Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên huyện yên định, tỉnh thanh hóa trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 121 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA

HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUN TRUYỀN

HỒNG THỊ CHÀO

VẤN ĐỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HUYỆN YÊN ĐỊNH,
TỈNH THANH HÓA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Ngành: Triết học
Mã số: 8229.001

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. Trần Hải Minh

Hà Nội, 2018


Luận văn đã được chỉnh sửa theo khuyến nghị của Hội đồng chấm
luận văn thạc sĩ.
Hà Nội, ngày 14 tháng 10 năm 2018
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG

PGS. TS. Nguyễn Minh Hoàn


LỜI CAM ĐOAN


Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của bản thân. Kết quả
nghiên cứu chưa được cơng bố ở bất kỳ cơng trình nghiên cứu nào.
Các số liệu, các trích dẫn trong luận văn được chú thích và có nguồn gốc rõ
ràng, trung thực. Tơi hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Hà Nội, ngày

tháng năm 2018

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Hoàng Thị Chào


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ,
ĐẢNG VIÊN HUYỆN YÊN ĐỊNH TỈNH THANH HÓA - MỘT SỐ VẤN
ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN .................................................................... 8
1.1. Cơ sở lý luận ........................................................................................... 8
1. 2. Cơ sở thực tiễn ..................................................................................... 43
Chương 2: GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ,
ĐẢNG VIÊN HUYỆN YÊN ĐỊNH, TỈNH THANH HÓA HIỆN NAY
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP................................................................. 70
2.1. Thực trạng của việc giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên
huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay ........................ 70
2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ,
đảng viên huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa hiện nay ................................ 92
KẾT LUẬN .................................................................................................. 107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 109



DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Biên chế và cơ cấu số lượng, chất lượng cán bộ, công chức làm việc
trong cơ quan Đảng, đoàn thể huyện ............................................... 45
Bảng 1.2: Biên chế và cơ cấu số lượng, chất lượng cán bộ, công chức làm
việc trong cơ quan hành chính huyện .............................................. 46
Bảng 1.3: Biên chế và số người làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập trực
thuộc Ủy ban nhân dân huyện ......................................................... 47
Bảng 1.4. Số lượng và chất lượng biên chế sự nghiệp giáo dục ..................... 48
Bảng 1.5. Số lượng và chất lượng cán bộ, công chức cấp xã ......................... 49
Bảng 2.1. Số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên Trung tâm bồi
dưỡng chính trị qua các nhiệm kỳ ................................................... 71
Bảng 2.2. Tổng hợp kết quả đào tạo, bồi dưỡng tại Trung tâm bồi dưỡng
chính trị huyện từ năm 2000 đến nay .............................................. 73
Bảng 2.3: Thống kê xử lý kỷ luật đảng viên qua các nhiệm kỳ ...................... 90

DANH MỤC BIỂU
Biểu đồ 2.1. Mức độ quan tâm về những thông tin đạo đức cách mạng ........ 76
Biểu đồ 2.2. Mức độ ảnh hưởng văn hóa văn nghệ ........................................ 82


DANH MỤC VIẾT TẮT

TT

Chữ viết tắt

Nghĩa của chữ viết tắt

01


CNXH

Chủ nghĩa xã hội

02

HĐND

Hội đồng nhân dân

03

UBND

Ủy ban nhân dân

04

MTTQ

Mặt trận Tổ quốc

05

UBKT

Ủy ban kiểm tra

06


LLCT

Lý luận chính trị

07

THCS

Trung học cơ sở

08

GDTX

Giáo dục thường xuyên


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội. Sự hình thành ý
thức đạo đức sẽ bị chi phối, tác động bởi nhiều yếu tố: bản thân, gia đình, mơi
trường xã hội. Trong đó những lý tưởng ý thức đạo đức cách mạng sẽ trở
thành nhân tố tích cực trong quá trình phát triển con người mới. Nói một cách
khác hơn, đạo đức cách mạng có sự tác động sâu xa đến tất cả các thuộc tính,
hình thành nhân cách: Cả thể lực, trí lực, năng lực, tình cảm, góp phần tạo nên
một nhân cách phát triển cho mỗi cá nhân với những đặc trưng vừa đáp ứng
yêu cầu của xã hội hiện nay vừa hướng tới việc hình thành con người mới xã
hội chủ nghĩa.

Để thúc đẩy đất nước phát triển theo mục tiêu của Đảng và nhân dân ta đã
lựa chọn, người cán bộ cách mạng phải có cả đức lẫn tài, trong đó đức là gốc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước,
khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân[39, tr.235]. Trong thời kỳ đất nước đang thực
hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, con người Việt Nam từng bước
được năng động hóa. Bản thân mỗi cá nhân phải tự điều chỉnh ý thức và hành
vi của mình, rèn luyện đạo đức cách mạng để có thể thích hợp với cơ chế mới,
thời kỳ mới.
Trong báo cáo chính trị Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta
thực sự đề cao nội dung xây dựng Đảng về đạo đức. Ngày 30 tháng 10 năm
2017, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành nghị quyết Trung ương
4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Vì vậy, chúng ta cần phải đặc biệt quan
tâm đến vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên hiện nay.


