Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Giảng dạy môn giáo dục công dân với sự hình thành, phát triển nhân cách học sinh trung học phổ thông ở nước ta hiện nay (qua thực tế tỉnh tuyên quang)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.46 KB, 96 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng
cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” [39, tr.222]. Tư tưởng đó của Chủ
tịch Hồ Chí Minh cho thấy tầm quan trọng của giáo dục - đào tạo đối với sự
phát triển nguồn lực con người. Tiếp thu tinh thần đó, Đảng ta coi giáo dục và
đào tạo là quốc sách hàng đầu, có nhiệm vụ: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực
và bồi dưỡng nhân tài nhằm cung cấp cho đất nước nguồn nhân lực có chất
lượng ngày càng cao phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Để thực hiện được nhiệm vụ trên, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra mục
tiêu chung cho giáo dục hiện nay ở Việt Nam “là đào tạo con người phát triển
toàn diện có đạo đức, trí tuệ, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành
với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng
nhân cách, phẩm chất, năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc” [46]. Trong đó mục tiêu giáo dục - đào tạo của nhà trường
phổ thông Việt Nam hiện nay là:
giúp học sinh phát triển tồn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính
năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn
bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động,
tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [46].
Để đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, chúng ta cần đầu tư xây
dựng và phát triển nhân cách con người một cách toàn diện cả đức lẫn tài. Tại
Đại hội sinh viên lần thứ hai (ngày 7-5-1958) Bác Hồ đã từng căn dặn: thanh
niên bây giờ “phải có đức, có tài. Có tài mà khơng có đức…thì chẳng những
khơng làm được gì ích lợi cho xã hội, mà cịn có hại cho xã hội nữa. Nếu có
đức mà khơng có tài…cũng khơng lợi gì cho loài người”.



2
Trong điều kiện chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường và hội nhập thế
giới, bên cạnh những thành tựu mà chúng ta đã đạt được, hiện tại chúng ta
đang phải đối mặt với khơng ít khoa khăn, thách thức. Đó là nạn ơ nhiễm mơi
trường; là tình trạng tham nhũng chưa được kiểm sốt một cách hiệu quả; đó
là sự tha hóa về phẩm chất đạo đức, lối sống của một bộ phận khơng nhỏ dân
cư, trong đó có là học sinh trung học phổ thông (THPT).
Nạn bạo lực học đường; tình trạng thiếu trung thực trong học tập, thậm
chí có tình trạng học sinh vi phạm pháp luật một cách nghiêm trọng. Báo
Pháp luật Việt Nam ngày 27-9-2010 đưa tin, Lê Ngọc Đức, học sinh lớp
11A5 trường Trung học Phổ thông bán công Nguyễn Thị Lợi (thị xã Sầm
Sơn, Thanh Hóa) đã dùng dao chém thầy giáo Đới Xuân Hải, giáo viên dạy
môn thể dục của trường, khi Lê Ngọc Đức bị thầy Đới nhắc nhở vì bỏ giờ học
thể dục.
Báo Lao động, ngày 27-9-2013 cho biết, tại cuộc hội thảo “Thực trạng
văn hóa học đường và nhu cầu giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung
học” tổ chức tại Đà lạt ngày 24-9-2013, GS,TSKH Trần Ngọc Thêm - Giám
đốc trung tâm văn hóa lý luận và ứng dụng- Đại học Quốc gia Thành phố Hồ
Chí Minh - cho biết, tỷ lệ nói dối cha mẹ ở học sinh ngày càng tăng theo cấp
học và trình độ đào tạo: Cấp 1 tỷ lệ này là 22%; cấp 2 là: 50%; học sinh cấp 3
(tức học sinh trung học phổ thông) là: 64% và ở sinh viên là 80%. Chỉ một vài
con số trên đây đã cho thấy sự xuống cấp nghiêm trọng về đạo đức, lối sống
trong một bộ phận học sinh, sinh viên nước ta hiện nay. Đứng trước thực
trạng đó, việc giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh là một trong những vấn
đề cấp thiết hiện nay. Nhiệm vụ này được thực hiện ở tất cả các mơn học,
thơng qua các hình thức giáo dục trong nhà trường và ngoài xã hội. Trong đó,
mơn Giáo dục cơng dân là mơn học có tác động trực tiếp giáo dục cho học
sinh những tri thức hết sức cơ bản để hình thành và phát triển nhân cách, đặc
biệt là thành tố đạo đức trong cấu trúc nhân cách học sinh.



3
Trong những năm qua, đa số học sinh Tuyên Quang luôn phát huy truyền
thống hiếu học, ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh Tuyên Quang đã đạt được
nhiều thành tựu đáng khích lệ trong phong trào giáo dục của cả nước. Tuy
nhiên, giáo dục cấp THPT vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém, bất cập, kết quả
giáo dục nhân cách cho học sinh THPT qua môn Giáo dục công dân nhìn
chung cịn thấp.
Thực trạng đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống của một bộ phận khơng
nhỏ học sinh có những biểu hiện đáng lo ngại: nhận thức lệch chuẩn, mờ nhạt
lý tưởng, lối sống thực dụng, đua đòi, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp.
Nhiều học sinh đã sa ngã vào những tệ nạn xã hội, tiếp cận với những thơng
tin khơng lành mạnh, hư hỏng, bị xói mịn và băng hoại về tâm hồn và thể
xác. Tình trạng vi phạm pháp luật, xuống cấp về đạo đức, nhân cách trong lứa
tuổi học trò đã và đang ngày càng tiếp diễn. Đây là tiếng chuông báo động đối
với công tác giáo dục của tỉnh nhà.
Vì vậy, việc hình thành, phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh THPT
là một trong những vấn đề được đặt ra hết sức cấp thiết. Đây cũng là nhiệm vụ
và mục tiêu cơ bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) nước ta nói chung và
tỉnh Tuyên Quang nói riêng trong giai đoạn hiện nay đang hướng tới.
Với mong muốn góp một phần nhỏ bé của mình vào việc nâng cao vị trí,
vai trị, hiệu quả giáo dục nhân cách cho học sinh THPT ở nước ta hiện nay,
thông qua chất lượng giảng dạy và học tập bộ môn Giáo dục công dân, tác giả
chọn đề tài: “Giảng dạy môn Giáo dục cơng dân với sự hình thành, phát
triển nhân cách học sinh trung học phổ thông ở nước ta hiện nay (qua thực
tế tỉnh Tuyên Quang)’’, làm đề tài luận văn thạc sỹ triết học, chuyên ngành
Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thông qua giảng dạy môn Giáo dục cơng dân để hình thành và phát triển
nhân cách cho học sinh THPT là một nội dung rất quan trọng trong chiến lược



