩa giáo điều máy móc cũng như chủ nghĩa thực dụng thiển cận
và bệnh lý luận sng.
- Nguyễn Đình Trãi, “Ngun tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
với việc nâng cao tư duy lý luận cho giảng viên Mác - Lênin ở các trường
Chính trị hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 1/1999.
Tác giả đã phân tích rõ sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với tư
cách là một nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và nêu ra vị trí, vai
trị của ngun tắc này đối với việc nâng cao tư duy lý luận cho giảng viên ở
các trường Chính trị tỉnh, thành phố như một u cầu tất yếu khách quan
trong q trình cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.
- Bài viết: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng triết
học Hồ Chí Minh” của PGS.TS Trần Văn Phịng trong sách “Tư tưởng triết
học Hồ Chí Minh”, Nxb Lao động, Hà Nội, 2002.
Tác giả tập trung nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là về tư
tưởng triết học trong hệ thống tư tưởng của Người. Một trong những nội dung



5
quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc, liên quan trực tiếp công tác giáo dục và đào
tạo cán bộ đó chính là việc vận dụng ngun tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn. Tác giả đã tìm hiểu và hệ thống lại những quan điểm của chủ tịch Hồ
Chí Minh, nhìn nhận, xem xét, đánh giá dưới góc độ triết học, xem sự thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn như một giải pháp cơ bản và chủ yếu nhằm khắc
phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Đây được coi là một trong những di
sản lý luận quý báu mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta.
- Trần Văn Phòng, “Quán triệt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
hoạt động lý luận của chúng ta hiện nay”, Tạp chí Nghệ thuật quân sự, số 2/1998.
- Trần Văn Phòng, “Quán triệt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
quá trình đổi mới của Đảng”, Tạp chí Khoa học chính trị, số 4/2005.
- Lê Đức Phúc, “Mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu
giáo dục”, Tạp chí giáo dục, số 28/2002.
Trong các bài viết trên, các tác giả đã phân tích tầm quan trọng của
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, việc vận dụng nguyên tắc này
trong nghiên cứu các lĩnh vực cụ thể như trong quá trình đổi mới, trong hoạt
động lý luận, trong nghiên cứu giáo dục...
- Nguyễn Thị Thuỷ, “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong việc
ra quyết định của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh Quảng Ninh hiện
nay”, luận văn thạc sỹ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội, 2010.
Luận văn đã nêu lên tầm quan trọng của nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn trong hoạt động cụ thể của công tác lãnh đạo, quản lý đó là
việc ra quyết định. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng việc quán triệt sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong việc ra quyết định của đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ở tỉnh Quảng Ninh, luận văn đã đưa ra một số
giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả việc quán triệt sự thống nhất này



6
trong việc ra quyết định của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ở tỉnh
Quảng Ninh hiện nay.
- Đặng Tuyết Em, “Vấn đề thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
phong cách làm việc của người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ở nước ta
hiện nay (qua thực tế tỉnh Kiên Giang)”, luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000.
Luận văn đã phân tích được tầm quan trọng của việc thực hiện sự thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn trong phong cách làm việc của người cán bộ
lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh. Luận văn cũng đã phân tích, đánh giá thực trạng
của việc thực hiện nguyên tắc này trong phong cách làm việc của người cán
bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ở tỉnh Kiên Giang. Từ đó luận văn đã đề xuất
một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn trong phong cách làm việc của người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp
tỉnh ở tỉnh Kiên Giang.
- Vũ Công Thương, “Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt
động lãnh đạo của cán bộ chủ chốt cấp xã ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ hiện
nay (qua thực tế tỉnh Bình Phước)”, luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2012.
Luận án đã làm rõ thực chất của sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn, biểu hiện và tầm quan trọng của việc thực hiện nguyên tắc này trong
hoạt động lãnh đạo của cán bộ chủ chốt cấp xã. Tác giả cũng đã phân tích
thực trạng việc thực hiện sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt
động lãnh đạo của cán bộ chủ chốt cấp xã ở các tỉnh miền Đơng Nam Bộ
(qua thực tế tỉnh Bình Phước). Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện sự thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo của cán bộ chủ chốt cấp xã ở các
tỉnh miền Đông Nam Bộ.



