Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Vấn đề giáo dục đạo đức cho học viên các trường trung cấp nghề trong quân đội ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.39 KB, 97 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia đã trải qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng
nước và giữ nước, vùng lên bẻ gãy gông xiềng nô lệ, liên tiếp đánh thắng “hai
đế quốc to” trong một cuộc chiến tranh không cân sức, giành lại trọn vẹn non
sơng đất nước, tiến lên giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người. Vốn là một nước đất không rộng, người không đông, kinh tế chưa phát
triển, xong hiện nay trong điều kiện toàn cầu hóa, đã và đang tạo ra cơ hội vơ
cùng to lớn đối với Việt Nam và các quốc gia trên toàn thế giới, đặc biệt là
những nước đang phát triển. Bên cạnh những “tinh hoa nhân loại” đã góp
phần vào quá trình thay đổi diện mạo của từng dân tộc thì vấn đề kế thừa
những giá trị đạo đức truyền thống và phát huy giá trị đạo đức mới đang ngày
càng trở nên quan trọng và cấp thiết với không chỉ riêng một quốc gia nào.
Với bề dầy truyền thống lịch sử dân tộc đã và đang được những người con đất
Việt cùng nhau xây dựng và vun đắp, đó chính là những nền tảng vơ cùng q
báu cho thế hệ trẻ bước vào hội nhập quốc tế.
Quân đội nhân dân Việt Nam là “Quân đội từ nhân dân mà ra, vì nhân
dân mà chiến đấu” ra đời từ trong khói lửa chiến tranh cho đến nay, đã trải
qua biết bao chặng đường khó khăn, gian khổ và ác liệt, nhưng như Bác Hồ
nói trong dịp kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam
(29-12-1964): “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu
hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng
hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Lời
dạy của Bác Hồ là nguồn động viên cổ vũ quân và dân ta đạp bằng mọi khó
khăn trở ngại, vượt qua mọi gian khổ hy sinh, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm
vụ, đánh thắng mọi kẻ thù, dù đó là tên đế quốc đầu sỏ, mạnh nhất, hung bạo


2


nhất, trong lị lửa của hai cuộc kháng chiến tồn dân, các lực lượng vũ trang
nhân dân đã được tôi luyện và trưởng thành để làm nên “Đại thắng mùa Xn
năm 1975”. Khi hịa bình lập lại, chiến sĩ qn đội ta lại ngày đêm canh giữ
bầu trời, vùng biển, biên giới, hải đảo, bảo vệ cuộc sống lao động của nhân
dân; là những “anh bộ đội mang trái tim Cụ Hồ” đến giúp đồng bào bị thiên
tai, bão lụt, đến với các dân tộc vùng cao, vùng sâu, vùng xa, cùng với đồng
bào xóa đói, giảm nghèo, đẩy lùi tối tăm, bệnh tật, thắp sáng bao niềm tin.
Với bề dày lịch sử và truyền thống vẻ vang của quân đội, phát huy
truyền thống anh hùng trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ đánh giặc ngoại
xâm thắng lợi. Ngày nay trong thời kỳ đổi mới của đất nước, được sự quan
tâm của Đảng, Nhà nước để xây dựng quân đội ta tiến lên chính quy, hiện đại
về mọi mặt, nhằm đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ
an ninh chính trị quốc gia và biên giới hải đảo, cùng cả nước chung tay thoát
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, theo tinh thần Đại hội lần VI năm 1986 của
Đảng chủ trương đổi mới đất nước, xây dựng nền KTTT định hướng XHCN.
Sau thời gian chiến tranh kéo dài, QĐ đã và đang cùng với toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân ra sức thi đua thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới của
Đảng. Để góp phần đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước, thực hiện Nghị quyết
Hội nghị lần thứ VI của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về “Tiếp tục
xây đựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước” QĐ hiện nay bên cạnh nhiệm vụ chiến đấu, bảo vệ
vùng trời, vùng biển, biên cương, hải đảo của Tổ quốc còn tham gia vào
nhiệm vụ mới: đào tạo và dịch vụ nhằm phát triển QĐ ngày càng chính quy
và tinh nhuệ góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước ngày một vững chắc và
toàn diện.
Sau 27 năm đổi mới, với những thay đổi của q trình tồn cầu hóa đã
ảnh hưởng tới tất cả các ngành, các lĩnh vực ở nước ta trong đó có cả Quân
đội. Bên cạnh những mặt tích cực mà đất nước đã đạt được như: sự tăng



3
trưởng vượt bậc về kinh tế, chính trị cơ bản ổn định, vị thế ngày càng cao trên
trường quốc tế, thì hệ lụy những mặt trái của quá trình đổi mới đã để lại hậu
quả nghiêm trọng trong văn hóa, lối sống, nhân cách, đạo đức, xâm phạm
nghiêm trọng những chuẩn mực tốt đẹp được vun đắp hàng ngàn năm lịch sử
của dân tộc. Thực tế cho thấy, đã có một bộ phận thanh, thiếu niên dần quyên
đi hay cố tình lãng quên những hy sinh, mất mát của thế hệ cha ơng dày cơng
gìn giữ, vun đắp, xây dựng.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc Hội sinh viên Việt Nam lần thứ VIII
đánh giá “Bên cạnh những ưu điểm và thành tựu mà học sinh, sinh viên đã đạt
được thì đang cịn có một bộ phận sinh viên chưa xác định được mục tiêu,
động cơ học tập đúng đắn, thiếu kiên trì, quyết tâm, chưa chăm chỉ học tập,
chưa thể hiện rõ ước mơ, hoài bão, thụ động, thiếu ý chí vươn lên, ứng xử
kém, tinh thần trách nhiệm xã hội cịn hạn chế, có biểu hiện chưa tốt về lối
sống, mắc tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật, một bộ phận sinh viên còn dễ bị
lợi dụng, lơi kéo vào những hoạt động với mục đích xấu”. Vì thế, hiện nay
việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ đặc biệt là học sinh, sinh viên ngày càng
trở nên cấp thiêt hơn bao giờ hết, đặc biệt là đối tượng học nghề vì đây là đối
tượng đặc thù với trình độ, khả năng nhận biết xã hội còn nhiều hạn chế
nhưng đây lại là đội ngũ lao động cần thiết hơn bao giờ hết cho công cuộc
CNH - HĐH đất nước.
Hà Nội - là thủ đô văn hiến, là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa
của cả nước, là mảnh đất địa linh nhân kiệt, là nơi hội tụ tinh hoa nước nhà.
Với tất cả những giá trị tốt đẹp nhất của dân tộc: cần cù, hiếu học, anh dũng,
kiên cường, đoàn kết, sáng tạo, đức hy sinh, lẽ sống vì mọi người… những
truyền thống này đang ngày ngày được kế thừa và vun đắp. Nhằm phát huy
hơn nữa những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong điều
kiện hiện nay của đất nước, Văn kiện Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm
kỳ khóa VII của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ: “Trong điều kiện kinh tế thị