4
giáo dục - đào tạo con người của Đảng và Nhà nước ta. Trong thời gian qua, đã
có nhiều cơng trình nghiên cứu về giáo dục nhân cách dưới những góc độ
khác nhau, có giá trị nhất định về mặt lý luận và thực tiễn. Cụ thể là:
Đề tài mang mã số NN7: “Cải tiến công tác giáo dục tư tưởng, chính trị,
đạo đức và lối sống cho học sinh, sinh viên trong hệ thống giáo dục quốc dân”
do Phạm Tất Dong làm chủ nhiệm nghiên cứu về nhân cách nói chung, về giáo
dục đạo đức, chính trị và tư tưởng trong các trường từ tiểu học đến đại học
những năm đầu của thập kỷ 90.
Các đề tài do Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm mang mã số: KX-07.01.
“Phương pháp luận nghiên cứu con người” (1991 -1995); KHXH-04.“Phát
triển toàn diện con người Việt Nam trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa” (1996 - 2000); KH-05.07. “Xây dựng con người Việt Nam theo định
hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế thị trường” (2001-2005).
nghiên cứu về con người với tư cách là mục tiêu và động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội; nghiên cứu đạo đức trong cấu trúc nhân cách, thực hiện giáo
dục đạo đức trong q trình phát triển nhân cách, xem đó như là mục tiêu
quan trọng nhất của giáo dục.
Ngoài ra cịn có một số đề tài, luận văn thạc sỹ, luận án tiến sĩ khác
nghiên cứu đến vấn đề đạo đức, nhân cách học sinh, sinh viên như:
Nghiên cứu sự biến đổi của đạo đức và thang giá trị đạo đức trong nền
kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta có các tác giả, như: PGS.TS Nguyễn Chí
Mỳ: "Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với
việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay”, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999; Nguyễn Văn Lý: "Kế thừa và đổi mới giá
trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam hiện nay", Luận án Tiến sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, năm 2000; GS.TS Nguyễn Ngọc Long: "Quán triệt mối quan hệ biện

chứng giữa kinh tế và đạo đức trong việc đổi mới tư duy", Tạp chí nghiên cứu


5
lý luận, tháng 2- 1987; TS Nguyễn Thế Kiệt: "Quan hệ giữa kinh tế và đạo đức
trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay", Tạp chí Triết học 6/1996;
PGS.TS Nguyễn Tĩnh Gia: "Sự tác động hai mặt của cơ chế thị trường đối với
đạo đức người cán bộ quản lý", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 2/1997; Nguyễn
Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc (2003), “Mấy vấn đề đạo đức trong điều
kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
Huỳnh Khái Vinh (2001), “Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị
xã hội”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội... Nhìn chung, các cơng trình nghiên
cứu này góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ giữa đạo đức với nền kinh tế thị
trường, quan hệ giữa đạo đức với sự hình thành nhân cách con người Việt
Nam hiện nay.
Về xây dựng nhân cách đạo đức có nhóm tác giả quan tâm nghiên cứu
như: Luận văn Thạc sĩ Triết học của Trần Thị Tuyết Sương, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1998 nghiên cứu: "Vấn đề xây dựng nhân
cách đạo đức con người Việt nam trong điều kiện hiện nay"; Luận án tiến sỹ
triết học của Trần Sỹ Phán (1999), nghiên cứu về: “Giáo dục đạo đức đối với
sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam giai đoạn hiện
nay”; Đào Thị Oanh (2007), “Vấn đề nhân cách trong tâm lí học ngày nay”,
Nxb Giáo dục, Hà Nội; Luận án tiến sỹ triết học chuyên ngành CNXHKH của
Đỗ Tuyết Bảo (2001) với đề tài: “Giáo dục đạo đức cho học sinh trường
trung học cơ sở tại thành phố Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay”; Luận án tiến
sỹ triết học chuyên ngành CNXHKH của Nguyễn Sỹ Quyết Tâm (2008)
nghiên cứu về: “Giáo dục tinh thần yêu nước Xã hội chủ nghĩa cho học sinh
THPT ở miền Đông Nam Bộ hiện nay”; Luận án tiến sĩ Giáo dục học của
Nguyễn Xuân Thanh, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam (2009) nghiên cứu:
‘‘Giáo dục lòng nhân nghĩa cho học sinh trung học phổ thông trong giai đoạn

hiện nay”; Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên) ‘‘Giá trị - định hướng giá trị nhân
cách và giáo dục giá trị ”, Đề tài KX 07-04, Hà Nội 1994; Cao Thị Châu


6
Thủy Bàn về hoạt động phối hợp giữa các lực lượng giáo dục ở trường phổ
thơng. Tạp chí Giáo dục, số 4-2012.
Ngày 18/05/2007 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có chỉ thị số 2516/BGD&ĐT
về việc thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh” trong ngành giáo dục... Những tài liệu trên đây giúp cho tác giả có
thêm tư liệu tham khảo quý báu để thực hiện luận văn của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích thực trạng giảng dạy mơn Giáo dục công dân ở
trường THPT nước ta hiện nay, đề xuất những giải pháp cơ bản để nâng cao
hiệu quả giảng dạy mơn Giáo dục cơng dân, góp phần hình thành, phát triển
toàn diện nhân cách học sinh THPT ở nước ta nói chung, tỉnh Tuyên Quang
nói riêng nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển đất.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích, làm sáng tỏ phạm trù nhân cách và vai trò của giảng dạy mơn
Giáo dục cơng dân với sự hình thành, phát triển nhân cách học sinh THPT ở
nước ta hiện nay.
- Phân tích thực trạng việc giảng dạy mơn giáo dục cơng dân ảnh hưởng
đến sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh THPT ở nước ta.
- Đề xuất một giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả
giảng dạy môn Giáo dục công dân, góp phần hình thành, phát triển nhân cách
học sinh THPT ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu tầm quan trọng, vai trò của giảng dạy

môn Giáo dục công dân đối với sự hình thành, phát triển nhân cách học sinh
THPT ở nước ta (Qua thực tế ở tỉnh Tuyên Quang) hiện nay.


7
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Địa bàn nghiên cứu là một số trường THPT trên địa bản tỉnh Tuyên Quang
Thời gian nghiên cứu việc giảng dạy môn Giáo dục công dân từ năm
2008 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn
- Cơ sở lý luận của luận văn là những quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là những quan điểm của Đảng ta trong
thời kỳ đổi mới liên quan đến giáo dục - đào tạo, đặc biệt là giáo dục nhân
cách, định hướng giá trị nhân cách cho thế hệ trẻ.
- Cơ sở thực tiễn của luận văn là thực trạng công tác giảng dạy môn
Giáo dục công dân cho học sinh THPT ở tỉnh Tuyên Quang những năm
vừa qua.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cở sở vận dụng
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Phương pháp cụ thể: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu tài
liệu, phương pháp lôgic và lịch sử, phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp,
điều tra xã hội học, thống kê xã hội học…
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Góp phần làm sáng tỏ vai trò, tầm quan trọng của giảng dạy và học tập
mơn Giáo dục cơng dân đối với sự hình thành, phát triển nhân cách học sinh
THPT ở nước ta hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm
nâng cao hiệu quả giảng dạy và học tập mơn Giáo dục cơng dân, góp phần hình
thành, phát triển nhân cách tốt đẹp cho học sinh THPT ở nước ta hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Góp phần vào việc nhận thức đầy đủ hơn vai trị của mơn Giáo dục cơng
dân đối với quá trình hình thành, phát triển nhân cách học sinh THPT hiện
nay ở nước ta.