2
Bên cạnh đó, Đảng ta cũng xác định, hiện nay có một bộ phận khơng nhỏ cán
bộ, đảng viên có biểu hiện về suy thối đạo đức lối sống, vì lợi ích cá nhân,
thờ ơ với lý tưởng chính trị - xã hội. Trong đó là một bộ phận cán bộ, cơng
chức hiện nay nói chung và cán bộ, cơng chức trên địa bàn huyện n Định,
tỉnh Thanh Hố nói riêng có biểu hiện xa rời giá trị đạo đức truyền thống để
tiếp thu nền “văn hóa ngoại lai”, “thẩm mỹ nước ngoài” để tạo nên những "thị
hiếu" cho bản thân. Đối với họ, “cái đẹp” chính là ăn mặc "hớ hênh", ăn nói
“có gu”, sống chỉ biết bản thân mình, thờ ơ, vơ cảm trước mọi vấn đề của xã
hội, phá hủy những giá trị văn hóa, đặc biệt là những chuẩn mực đạo đức
của con người Việt Nam… Vì thế, hơn bao giờ hết, chúng ta cần phải coi

trọng giáo dục đạo đức cách mạng, hình thành những tình cảm, thị hiếu, lý
tưởng cách mạng đúng đắn, phù hợp với những giá trị chuẩn mực của dân tộc,
thúc đẩy họ vươn tới hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam đáp ứng u
cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Giáo dục đạo đức cách mạng là nội dung quan trọng trong hệ thống giáo
dục hiện nay, góp phần tích cực trong việc hình thành nhân cách, nâng cao
phẩm giá con người. Ngoài ra, giáo dục đạo đức cách mạng còn giúp mỗi cá
nhân có khả năng nhận ra và đánh giá đúng về vai trò của đạo đức cách mạng
cũng như hành động theo những quy luật của đạo đức. Chính những điều đó
sẽ mở ra cho mọi người nói chung, thế hệ trẻ đặc biệt là đội ngũ cán bộ, đảng
viên nói riêng khả năng tự hoàn thiện bản thân trên cơ sở các giá trị văn hoá
truyền thống của dân tộc được hun đúc từ xưa đến nay.
Trong việc giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên trên địa
bàn huyện n Định, tỉnh Thanh Hóa hiện nay thì Trung tâm bồi dưỡng chính
trị huyện giữ một vị trí, vai trò hết sức quan trọng. Bởi đây là nơi các học viên
là những cán bộ, đảng viên trên địa bàn huyện được bồi dưỡng lý luận chính
trị, đạo đức cách mạng có hệ thống theo quan điểm chỉ đạo của Đảng ta. Từ
đó, họ xây dựng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, trở thành


3
những người cán bộ “vừa hồng vừa chuyên”, đáp ứng u cầu cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, với tư cách là giảng viên làm nhiệm vụ
giáo dục chính trị tại Trung âm bồi dưỡng chính trị huyện, tôi lựa chọn “Vấn
đề giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên huyện Yên Định,
tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay’’ làm đề tài luận văn của mình,
mong góp phần thiết thực phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và
quản lý học viên tại Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện Yên Định ngày
càng đạt kết quả cao hơn, đồng thời đưa ra các nhóm giải pháp để nhằm nâng
cao hơn nữa vai trò giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên huyện

Yên Định trong giai đoạn hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu
Khi đất nước đang bước vào thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, với
những điều kiện mới, những chủ trương, chính sách mới: thời cơ, cơ hội nhiều,
nhưng nguy cơ và thách thức cũng không nhỏ. Đứng trước nhiệm vụ chính trị
mới rất nặng nề, khó khăn và phức tạp, đa số cán bộ, đảng viên vẫn giữ vững
và phát triển được phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng. Tuy nhiên, cũng
phải thấy một thực tế đáng lo ngại là có một bộ phận cán bộ bị thối hóa, biến
chất về đạo đức, lối sống, lợi dụng chức quyền để tham nhũng, buôn lậu, làm
giàu bất chính, lãng phí của cơng; quan liêu, ức hiếp dân, gia trưởng độc đoán;
cá nhân chủ nghĩa; hám chức quyền, cục bộ, kèn cựa địa vị, cơ hội. Giáo dục
đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên ngày càng có vai trò quan trọng
trong sự phát triển của con người, nó góp phần định hướng cho đạo đức, nhân
cách của chính cá nhân đó trong xã hội. Điều đó làm cho nhiều nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước quan tâm trực tiếp cũng như gián tiếp đến vấn đề giáo dục
đạo đức cách cho cán bộ, đảng viên.
Liên quan đến vấn đề giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục đạo đức
cách mạng nói riêng đã có nhiều cơng trình trong và ngồi nước nghiên cứu
như sau:


4
- Các nhà nghiên cứu Xô viết đặc biệt là A.F.Shishkin với "Nguyên lý
đạo đức học Mácxít" đã đặc biệt nhấn mạnh vai trò của đạo đức, coi những
phẩm chất đạo đức chính là cái cốt yếu nhất ở con người, tính cách con người.
Sau này G. Bandzeladze đã nghiên cứu kế thừa phát triển trong cơng trình
"đạo đức học" tập 2, trong đó nghiên cứu và làm rõ những vấn đề của khoa
học đạo đức (đạo đức là gì?, đạo đức phát sinh, phát triển ra sao?, nội dung
những phạm trù đạo đức là gì?)
- "Sự thay đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây

dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay" Hà Nội năm 1999
Nguyễn Chí Mỳ [48]; "Giáo dục đạo đức với việc phát huy nguồn lực của con
người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa" của Lê Thị Thủy, Tạp
chí Giáo dục lý luận số 3, năm 2000 [66]; Các tác giả đã đưa ra những thay đổi
giá trị đạo đức do sự tác động của nền kinh tế thị trường và vấn đề xây dựng
đạo đức mới đồng thời nêu lên những giải pháp để xây dựng những giá trị đạo
đức cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cũng như phát huy nguồn nhân lực con người
ở nước ta.
- "Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành phát triển nhân cách sinh viên
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay" Luận án Tiến sỹ Triết học của Trần Sỹ
Phán năm 1999 [52]; "Lý tưởng đạo đức và giáo dục lý tưởng đạo đức cho
thanh niên trong điều kiện hiện nay" của Đồn Văn Khiêm, Tạp chí Triết học
số 2, năm 2001 [31]. Các tác giả đã nêu lên vai trò của đạo đức đối với sự hình
thành phát triển nhân cách cho sinh viên, con người Việt Nam hiện nay đồng
thời đưa ra các giải pháp để giáo dục lý tưởng đạo đức cho thanh niên, sinh
viên hiện nay.
- "Quan hệ kinh tế và đạo đức với việc xây dựng đạo đức mới cho thế hệ
trẻ ở Việt Nam" Luận án Tiến sỹ của Nguyễn Đình Quế năm 2000 [58]; "Quan
hệ kinh tế và đạo đức trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay" của
Nguyễn Thế Kiệt, Tạp chí Triết học số 6, năm 1996 [32]; "Một số biểu hiện


5
của sự biến đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nay và giải pháp khắc phục" của Nguyễn Đình Tường, Tạp chí Triết học số 6,
năm 2002 [73]. Các tác giả đã nêu lên mối quan hệ biện chứng giữa truyền
thống và hiện đại, giữa kinh tế và đạo đức trong xây dựng những giá trị đạo
đức mới đặc biệt tác động đối với giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam
hiện nay đồng thời nêu lên những giải pháp khắc phục những tác động tiêu cực
của nền kinh tế thị trường đến các giá trị đạo đức con người Việt Nam.

- "Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo với sự hình thành nhân cách của
con người Việt Nam hiện nay" của Lê Thị Thủy, Tạp chí Nghiên cứu lý luận số
6, năm 1999 [67]; tác giả đã nêu lên ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với
sự hình thành nhân cách của con người.
- "Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và giáo dục, rèn luyện đạo đức trong
nền kinh tế thị trường" của Hồng Trung, Tạp chí Triết học số 5, năm 1998
[71]; Tác giả đã nêu lên quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục, rèn
luyện đạo đức trong nền kinh tế thị trường cũng như những biểu hiện của
những giá trị đạo đức trong đời sống xã hội hiện nay.
- "Giáo dục đạo đức cách mạng trong thời kỳ mới", Ban Tuyên giáo
Trung ương, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, năm 2017 [5] đã đưa ra một hệ
thống các khái niệm đạo đức cơ bản nhằm xây dựng nền tảng tinh thần của xã
hội, phát huy vai trò đạo đức trong đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
và phát triển đất nước.
- "Giáo dục đạo đức cách mạng trong cán bộ, đảng viên hiện nay, thực
trạng và giải pháp" của Đào Duy Quát, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội năm
2004 [57] đã nêu ra các quan điểm, nhận thức đúng đắn và bổ ích về đạo đức,
lối sống đúng đắn, lành mạnh trong xã hội hiện nay.
- "Công tác giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên trên địa bàn Hà
Tĩnh" luận văn Thạc sỹ của Trần Quốc Đạt năm 2014 [22], tác giả đã nêu lên
quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của


6
Đảng ta về đạo đức cách mạng đồng thời nêu lên thực trạng và một số giải
pháp trong công tác giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên nói chung và
thanh niên trên địa bàn Hà Nội nói riêng.
- "Vấn đề giáo dục đạo đức cho thanh niên Thanh Hóa trong giai đoạn
hiện nay" luận văn Thạc sỹ của Tô Thị Nhung năm 2006 [50]. Tác giả đã nêu
lên tầm quan trọng và yêu cầu, nội dung giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh

niên Thanh Hóa đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả dục
đạo đức cho thanh niên Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay.
Như vây, giáo dục đạo đức cách mạng là một vấn đề lớn và vô cùng phức
tạp, đặt ra nhiều khía cạnh thiết thực cần được làm rõ hơn nữa. Các cơng trình
nghiên cứu chủ yếu ở góc độ xây dựng Đảng mà ít nghiên cứu về phương diện
triết học. Từ đó, đề ra nhiệm vụ và nhóm giải pháp cần thực hiện góp phần nâng
cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ những nội dung cơ bản về giáo dục đạo
đức cách mạng, khảo sát thực trạng đạo đức và giáo dục đạo đức cách mạng
đội ngũ cán bộ, đảng viên trên địa bàn huyện, từ đó đề ra một số giải pháp cụ
thể nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng
viên huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về đạo đức và đạo đức cách mạng
- Làm rõ thực trạng, thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những
thành tựu, hạn chế trong giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên
huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức
cách mạng cho cán bộ, đảng viên huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa trong giai
đoạn hiện nay.