4
trường và mở rộng giao lưu quốc tế phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng
cao bản sắc văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập
quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc. Tiếp thu tinh hoa các dân tộc trên thế
giới, làm giàu đẹp thêm văn hóa Việt Nam”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Người có đức mà khơng có tài làm việc
gì cũng khó, Người có tài mà khơng có đức là người vơ dụng”. Thực tế hiện
nay, sự xuống cấp về đạo đức, lối sống đang diễn ra ở nhiều nơi, nguy cơ “tha
hóa” theo chiều hướng xấu đang trở thành vấn nạn, sự xuống cấp đó đã và
đang biểu hiện trong môi trường giáo dục mà đặc biệt là môi trường giáo dục
của QĐ nơi mà kỷ luật luôn được đặt lên trên hết. Dù rằng nền giáo dục nước
nhà nói chung và chương trình giáo dục trong QĐ nói riêng đã có nhiều đổi
mới, nhằm đưa ra nội dung giáo dục một cách thiết thực, phù hợp với điều
kiện đất nước và QĐ. Tuy nhiên dù đã có nhiều cố gắng nhưng trước thực
trạng đang đặt ra, cùng với những đòi hỏi biến đổi to lớn của xã hội, những
giá trị đạo đức truyền thống đang bị coi nhẹ thậm chí ở một số nơi khơng thấy
được tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức.
Với vai trò, ý nghĩa hết sức thiết thực của vấn đề giáo dục đạo đức
nhằm phát huy những giá trị tốt đẹp cho thế hệ trẻ. Thông qua đối tượng là
học viên (những người đã qua thời gian huấn luyện trong quân ngũ sau khi ra
quân vào học nghề trong các trường QĐ) hay (cũng có thể được gọi là học
sinh) các trường Trung cấp nghề trong quân đội đóng trên địa bàn thành phố
Hà Nội tác giả lựa chọn đề tài: Vấn đề giáo dục đạo đức cho học viên các
trường Trung cấp nghề trong quân đội ở Việt Nam hiện nay làm đề tài
nghiên cứu của mình, mong muốn cùng góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp giáo
dục của nước nhà nói chung và của QĐ nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài
Đối với vấn đề giáo dục đạo đức được rất nhiều tác giả đề cập, nghiên
cứu dưới nhiều lĩnh vực, góc độ khác nhau. Mỗi cơng trình khoa học, mỗi bài



5
viết đều đề cập đến một khía cạnh nào đó của đạo đức như: đạo đức cách
mạng, đạo đức mới, đạo đức truyền thống. Qua quá trình nghiên cứu để làm
đề tài, tác giả đã nhận thấy có rất nhiều cơng trình liên quan mật thiết, hữu ích
với đề tài mình lựa chon, cụ thể:
Về sách nước ngồi có cuấn của A.F.Shishkin đã viết "Nguyên lý đạo đức
học mác xít", đây có thể coi là cuốn "giáo khoa" về đạo đức học. Ơng đặc biệt
nhấn mạnh vai trị của đạo đức, coi "những phẩm chất đạo đức chính là điều cốt
yếu nhất ở con người, ở tính cách của nó". Hay G.Bandzeladze đã có cơng trình
"Đạo đức học" (2 tập). Trong hai tập sách này, G.Bandzeladze đã nghiên cứu và
làm rõ những vấn đề của khoa học đạo đức, như: Đạo đức là gì; đạo đức phát
sinh, phát triển ra sao, nội dung những phạm trù đạo đức học là gì v.v…
Ở nước ta, năm 2003, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia đã dịch cuốn "Tu
dưỡng đạo đức tư tưởng", do GS. La Quốc Kiệt chủ biên. Trong cuốn giáo
trình này, tập thể tác giả Trung Quốc làm rõ vai trò của đạo đức và giáo dục
đạo đức cho sinh viên, những nội dung cơ bản, hiện đại trong việc bồi dưỡng
phẩm chất đạo đức mới cho sinh viên Trung Quốc hiện nay. Cuốn sách này
được coi như một tài liệu tham khảo bổ ích đối với cơng tác giáo dục đạo đức
cho đối tượng trong độ tuổi học sinh, sinh viên nước ta hiện nay.
Các bài viết được đăng trên các tạp chí và các luận văn, luận án liên quan:
Các bài viết: “Đi vào thế kỷ XXI phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao phục vụ CNH-HĐH đất nước”, tác giả Phạm Minh Hạc Tạp chí Lao động
- Xã hội, số 215, năm 2003; “Kết hợp giáo dục lý luận với giáo dục lý tưởng
đạo đức cho sinh viên hiện nay” của Nguyễn Ngọc Thu, Tạp chí Cộng sản số
92 năm 2005; “Xây dựng lối sống văn hóa cho thanh niên hiện nay” của
Nguyễn Thị Mỹ Trang Tạp chí Cộng sản số 06 năm 2006; “Về tính quy luật
của sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới”, của Nguyễn Văn
Phúc, Tạp chí Triết học, số 3, năm 2007;

Các luận án liên quan: “Kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống trong xây


6
dựng nhân cách con người Việt Nam”, tác giả Cao Thu Hằng, H, 2001; “Quan hệ
biện chứng giữa thống nhất và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt
Nam hiện nay”, tác gải Lê Thị Hoài Thanh, H. 2003; “Ý thức đạo đức sinh viên”
tác giả Võ Minh Tuấn, 2004; “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tiếp cận kinh
tế tri thức ở Việt Nam”, tác giả Lê Thị Ngân,luận án tiến sỹ kinh tế chính trị xã hội
chủ nghĩa, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2004.
Ngồi ra cịn có các luận văn thạc sĩ liên quan đến đề tài: “Đạo đức
sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam - Thực trạng
và giải pháp”, Tác giả Vũ Thanh Hương, Luận văn thạc sĩ, 2004; “Vấn đề
giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam hiện nay” tác
giả Dỗn Thị Chín, luận văn thạc sĩ năm 2004; “Vấn đề giáo dục đạo đức mới
cho sinh viên ở Nghệ An trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa hiện nay” tác giả Nguyễn Thị Hương, Luận văn thạc sĩ, 2010;
“Quản lý hoạt động dạy học ở các trường trung cấp nghề trong Qn đội” tác
giả Thái Dỗn Trí, Luận văn thạc sĩ năm 2010;
Trong những năm gần đây, cùng với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân Quân ủy Trung ương đã ra nhiều chỉ thị, công văn, Nghị quyết về việc “Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong tồn lực lượng vũ
trang nhân dân.
Nhìn chung các tài liệu, các bài viết, luận án, luận văn… đều có ý nghĩa
đối với việc rèn luyện đạo đức cho thế hệ trẻ khi đang còn ngồi trên ghế Nhà
trường trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên hầu
hết các cơng trình mà tác giả đề tài nghiên cứu đều chưa đề cập một cách trực
tiếp đến vấn đề giáo dục đạo đức cho học viên các trường Trung cấp nghề
trong quân đội nhân dân Việt Nam, trong khi đó đây là nguồn lao động lớn
của xã hội, đóng góp vào cơng cuộc đổi mới tồn diện QĐ và đất nước.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