8
Kết quả nghiên cứu của tác giả có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu và giảng dạy môn Giáo dục công dân trong trường THPT,
công tác chỉ đạo của các cán bộ quản lý giáo dục ở nước ta nói chung và ở
tỉnh Tuyên Quang nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.


9
Chương 1
NHÂN CÁCH VÀ VAI TRỊ CỦA GIẢNG DẠY MƠN GIÁO DỤC
CƠNG DÂN VỚI SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. NHÂN CÁCH VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH,
PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH NĨI CHUNG, NHÂN CÁCH HỌC SINH TRUNG
HỌC PHỔ THƠNG Ở NƯỚC TA NĨI RIÊNG

1.1.1. Nhân cách và những nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành,
phát triển nhân cách
1.1.1.1. Khái niệm nhân cách
Khi nghiên cứu và tìm hiểu vấn đề nhân cách, trước hết chúng ta cần tìm
hiểu một số khái niệm liên quan như: con người, cá nhân
Khái niệm con người:

Trong lịch sử văn hóa, văn minh nhân loại vấn đề con người và tương lai
của con người luôn luôn thu hút sự quan tâm của nhiều người và trở thành đối
tượng nghiên cứu của nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau. Nhưng những vấn
đề chung nhất về con người, như con người là gì, bản chất của con người là
thế nào, con người từ đâu sinh ra, do ai tạo thành... thuộc về triết học. Bởi lẽ
chỉ có triết học mới có khả năng nhận thức con người một cách chung nhất,
toàn vẹn nhất trong tính chỉnh thể của nó.
Tùy theo trình độ phát triển của nhận thức mà vấn đề con người được
xem xét một cách khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
Sự ra đời của triết học Mác đã làm thay đổi một cách căn bản quan niệm
về con người. Với quan điểm duy vật triệt để và phương pháp luận biện chứng
sâu sắc, triết học Mác quan niệm rằng, con người là thể thống nhất giữa mặt
sinh vật và mặt xã hội; con người là một thực thể sinh vật - xã hội, hai mặt
này gắn bó chặt chẽ với nhau, trong đó, mặt xã hội giữ vai trị quyết định đến
sự hình thành và phát triển của con người cũng như bản chất của nó. C.Mác


10
có viết rằng: “Bản chất con người của tự nhiên chỉ tồn tại đối với con người
xã hội; vì chỉ có trong xã hội, tự nhiên đối với con người mới là một cái khâu
liên hệ con người với con người” [36, tr.170].
Khi nói đến những yếu tố sinh học (hay mặt sinh học, cái sinh học) trong
con người là chúng ta muốn nói đến “những yếu tố hữu sinh, hữu cơ những
cái về mặt phát sinh gắn bó với tổ tiên động vật của con người”. Cịn khi nói
đến mặt xã hội ở con người là ta nói tới “tất cả những quan hệ, những biến đổi
xuất hiện do ảnh hưởng của các điều kiện xã hội khác nhau, những sự quy
định về mặt xã hội tạo nên cá nhân con người” [13, tr.13].
Triết học Mác quan niệm rằng, con người mang bản tính xã hội. Bản tính
đó được quy định bởi hoạt động sản xuất vật chất, bởi hoạt động giao tiếp xã
hội của con người.

Khi C.Mác nói rằng, trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hịa những quan hệ xã hội, điều đó có nghĩa các quan hệ xã hội thể hiện
trong tồn bộ hoạt động cụ thể của con người tham gia tạo nên bản chất của
nó. Chỉ trong tồn bộ những quan hệ xã hội cụ thể đó con người mới bộc lộ
và thực hiện bản tính xã hội của mình.
Ph.Ăngghen đồng ý với các nhà duy vật khai sáng khi họ cho rằng: “tính
cách của con người, một mặt là sản phẩm của cơ thể bẩm sinh của con người
và mặt khác là sản phẩm của hoàn cảnh xung quanh con người trong suốt đời,
nhất là trong thời kỳ phát triển của con người” [35, tr.288]. Còn trong Hệ tư
tưởng Đức, hai ơng cho rằng “Chỉ có trong cộng đồng cá nhân mới có được
những phương tiện để có thể phát triển tồn diện những năng khiếu của mình
và do đó, chỉ có trong cộng đồng, mới có thể có tự do cá nhân” [33, tr.108].
Để có quan niệm hồn chỉnh về con người là một vấn đề khó, tham khảo
những quan niệm có được, từ sự suy tư của mình, bước đầu có thể hiểu Con
người là một thực thể sinh vật - xã hội, là chủ thể của hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn, chủ thể của những quan hệ xã hội và giao tiếp.


11
Khái niệm cá thể người: Nói đến cá thể người là nói đến thành phần của
lồi người đã bứt khỏi lồi vật, vừa chứa đựng thành quả tiến hố của thế giới
vật chất, nhất là của thế giới hữu sinh, tức là vẫn chịu sự chi phối của thế giới
xung quanh, vừa thốt ra vịng cương toả của thế giới đó, tức là đứng ngồi sự
chi phối của chúng. Nó vừa chịu tác động của các quy luật sinh vật, đồng thời
bắt đầu chịu tác động của các quy luật xã hội.
Khái niệm cá nhân: Có thể hiểu cá nhân là một khái niệm dùng để chỉ
một cá thể người với tư cách là sản phẩm của sự phát triển của xã hội, là chủ
thể của hoạt động và nhận thức.
Có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này nhưng theo chúng tôi khái
niệm cá nhân đề cập đến các mặt sau:

Đó là phương thức tồn tại của giống lồi “người”, khơng có con người
nói chung, lồi người nói chung.
Cá nhân là cá thể người riêng rẽ, là phần tử tạo thành cộng đồng xã hội,
là một chỉnh thể tồn vẹn có nhân cách.
Cá nhân được hình thành và phát triển chỉ trong quan hệ xã hội, nhưng
xã hội thay đổi theo tiến trình lịch sử nên cá nhân là một hiện tượng có tính
lịch sử. Mỗi thời kỳ lịch sử có một “kiểu xã hội của cá nhân” mang tính định
hướng về thế giới quan, phương pháp luận cho hoạt động của con người trong
thời kỳ lịch sử cụ thể đó.
Cá nhân người là một thành viên của xã hội, là khách thể mang “tổng
hoà các quan hệ xã hội”. Nó khơng những chịu ảnh hưởng mà cịn góp phần
tạo ra những quan hệ xã hội.
Sự phát triển của cá nhân người diễn ra theo quy luật xã hội - lịch sử, lịch
sử - văn hóa, nghĩa là chịu sự tác động của giáo dục và môi trường xã hội.
Nếu như cá nhân là khái niệm phân biệt sự khác nhau giữa cá thể với
giống loài, sự khác biệt biểu hiện ra bên ngoài của cá nhân này với cá nhân
khác thì nhân cách là khái niệm để chỉ sự khác biệt giữa những yếu tố bên