7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên
huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên
huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay. Thời gian khảo sát
từ năm 2000 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích
và tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa và khái quát hóa, thống kê và chú giải tài
liệu, phương pháp điều tra, phương pháp tham vấn chuyên gia.
6. Đóng góp mới của luận văn
Xác lập cơ sở khoa học làm luận chứng cho việc giảng dạy, giáo dục, rèn
luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên huyện Yên Định, tỉnh Thanh
Hóa trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung chính của luận văn được bố cục làm 2 chương và 4 tiết.


8
Chương 1
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN
HUYỆN YÊN ĐỊNH TỈNH THANH HÓA - MỘT SỐ VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Latinh- mos (moris) có
nghĩa là lề thói. Đạo đức với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học nên
tư tưởng đạo đức đã sớm xuất hiện trong các học thuyết triết học phương
Đông và phương Tây. Theo quan niệm triết học phương Tây, đạo đức có gốc

từ thuật ngữ dùng để chỉ tập quán, lề thói, những phương thức ứng xử được xã
hội thừa nhận. Triết học phương Đông và đặc biệt là theo quan niệm triết học
Trung Quốc cổ đại thì “Đạo đức” là một cụm từ được ghép bởi “Đạo” và
“Đức”. “Đạo” có nghĩa là quy luật, con đường và “Đức” là nhân đức, tình
nghĩa con người, đức là biểu hiện của đạo. Do vậy, họ đã quan niệm đạo đức
chính là quy luật sống của con người theo luân lý, nhân nghĩa, là những
nguyên tắc do cuộc sống đặt ra và mỗi người phải tuân theo.
Trong từ điển Tiếng Việt đạo đức được định nghĩa như sau: “Đạo đức là
những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành
vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội. Theo nghĩa hẹp, đạo
đức là phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn
đạo đức mà có” [76,tr.280]. Trong giáo trình đạo đức học của Học viện Chính
trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh định nghĩa: “Đạo đức là một hình thái
ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm
điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và
quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền
thống dân tộc và sức mạnh của dư luận xã hội” [34, tr.8].


9
Có thể thấy rằng có rất nhiều cách tiếp cận và đưa ra khái niệm đạo đức.
Tuy nhiên, có thể rút ra một số ý nghĩa sau trong nội hàm đạo đức:
Cách tiếp cận đạo đức từ góc độ nguyên tắc, quy tắc xã hội thì đạo đức
mang tính cộng đồng sâu sắc. Đạo đức không chỉ là nguyên tắc của một cá
nhân mà còn là nguyên tắc của cộng đồng. Đạo đức tồn tại như một cơ chế
“bên ngoài” xã hội, điều chỉnh hành vi của cá nhân sống trong xã hội không
phải theo kiểu cưỡng bức mà cá nhân tuân theo những nguyên tắc ấy hoàn
toàn tự nguyện, tự giác. Đây chính là đặc trưng của đạo đức và cũng là một
sức mạnh của đạo đức. Song vấn đề đặt ra là làm thế nào để những nguyên tắc
xã hội ở “bên ngồi” chuyển hóa thành những ngun tắc “bên trong” của chủ

thể hành vi, từ đó để chủ thể tự bắt buộc bản thân mình phải thực hiện theo
nguyên tắc đó và liệu nguyên tắc “bên trong” của chủ thể hành vi có trùng với
những nguyên tắc “bên ngồi” của xã hội khơng hay do hấp thu từ bên ngồi?
Những ngun tắc ấy có phù hợp với bộ nguyên tắc đạo đức của xã hội
không? Vấn đề này chỉ có thể được lý giải khi tiếp cận đạo đức với tư cách là
một hình thái ý thức xã hội.
Tiếp cận đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức là
“tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và
đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã
hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh
của dư luận xã hội” hay “ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện,
ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng...và về những quy
tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân
với cá nhân trong xã hội” [47]
Khi xem xét đạo đức là một hình thái ý thức xã hội thì đạo đức đã được
nhìn nhận là sản phẩm tinh thần của xã hội, phản ánh tồn tại xã hội trong một
giai đoạn lịch sử cụ thể và khi ấy mối quan hệ giữa đạo đức cá nhân và đạo
đức xã hội sẽ có thể được cắt nghĩa qua mối quan hệ giữa ý thức cá nhân và ý
thức xã hội, ý thức xã hội không tồn tại ở đâu khác ngoài ý thức cá nhân, còn