3.1. Mục đích


7
Trên cơ sở phân tích tầm quan trọng và thực trạng giáo dục đạo đức cho
học viên trường Trung cấp nghề trong quân đội luận văn đề xuất một số giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học viên Trung
cấp nghề trong quân đội hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích nội dung, tầm quan trọng của giáo dục đạo đức cho học viên
trường Trung cấp nghề trong quân đội hiện nay.
- Phân tích thực trạng giáo dục đạo đức cho học viên trường Trung cấp
nghề trong quân đội ở Hà Nội thời gian qua từ đó đưa ra được những vấn đề
đặt ra trong việc giáo dục đạo đức cho học viên TCN QĐ.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng và hiệu
quả việc giáo dục đạo đức cho học viên trường Trung cấp nghề trong quân đội
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề giáo dục đạo đức cho học viên các
trường Trung cấp nghề trong quân đội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Các trường Trung cấp nghề trong quân đội đóng trên địa bàn thành
phố Hà Nội.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Tác giả của luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Đạo đức học Mác Lênin, quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật
lịch sử; tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh; các Văn kiện của Đảng Cộng sản
Việt Nam có liên quan đến đề tài. Đồng thời tác giả còn tham khảo, kế thừa
một số thành tựu của các cơng trình đã được cơng bố có liên quan đến đề tài.

Cơ sở thực tiễn của luận văn là thực trạng giáo dục đạo đức cho


8
học viên các trường trung cấp nghề trong quân đội đóng trên địa bàn thành
phố Hà Nội những năm vừa qua(2006 - 2011)
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả dựa trên phương pháp luận chung của Chủ nghĩa duy vật biện
chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với phương pháp lịch sử - logich,
phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, thống kê, khảo sát thực tế, điều tra xã
hội học nhằm thực hiện nội dung, nhiệm vụ đề tài đặt ra.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Góp phần xây dựng chương trình giáo dục đạo đức phù hợp đối với
học viên Trung cấp nghề trong quân đội ở Việt Nam hiện nay
- Một số giải pháp có thể vận dụng trong thực tế hiện nay của công tác
giáo dục đạo đức trong các trường nghề nói chung và trường nghề trong quân
đội nói riêng.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu và giảng dạy bộ mơn chính trị, đạo đức trong trường nghề hiện
nay ở nước ta.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.


9
Chương 1
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, TẦM QUAN TRỌNG VÀ NỘI DUNG
CỦA VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC VIÊN CÁC TRƯỜNG

TRUNG CẤP NGHỀ TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
HIỆN NAY
1.1. GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO HỌC VIÊN CÁC TRƯỜNG TRUNG CẤP NGHỀ TRONG QUÂN
ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1.1. Đạo đức và giáo dục đạo đức
Trong đời sống con người và xã hội loài người, mọi ý thức, quan hệ và
hành vi của con người được diễn ra, được thể hiện vô cùng đa dạng và phong
phú. Con người không chỉ với tư cách là chủ thể của những hoạt động sản
xuất vật chất mà còn tạo dựng lên các hoạt động tinh thần cho xã hội. Trong
quá trình đó con người ln ln xây dựng cho mình những ý tưởng sống,
những quan niệm sống và những chuẩn mực đạo đức giúp con người tự giác
hoạt động.
Đạo đức ra đời là nhu cầu tất yếu khách quan, được nẩy sinh, tồn tại và
phát triển trong đời sống hiện thực của con người, là sản phẩm của mối quan
hệ giữa người với người, giữa người với xã hội, nó phản ánh chính q trình
sống, lao động, giao tiếp của con người, đồng thời phản ánh những địi hỏi
của q trình phát triển xã hội, bị chi phối bởi điều kiện kinh tế xã hội. Ngay
từ thủa hoang sơ của mình con người đã biết đặt ra những nguyên tắc, những
chuẩn mực như là: không được lấy phần của nhau, không được đàn áp lẫn
nhau, con người phải giúp đỡ nhau trong cuộc sống, tất cả dần dần được nội tâm
hóa trở thành nhu cầu bên trong của con người, trở thành khát vọng, thói quen,
tình cảm đạo đức của họ. Vì thế trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau, đạo đức
sẽ có nội dung khác nhau, nó thể hiện rõ tính giai cấp, tính lịch sử cụ thể.


10
Với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo
đức đã xuất hiện hơn 26 thế kỷ trước đây ở cả Phương Đông và Phương Tây,

đặc biệt trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Hy lạp cổ đại [15, tr.7].
Ở Phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ
đại xuất hiện trong các quan niệm về “đạo” và “đức” của họ. “Đạo” có nghĩa
là con đường, đường đi. Hay cịn có nghĩa là đường sống của con người trong
xã hội. “Đức” lần đầu xuất hiện trong Kinh văn đời nhà Chu, dùng để nói đến
nhân đức, đức tính và nhìn chung là biểu hiện của “đạo”, là đạo nghĩa, là
nguyên tắc luân lý. Như vậy “đạo đức” của người Trung Quốc cổ đại chính là
những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân
theo, nó đưa ra những nguyên tắc, những chuẩn mực khuyên dăn con người
làm điều thiện.
Ở Phương Tây, khái niệm đạo đức bắt nguồn từ tiếng La tinh là “mos”
(moris) - lề thói (moralis nghĩa là có liên quan với lề thói, đạo nghĩa), đồng
thời cịn có thuật ngữ “ln lý” đồng nghĩa với đạo đức có nguồn gốc từ tiếng
Hy Lạp là “ethicos” - lề thói, tập tục. Vậy đạo đức ở đây tức là lề thói và tập
tục biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người với người trong sự giao tiếp
với nhau hàng ngày.
Chủ nghĩa Duy tâm chủ quan coi đạo đức là nguyên tắc chuẩn mực do
thần thánh tạo ra để răn dạy con người. Theo họ, đạo đức như là những năng
lực “tiên thiên” của lý trí con người. Vì thế, họ cho rằng sự điiều chỉnh hành
vi, cách ứng xử đạo đức của con người trong đời sống xã hội là do sự sắp đặt,
an bài của thượng đế, cái thiện, cái ác là hiện thân của đấng tối cao và là
quyền uy của Chúa trời.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng một học thuyết đạo đức có tính
khoa học và cách mạng. Học thuyết đã gắn các quan hệ đạo đức với các
phương thức sản xuất và cho rằng “đạo đức” là sản phẩm của những điều kiện
sinh hoạt vật chất của xã hội, nó được nẩy sinh do nhu cầu của đời sống xã