12
trong riêng biệt với toàn bộ hoạt động sống của nó, của cá nhân này với cá
nhân khác.
Khái niệm Nhân cách: Đây cũng là một trong những vấn đề phức tạp, cho
đến nay, xung quanh vấn đề này cịn có nhiều ý kiến khác nhau, nhiều cách tiếp
cận không giống nhau.
X.L.Rubinstein cho rằng: Con người là nhân cách do nó xác định được
quan hệ của mình với những nhân cách xung quanh một cách có ý thức. Cịn
A.G.Covaliov xem nhân cách là một cá thể có ý thức, chiếm một vị trí nhất
định trong xã hội và thực hiện một vai trị nào đó trong xã hội. Trong lúc đó
E.V. Sorokhova nhấn mạnh: nhân cách là một con người với tư cách là một

vật mang tồn bộ những thuộc tính và phẩm chất tâm lý quy định các hình
thức hoạt động và hành vi có ý nghĩa xã hội...
Tuy chưa phải là tất cả nhưng chừng đó cũng cho ta thấy tính phức tạp
khi bàn đến nhân cách. Một trong những điểm tương đồng giữa các quan
niệm trên chính là chỗ tất cả đều cho rằng, nhân cách là chủ thể trong các hoạt
động, trong các mối quan hệ xã hội đa dạng. Nhân cách là tổ hợp những điều
chỉnh với những tác động từ bên ngoài. Nhân cách là một con người cụ thể, là
thành viên của một xã hội, một dân tộc, một quốc gia, một thời đại lịch sử.
Khái niệm nhân cách bao hàm phần xã hội, tâm lí của cá nhân với tư
cách là thành viên của một xã hội nhất định, là chủ thể của các quan hệ người
- người, của hoạt động có ý thức và giao lưu.
Nhân cách là nội dung, trạng thái, tính chất, xu hướng bên trong riêng
biệt của mỗi cá nhân. Đó là thế giới của cái “tơi” do tác động tổng hợp của
các yếu tố cơ thể và xã hội riêng biệt tạo nên. Nhân cách chính là chất lượng
xã hội của con người. Giá trị xã hội của nhân cách được tạo lập từ các phẩm
chất và năng lực của con người, kết quả của giáo dục và tự giáo dục
Mỗi cá nhân “dấn thân” vào cuộc sống, tiếp thu và chuyển những giá trị
văn hoá của xã hội vào bên trong mình, thực hiện quá trình so sánh, lọc bỏ, tự


13
đánh giá, tự tạo nên thế giới riêng của mình. Đó là q trình xã hội hố cá
nhân và cá nhân hóa xã hội.
Với nhân cách riêng, mỗi cá nhân có khả năng tự ý thức về mình, làm
chủ cuộc sống của mình, tự lựa chọn chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm
hoạt động cụ thể trong xã hội.
Từ sự phân tích trên, chúng tơi đồng ý với quan niệm cho rằng: khi con
người là đại diện của loài ta gọi là cá thể. Với tư cách là thành viên của xã hội
ta gọi là cá nhân như là một thực thể độc lập và khi nó có đủ khả năng để trở
thành chủ thể của hoạt động học tập, lao động, vui chơi…thì con người trở

thành nhân cách.
Như vậy, nhân cách như là một chỉnh thể cá nhân có tính lịch sử - cụ
thể, tham gia vào hoạt động thực tiễn, đóng vai trị của chủ thể nhận thức và
cải tạo thế giới.
1.1.1.2. Cấu trúc nhân cách
Để hiểu đầy đủ và chính xác khái nhiệm nhân cách đã là vấn đề khó, đi
tìm cấu trúc của nhân cách lại càng khó hơn. Bởi vì, nhân cách vừa có tính ổn
định tương đối, vừa có tính biến đổi. Chính vì vậy, cho đến nay vẫn tồn tại
nhiều quan niệm khác nhau về vấn đề này.
Có quan niệm cho rằng: nhân cách bao hàm ba lĩnh vực cơ bản, đó là: 1)
Nhận thức (tri thức khoa học và năng lực trí tuệ); 2) rung cảm (tình cảm và
thái độ); 3) ý chí (các phẩm chất ý chí, kỹ năng, thói quen).
Quan niệm khác lại cho rằng: nhân cách gồm có 4 yếu tố cơ bản sau:1)
xu hướng nhân cách; 2) Kinh nghiệm; 3) các đặc điểm của quá trình tâm lý;
4) Các thuộc tính sinh học chủ yếu.
Một quan niệm khác được nhiều người thừa nhận đó là: nhân cách bao
hàm 4 yếu tố 1) xu hướng nhân cách; 2) những khả năng của nhân cách; 3)
phong thái hành vi của nhân cách; 4) hệ thống điều khiển của nhân cách.
Theo A.G Xpirkin thì cấu trúc nhân cách bao gồm: tư chất di truyền sinh
học; tác động của các nhân tố xã hội (môi trường, điều kiện, các chuẩn mực,


14
sự điều chỉnh) và hạt nhân xã hội - tâm lý của nó - “cái tơi”, trong đó “cái tơi”
giữ vị trí hết sức quan trọng, nó tựa như là cái xã hội bên trong của nhân cách,
là “yếu tố bản chất của cấu trúc nhân cách, là trung tâm tinh thần - ý nghĩa,
điều chỉnh, dự báo tối cao của nhân cách’’.
Như vậy có rất nhiều cách hiểu khác nhau về cấu trúc nhân cách. Trong
luận văn này, chúng tôi xem xét cấu trúc của nhân cách bao gồm hai thành tố
cơ bản đó là đức và tài. Năng lực thể chất và năng lực tinh thần; đó là sự