7
Các cơng trình nghiên cứu trên đã bàn đến nhiều khía cạnh khác nhau
của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn như nội dung, yêu cầu của
nguyên tắc; việc quán triệt nguyên tắc trong quá trình đổi mới; trong hoạt động
lý luận; trong nghiên cứu giáo dục; trong phong cách làm việc của người lãnh
đạo, quản lý; trong công tác ra quyết định của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý cấp tỉnh... Những kết quả nghiên cứu của các cơng trình trên đây là nguồn
tư liệu quý giá để tác giả luận văn tham khảo và kế thừa trong quá trình thực
hiện đề tài luận văn của mình. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào nghiên cứu
về vấn đề thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo, quản
lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội
hiện nay, chính vì vậy tác giả mong muốn làm sáng tỏ vấn đề này trong luận
văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích:
Trên cơ sở phân tích thực trạng việc vận dụng sự thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở ở huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội, luận văn đề xuất một số giải pháp
chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả việc vận dụng sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ này ở huyện
Mê Linh, thành phố Hà Nội.
- Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở.
- Phân tích thực trạng việc vận dụng sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở
huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội.



8
- Từ đó, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả việc
vận dụng sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo,
quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Mê Linh, thành phố
Hà Nội hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu việc vận dụng (vận dụng
được hiểu là mang những tri thức, lý luận dùng vào thực tiễn) sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở (cấp cơ sở
bao gồm: xã, phường, thị trấn) ở huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội giai đoạn
từ năm 2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận
Luận văn vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí
Minh; chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Đồng thời, luận văn có kế thừa các kết quả nghiên cứu, các cơng trình khoa
học của các tác giả có liên quan đến đề tài.
Luận văn sử dụng những chỉ thị, nghị quyết, quyết định cùng các tài liệu
khác được cung cấp bởi Huyện ủy, Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân các cấp
ở huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội từ 2010 đến nay.
- Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Kết hợp với các phương pháp cụ thể khác như:
lịch sử và lơgíc, phân tích và tổng hợp, khái qt hoá, trừu tượng hoá, so sánh,
khảo sát thực tế...


9

6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ biểu hiện, vai trò của việc vận dụng
sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo, quản lý
của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở.
- Đưa ra những giải pháp khả thi, phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả việc
vận dụng sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo,
quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Mê Linh, thành phố
Hà Nội.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần đưa ra những luận cứ khoa học nhằm nâng cao
hiệu quả việc vận dụng sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt
động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Mê
Linh, thành phố Hà Nội hiện nay, giúp các cấp Uỷ Đảng, chính quyền trong
cơng tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ
chốt cấp cơ sở ở địa phương.
- Dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy ở các trường
chính trị tỉnh, các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện...
8. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 2 chương, 5 tiết.


10
Chƣơng 1
THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG
HOẠT ĐỘNG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ
CHỐT CẤP CƠ SỞ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn - một nguyên tắc căn bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin
1.1.1. Phạm trù thực tiễn

Thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của triết học
Mác - Lênin nói chung và của lý luận nhận thức mác xít nói riêng. Trong lịch
sử triết học khơng phải mọi trào lưu triết học đều đưa ra quan niệm đúng đắn
về phạm trù thực tiễn.
Các nhà triết học duy tâm khách quan chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt
động sáng tạo ra thế giới của những lực lượng siêu nhiên, chứ khơng xem nó
là hoạt động vật chất mang tính lịch sử xã hội của loài người. Chủ nghĩa duy
tâm chủ quan, coi hoạt động nhận thức là hoạt động thực tiễn. Cantơ cho rằng,
thực tiễn là hoạt động đạo đức. Còn các nhà triết học thực dụng người Mỹ
xem thực tiễn là hoạt động tôn giáo. Họ cũng đề cập tới hoạt động của con
người, nhưng hoạt động thực tiễn theo họ là những phản ứng của con người
trước hoàn cảnh một cách hiệu quả nhất.
Các nhà duy vật trước Mác, mặc dù có cơng lớn trong việc chống lại
những quan điểm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm, nhưng bản thân họ lại không
nhận thức một cách đầy đủ, đúng đắn về thực tiễn, cũng như vai trò của nó đối
với nhận thức, lý luận. Mặc dù họ đã hiểu thực tiễn là một hoạt động vật chất
của con người, nhưng lại xem nó là một hoạt động trực quan đơn thuần, nó
khơng có vai trị, ý nghĩa gì đối với nhận thức của con người. Điều này được
thể hiện rõ trong cả quan điểm của nhà duy vật lỗi lạc của triết học cổ điển Đức
đó là Phoiơbắc.