11
hội, “Xét cho đến cùng mọi học thuyết đạo đức đã có từ trước đến nay đều là

sản phẩm của tình hình kinh tế xã hội lúc bấy giờ” [20, tr.20].
Theo V.I.Lênin: "Đạo đức đó là những gì góp phần phá huỷ xã hội
cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung
quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng
sản" [16, tr.396].
Tất cả những luận giải trên đều nhận thấy, đạo đức như những triết lý
nhân sinh và hành động của con người để làm người ở đời, nó là biểu hiện
quan hệ vật chất của xã hội và nó ln ln biến đổi theo đời sống vật chất
Ph. Ăngghen: “Con người dù tự giác hay không tự giác, rút cuộc đều rút ra
những quan niệm đạo đức của mình từ những quan hệ thực tiễn đang làm cơ
sở cho vị trí giai cấp của mình, tức là những quan hệ kinh tế trong đó người ta
sản xuất và trao đổi ” [20].
Từ đây ta nhìn nhận đạo đức như một hình thái ý thức xã hội, cùng với
các hình thái ý thức xã hội khác, đạo đức không sinh ra từ đạo đức mà là sản
phẩm của những điều kiện lịch sử cụ thể, đạo đức chịu sự quy định của tồn tại
xã hội và nó phản ánh tồn tại xã hội đó, hay các chuẩn mực, nguyên tắc đạo
đức mà con người đặt ra nhằm điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội
chính là phản ánh những điều kiện tồn tại xã hội, lối sống, môi trường xã hội
của con người.
Ta có thể hiểu: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp
những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá
cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội,
chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh
của dư luận xã hội [1, tr.8].
Như vậy để điều chỉnh nhận thức hành vi của mình, xã hội lồi người
đã sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh như: phong tục, tập quán, tôn
giáo, pháp luật, đạo đức… đối với đạo đức, sự đánh giá hành vi của con người


12

theo khuân phép, chuẩn mực và quy tắc đạo đức biểu hiện thành những khái
niệm, phạm trù. Chẳng hạn khi nói về cuộc sống là nói đến niềm vui sướng
hay sự bất hạnh, sự thờ ơ hay sự tận tụy; tốt hay xấu; hay phạm trù “thiện”
“ác”; “hạnh phúc” “danh dự”, “nghĩa vụ”, “lương tâm”…Ở bất kỳ thời đại
nào của lịch sử đạo đức con người đều được đánh giá như vậy, và trong xã hội
có giai cấp thì bao giờ đạo đức cũng đều là biểu hiện của giai cấp nhất định.
Ph. Ăngghen viết: “Dù tự giác hay không tự giác rút cục người ta đều lấy
những quan điểm đạo đức của mình từ những quan hệ thực tế đã tạo thành cơ
sở cho địa vị giai cấp mình, tức là những mối quan hệ kinh tế trong đó người
ta tiến hành sản xuất và trao đổi” [21].
Trong mỗi một giai đoạn phát triển của lịch sử, nội hàm đạo đức về cơ
bản ln có sự thay đổi một cách nhất định nhằm phù hợp với điều kiện lịch
sử của nó và nó ln biến đổi theo xu hướng: bảo tồn những giá trị cũ tích
cực, xây dựng những giá trị mới phù hợp với thời đại. Đạo đức trong xã hội
chính là kết quả đúc kết từ những kinh nghiệm xã hội - lịch sử, là một mặt
quan trọng của văn hóa kết tinh trong từng con người.
Hiện nay quá trình phát triển đất nước trên con đường hội nhập, giao
lưu và tồn cầu hóa, đạo đức ln có một vai trị vơ cùng to lớn, nó là động
lực tinh thần của người cách mạng. Với định hướng của Đảng là phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đạo đức trở thành mối quan
tâm đặc biệt của tồn xã hội. Nó góp phần xác định và củng cố định hướng
XHCN cho nền kinh tế và điều tiết các quan hệ lợi ích trong nền kinh tế đó.
Nhiệm vụ của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát
huy mọi tiềm lực của con người, của đất nước, tăng cường ý thức trách
nhiệm, tính chủ động sáng tạo của người lao động góp phần hồn thiện nền
văn hóa mới, con người mới. Tuy nhiên, khi nhìn nhận nền kinh tế thị
trường chúng ta có thể nhận xét một cách khái quát mặt tích cực của nó trên
những điểm sau:



13
Thứ nhất, nó chú trọng nhiều tới lợi ích vật chất và các nhu cầu vật
chất của con người, nó thực hiện lợi ích và nhu cầu đó trên thị trường vì thế
nó tạo động lực thiết thực, kích thích tính chủ động sáng tạo của con người,
buộc con người và xã hội muốn tồn tại và phát triển, tiến bộ thì phải nhạy bén,
linh hoạt;
Thứ hai, nguyên tắc của KTTT là phải có lợi nhuận, nó địi hỏi năng
suất, chất lượng, hiệu quả một cách thực tế. Vì thế nó làm cho con người chạy
đua với thời gian, tận dụng mọi hoàn cảnh, điều kiện, tranh thủ cơ hội để tích
lũy học vấn, chun mơn, nghiệp vụ. Nó tạo ra môi trường xã hội rộng lớn để
con người thể hiện và khẳng định mình về mọi mặt;
Thứ ba, giá trị trong cuộc sống và lối sống của cá nhân có những biến
đổi căn bản do những điều kiện về kinh tế, xã hội, nghề nghiệp và những tri
thức mới được mở ra, nó tạo ra trong xã hội những lối sống, quan niệm sống
thiết thực, cụ thể, không máy móc, giáo điều “Con người được mở rộng giao
lưu, ln tìm kiếm những cơ hội mới cho phát triển và hội nhập. Điều này nó
tạo ra bản lĩnh vững vàng và cốt cách hiện đại” [40, tr.68-69].
Tuy nhiên KTTT với những biểu hiện mặt trái của nó đã ảnh hưởng
nghiêm trọng tới đạo đức và giáo dục đạo đức, như: vì lợi nhuận người ta
dùng đến thủ đoạn phi đạo đức, tạo nên lối sống vì đồng tiền, kiếm tiền bằng
mọi giá, coi đồng tiền và lợi ích vật chất tầm thường là trên hết, chà đạp lên
những giá trị đạo đức, đẩy con người đến lối sống thực dụng, xem thường
những luân thường đạo lý, quên đi những giá trị truyền thống tốt đẹp, tạo ra
trong xã hội những tệ nạn như: lừa đảo, ích kỷ, sự trả thù tàn bạo phi nhân
tính, trụy lạc con người [40, tr.68-69]. Nó cịn tạo ra sự phân hóa giầu nghèo,
sự phân tầng xã hội sự chênh lệch về mức sống của các vùng miền ngày càng
sâu rộng.
Như vậy, mối quan hệ giữa đạo đức và nền KTTT định hướng XHCN
là mối quan hệ biện chứng tác động qua lại với nhau. Đạo đức được xem là