thống nhất giữa mặt cá nhân và mặt xã hội ở trong mỗi cá nhân con người cụ
thể, là thái độ ứng xử của mỗi con người trong mối quan hệ đa chiều trong xã
hội hiện thực.
Trong cấu trúc này,“Đức” được hiểu là thành phần nền tảng của nhân
cách. Thành phần này gồm: 1) phẩm chất xã hội (thế giới quan, niềm tin, lý
tưởng, thái độ chính trị - xã hội, trong đó thế giới quan là thuộc tính kết cục
chủ yếu của nhân cách, là đặc quyền của con người vươn tới đỉnh cao của tinh
thần (A.G Xpirkin); 2) phẩm chất cá nhân (còn gọi là đạo đức, tư cách cá
nhân); 3) phẩm chất ý chí (tính kỷ luật, tính mục đích, tính quả quyết, tính
kiên trì, tính dũng cảm); 4) cung cách ứng xử (tác phong lễ tiết, tính khí…của
con người)
Thành phần thứ hai của cấu trúc nhân cách là “tài”; đó là các năng lực
ứng xử với xã hội của con người, là hiệu suất, hiệu quả trong một lĩnh vực
nào đó của họ. Đó là các năng lực: 1) năng lực xã hội hóa (khả năng thích
nghi, năng lực sáng tạo, cơ động, mềm dẻo trong cuộc sống xã hội); 2) năng
lực chủ thể hóa (khả năng biểu hiện tính độc đáo, đặc sắc, nét riêng của cá
nhân); 3) năng lực hành động (khả năng hành động có mục đích, chủ động,
tích cực, sáng tạo với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao); 4) năng lực giao
lưu, giao tiếp xã hội.
Hiểu cấu trúc nhân cách gồm “đức và tài” là cách hiểu khái quát nhất.
Với cách hiểu này cho phép chúng ta hiểu được những thuộc tính, phẩm chất,


15
năng lực, hành vi, trạng thái, khả năng…bên trong, riêng biệt của mỗi cá
nhân, thơng qua đó để phân biệt cá nhân này với cá nhân khác trong các mối
quan hệ xã hội.
1.1.1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành,
phát triển nhân cách
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về nhân tố ảnh hưởng đến sự hình

thành, phát triển nhân cách. Chúng tôi đồng ý với các quan niệm cho rằng,
các nhân tố đó là: di truyền, hoạt động, giao tiếp, giáo dục…trong đó giáo
dục ln giữ vai trị quan trọng, thậm chí quyết định.
Thời kỳ cổ đại, người ta đã bắt đầu chú trọng giáo dục dưới hình thức mở
các trường đào tạo tăng lữ (Ai Cập, Ba Bi Lon); đào tạo tu sĩ Bà - la - môn
(Ấn Độ) để đào tạo ra những con người có phẩm chất nhân cách cần thiết theo
yêu cầu xã hội lúc bấy giờ.
Ở Việt Nam từ rất sớm, ông cha ta cũng đã chú trọng đến việc giáo dục
thông qua các kỳ thi tuyển và đào tạo nhân tài cho đất nước.
Năm 1070 lý Thánh Tông (1054 - 1072) cho dựng Văn Miếu và
năm năm sau (1075) nhà Lý cho mở khoa thi Minh kinh bác học để
tuyển chọn nhân tài. Năm 1076 Quốc Tử Giám, một kiểu trường đại
học quốc lập đầu tiên ở nước ta được thành lập để đào tạo nhân tài cho
đất nước. Đến thời nhà Trần, năm 1253 Trần Thánh Tông (1225-1293)
cho lập Giảng Võ đường để luyện tập võ nghệ [44, tr.24].
Như vậy ngay từ thời kỳ rất sớm loài người đã chú trọng đến giáo dục ở
Việt Nam, điều đó cũng khơng là ngoại lệ.
Trong điều kiện của cuộc sống khoa học công nghệ hiện đại, của kinh tế
tri thức, Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng đến giáo dục và đào tạo coi đó
quốc sách hàng đầu, có nhiệm vụ: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi
dưỡng nhân tài nhằm phát triển tiềm năng trí tuệ, cung cấp cho đất nước
nguồn lao động có chất lượng cao, những nhân cách phát triển toàn diện phục


16
vụ cơng cuộc đổi mới đất nước.
Vai trị quan trọng của giáo dục đối với sự hình thành, phát triển nhân
cách, được cắt nghĩa bởi mấy lý do chính sau đây: Thứ nhất, giáo dục vạch ra
chiều hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách. Giáo dục có thể mang
lại những cái mà các yếu tố bẩm sinh di truyền hay môi trường tự nhiên

không thể đem lại được; tạo ra những mẫu hình nhân cách theo những yêu
cầu, theo tiêu chí mà xã hội và cuộc sống địi hỏi.
Thứ hai, nhờ có giáo dục và thơng qua giáo dục mà các thế hệ người
không chỉ biết kế thừa các giá trị văn hóa - xã hội - lịch sử trước đó mà cịn
biết sáng tạo ra các giá trị mới để góp phần hình thành và phát triển phong
phú hơn nhân cách của mình.
Thứ ba, giáo dục có thể uốn nắn những sai lệch nào đó so với các chuẩn
mực tác động tự phát của môi trường gây nên và làm cho nó phát triển theo
mong muốn của xã hội.Thậm chí giáo dục có thể bù đắp những thiếu hụt do
khuyết tật bẩm sinh, hoặc bệnh tật đem lại cho con người để con người trở
thành những cá nhân có nhân cách hồn thiện hơn.
Thứ tư, giáo dục khơng chỉ thích ứng phù hợp với hiện tại, mà cịn có thể
đi trước hiện tại và thúc đẩy nó phát triển, trong khi tác động tự phát của xã
hội chỉ ảnh hưởng đến cá nhân ở mức độ hiện có của nó. Điều này có nghĩa
giáo dục có khả năng chuẩn bị cho con người cả trí dục và đức dục để con
người vươn tới tương lai, tạo dựng được những mơ hình nhân cách mới năng
động và sáng tạo.
Cho dù đóng vai trị chủ đạo trong sự hình thành và phát triển nhân cách,
song khơng nên tuyệt đối hóa vai trị giáo dục. Giáo dục khơng tách rời tự
giáo dục, tự rèn luyện , tự hoàn thiện nhân cách của mỗi cá nhân. Vì ngồi ra,
sự hình thành nhân cách còn chịu tác động của nhiều nhân tố khác như: hoạt
động, giao tiếp, nhóm...
Hoạt động“là cơ sở của nhân cách” [28, tr.49], là phương thức tồn tại