11
Kế thừa và phát triển sáng tạo những yếu tố hợp lý, khắc phục những
yếu tố sai lầm, hạn chế trong quan niệm về thực tiễn của các nhà triết học trước
đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra quan điểm đúng đắn về thực tiễn cũng như
vai trị của nó đối với nhận thức, lý luận. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào
lý luận nhận thức, các ông đã tạo nên một cuộc cách mạng trong triết học nói
chung và trong lý luận nhận thức nói riêng.
Trong Luận cương thứ 8 về Phoiơbắc, C.Mác viết: “Đời sống xã hội, về

thực chất, là có tính chất thực tiễn. Tất cả những sự thần bí đang đưa lý luận
đến chủ nghĩa thần bí, đều được giải đáp một cách hợp lý trong thực tiễn của
con người và trong sự hiểu biết thực tiễn ấy” [35, tr.12]. Trong tác phẩm
“Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”, Ph.Ăngghen
cho rằng: “Sự bác bỏ một cách hết sức đanh thép những sự vặn vẹo triết học
ấy, cũng như tất cả những triết học khác, là thực tiễn, chính là thực nghiệm và
công nghiệp” [38, tr.406].
Kế thừa quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, trong tác phẩm “Chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” V.I.Lênin cho rằng:
“Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản
của lý luận về nhận thức” [31, tr.167].
Theo Từ điển Triết học của nhà xuất bản Tiến bộ Mátxcơva, xuất bản
năm 1986:
Thực tiễn - đó là hoạt động của con người nhằm đảm bảo cho
xã hội tồn tại và phát triển, và trước hết nó là quá trình khách quan
của sản xuất vật chất - quá trình này là cơ sở của đời sống con
người, đồng thời nó cũng là hoạt động cải tạo - cách mạng của các
giai cấp và tất cả các hình thức hoạt động thực tiễn xã hội khác
nhằm biến đổi thế giới. Thí nghiệm khoa học cũng là một trong
những hình thức của thực tiễn [58, tr.343].
Trong giáo trình triết học Mác - Lênin của Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, xuất bản năm 2004 định nghĩa: “Thực


12
tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất cảm tính có mục đích, mang tính lịch sử
- xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội” [25, tr.124].
Như vậy có thể thấy, các quan điểm trên đều thống nhất ở chỗ: Thực tiễn
chính là hoạt động vật chất của con người nhằm cải tạo thế giới, thoả mãn nhu
cầu tồn tại và phát triển của xã hội. Thực tiễn chính là hoạt động vật chất, ở đó

con người sử dụng cơng cụ vật chất tác động vào đối tượng vật chất để làm
biến đổi chúng theo những nhu cầu, mục đích của con người. Thực tiễn chính
là phương thức cơ bản để con người liên hệ với thế giới xung quanh, từ đó hiểu
về thế giới cũng như chính bản thân con người.
Thống nhất với cách hiểu trên, chúng tôi đồng ý với quan niệm: “Thực
tiễn là tồn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã
hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội” [2, tr.292]. Như vậy, hoạt
động thực tiễn rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú, song có
ba hình thức cơ bản là: Hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị xã hội
và hoạt động thực nghiệm khoa học. Giữa các hoạt động này có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, hoạt động sản xuất vật
chất là hoạt động cơ bản nhất, đóng vai trị quyết định đối với những hoạt động
khác. Tuy nhiên, hai hình thức kia có ảnh hưởng quan trọng tới hoạt động sản
xuất vật chất. Sự tác động lẫn nhau đó giữa các hình thức cơ bản của hoạt động
thực tiễn làm cho nó khơng ngừng vận động, phát triển, và ngày càng có vai trò
quan trọng đối với nhận thức, lý luận.
1.1.2. Phạm trù lý luận
Cho đến nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về lý luận, song về bản chất
giữa các định nghĩa đó đều có điểm chung nhất định, có thể nêu ra các định
nghĩa sau:
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ, lý luận là: “Biểu hiện khái quát của
những quan hệ thực tại của một cuộc đấu tranh giai cấp hiện có, của một sự
vận động lịch sử đang diễn ra trước mắt chúng ta” [36, tr.615]. Đó chỉ là một