14
động lực để thúc đẩy nền KTTT định hướng XHCN phát triển vì hạnh phúc
của con người cịn KTTT tạo cho đạo đức môi trường để phát huy tối đa giá
trị của mình. Với vai trị và ý nghĩa to lớn của đạo đức trong nền KTTT ở
nước ta hiện nay nhằm hướng tới những giá trị cao đẹp, hướng tới hạnh phúc
của con người thì cần có sự quan tâm đặc biệt trong việc định hướng và giáo
dục đạo đức cho thế hệ trẻ hiện nay, vì đây là lớp người đang phát triển về
mọi mặt, là người chủ tương lai của đất nước, là tầng lớp kế thừa và làm
phong phú thêm nội dung đạo đức trong giai đoạn phát triển của đất nước
hiện nay và khi xã hội càng phát triển thì sự bền vững lại liên quan đến những
giá trị, chuẩn mực đạo đức.
Đạo đức được xem là nền tảng cho sự phát triển bền vững, điều này
được thể hiện ở chỗ:
Một là, đạo đức với chức năng là điều chỉnh hành vi bằng dư luận xã
hội và lương tâm đòi hỏi tối thiểu tới tối đa hành vi con người đã trở thành
đặc trưng riêng để phân biệt đạo đức với hình thái ý thức khác, các hiện tượng
xã hội khác và làm thành cái khơng thể thay thế của đạo đức. Điều này nó
nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển xã hội bằng việc tạo nên sự hài hịa
quan hệ lợi ích cộng đồng và cá nhân. Chức năng này được thực hiện bằng hai
hình thức chủ yếu: xã hội và tập thể tạo dư luận để khen ngợi, khuyến khích
cái thiện, phê phán mạnh mẽ cái ác. Phương thức điều chỉnh hành vi con
người còn phụ thuộc vào hệ thống các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức do yêu
cầu xã hội hoặc một giai cấp nào đó đặt ra cho hành vi của mỗi cá nhân, nó
cịn dựa vào sức mạnh của dư luận xã hội, vào niềm tin cá nhân và truyền
thống của cả dân tộc.
Hai là, là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng - nó tác động đến tồn tại
xã hội, đến đời sống kinh tế. Nó góp phần thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát
triển kinh tế. Nếu như sự tác động ấy là cùng chiều với tồn tại xã hội, thì lúc
đó nó sẽ thúc đẩy tồn tại xã hội nói chung, phương thức sản xuất nói riêng



15
phát triển. Vì đạo đức là nền tảng cho việc hoàn thiện và phát triển nhân cách
cá nhân, đạo đức tiến bộ là điều kiện để con người loại bỏ cái thấp hèn,
hướng tới cái chân - thiện - mỹ và trong xã hội, con người biết sống vì
nhau, vì người khác, sống thân ái, biết yêu thương và nhường nhịn lẫn
nhau... đó sẽ là xã hội tốt đẹp. Cantơ - một nhà triết học duy tâm người
Đức nói rằng, làm một việc thiện, việc tốt nhưng nếu để lấy tiếng, trở thành
người nổi tiếng để được mọi người mến mộ, hay vì "tha nhân" đáng
thương... thì hành vi đó chứa đựng giá trị đạo đức thấp. Nhưng làm việc
thiện mà từ tâm, từ tấm lịng mình thì đó mới là hành vi chứa đựng giá trị
đạo đức cao cả. Nghĩa là việc thiện nhưng phải hoàn toàn tự giác, tự
nguyện vì người khác chứ khơng phải vì mình hay động cơ của hành vi
phải cao thượng, đúng đắn mang tính nhân văn cao cả. Trong ý nghĩa đích
thực của nó, con người có đạo đức là con người biết sống vì người khác,
biết sống vì xã hội, biết hy sinh hạnh phúc cá nhân để đem lại lợi ích cho
mọi người và cho xã hội. Theo C. Mác: "bản chất và cơ sở của tính người
là ở chỗ con người đối xử với người khác như đối xử với bản thân mình.
Đây là quá trình các cá nhân tạo ra nhau cả về mặt thể chất lẫn về mặt tinh
thần” [31, tr.53].
Đất nước ta đang trong giai đoạn “chuyển mình” một cách dữ dội, thế
hệ trẻ - chủ nhân tương lai của đất nước, như C.Mác nói: “Do quy luật phát
triển khách quan của xã hội, thanh niên bao giờ cũng giữ vai trò quan trọng
trong việc kế thừa và phát triển những thành tựu của người đi trước” [ 25,
tr.23] với số lượng đơng đảo, giữ vị trí quan trọng trong xã hội, đây sẽ là
người kế thừa, phát triển những thành quả do cha ông để lại, là lực lượng
cách mạng hùng hậu trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Vì thế việc giáo dục
đạo đức cho thế hệ trẻ ngày nay cần được Đảng - Nhà nước quan tâm một
cách đặc biệt, thực chất hiện nay giáo dục - giáo dục đạo đức ở nước ta là

thế nào, trước hết ta đi tìm hiểu:


16
Giáo dục xuất hiện từ buổi bình minh của lồi người, trước hết là sự truyền
đạt những kinh nghiệm sống, trong đó quan trọng là kinh nghiệm lao động. Bản
chất của hoạt động giáo dục là các quá trình truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm
lịch sử xã hội của các thế hệ nhằm duy trì và phát triển cộng đồng xã hội.
Theo Từ điển tiếng Việt định nghĩa: giáo dục, đó là hoạt động nhằm tác
động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối
tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và
năng lực như yêu cầu đề ra. Hay giáo dục đó là qúa trình dạy dỗ để phát triển
khả năng thể chất, trí thức về đạo lý [46, tr.423].
Giáo dục được hiểu theo hai nghĩa: theo nghĩa rộng giáo dục là quá trình
trao đổi và chuyển giao tri thức, là sự đạt được những giá trị và các mơ hình
hành vi theo một mục đích, yêu cầu định sẵn. Hiểu theo nghĩa hẹp, giáo dục là
một quá trình hình thành nhân cách con người dưới ảnh hưởng của hoạt động có
mục đích của nhà giáo dục trong hệ thống các cơ quan giáo dục và dạy học.
Dưới góc độ triết học, có thể hiểu rằng, giáo dục là một quá trình hai
mặt, một mặt, đó là sự tác động từ bên ngồi vào đối tượng giáo dục (sự tác
động của tri thức, văn hóa nhân loại thơng qua nhà sư phạm đến đời sống của
thế hệ trẻ); mặt khác, thông qua sự tác động này làm cho đối tượng tự biến đổi
bản thân mình, tự hồn thiện, tự nâng mình lên qua giáo dục [43, tr.38].
Về bản chất, giáo dục là quá trình tổ chức cuộc sống, hoạt động và giao
lưu cho đối tượng giáo dục, nhằm giúp họ nhận thức đúng, tạo lập tình cảm và
thái độ đúng, hình thành những thói quen hành vi văn minh trong cuộc sống,
phù hợp với chuẩn mực xã hội [46, tr.137].
Về chủ thể giáo dục gồm bốn chủ thể chính là: Nhà nước, nhà trường,
nhà giáo và người học, trong đó người học phải là người chủ của quá trình
giáo dục.