10
ý thức cá nhân không chỉ bao gồm và không thể bao chứa hết ý thức xã hội. Ý
thức cá nhân và ý thức xã hội có thể chuyển hóa lẫn nhau, xã hội hóa ý thức
cá nhân và cá nhân hóa ý thức xã hội, nghĩa là đạo đức cá nhân có thể được xã
hội hóa thành đạo đức xã hội và đạo đức xã hội có thể được cá nhân hóa trong
đạo đức cá nhân.
Tiếp cận đạo đức với tư cách một hệ thống giá trị, hệ thống phẩm chất
cấu thành nhân cách cá nhân. Đạo đức này khơng tồn tại ngồi nhân cách cá
nhân, nó hình thành nên nhân cách con người cụ thể trong xã hội như lòng

nhân ái, tình yêu quê hương, đất nước, thiên nhiên... nó được đánh giá, nhận
thức qua hành động của cá nhân đó và bộc lộ qua những mối quan hệ xã hội
của cá nhân trong quá trình hoạt động của mình.
Như vậy, chúng ta thấy rằng, đạo đức với tư cách là hệ thống nguyên tắc,
chuẩn mực xã hội, một hình thái ý thức xã hội và thuộc tính của nhân cách.
Phẩm chất đạo đức cá nhân không chỉ bộc lộ qua ý thức về việc thiện mà cao
hơn, nó còn đòi hỏi phải được bộc lộ qua hành vi thiện được cá nhân đó thực
hiện, có thể thơng qua hành vi đạo đức để xác định phẩm chất đạo đức cá nhân.
Theo quan niệm lý luận duy vật lịch sử thì đạo đức là một hình thái ý thức
xã hội, xuất hiện sớm nhất trong lịch sử loài người. Đạo đức là tổng hợp những
quan niệm về thiện, ác, trung thực, giả dối, đáng khen, đáng chê, ... cùng với
những quy tắc phù hợp với những quan niệm đó, nhằm điều chỉnh hành vi của
con người đối với xã hội, đối với giai cấp, đối với Đảng và đối với người khác.
Nói tóm lại, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội; một hệ thống quy
tắc, chuẩn mực xã hội điều chỉnh và đánh giá hành vi của con người trong
mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội và cá nhân với cá nhân trong xã hội theo
hướng giảm bớt và loại trừ cái ác, cái tác hại tới con người. Đạo đức cũng
được hiểu là mặt của nhân cách; là tập hợp những phẩm chất đạo đức, giá trị
đạo đức do cá nhân đó lĩnh hội và rèn luyện trong quá trình hoạt động sống,
quá trình phát triển nhân cách của mình.


11
Đạo đức là một hiện tượng xã hội có cấu trúc phức tạp, bao gồm các
thành tố cơ bản là: Ý thức đạo đức, hành vi đạo đức và quan hệ đạo đức.
Ý thức đạo đức:
Ý thức đạo đức tồn tại ở nhiều trình độ khác nhau. Đó là những quan
niệm của cá nhân, nhóm xã hội, giai cấp, tầng lớp...hay của cả dân tộc, của cả
thời đại về chuẩn mực sống, chuẩn mực quan hệ xã hội. Những quan niệm
đơn lẻ, thiếu hệ thống của mỗi cá nhân được khái quát trở thành hệ thống quy

tắc đối nhân xử thế, hình thành hệ quan điểm về các phẩm chất đạo đức.
Những phẩm chất đó đóng vai trò như là lý tưởng đạo đức mà mọi người
hướng tới, được cụ thể hóa thành các tiêu chuẩn đạo đức. Đỉnh cao trong sự
phát triển của ý thức đạo đức như: lương tâm, danh dự, nghĩa vụ, trách nhiệm,
lý tưởng, tình yêu... Tồn bộ những yếu tố đó được thẩm thấu vào mỗi cá
nhân, trở thành nhân tố thường trực trong ứng xử hàng ngày của họ, trở thành
tình cảm đạo đức
Tình cảm đạo đức có vị trí đặc biệt quan trọng trong chuyển đổi các quan
niệm, chuẩn mực, giá trị đạo đức thành hành vi đạo đức một cách tự nguyện.
Việc hiện thực hóa tình cảm đạo đức thơi thúc chủ thể khơng chỉ tự đấu tranh
với bản thân mình mà còn đấu tranh khắc phục mọi lực cản để thực hiện hành
vi đạo đức mong muốn. Sự quyết tâm vượt qua mọi lực cản bên trong và bên
ngồi đó làm cho tình cảm đạo đức được thực hiện thành ý thức đạo đức.
Trong các yếu tố cấu thành nội dung ý thức đạo đức, có nhiều yếu tố
mang tính chung cho tồn nhân loại, ít có sự khác biệt về khách thể và chủ thể
của mỗi quốc gia, dân tộc. Mặt khác, trong đời sống hiện thực, những cái
chung, phổ biến của đạo đức có nội dung, tính chất, biểu hiện cụ thể, khơng
hồn tồn như nhau trong các chế độ xã hội, cũng như đối với từng cá nhân.
Hành vi đạo đức
Hành vi đạo đức là ứng xử thực tế của con người, thể hiện ý thức đạo
đức trong mối quan hệ đối với bản thân, đối với người khác và đối với tự
nhiên dưới cả hình thực trực tiếp và gián tiếp.