13
trong nhiều cách diễn giải của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác khi nói về lý
luận. Ở đây, các ông muốn khẳng định, lý luận là sự phản ánh có tính khái
qt sự vật, hiện tượng trong sự vận động và phát triển của chúng.
Lênin bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác và ông nêu lên nhiều luận điểm

quan trọng. Trong tác phẩm “Bút ký triết học”, V.I.Lênin đã đưa ra khái niệm về
lý luận: “Nhận thức lý luận phải trình bày khách thể trong tính tất yếu của nó,
trong những quan hệ tồn diện của nó, trong sự vận động mâu thuẫn của nó, tự
nó và vì nó” [32, tr.227]. Vấn đề mà V.I.Lênin quan tâm tới ở đây chính là nhận
thức ở trình độ lý luận. Nhận thức ở trình độ lý luận, theo ơng, phải nắm bắt
khách thể trong sự tồn tại, vận động và phát triển của nó, trong sự tác động qua
lại giữa các sự vật, hiện tượng cấu thành chỉnh thể, phải thấy sự vận động nội tại
của bản thân sự vật, hiện tượng. Khách thể như vậy thì nhận thức cũng phải
tương xứng phù hợp, nghĩa là luôn phải xem xét, đánh giá khách thể một cách
bao quát, toàn diện và cụ thể. Phương pháp nhận thức cũng phải luôn dựa trên
đối tượng cụ thể để có sự vận dụng các nguyên lý chung một cách thích hợp.
Yêu cầu cơ bản là nhận thức lý luận phải phản ánh được khách thể trong sự vận
động biến đổi bên trong tất yếu, trong mối quan hệ tồn diện của nó.
Trong Từ điển Triết học của nhà xuất bản Tiến bộ Mátxcơva, xuất
bản năm 1986 định nghĩa: “Lý luận là kinh nghiệm đã được khái quát trong
ý thức của con người, là toàn bộ những tri thức về thế giới khách quan, là
hệ thống tương đối độc lập của các tri thức có tác dụng tái hiện trong lơgích
của các khái niệm cái lơgích khách quan của các sự vật” [58, tr.342-343].
Với cách định nghĩa này thì khái niệm lý luận được thể hiện một cách toàn
diện, nêu rõ được đặc trưng của lý luận là “tính tương đối độc lập”. Tính chất
tương đối độc lập của lý luận thể hiện khả năng sản sinh ra tri thức mới dựa
trên những nguồn gián tiếp, mà không cần dựa trực tiếp vào đối tượng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm: “Lý luận là đem thực tế trong kinh
nghiệm, trong lịch sử, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng,
rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý


14
luận chân chính” [40, tr.233]. Người cịn cho rằng: “Lý luận là sự tổng kết
những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã

hội tích trữ lại trong lịch sử” [41, tr.497].
Như vậy, có thể thấy, lý luận là hệ thống những tri thức khoa học được
khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, tất
nhiên, mang tính quy luật của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan
và được biểu đạt bằng hệ thống các nguyên lý, quy luật, phạm trù. Lý luận là
sản phẩm của q trình tư duy của con người, nó được nảy sinh từ hoạt động
thực tiễn, lý luận chính là sự tổng kết những tri thức về tự nhiên, xã hội và con
người. Đặc trưng của lý luận là tính hệ thống, tính khái qt hố, tính trừu
tượng hố cao; cơ sở của lý luận là những kinh nghiệm thực tiễn, nó có thể
phản ánh được bản chất của các sự vật, hiện tượng.
Lý luận chính là một cấp độ cao của quá trình nhận thức của con người,
xét ở góc độ này, dựa trên trình độ thâm nhập vào bản chất của đối tượng
nhận thức, ta có thể phân chia thành tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận.
Đây là những tri thức khác nhau về đối tượng, chức năng, tính chất, cũng như
trình độ và hình thức phản ánh cũng khác nhau.
Tri thức kinh nghiệm, là những tri thức được chủ thể thu nhận từ sự
quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội hay trong các
thí nghiệm khoa học. Loại tri thức này có hai loại: Tri thức kinh nghiệm thông
thường và tri thức kinh nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm có vai trị
khơng thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của con người. Tri thức kinh
nghiệm là cơ sở để tổng kết, khái quát thành lý luận và cũng là căn cứ để
chúng ta không ngừng xem xét lại, bổ sung, sửa đổi, phát triển hệ thống lý
luận cũ. Tri thức kinh nghiệm cụ thể và sinh động giúp chúng ta kịp thời điều
chỉnh phương hướng, cách thức hoạt động của mình, giúp con người có
những quyết định nhanh chóng và đáng tin cậy trong phạm vi và hồn cảnh cụ
thể nhất định. Khi mà trình độ tư duy của con người còn thấp, mức độ khái