Về nội dung giáo dục: phải bảo đảm tính cơ bản, tồn diện, thiết thực,
hiện đại và có hệ thống; coi trọng giáo dục tư tưởng và ý thức công dân; kế


17
thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại; phù hợp với sự phát triển về tâm sinh lý lứa tuổi của
người học (Điều 5 - Luật giáo dục, 2005). Giáo dục đạo đức khơng chỉ nâng
cao trình độ nhận thức đạo đức, giữ gìn những giá trị, chuẩn mực đạo đức đã
được các thế hệ trước tạo nên, nó cịn góp phần tạo ra những giá trị đạo đức
mới; xây dựng những quan điểm, phẩm chất đạo đức mới, quan niệm sống
tích cực cho mỗi đối tượng giáo dục, đồng thời, giáo dục đạo đức cũng góp
phần tích cực vào việc khắc phục những quan điểm đạo đức lạc hậu, sự lệch
chuẩn các giá trị nhân cách, chống lại các hiện tượng phi đạo đức đang đầu
độc “bầu khơng khí” xã hội, tạo ra cơ chế phịng ngừa các phản giá trị đạo
đức, phản giá trị văn hoá trong mỗi một nhân cách.
Việc giáo dục một con người có đạo đức, có lối sống vì mọi người, biết
lo lắng quan tâm đến người khác là vấn đề khơng phải một sớm một chiều,
mà nó cịn phụ thuộc nhiều yếu tố, nhiều môi trường giáo dục và mối quan hệ
giữa các yếu tố, môi trường ấy tác động lẫn nhau như Chủ tịch Hồ Chí Minh
nói: có tài phải có đức, có tài mà khơng có đức, tham ô, hủ hóa có hại cho
nước nhà. Có đức mà khơng có tài ví như ơng bụt, khơng hại cho nước nhưng
cũng khơng làm lợi gì cho lồi người [28, tr.58]. Người cịn nói: Dạy cũng
như học phải chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái
gốc rất quan trọng. Nếu khơng có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vơ dụng.
Người nêu rõ: Con người cần có bốn đức: cần - kiệm - liêm - chính, mà thiếu
một đức thì khơng thành người, có đủ bốn đức ấy thì mới là người hồn bị.
Cũng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức có thể tóm tắt trong năm điều:
nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Người giải thích cụ thể và cặn kẽ những điều ấy,
đem lại cho chúng ta sự hiểu biết đầy đủ nội dung của đạo đức [30, tr.64]

Người nói: “tuy năng lực và cơng việc của mỗi người có khác nhau, người
làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức đều là người cao
thượng” [32, tr.568].


18
Về phương pháp giáo dục là cách thức sử dụng các nguồn lực trong giáo
dục như giáo viên, trường lớp, dụng cụ học tập, các phương tiện vật chất để
giáo dục người học. Trong đó phương pháp giáo dục tích cực được hiểu là:
Học viên tự tìm ra kiến thức bằng hành động thao tác... giáo viên đối thoại với
học viên, giáo viên hợp tác và trao đổi với học viên và giáo viên khẳng định
kiến thức do học viên tìm ra. Học sinh học cách học, cách đặt vấn đề và giải
quyết vấn đề, cách sống và trưởng thành. Học sinh tự đánh giá và điều
chỉnh làm cơ sở cho giáo viên cho điểm cơ động. “ Phương pháp giáo dục
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học;
bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lịng say mê
học tập và ý chí vươn lên” (Điều 5 - Luật giáo dục, 2005).
Về môi trường giáo dục: Theo từ điển Bách khoa Việt Nam đã định nghĩa
Môi trường giáo dục là tổng hòa các mối quan hệ trong đó giáo dục
và người được giáo dục tiến hành hoạt động dạy và học. Môi trường
giáo dục rất đa dạng, có thể phân chia một cách tương đối thành các
mơi trường Nhà trường, gia đình, xã hội và tự nhiên. Các phương
tiện và điều kiện vật chất - kỹ thuật và xã hội, tâm lý tác động
thường xuyên và tạm thời được người dạy và người học sử dụng
một cách có ý thức, để đảm bảo cho lao động dạy và học tiến hành
thuận lợi và đạt kết quả cao [42, tr.358].
Kế thừa truyền thống giáo dục mà cha ông ta để lại, Đảng ta, đặc biệt là
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln ln quan tâm đến giáo dục, đến việc "trồng
người". Tại buổi nói chuyện với lớp học chính trị của các giáo viên cấp 2 và
cấp 3 tồn miền Bắc (ngày 13-9-1958), Người nói: "Vì lợi ích mười năm thì

phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người". Với Hồ Chí Minh
"trồng người" là tư tưởng có tính chất nhất qn, xun suốt trong cuộc đời
hoạt động của mình.


19
Đối tượng giáo dục được Hồ Chí Minh quan tâm hết sức đa dạng, trong
đó học sinh, sinh viên, thế hệ trẻ được Người đặc biệt quan tâm. Bởi lẽ, như
Người thường nói:
Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước
nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên.
Thanh niên muốn làm chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại
phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải làm việc chuẩn
bị cho cái tương lai đó [31, tr.84].
Giáo dục đạo đức là nhiệm vụ bao trùm và xuyên suốt toàn bộ hoạt động
giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội để hình thành và phát triển nhân
cách. Giáo dục đạo đức phải trở thành mối quan tâm của toàn xã hội, là vấn
đề của mọi vấn đề trong chiến lược giáo dục, đào tạo vì sự phát triển con
người và phát triển xã hội.
Giáo dục đạo đức sẽ góp phần chuyển các quan niệm đạo đức từ tự phát
sang tự giác, từ bị động sang chủ động, khơng ngừng nâng cao trình độ nhận
thức các giá trị đạo đức cho mỗi người từ trình độ nhận thức thơng thường lên
trình độ nhận thức khoa học. Để đạt trình độ cao, trình độ ý thức lý luận, địi
hỏi phải có q trình giáo dục đạo đức, phải nhờ đến vai trò của đạo đức học.
Bởi vì, nhận thức khoa học phản ánh các giá trị đạo đức một cách gián tiếp,
khái quát những giá trị đạo đức hiện tại và những giá trị đạo đức của tương lai.
Qua giáo dục đạo đức, nội dung các phạm trù, các quy tắc… đạo đức được nhận
thức một cách đầy đủ, đúng đắn hơn và niềm tin của đối tượng được giáo dục là
niềm tin khoa học. Từ niềm tin khoa học sẽ giúp cho chủ thể đạo đức điều chỉnh
được hành vi của mình theo yêu cầu xã hội đặt ra.