12
Thông qua những ứng xử của con cái trong mối quan hệ trực tiếp với bố
mẹ, với vợ, với con, với người khác trong xã hội...có thể nói lên phẩm chất
đạo đức của chủ thể hành vi đó đối với người thân, người xung quanh. Hay
trong một số trường hợp khác, thông qua hành vi đối với vật (thiên nhiên hay
sản phẩm do con người tạo ra) cũng cho biết thái độ đạo đức của con người

đối với thế hệ trước hoặc sau, đối với người khác trong cùng thế hệ. Thơng
qua hành vi đối xử với tự nhiên, có thể đoán biết về quan niệm đạo đức của
một con người, hình thành nên khái niệm như “hành vi đạo đức sinh thái”
Quan hệ đạo đức
Quan hệ đạo đức là những quan hệ xã hội, tác động qua lại giữa người
với người, giữa cá nhân và xã hội xét về mặt đạo đức. Quan hệ đạo đức có sự
thẩm thấu vào các quan hệ xã hội khác nên đạo đức có mặt ngay trong quan
hệ xã hội, hình thành các hình thái đạo đức như: đạo đức chính trị, đạo đức
công dân, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức kinh doanh...
Trong tồn bộ q trình phát triển lịch sử của nhân loại cũng như trong
mỗi hình thái kinh tế - xã hội nhất định, quan hệ đạo đức cũng có sự biến
đổi. Quan hệ đạo đức vận động, biến đổi theo quá trình phát triển của xã
hội. Trong một giai đoạn lịch sử nhất định hay trong mỗi hình thái kinh tế xã hội nhất định, hệ giá trị đạo đức của một giai cấp cũng có sự vận động
và phát triển.
Khái niệm đạo đức cách mạng
Cách mạng (cách mệnh) là sửa đổi chế độ cũ cho tốt đẹp hơn hay thay
thế chế độ cũ bằng chế độ mới tốt đẹp hơn. Theo Hồ Chí Minh “cách mạng là
đổi mới”. Như vậy, có thể hiểu cách mạng là sự thay thế, cách tân, sự đổi
mới. Đạo đức cách mạng chính là nền đạo đức mới tốt đẹp hơn nên đạo đức
trước đó. Đạo đức cách mạng ở đây chính là đạo đức của giai cấp công nhân đạo đức cộng sản.


13
Trong lịch sử phát triển tự nhiên của xã hội lồi người đã trải qua năm hình
thái kinh tế xã - hội khác nhau, mỗi hình thái kinh tế - xã hội tương ứng với một
nền đạo đức khác nhau được xây dựng trên một cơ sở hạ tầng tương ứng. Cho
đến nay, xã hội loài người đã trải qua bốn kiểu đạo đức chính đó là đạo đức
cộng sản nguyên thủy, đạo đức chiếm hữu nô lệ, đạo đức phong kiến, đạo đức tư
sản và hiện đang xây dựng một nền đạo đức mới - đạo đức xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình lịch sử của mình, con người luôn khao khát và hướng tới

một xã hội thực sự tốt đẹp. Con người được đối xử bình đẳng, được quan tâm
chia sẻ, thương yêu nhau. Một xã hội mà con người luôn hướng tới cái chân –
thiện - mỹ. Do đó mà con người cần một nền đạo đức mới tốt đẹp hơn, nhân
văn hơn. Điều đó chỉ thực hiện được trong đạo đức cách mạng, đó là một nền
đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó khơng phải vì danh vọng cá nhân mà vì lợi
ích chung của Đảng, của dân tộc, của lồi người. Đó là thứ đạo đức luôn
hướng con người tới những hành động tốt đẹp vì Đảng, vì nhân dân, vì Tổ
quốc và vì sự tiến bộ của mỗi con người.
Vì vậy, đạo đức cách mạng có vai trò rất lớn trong đời sống xã hội. Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải
có những con người xã hội chủ nghĩa. Đó là những con người thơng minh, sáng
tạo, giàu lòng vị tha, nhân đạo; có tinh thần yêu thương con người rộng lớn; có
tinh thần trách nhiệm với Tổ quốc và nhân dân. Xã hội xã hội chủ nghĩa sẽ là
một xã hội phát triển hài hòa, con người được đối xử công bằng và có tình
người. Nhưng muốn có con người xã hội chủ nghĩa trước hết phải giáo dục đạo
đức cách mạng cho họ. Đạo đức cách mạng với những chuẩn mực phù hợp với
lợi ích cơng đồng vì tiến bộ của lồi người, nó sẽ góp phần định hướng cho con
người tới những giá trị tốt đẹp, hoàn thiện nhân cách của con người.
Đạo đức cách mạng là đạo đức mới, đạo đức của thời đại và của đông
đảo quần chúng nhân dân. Nó bao gồm những quy tắc, chuẩn mực phù hợp
với truyền thống, hợp với lòng dân và sự tiến bộ của con người. Vì vậy, đạo