17
của con người, là nhân tố quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân
cách. Hoạt động của con người là hoạt động có mục đích, mang tính xã hội,
mang tính cộng đồng, được thực hiện bằng những thao tác nhất định với
những công cụ nhất định. Con người hoạt động và giao tiếp trong những điều

kiện kinh tế - xã hội nhất định. Hoạt động ở đây bao gồm một hệ thống làm
việc, những hành vi, cách xử sự và sự tuân thủ những quy tắc, chuẩn mực xã
hội nhất định nhằm đảm bảo cho cá nhân tồn tại và phát triển trong các mối
quan hệ xã hội khác nhau. Mỗi cá nhân học làm người thông qua một hệ
thông họat động, làm việc trong các mối quan hệ xã hội và trong những điều
kiện kinh tế nhất định.
Thông qua hoạt động của bản thân, con người lĩnh hội kinh nghiệm lịch
sử - xã hội do loài người phát hiện ra, biến nó thành nhân cách của mình. Sự
hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người phụ thuộc vào hoạt động ở
mỗi thời kỳ, lứa tuổi nhất định. Muốn hình thành nhân cách con người phải
tham gia vào các dạng của hoạt động khác nhau, trong đó đặc biệt chú ý tới
vai trị của loại hình hoạt động chủ đạo (nhất là lao động sản xuất), vì thế phải
lựa chọn, tổ chức và hướng dẫn các hoạt động đảm bảo bảo tính giáo dục và
tính hiệu quả đối với sự hình thành và phát triển nhân cách.
Hoạt động có vai trị quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân
cách cho nên một trong những quy luật của giáo dục là phải thay đổi tính chất
hoạt động, phong phú hóa, nội dung, hình thức, cách thức tổ chức hoạt động
sao cho lôi cuốn người học tham gia tích cực, tự giác vào các hoạt động đó.
Ngồi ra, nhân tố giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội
loài người, do đó nó cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến sự hình
thành nhân cách. Nhu cầu giao tiếp là một nhu cầu cơ bản, xuất hiện rất sớm ở
con người. Chính giao tiếp đã thúc đẩy sự hình thành và phát triển nhân cách
ở con người nhanh hơn, hoàn thiện hơn.
Nhờ giao tiếp con người gia nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh hội nền


18
văn hóa xã hội, chuẩn mực xã hội làm thành bản chất con người, đồng thời
thông qua giao tiếp, con người đóng góp tài lực của mình vào kho tàng của
nhân loại. Trong giao tiếp con người không chỉ nhận thức người khác, nhân thức

các quan hệ xã hội, mà cịn nhận thức được chính bản thân mình, tự đối chiếu so
sánh mình với người khác, với chuẩn mực xã hội để tự hồn thiện nhân cách
mình. Giao tiếp là hình thức đặc trưng cho mối quan hệ người - người, là một
nhân tố cơ bản của việc hình thành và phát triển tâm lí, ý thức, nhân cách.
Tóm lại, giáo dục, hoạt động, giao tiếp cùng tác động đan xen vào nhau
bổ trợ cho nhau trong việc hình thành, phát triển nhân cách. Trong các nhân
tố đó, giáo dục giữ vai trò chủ đạo, nhân tố hoạt động và nhân tố giao tiếp
là điều kiện, là phương thức để hình thành và phát triển nhân cách. Tuy
giáo dục giữ vai trị quan trọng nhưng chúng ta khơng được “tuyệt đối hóa”
giáo dục, coi đó là cái “duy nhất” quyết định q trình hình thành và phát
triển nhân cách. Cịn các yếu tố khác chỉ là thứ yếu, khơng có vai trị gì đối
với q trình này.
Như vậy, sự hình thành và phát triển nhân cách phụ thuộc rất lớn vào mặt
(hay “cái”) xã hội chứ không mặt (hay “cái”) tự nhiên. Nghĩa là mặt xã hội sẽ
giữ vai trò quyết định, còn mặt tự nhiên là điều kiện, tiền đề cần thiết khơng
thể thiếu được đối với q trình này.
Nói tới tính quyết định xã hội đối với nhân cách là nói tới những nhân tố
xã hội (mơi trường, điều kiện, hoàn cảnh, các chuẩn mực xã hội, sự điều
chỉnh của xã hội,...) quy định sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi
người ở các giai đoạn lịch sử khác nhau, các chế độ xã hội khác nhau.
Khi khẳng định tính quyết định xã hội đối với sự hình thành, phát triển
nhân cách, cần tránh quan điểm đồng nhất sự hình thành nhân cách với quy
luật phát triển của xã hội. Thực chất đây là một quá trình tác động biện chứng.
Bởi ở mỗi thời đại khác nhau, mỗi kiểu xã hội khác nhau bao giờ cũng có
những kiểu mẫu nhân cách (điển hình) mà thời đại đó, xã hội đó hướng tới.
Ví như nước ta trong thời kỳ phong kiến, đánh giá nhân cách người phụ


19
nữ phải dựa vào tiêu chí Tam tịng, tứ đức. Cịn ở thế kỷ này lại dựa vào tiêu

chí giỏi việc nước, đảm việc nhà; chân - thiện - mỹ. Điều này khơng có
nghĩa sự hình thành và phát triển nhân cách đồng nhất với quy luật phát triển
của xã hội mà thông qua các quan hệ xã hội, môi trường xã hội con người đã
hấp thụ trực tiếp và rút ra những tư tưởng, tri thức, kinh nghiệm của mình.
Con người sẽ khơng tồn tại và phát triển được nếu khơng có sự giao tiếp với
thế giới xung quanh, với cộng đồng. Song sự hấp thụ ấy của mỗi người là
khác nhau do khả năng, do hệ thống giáo dục địa phương, nhà trường, gia
đình là khác nhau…điều đó minh chứng cho sự đa dạng của nhân cách mà
nếu chỉ dựa vào những tồn tại xã hội thì chưa đủ cơ sở để giải thích.
Có thể khẳng định rằng, khơng có con người thì khơng có xã hội và
ngược lại nếu khơng có xã hội thì nhân cách cũng khơng có cơ sở để hình
thành và phát triển được. Điều này đã từng có tác giả khẳng định: mọi cách
tiếp cận nhân cách mà chia con người thành hai bản thể tự nhiên và xã hội tự
trị để thẩm định các hệ chuẩn đều không bao giờ đạt tới sự chân thật lịch sử cả.
C.Mác đã từng nói: “Bản thân xã hội sản xuất ra con người với tính cách là con
người như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội như thế ấy” [36, tr.169].
Như vậy, nhân cách là q trình “nội tâm hóa” bản chất xã hội của con người
trong những điều kiện lịch sử - cụ thể. Muốn có nhân cách hồn thiện và làm phong
phú nhân cách con người cần phải có sự hoạt động tích cực trong xã hội.
Tóm lại, q trình hình thành và phát triển nhân cách ở học sinh THPT là
quá trình trưởng thành về mặt xã hội của mỗi người, là q trình xã hội hóa
cá nhân gắn liền với cá nhân hóa xã hội.
1.1.2. Học sinh trung học phổ thông và các yếu tố ảnh
hưởng đến sự hình thành, phát triển nhân cách học sinh
trung học phổ thông ở nước ta hiện nay
1.1.2.1. Đặc điểm tâm - sinh lý học sinh trung học phổ thông ở nước ta
hiện nay