Ngày nay nhằm đào tạo nên thế hệ trẻ sống có mục tiêu, có lý tưởng,
có niềm tin vào định hướng của Đảng - Nhà nước, nhằm tạo ra những thế
hệ thực sự là chủ nhân tương lai của đất nước, đưa nước ta trở thành nước
phát triển bền vững, vấn đề giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên cần
được chú trọng ở một số vấn đề:


20
Thứ nhất, thực chất đây là vấn đề xây dựng thế giới quan cho họ, đó
là đạo đức học Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác Lênin luôn là kim chỉ nam cho con đường tiến lên Chủ nghĩa cộng sản với
những người xây dựng một xã hội mới, như C.Mác chỉ rõ : “Chỉ có trong cộng
đồng cá nhân mới có những phương tiện để phát triển tồn diện những năng
khiếu của mình, chỉ có trong cộng đồng mới có thể có tự do cá nhân” [17,
tr.354]. Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản Ph.Ăngghen cho rằng: xã hội của
tương lai “là một liên hợp trong đó có sự phát triển tự do của mỗi người là điều
kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” [22, tr.686].
Trong tác phẩm Đạo đức cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Có
đạo đức cách mạng thì khi gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ vững tinh
thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn; lo hồn thành nhiệm vụ cho tốt chứ
khơng kèn cựa về mặt hưởng thụ…” [37, tr.284,]
Thứ hai, giáo dục chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa
nhân đạo. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen: Tương lai của giai cấp cơng nhân tùy
thuộc vào tình trạng thế hệ thanh niên của nó [26, tr.23] và C.Mác đã chỉ rõ:
Những người công nhân tiên tiến nhất, ý thức đầy đủ rằng, tương lai của giai cấp
họ, và kế đó là tương lai của nhân loại hoàn toàn tùy thuộc vào sự giáo dục các
thế hệ công nhân đang lớn [23, tr.198].
Như vậy giáo dục chủ nghĩa yêu nước trên lập trường của giai cấp công
nhân với chủ nghĩa quốc tế vơ sản hiện nay trước hết là: lịng trung thành với tổ
quốc, tinh thần tự hào dân tộc, khát vọng phục vụ cho lợi ích tổ quốc, cho nhân
dân, như Bác Hồ nói “Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên” khơng để

đất nước nghèo nàn lạc hậu, lấy việc xây dựng cuộc sống tự do, hạnh phúc cho
tất cả mọi người làm lý tưởng sống, làm vinh dự lớn của mình. Thế hệ trẻ ln
biết phấn đấu, học tập, rèn luyện để xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Giáo dục chủ nghĩa tập thể, hay chính là giáo dục chân lý “mình vì mọi
người, mọi người vì mình”, tập thể xã hội là mơi trường, là phương tiện để cá


21
nhân thực hiện lợi ích của mình vì thế chỉ có sống trong tập thể cá nhân mới có
điều kiện phát huy hết năng lực của mình để thực hiện mục tiêu, lý tưởng của
bản thân. Chủ nghĩa tập thể cịn thể hiện ở tinh thần đồn kết dân tộc, đoàn kết là
sức mạnh, là điều kiện để bảo tồn dân tộc. Một xã hội khơng cịn người bóc lột
người, một xã hội có nền sản xuất phát triển, con người được phát triển tồn
diện, mà trong đó, “tự do của mỗi người là tiền đề cho sự tự do của tất cả mọi
người”… Đạo đức ấy phục vụ cho sự nghiệp giải phóng con người "Người là
bản chất tối cao của con người, phải lật đổ tất cả các quan hệ xã hội trong đó
con người bị làm ơ nhục, bị nô dịch, bị bỏ rơi, bị khinh bỉ” [18, tr.631].
Giáo dục chủ nghĩa nhân đạo cộng sản cương quyết đấu tranh chống chủ
nghĩa cá nhân, đây chính là giáo dục lịng u thương con con người, biết sót
thương, biết đau khổ, biết cảm thông trước số phận của con người và hơn hết là
đưa ra phương thức khoa học để giải phóng con người. Đạo đức cộng sản là
một nền đạo đức của tương lai, một nền đạo đức mang ý nghĩa nhân văn cao
cả. Tư tưởng nhân đạo cốt lõi trong đạo đức cộng sản là: tất cả vì con người,
tơn trọng con người, thương u con người, giải phóng con người, tạo mọi
điều kiện để con người được phát triển tự do và toàn diện trong mối quan hệ
hài hoà giữa cá nhân và tập thể, cộng đồng và tự nhiên. Bản chất của chủ
nghĩa nhân đạo cộng sản được C. Mác thể hiện trong luận điểm nổi tiếng: chủ
nghĩa cộng sản coi như chủ nghĩa tự nhiên hoàn bị, = chủ nghĩa nhân đạo, coi
như chủ nghĩa nhân đạo hoàn bị, = chủ nghĩa tự nhiên [8, tr.167].
Đứng trước sự suy thoái đạo đức, sự phát triển lệch chuẩn nhân cách so

với yêu cầu xã hội trong một bộ phận nhân dân đòi hỏi Đảng ta "phải tăng
cường cơng tác giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng,
chống chủ nghĩa cá nhân" [8, tr.53]. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng:
Đạo đức cách mạng liên quan đến cuộc đấu tranh tự giác và tính tổ chức cho
việc biến những nguyện vọng khát khao một cuộc sống hạnh phúc của nhân
dân lao động thành hiện thực, liên quan đến việc chăm lo củng cố và phát


22
triển đất nước vì lợi ích của nhân dân, cịn chủ nghĩa cá nhân là đồng minh
của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, là kẻ thù nguy hiểm của chủ nghĩa
xã hội. Từ chủ nghĩa cá nhân sẽ phát triển nên tính cục bộ địa phương, bè
cánh, quan liêu, tham quyền cố vị, hối lộ, tham ô, sống thực dụng, run sợ
trước những hy sinh gian khổ.
Thứ ba, giáo dục thái độ nhận thức đối với lao động, với nghề nghiệp coi
lao động là nguồn sống là lẽ sống của mình. Biết trân trọng những thành
quả lao động của mình và của người khác, sống cần, kiệm, liêm, chính. Lựa
chọn ngành nghề và có trách nhiệm với sự lựa chọn đó, tự chuẩn bị về tâm
lý, tự trau dồi kiến thức, trình độ chun mơn nghề nghiệp, có lý tưởng,
niềm tin, sẵn sàng thích ứng với điều kiện nền kinh tế tri thức ngày càng
phát triển. Tại Hội nghị Trung ương bảy, khoá X Đảng ta khẳng định:
"Trong mọi thời đại, trí thức ln là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí
thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Bằng hoạt động
sáng tạo, trí thức nước ta đã có đóng góp to lớn trên tất cả các lĩnh vực xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc" [9, tr.81-82].
Đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội đặc thù, nó ra đời, tồn
tại cùng với q trình phát triển của xã hội lồi người. Dù ở đâu Phương Đơng
hay Phương Tây, dù ở chế độ chính trị xã hội nào con người luôn đưa ra
những quy tắc, những chuẩn mực, phong tục, tập quán… xã hội bên cạnh
pháp luật, tơn giáo, chính trị... để điều chỉnh hành vi của con người và định

hướng những giá trị cao đẹp, đó chính là những quy tắc, phạm trù, những
giá trị của đạo đức. Cội nguồn của hạnh phúc là làm cho con người sống có
ý nghĩa, sống có lương tâm và trách nhiệm, đầy lùi cái ác, xóa bỏ được
“xiềng xích nơ lệ” giải phóng con người, tạo cơ hội, mơi trường để đưa lại
lợi ích cao nhất cho con người, khơi dậy tính thiện trong con người, nâng
cao tình hữu ái giai cấp, đoàn kết trong cộng đồng, con người có đầy đủ