15
quát chưa cao, chưa có hệ thống nguyên lý, lý luận thì tri thức kinh nghiệm

đóng vai trị chủ yếu hướng dẫn hoạt động của con người. Tuy nhiên, tri thức
kinh nghiệm mới chỉ là sự khái quát ban đầu và trong phạm vi hẹp, thường
mới là sự phản ánh sự vật trong những hoàn cảnh cụ thể. Trong nhiều trường
hợp, tri thức kinh nghiệm chỉ phản ánh được mối liên hệ bên ngoài, ngẫu
nhiên của các sự vật một cách rời rạc. Do vậy, tri thức kinh nghiệm chưa đi
sâu nắm bắt được cái tất yếu, mối quan hệ bản chất và quy luật của các sự vật
hiện tượng, chưa tạo thành một hệ thống tri thức chặt chẽ.
Tri thức lý luận, là tri thức khái quát từ tri thức kinh nghiệm, nó tồn tại
trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật của lý luận nói
chung. Khác với tri thức kinh nghiệm, tri thức lý luận mang tính trừu tượng,
khái quát và tính phổ biến, nên nó đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, về
tính quy luật của các sự vật, hiện tượng khách quan, tri thức lý luận thể hiện
tính chân lý sâu sắc hơn, chính xác hơn, hệ thống hơn. Tư duy xa sự vật,
nhưng lại gần sự vật hơn. Phạm vi ứng dụng cũng như tính hướng dẫn, chỉ
đạo của tri thức lý luận phổ biến, rộng hơn nhiều so với tri thức kinh nghiệm,
làm cho hoạt động của con người trở nên chủ động hơn, tự giác hơn, tránh
được tình trạng mị mẫm, tự phát.
1.1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn
- Vai trò của thực tiễn đối với lý luận.
Thứ nhất , thực tiễn là nguồn gốc, là cơ sở của lý luận . Có thể khẳng
định, những tri thức đươ ̣c con người khái quát thành lý luận là kết quả của
quá trình hoạt động thực tiễn của con người . Thơng qua hoạt động thực tiễn,
con người tác động vào thế giới khách quan, làm cho thế giới khách quan bộc
lộ những thuộc tính, những tính chất ẩn giấu bên trong chúng để con người
nhận thức chúng. Ban đầu con người thu nhận những tài liệu cảm tính, sau đó
con người tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng
hóa để phản ánh bản chất, quy luật vận động, phát triển của các sự vật, hiện


16

tượng trong thế giới, từ đó xây dựng thành các khoa học, lý luận. Logic của
thực tiễn đã quy định logic của nhận thức. Hoạt động thực tiễn đã cung cấp
cho nhận thức của con người những hiểu biết, góp phần hình thành lý luận về
thế giới. Quá trình hoạt động thực t iễn là cơ sở để bổ sung , điề u chin̉ h và phát
triển các lý luận đã được khái quát . Mă ̣t khác , chính hoạt đô ̣ng thực tiễn của
con người làm nảy sinh những vấ n đề mới đòi hỏi quá trình nhâ ̣n thức
tiế p tu ̣c nghiên cứu , giải quyết , trên cơ sở đó lý luận được bổ

phải

sung mở

rô ̣ng. Chính vì vậy ,V.I.Lênin khẳng định: “Nhâ ̣n thức lý lu ận phải trình
bày khách thể trong tính tất yếu của nó

, trong những quan hê ̣ toàn diê ̣n

của nó , trong sự vâ ̣n đô ̣ng mâu thuẫn của nó tự nó và vì nó”

[32, tr.227].

Thứ hai, thực tiễn là động lực của lý luận . Nhu cầu thực tiễn ngay từ
đầu đã quy định hoạt động thực tiễn của con người. Thực tiễn đề ra nhu cầu,
nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức. Nhu cầu thực tiễn địi
hỏi phải có tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, khái quát hóa
thành lý luận để giải đáp những vấn đề thực tiễn đề ra. Chính vì vậy, thực tiễn
đã thúc đẩy sự hình thành nhiều ngành khoa học mới. Khoa học ra đời chính
là vì chúng cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn, con người biến đổi thế giới khách
quan, đồng thời cũng biến đổi ln cả chính bản thân con người, từ đó con