20

Học sinh THPT có độ tuổi là 15 - 19 tuổi. Với độ tuổi này học sinh
THPT thuộc giai đoạn đầu của tuổi thanh niên (còn gọi là thanh niên mới lớn,
thanh niên học sinh) và là giai đoạn cuối của tuổi dậy thì. Đó là lứa tuổi phát
triển nhanh về sức mạnh thể chất, tinh thần và trí tuệ; lứa tuổi với những hoạt
động đặc trưng để hình thành nhân cách và phẩm chất của một cơng dân, hình
thành thế giới quan và lý tưởng; là lứa tuổi luôn ln tự tìm hiểu bản thân
mình và tìm hiểu người khác; lứa tuổi tự khẳng định và tìm cách xác định vị
trí, vai trị của mình trong xã hội. Về tâm sinh lý học sinh THPT có thể khái
quát trên những đặc điểm sau:
Một là, đặc điểm cơ thể.
Lứa tuổi học sinh THPT là lứa tuổi đang dần dần hoàn chỉnh về mặt thể
chất. Ngày nay nhờ điều kiện kinh tế - xã hội phát triển nhanh chóng, đời
sống ngày càng được nâng cao hơn trước nên học sinh THPT có điều kiện
phát triển tồn diện hơn về chiều cao, trọng lượng, thể trạng. Song do sự
chênh lệch giữa hoàn cảnh gia đình, sự phát triển kinh tế - xã hội giữa các
vùng miền nên sự phát triển về cơ thể giữa các em cịn có sự khác nhau và
vẫn kém hơn so với sự phát triển cơ thể của người lớn.
Bước vào giai đoạn này nhịp độ tăng trưởng chiều cao và trọng lượng
của các em gái đã chậm lại, còn các em trai nhanh hơn do phần lớn tuổi dậy
thì ở em trai giai đoạn này mới bộc lộ hết. Các em gái đạt được sự tăng trưởng
của mình trung bình vào khoảng 16,17 tuổi; các em trai khoảng 17,18 tuổi. Có
thể nói đây là lứa tuổi các em có cơ thể phát triển cân đối, đẹp và khỏe mạnh.
Sự phát triển của hệ thần kinh có những thay đổi quan trọng do cấu trúc
bên trong của não phức tạp và các chức năng của não phát triển. Bộ não, hệ
thần kinh các em phát triển và khỏe mạnh, tạo cơ sở cho các em tiếp thu, xử
lý một khối lượng lớn tri thức trong quá trình học tập.
Tuy vậy, ở lứa tuổi này do sinh lý của các em chưa phát triển ổn định,
thêm vào đó do sự biến đổi phức tạp của xã hội đã ảnh hưởng lớn đến sự hình



21
thành,phát triển nhân cách học sinh THPT hiện nay như các kênh thông tin đã
cảnh báo trong thời gian qua.
Hai là, đặc điểm về hoạt động học tập.
Hoạt động cơ bản của độ tuổi 15- 19 là học tập. Ở lứa tuổi này các em đã
bộc lộ rõ có quan điểm và thái độ của mình đối với các mơn học u thích và
đã có sự lựa chọn rõ rệt. Trên cơ sở đó, các em khơng chỉ say mê nghiên cứu
tìm hiểu tri thức mà cịn hình thành hứng thú học tập gắn liền với khuynh hướng
nghề nghiệp trong tương lai. Cuối cấp học các em đã xác định được cho mình
mục tiêu học tập gắn với một lĩnh vực tri thức nhất định, liên quan đến một nghề
nghiệp nào đó trong tương lai. Thơng qua hoạt động học tập ở trường THPT tầm
nhìn của các em về các vấn đề của đời sống, xã hội nói chung mang tính rộng
rãi, sâu sắc và bền vững hơn học sinh trung học cơ sở (THCS).
Nhưng thái độ học tập ở khơng ít em có nhược điểm là, một mặt các em
rất tích cực học một số mơn mà các em cho là quan trọng đối với nghề mình
đã chọn, mặt khác các em lại sao nhãng các môn học khác, chỉ học để đạt
điểm trung bình(hiện tượng học lệch mơn hiện nay). Do vậy địi hỏi người
giáo viên phải có thái độ lắng nghe, khuyến khích động viên, cần làm cho các
em học sinh đó hiểu được ý nghĩa và chức năng của giáo dục phổ thông đối
với mỗi môn học trong nhà trường.
Tóm lại, thái độ học tập có ý thức là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát
triển tính chủ định của các q trình nhận thức và năng lực điều khiển bản
thân của học sinh THPT trong hoạt động học tập.
Ba là, đặc điểm về nhận thức, trí tuệ.
Đối với học sinh THPT, tri giác có mục đích đã đạt tới mức rất cao. Quan
sát ở các em trở nên có mục đích, có hệ thống và tồn diện hơn. Q trình
quan sát đã chịu sự điều khiển của hệ thống tín hiệu thứ hai nhiều hơn và
không tách khỏi tư duy ngôn ngữ. Với học sinh THPT, ghi nhớ có chủ định
giữ vai trị chủ đạo trong hoạt động trí tuệ, đồng thời vai trị của ghi nhớ logic
trừu tượng, ghi nhớ ý nghĩa ngày một tăng rõ rệt. Đặc biệt các em đã tạo được



22
tâm thế phân hoá trong ghi nhớ, nhưng một số em vẫn còn ghi nhớ một cách
đại khái, chung chung.
Hoạt động tư duy của học sinh THPT có nhiều thay đổi quan trọng do
cấu trúc của não phức tạp và chức năng của não phát triển. Ở độ tuổi này, các
em có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập, sáng tạo.
Tư duy của các em chặt chẽ hơn, có căn cứ và nhất quán hơn học sinh THCS.
Đồng thời tính phê phán của tư duy cũng phát triển…Những đặc điểm đó tạo
điều kiện cho các em phân tích được những nội dung cơ bản của khái niệm
trừu tượng và nắm được mối quan hệ nhân quả trong tự nhiên và trong xã
hội… Đây là cơ sở quan trọng hình thành thế giới quan.
Tuy vậy hiện nay số học sinh THPT đạt tới mức tư duy đặc trưng cho lứa
tuổi như trên còn chưa nhiều. Nhiều khi các em chưa chú ý phát huy hết năng
lực độc lập suy nghĩ của bản thân... Vì vậy, việc giúp các em phát triển khả
năng nhận thức, trí tuệ là một nhiệm vụ quan trọng của giáo viên.
Bốn là, sự phát triển của tự ý thức.
Đây là một trong những đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân cách
của học sinh THPT. Nội dung của tự ý thức: là một quá trình lâu dài, phong
phú, trải qua nhiều mức độ khác nhau và rất phức tạp. Các em luôn quan tâm
sâu sắc tới đời sống tâm lý, phẩm chất nhân cách cũng như năng lực riêng của
mình. Các em khơng chỉ tự ý thức về cái tơi của mình trong hiện tại, mà cịn
nhận thức về vị trí của mình trong xã hội, trong tương lai.
Học sinh THPT có khả năng đánh giá những cử chỉ, hành vi riêng lẻ,
từng thuộc tính riêng biệt về nhân cách của mình. Các em có thể hiểu rõ bản
thân thơng qua những phẩm chất nhân cách như: lịng u lao động, tính cần
cù, dũng cảm…và những quan hệ nhiều mặt của nhân cách như: tinh thần
trách nhiệm, lòng tự trọng, tình cảm nghĩa vụ...
Học sinh THPT khơng chỉ có nhu cầu đánh giá mà cịn có khả năng đánh