14
đức cách mạng sẽ điều chỉnh hành vi, hoạt động của con người, làm cho nó
phù hợp với đời sống nhân dân, sự tiến bộ của nhân loại; qua đó duy trì ổn
định và phát triển xã hội.
Đạo đức là một lĩnh vực đời sống văn hóa tinh thần. Do vậy, đạo đức cách
mạng sẽ là một nhân tố quan trọng trong xây dựng nếp sống văn hóa mới. Nó sẽ
là chất keo hữu hiệu trong xây dựng tình đồn kết, gắn bó giữa các thành viên

trong cộng đồng xã hội, trực tiếp góp phần bảo tồn những truyền thống quý báu
của dân tộc, như truyền thống yêu nước, thương dân, yêu lao động…
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là trung với nước, hiếu
với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa
xã hội, nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù
nào cũng đánh thắng; là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; luôn yêu
thương, quý trọng con người, sống có tình, có nghĩa và tinh thần quốc tế trong
sáng… Và đạo đức cách mạng là cái gốc của nhân cách, là nền tảng của người
cách mạng. Người viết: “Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có
nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách
mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơng lãnh
đạo được nhân dân” [39, tr. 252,253]
Quan niệm chung của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng Việt
Nam gồm những điểm cơ bản sau đây
Một là, trung với nước hiếu với dân.
Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm
chất khác.
Từ khái niệm cũ "trung với vua, hiếu với cha mẹ" trong đạo đức truyền
thống của xã hội phong kiến phương Đơng, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội
dung mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước hiếu
với dân”. Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.


15
“Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do
của Tổ quốc vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn
nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”[46, tr.435]. Câu nói đó của
Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị - đạo đức
cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng
trước mắt, mà còn lâu dài về sau.

Hai là, yêu thương con người
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất tồn diện và độc đáo. Hồ
Chí Minh đã xác định tình u thương con người là một trong những phẩm
chất đạo đức cao đẹp nhất. Người dành tình yêu thương rộng lớn cho những
người cùng khổ. Những người lao động bị áp bức bóc lột, Người viết: "Tơi
chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn
áo mặc, ai cũng được học hành" [38, tr.161,162]
Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của Người, khơng phân
biệt họ ở miền xuôi hay miền ngược, là trẻ hay già, trai hay gái... hễ là người
Việt Nam u nước thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của Người.
Tình yêu thương của Người còn thể hiện đối với những người có sai lầm
khuyết điểm. Với tấm lòng bao dung của một người cha, Người căn dặn,
chúng ta: Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm cho
phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất
dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật
xấu, từ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ
bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác,
chứ không phải đập cho tơi bời.
Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng: Phải có tình đồng chí thương u
lẫn nhau, nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu
thương con người


16
Ba là, cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư.
Trước hết, nói về “cần”: Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao
động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực
cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao
động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta.

Trong xã hội ta, khơng có nghề nào kém, chỉ những kẻ lười biếng, ỷ lại mới
đáng xấu hổ. Người nấu bếp, người quét rác cũng như thầy giáo, kỹ sư, nếu
làm tròn trách nhiệm thì đều vẻ vang như nhau " [45, tr.69].
Đối với người cán bộ, đảng viên cấp cơ sở phải chuyên cần, yêu mến,
say mê với công việc mà Đảng và nhân dân giao phó, phải chuyên cần trong
học tập, suy nghĩ, biết tìm tòi, sáng tạo, đổi mới tư duy để không ngừng tăng
năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc. Phải thực hiện tốt lời dạy của
Bác: Làm việc phải đến đúng giờ, chớ đến trễ về sớm. Làm cho chóng, cho
chu đáo. Việc ngày nào nên làm xong ngày ấy, chớ để ngày mai. Phải nhớ
rằng, “Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng, đều là mồ
hôi, nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy, chúng ta phải đền bù xứng đáng
cho dân”[40, tr. 92]
Kiệm: tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của
của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ,
nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; "khơng xa xỉ, khơng hoang phí, khơng bừa
bãi", khơng phơ trương hình thức, khơng liên hoan, chè chén lu bù. Tiết kiệm
ở đây không đồng nghĩa với bủn xỉn, hà tiện.
Đối với người cán bộ, đảng viên cơ sở hiện nay, thực hành tiết kiệm phải
được xem như phương châm của cuộc sống vì cách mạng, vì đất nước, vì
hạnh phúc của nhân dân, cần phải được thực hành hàng ngày, thường xuyên,
bền bỉ.
Liêm: tức là thanh liêm, không tham ô, "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của
cơng và của dân"; "khơng xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước,