23
điều kiện tốt nhất để phát triển toàn diện cá nhân và góp phần vào sự phát
triển chung của đất nước.
1.1.2. Đạo đức học viên các trường trung cấp nghề trong quân đội
và tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cho học viên các trường
trung cấp nghề trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
1.1.2.1. Đặc điểm học viên các trường trung cấp nghề trong quân đội
nhân dân Việt Nam hiện nay
QĐND Việt Nam là một trong những lực lượng vũ trang nhân dân, bên
cạnh những nhiệm vụ canh giữ, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ từ biên giới, hải đảo
đến vùng trời vùng biển mà còn là lực lượng đi đầu trong công tác đào tạo sản xuất - dịch vụ.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về “Chiến lược phát triển
giáo dục 2001 - 2010” đặt ra mục tiêu đến năm 2020, dạy nghề đáp ứng được
nhu cầu của thị trường lao động cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu nghề và
trình độ đào tạo. Chất lượng đào tạo của một số nghề tương đương trình độ
đào tạo của các nước phát triển trong khu vực ASEAN và trên thế giới. Đồng
thời, hình thành đội ngũ lao động lành nghề, góp phần nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc gia; phổ cập nghề cho người lao động, góp phần thực hiện chuyển
dịch cơ cấu lao động, nâng cao thu nhập, giảm nghèo vững chắc, đảm bảo an
sinh xã hội [3]. Trong những năm qua BQP đã quy hoạch và mở rộng mạng
lưới trường TCN trong quân đội, đây là đơn vị cơ sở của hệ thống giáo dục
quốc dân, tổ chức đào tạo nhân lực, dịch vụ ở trình độ TCN, sơ cấp nghề,

nhằm trang bị cho người học năng lực thực hành nghề tương xứng với trình
độ đào tạo, có sức khỏe, có đạo đức nghề nghiệp, đồng thời “Hỗ trợ các đối
tượng được hưởng chính sách người có cơng, qn nhân xuất ngũ, người dân
tộc thiểu số, người thuộc hộ nghèo, người tàn tật, khuyết tật, trẻ em mồ côi
không nơi nương tựa, người trực tiếp lao động trong các hộ sản xuất nông
nghiệp bị thu hồi đất canh tác và các đối tượng chính sách xã hội khác nhằm


24
tạo cơ hội cho họ được học nghề để tìm việc làm, tự tạo việc làm, lập thân, lập
nghiệp” nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động trong giai đoạn hiện nay.
Học viên trong các trường nghề QĐ thường có đặc điểm:
Thứ nhất, đối tượng tham gia học tập phần lớn là quân nhân xuất ngũ,
được hưởng chính sách ưu việt của Nhà nước sau khi thực hiện nghĩa vụ quân
sự: hành trang để học viên bước chân vào trường là những phẩm chất cao
quý của “anh bộ đội Cụ Hồ”, là niềm tin, là trách nhiệm với tổ quốc, với bản
thân, gia đình và xã hội. Với mục tiêu của các trường nghề QĐ đó là: đào tạo
nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ có năng lực thực hành nghề
tương xứng với trình độ đào tạo, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức
kỷ luật, tác phong cơng nghiệp, có sức khoẻ nhằm tạo điều kiện cho người
học nghề sau khi tốt nghiệp có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc
học lên trình độ cao hơn, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Do vậy hầu hết học viên trong các trường nghề của QĐ đã qua thời
gian gần hai năm huấn luyện tân binh trong các đơn vị thuộc các quân, Binh
chủng … vẫn còn nguyên vẹn phẩm chất “Bộ đội cụ hồ” đó là lịng u nước
tha thiết, u thương đồng chí đồng đội, tính kỷ luật tự giác nghiêm minh,
đồn kết, lạc quan yêu đời, mưu trí, can đảm, chấp nhận mạo hiểm, chịu đựng
gian khổ, trung thực, nhân hậu, tinh thần “quyết chiến quyết thắng” dù đứng
trên mặt trận nào.

Thứ hai, là đối tượng người dân tộc thiểu số, người thuộc hộ nghèo,
người tàn tật, khuyết tật, trẻ em mồ cơi khơng nơi nương tựa, có một bộ phận
là người vùng sâu, vùng xa, dân trí thấp có hồn cảnh đặc biệt khó khăn.
Thứ ba, người trực tiếp lao động trong các hộ sản xuất nông nghiệp bị
thu hồi đất canh tác, các em vừa học hết phổ thông cơ sở khơng vào được phổ
thong trung học, hay có em vừa đi làm vừa đi học và các đối tượng chính sách
xã hội khác. Vì thế đối tượng tham gia học nghề có nhiều trình độ khác nhau,
khả năng nhận thức khác nhau và hầu như là không cao.


25
Học viên các trường nghề trong QĐ nhìn chung được đánh giá là
những thanh niên có văn hóa, ý thức kỷ luật và sức khỏe tốt có độ tuổi trung
bình từ 18 đến 25, đây là độ tuổi “Trong tư cách là chủ thể đang phát triển,
đang được tiếp tục hoàn thiện” [38].
Những cơ sở đào tạo của trường nghề quân đội phần lớn là nằm trên
các địa bàn, khu vực trọng điểm về quốc phòng và an ninh như: Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Phú Thọ, Nam Định, và
các vùng Tây nguyên… đây là những địa bàn “nhạy cảm”, mật độ dân cư
cũng như trình độ dân trí khơng đồng đều, điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội
phức tạp, mức sống chênh lệch. Trong khi hầu hết học viên trong độ tuổi
thanh niên tâm sinh lý lứa tuổi đang có nhiều biến động, lại sống trong điều
kiện đất nước, xã hội vẫn còn tồn tại đan xen giữa cái cũ và cái mới, cái
nghèo nàn, lạc hậu với cái tiến bộ, phát triển; giữa chủ nghĩa vị tha và chủ
nghĩa vị kỷ. Các thế lực thù địch ln tìm cách chống phá thành quả cách
mạng bằng nhiều phương thức và thủ đoạn “Diễn biến hịa bình” gây xáo
trộn, mất an ninh trật tự và an toàn xã hội,
Tuy nhiên, đứng trước những biến đổi hiện nay của đất nước, đại đa số
các em phần lớn đã được “tôi luyện” qua môi trường gian khổ, có bản lĩnh
chính trị vững vàng, có ý thức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm cao. Học viên

ở các trường nghề trong QĐ luôn giữ vững được mục tiêu, lý tưởng, ln có ý
thức tiếp nối truyền thống u nước, sẵn sàng vì lợi ích dân tộc và chủ quyền
quốc gia, tình nguyện vì cộng đồng, sống có trách nhiệm với gia đình và xã
hội, có ý chí vươn lên trong học tập muốn có việc làm và thu nhập ổn định và
mong muốn được tin tưởng.
Thực tế hiện nay, học viên đang theo học các trường TCN nói chung và
trường TCN trong QĐ nói riêng đang ở trong độ tuổi còn trẻ, thiếu kinh
nghiệm cuộc sống, trình độ học vấn của một bộ phận học viên còn thấp, thiếu
kiến thức, kỹ năng trong hội nhập. Đặc biệt các học viên là BĐXN lại vừa trải


×