người phát triển năng lực trí tuệ, năng lực khám phá, năng lực sáng tạo của
mình. Nhờ đó, con người ngày càng hiểu biết sâu sắc hơn, làm phong phú
hơn, đa dạng hơn những tri thức của mình về tự nhiên, xã hội và bản thân con
người. Quá trình hoạt động thực tiễn cịn có tác dụng rèn luyện, phát triển các
giác quan của con người, làm cho chúng tinh tế hơn, hồn thiện hơn, từ đó
giúp nhận thức của con người đạt hiệu quả cao hơn. Ph.Ăngghen khẳng định:
“Chính việc người ta biến đổi giới tự nhiên, chứ khơng phải chỉ một mình giới
tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất
của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc


17
người ta đã học cải biến tự nhiên” [37, tr.720]. Hoạt động thực tiễn thúc đẩy
con người tìm tịi, khám phá, nghiên cứu, cải tiến, sáng tạo ra các công cụ,
máy móc, phương tiện để nâng cao năng suất lao động, nối dài khí quan của
con người trong nhận thức, thúc đẩy nhận thức, tư duy phát triển hơn nữa.
Thứ ba, thực tiễn là mục đích của lý luận . Nhận thức khơng vì mục
đích tự thân, cũng khơng phải để thoả mãn trí tị mị, tiêu khiển, mà nhận thức
của con người là nhằm phục vụ, hướng dẫn, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực
tiễn. Nhận thức mà không nhằm mục đích vì thực tiễn, phục vụ thực tiễn sẽ
rơi vào mất phương hướng, bế tắc. Mọi tri thức khoa học, mọi lý luận chỉ có ý
nghĩa khi chúng được vận dụng vào thực tiễn. Mặc dù lý luận cung cấp những
tri thức khái quát về thế giới, làm thoả mãn nhu cầu hiểu biết, khám phá thế
giới của con người, nhưng bản thân lý luận không thể tạo nên những sản
phẩm đáp ứng nhu cầu của con người. Nhu cầu đó chỉ được thực hiện trong
hoạt động thực tiễn. Mọi tri thức khoa học, mọi lý luận phải được áp dụng vào
q trình sản xuất, đấu tranh chính trị - xã hội, thực nghiệm khoa học, nhằm
biến đổi tự nhiên, xã hội theo quy luật, phục vụ cho mục đích của con người.
Đó thực chất là mục đích của lý luận, tức lý luận phải đáp ứng nhu cầu hoạt
động thực tiễn của con người.

Thứ tư, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, là căn cứ để chứng minh
tính đúng đắn của lý luận. Tri thức là kết quả của q trình nhận thức, tri thức
có thể phản ánh đúng, hoặc sai lệch hiện thực khách quan. Tính chân lý của lý
luận - sự phát triển cao của nhận thức con người chính là sự phù hợp của lý
luận với hiện thực khách quan. Triết học Mác - Lênin chỉ ra rằng, thực tiễn là
tiêu chuẩn khách quan để kiểm tra chân lý, là căn cứ để chứng minh tính đúng
đắn của lý luận. C.Mác viết:
Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân
lý khách quan hay khơng, hồn tồn khơng phải là một vấn đề lý
luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con


18
người phải chứng minh chân lý, nghĩa là chứng minh tính hiện thực
và sức mạnh, tính trần tục của tư duy của mình [35, tr.9-10].
V.I.Lênin cũng đã từng khẳng định: “Con người chứng minh bằng thực
tiễn của mình, sự đúng đắn khách quan của những ý niệm, khái niệm, tri thức
của mình, khoa học của mình” [32, tr.203]. Chỉ có thực tiễn mới có thể “vật
hố” được tri thức, hiện thực hố được tư tưởng, từ đó mới có thể khẳng định
hay phủ định một lý luận, một giả thuyết khoa học nào đó. Căn cứ vào thực
tiễn, người ta chứng minh, kiểm nghiệm tính chân lý của lý luận. Qua kiểm
nghiệm từ thực tiễn, những lý luận đạt đến chân lý sẽ được bổ sung vào kho
tàng tri thức nhân loại, những kết luận chưa phù hợp với thực tiễn sẽ được
tiếp tục bổ sung, điều chỉnh hoặc nhận thức lại cho phù hợp.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, tuy nhiên cần phải hiểu tiêu chuẩn thực
tiễn ấy vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối. Tiêu chuẩn thực tiễn có tính
tuyệt đối vì thực tiễn, xét đến cùng là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để có thể
kiểm nghiệm chân lý, bác bỏ sai lầm. Cịn tiêu chuẩn thực tiễn có tính tương đối vì
thực tiễn khơng đứng n một chỗ, nó ln ln vận động, biến đổi và phát triển.
Về vấn đề này, V.I.Lênin chỉ ra rằng: “Theo bản chất của nó, tư duy của con