17
của nhân dân". Phải "trong sạch, không tham lam". "Không tham địa vị.
Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Khơng ham người tâng bốc
mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, khơng bao giờ hủ hố".Theo Bác,
những người làm việc trong bộ máy nhà nước rất dễ có cơ hội tham ơ, tham

nhũng. Đó là khi họ nắm trong tay quyền hành nhưng “thiếu lương tâm”,
không giữ được chữ cần, kiệm, liêm, chính. Vì vậy, Bác u cầu “những
người trong công sở phải lấy liêm làm đầu”, phải rũ bỏ lòng tham không chỉ
đối với tiền bạc, vật chất mà đối với danh vọng, địa vị, chức tước.
Chính: "nghĩa là khơng tà, thẳng thắn, đứng đắn". Đối với mình: khơng
tự cao, tự đại, ln chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát
triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người: khơng nịnh hót người trên, khơng xem khinh người dưới,
ln giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.
Bác dặn người cán bộ cơng chức “mình là người làm việc cơng, phải có
cơng tâm, cơng đức. Chớ đem của cơng dùng vào việc tư. Chớ đem người tư làm
vào việc cơng. Việc gì cũng phải cơng minh, chính trực, khơng nên vì tư ân, tư
huệ hay tư thù, tư ốn. Mình có quyền dùng người thì phải dùng những người có
tài năng, làm được việc. Chớ vì bà con, bầu bạn mà bổ nhiệm họ vào chức nọ,
chức kia. Chớ vì sợ mất lòng mà dìm những kẻ có tài hơn mình” [39, tr. 105]
Chí cơng vơ tư: là chính tâm, là thân dân, có ý thức phục vụ nhân dân, đặt
lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc, của Đảng lên trên hết. Người nói: "Đem
lòng chí cơng vơ tư mà đối với người, với việc". “Khi làm bất cứ việc gì cũng
đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”; phải "lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ" [39, tr.291]. Bác thường nhắc: làm cán bộ không
phải để vinh thân phù gia, không phải để làm quan phát tài mà để phụng sự đất
nước, phụng sự nhân dân.


18
Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư có quan hệ mật thiết với nhau.
Điều 15, Luật cán bộ công chức năm 2008 quy định về đạo đức của người cán
bộ, công chức “cán bộ công chức phải thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng vơ tư trong hoạt động cơng vụ”. Bằng chính hành động, việc làm cụ thể,

bằng tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư sẽ là cơ sở để người
cán bộ, đảng viên thuyết phục, quy tụ nhân dân và các tổ chức quần chúng
thực hiện tốt mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
nhà nước.
Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng. Đó là, tinh thần đồn kết quốc tế vơ
sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề "Bốn phương vô sản đều là anh
em"; là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các
nước, mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực
tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc.
Khái niệm cán bộ, đảng viên
Theo quan điểm của Đảng ta thể hiện trong các văn kiện: Cán bộ bao
gồm tất cả cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong các tổ chức của hệ
thống chính trị, lực lượng vũ trang, các doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị sự
nghiệp công lập; những người được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ
lãnh đạo, quản lý và những người làm công tác chuyên môn, nghiệp vụ trong
các tổ chức thuộc phạm vi công tác tổ chức và cán bộ của Đảng.
Hiện nay, đội ngũ cán bộ gồm bốn loại chính:
Một là cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
và các đồn thể chính trị - xã hội.
Hai là cán bộ lãnh đạo, chỉ huy trong lực lượng vũ trang.
Ba là cán bộ tham mưu, khoa học, chuyên gia trong các cơ quan tham
mưu, các đơn vị sự nghiệp công lập.
Bốn là cán bộ quản lý sản xuất, kinh doanh trong các doanh nghiệp, tổ
chức kinh tế nhà nước.


19
Theo Luật Cán bộ, công chức: Cán bộ bao gồm những người do bầu
cử, đề bạt, bổ nhiệm để giữ một chức vụ nhất định trong cơ quan nhà nước,
các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.

Đặc điểm của cán bộ là những người được bầu cử, đề bạt, bổ nhiệm để
giữ một chức vụ nhất định trong cơ quan của Đảng, cơ quan nhà nước, các
đồn thể chính trị - xã hội thuộc hệ thống chính trị nước ta. Đó là những
người làm cơng tác lãnh đạo, quản lý của một tổ chức trong hệ thống chính
trị, hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Đảng viên là người gia nhập và được kết nạp vào tổ chức Đảng đồng
thời sinh hoạt tại tổ chức này.
Điều 1, Điều lệ Đảng khẳng định: Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của
Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hồn
thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật
thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đồn kết thống
nhất trong Đảng [23]
Giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên
Coi bản chất con người là tổng hồ các quan hệ xã hội, C.Mác đã chỉ ra
tính quy định của các điều kiện kinh tế - xã hội, và cùng với điều đó là giáo
dục đạo đức đối với sự hình thành nhân cách và nhân cách đạo đức. Như vậy,
lần đầu tiên trong lịch sử, C.Mác đã đem lại cho khái niệm giáo dục đạo
đức một phạm vi khái quát rộng lớn với tư cách quá trình hình thành và phát
triển những năng lực, những phẩm chất đạo đức của con người; do đó, làm
cho nó có nội dung đầy đủ và phong phú hơn. Giáo dục đạo đức, theo nghĩa
rộng là sự hình thành đạo đức, không quy giản chỉ về việc truyền đạt, dạy dỗ


×