người có thể cung cấp và đang cung cấp cho chúng ta chân lý tuyệt đối mà chân lý
này chỉ là tổng số những chân lý tương đối. Mỗi giai đoạn phát triển của khoa học
lại đem thêm những hạt nhân mới vào cái tổng số ấy của chân lý tuyệt đối” [31,
tr.158]. Xem xét thực tiễn trong thời gian càng dài, trong không gian càng rộng,
trong chỉnh thể càng tồn vẹn thì càng thấy rõ đâu là chân lý, đâu là sai lầm. Chính
vì vậy, những tri thức đã đạt được trước đây, đã được thực tiễn giai đoạn đó kiểm
nghiệm vẫn phải thường xuyên được kiểm nghiệm bởi thực tiễn mới để bổ sung,
hoàn thiện, phát triển cho phù hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể mới.
- Vai trò của lý luận đối với thực tiễn.
Thực tiễn có vai trị quan trọng, quyết định đối với nhận thức nói chung
và lý luận nói riêng. Song, lý luận cũng có vai trị quan trọng tác động trở lại
thực tiễn.


19
Lý luận khái quát kinh nghiệm, chỉ ra quy luật vận động của thực tiễn. Lý
luận bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định, phụ thuộc vào thực tiễn,
nhưng lý luận lại có tính độc lập tương đối so với thực tiễn. Sinh ra lý luận
trước hết là để khái quát kinh nghiệm thực tiễn, chỉ ra tính bản chất, tính quy
luật trong sự vận động, phát triển của thực tiễn. Thực tiễn phong phú, đa
dạng, muôn màu, muôn vẻ. Đằng sau cái hiện tượng, lý luận cho ta thấy bản
chất, đằng sau cái ngẫu nhiên cho ta thấy cái tất nhiên, đằng sau cái “thường
xuyên biến đổi” cho ta thấy cái “tương đối ổn định”.
Hàng ngàn năm nay, con ong, con nhện vẫn mãi mãi làm công việc lặp
đi, lặp lại vơ cùng khéo léo... Chỉ có con người - động vật duy nhất có trí tuệ
mới có khả năng sáng tạo, phát triển và làm phong phú hoạt động của mình.
Chỉ có con người mới in dấu ấn của mình vào tự nhiên, cải tạo tự nhiên và sự
cải tạo đó ngày càng tinh vi, hiện đại và nhân lên mãi mãi. Vào thế kỉ XVI,
nhà triết học duy vật người Anh - Ph.Bêcơn đã nhận thấy tri thức là sức mạnh
làm tăng thêm quyền lực của con người với tự nhiên. Với bản chất hoạt động

có mục đích và sáng tạo, con người bằng lý luận khoa học, ngày càng cải tạo tự
nhiên có hiệu quả hơn, có quyền năng hơn nhờ nắm bắt được bản chất, quy luật
vận động, phát triển của thế giới khách quan.
Lý luận dự báo, định hướng cho hoạt động thực tiễn. Lý luận khoa học
giúp con người nắm bắt quy luật vận động của thực tiễn. Nắm quy luật thực
chất là nắm các mối quan hệ tất yếu, bản chất, quyết định chiều hướng vận
động, phát triển của thực tiễn. Do vậy, lý luận có khả năng dự báo, dự đoán
được sự vận động, phát triển của thực tiễn.
Từ dự báo, dự đoán chiều hướng vận động, phát triển của thực tiễn, lý
luận khoa học có khả năng dự báo, dự đốn những rủi ro, khó khăn, thách
thức, tình huống có thể xảy ra trên con đường vận động, phát triển của thực
tiễn. Lý luận khoa học soi đường, dẫn dắt cho sự vận động, phát triển của
thực tiễn, giúp con người tự giác, giảm thiểu sự mò mẫm, tự phát trong hoạt
động thực tiễn, “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho


20
chúng ta trong cơng việc thực tế. Khơng có lý luận thì lúng túng như nhắm
mắt mà đi” [40, tr.233-234]. Tất cả những dự báo, dự đoán trên giúp con
người chủ động trong định hướng mục tiêu phát triển, xây dựng bản lĩnh vững
vàng, kiên định, không bi quan, dao động trên con đường đi tới tương lai mà
lý luận khoa học đã chỉ ra.
Lý luận giáo dục, tập hợp, liên kết lực lượng, chỉ đạo và cải tạo thực tiễn. Lý
luận khơng chỉ tập trung vào việc giải thích thế giới, điều quan trọng hơn là
cải tạo thế giới, phục vụ cho cuộc sống của con người. Lý luận khơng chỉ mở
rộng khả năng nhìn thấy trước, dự báo, dự đốn tương lai, mà lý luận khoa
học cịn bao hàm cả ý nghĩa tự giác hình thành tương lai đó.
Lý luận có vai trị giáo dục, tun truyền, giác ngộ mục tiêu, lý tưởng,
xác định phương pháp, biện pháp thực hiện, tập hợp, liên kết lực lượng tạo
thành sức mạnh to lớn trong quá trình cải tạo tự nhiên, xã hội vì sự phát triển

của các cá nhân và của xã hội. Chính vì vậy, C.Mác đã cho rằng: “Vũ khí của
sự phê phán cố nhiên khơng thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực
lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận
cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”
[34, tr.580].
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, do tính trừu tượng, khái quát cao, tính
gián tiếp trong sự phản ánh thực tiễn, nên lý luận sẽ có khả năng xa rời thực
tiễn và trở thành ảo tưởng. Mặt khác, thực tiễn luôn luôn vận động, biến đổi,
phát triển không ngừng, nếu lý luận không bắt kịp nhịp điệu vận động, phát
triển của cuộc sống, lý luận cũng dễ lạc hậu hơn so với thực tiễn. Phải coi
trọng lý luận, bên cạnh đó khơng được cường điệu, tuyệt đối hố vai trò của
lý luận, coi thường thực tiễn và tách rời giữa lý luận và thực tiễn.
- Sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn.
Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng, gắn bó với nhau và
tác động qua lại lẫn nhau. Trong mối quan hệ ấy, thực tiễn giữ vai trò là cơ sở,
nguồn gốc, động lực, mục đích của lý luận, là tiêu chuẩn của chân lý, là căn cứ


21
để chứng minh tính đúng đắn của lý luận. Lý luận xuất phát từ thực tiễn, nhưng
có vai trị như “kim chỉ nam”, khái quát kinh nghiệm, chỉ ra quy luật vận động,
dự báo, định hướng cho hoạt động thực tiễn, lý luận giáo dục, liên kết, tập hợp
lực lượng, chỉ đạo và cải tạo thực tiễn.
Những vấn đề của lý luận xét về thực chất là những vấn đề do thực tiễn
quy định. Giải quyết những vấn đề của lý luận cũng chính là giải quyết những
vấn đề của thực tiễn. Do đó, khi thực tiễn biến đổi thì lý luận cũng phải biến
đổi cho phù hợp. Muốn hiểu và kiểm tra tính chính xác, đúng đắn của lý luận
cần phải căn cứ vào thực tiễn, nhưng để hiểu thực tiễn cũng cần phải có lý
luận. V.I.Lênin nhấn mạnh: “Phải có sự kết hợp giữa nhận thức và thực tiễn”
[32, tr.233]. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Thống nhất giữa lý luận và

thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn
không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không
liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” [41, tr.496].
1.2. Biểu hiện của việc vận dụng sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản
Lãnh đạo, theo Từ điển tiếng Việt (2000), nhà xuất bản Đà Nẵng, đó
là: “Đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức, động viên thực hiện” [59, tr.544].
Lãnh đạo là một hoạt động thuyết phục mọi người cùng hợp tác để thực
hiện một mục tiêu chung. “Sự lãnh đạo được xác định như là một nghệ
thuật hay một quá trình tác động đến con người sao cho họ tự nguyện và
nhiệt tình phấn đấu để đạt được các mục tiêu của tổ chức đề ra. Lãnh đạo
là chỉ dẫn, điều khiển, ra lệnh và nêu gương. Thực chất của lãnh đạo là tạo
ra sự tuân thủ” [24, tr.11]. Như vậy, hoạt động lãnh đạo là quá trình tạo
ảnh hưởng, tác động tới con người và tổ chức, đưa ra những chủ trương,
phương hướng phát triển tổ chức, nhằm thực hiện mục tiêu chính trị, kinh


×