giá sâu sắc hơn học sinh THCS về những phẩm chất, mặt mạnh, mặt yếu của


23
những người xung quanh và của chính mình. Các em thường dễ có xu hướng
cường điệu trong khi tự đánh giá: hoặc là đánh giá thấp cái tích cực, tập trung
phê phán cái tiêu cực; hoặc là đánh giá cao nhân cách của mình, tỏ ra tự kiêu
tự đại, coi thường người khác.
Nhiều khi các em có thể sai lầm khi tự đánh giá. Tuy nhiên, khả năng
biết tự phân tích là dấu hiệu của một nhân cách đang trưởng thành và là tiền
đề của sự tự giáo dục có mục đích. Do vậy, trong hoạt động dạy học và giáo
dục giáo viên cần phải biết chia sẻ, phải có thái độ nghiêm túc, chân thành khi
nghe các em phát biểu, tuyệt đối không được chế diễu ý kiến tự đánh giá đó,
nhằm hình thành cho các em một biểu tượng khách quan về nhân cách của mình.
Năm là, sự hình thành thế giới quan.
Lứa tuổi học sinh THPT có thể được xem là lứa tuổi quyết định của sự
hình thành thế giới quan - hệ thống quan điểm về tự nhiên, về xã hội, về các
nguyên tắc và quy tắc cư xử...
Những điều kiện về mặt trí tuệ và xã hội để xây dựng một hệ thống quan
điểm riêng trong giai đoạn này đã được hình thành (đặc biệt là sự phát triển
của tư duy lý luận, tư duy trừu tượng). Suốt thời gian học tập ở THPT, học
sinh đã lĩnh hội được những tâm thế, thói quen đạo đức nhất định, ý thức
được cái đẹp, cái xấu, cái thiện, cái ác…thông qua các tiêu chuẩn và nguyên
tắc hành vi xác định.
Thời kỳ này nhân cách đã được xây dựng và phát triển tương đối cao. Đã
xuất hiện ở các em nhu cầu đưa những tiêu chuẩn, nguyên tắc hành vi đó vào
một hệ thống hồn chỉnh. Một khi đã có được hệ thống quan điểm riêng thì
các em khơng chỉ hiểu về thế giới khách quan, mà cịn đánh giá và xác định
được thái độ của mình với thế giới nữa.
Chỉ số đầu tiên của sự hình thành thế giới quan là sự phát triển của hứng

thú nhận thức đối với những vấn đề thuộc nguyên tắc chung nhất của vũ trụ,
những quy luật phổ biến của tự nhiên, xã hội và của sự tồn tại xã hội loài


24
người... Chính nội dung các mơn học ở THPT, đặc biệt là môn giáo dục công
dân (GDCD) giúp cho các em xây dựng được thế giới quan của mình.
Vì vậy, việc định hướng giá trị trong hoạt động của cá nhân thông qua
giáo dục cho học sinh hệ thống tri thức về đời sống có ý nghĩa hết sức quan
trọng. Giúp các em xây dựng được hệ thống thế giới quan đầy đủ, tránh lối
sống thụ động, ỷ lại, trông chờ vào người khác hoặc đánh giá quá cao cuộc
sống hưởng thụ, sa đà vào những tệ nạn xã hội...
Sáu là, đặc điểm về giao tiếp, đời sống tình cảm và tâm lý.
Tuổi học sinh THPT là lứa tuổi mang tính chất tập thể nhất, các em rất
coi trọng việc sinh hoạt với các bạn cùng lứa tuổi để khẳng định vị trí của
mình trong nhóm. Trong các lớp học dần dần xảy ra một sự phân cực nhất
định - xuất hiện những người được lòng nhất và những người ít được lịng
nhất. Những em có vị trí thấp, ít được lòng các bạn thường băn khoăn, suy
nghĩ nhiều về nhân cách của mình.
Cùng với sự trưởng thành nhiều mặt, quan hệ dựa dẫm, phụ thuộc vào
cha mẹ dần dần được thay thế bằng quan hệ bình đẳng, tự lập. Trong việc phát
triển nhu cầu sở thích, học sinh hướng vào bạn bè nhiều hơn hướng vào cha
mẹ. Nhưng khi bàn đến những giá trị sâu sắc hơn như chọn nghề, thế giới
quan, những giá trị đạo đức thì cha mẹ và thầy cơ giáo lại có ảnh hưởng mạnh
mẽ hơn rất nhiều. Chính vì vậy, trong cơng tác giáo dục cần chú ý ảnh hưởng
của nhóm. Nhà trường cần tổ chức các hoạt động phong phú, sinh động đặc biệt
là tổ chức đồn, nhằm phát huy tính tích cực của các em.
Đời sống tình cảm của học sinh THPT rất phong phú và nhiều vẻ. Nhu
cầu về tình bạn tâm tình cá nhân tăng lên rõ rệt. Tình bạn sâu sắc đã được
bắt đầu từ tuổi thiếu niên, nhưng sang tuổi này tình bạn của các em trở nên

sâu sắc hơn nhiều. Các em có yêu cầu cao hơn đối với tình bạn (u cầu sự
chân thật, lịng vị tha, tin tưởng, tôn trọng, hiểu biết và sẵn sàng giúp đỡ
lẫn nhau...). Trong quan hệ với các bạn các em cũng nhạy cảm hơn, đó là


25
khả năng xúc cảm và khả năng đáp ứng lại xúc cảm, đặc biệt là sự đồng
cảm với người khác.
Ngoài ra, phạm vi quan hệ bạn bè được mở rộng, nhu cầu về tình bạn
khác giới được tăng cường. Đã xuất hiện sự lôi cuốn đầu tiên khá mạnh mẽ và
nhu cầu về tình yêu nam nữ.
Học sinh THPT thuộc lứa tuổi giàu ý chí, khát vọng, tình cảm và cảm
xúc; ham hiểu biết, hăng hái tham gia các hoạt động của Đoàn thanh niên và
xã hội như âm nhạc, thời trang, hội họa, từ thiện v.v; có nhu cầu về tình bạn,
tình yêu. Những đặc điểm này tác động tích cực tới việc xây dựng và phát
triển nhân cách của học sinh, giúp các em làm phong phú thêm đời sống nội
tâm và thu lượm được nhiều kinh nghiệm xã hội.
Đây cũng là lứa tuổi có những hạn chế nhất định. Đó là tâm lý khơng
thích nghe, khơng thích bàn luận đến các vấn đề chính trị, thời sự. Các em còn
thiếu kinh nghiệm sống nên đời sống tâm lý dễ bị chi phối, dễ mơ hồ về chính
trị, dễ bị kẻ xấu lợi dụng. Vì vậy giáo viên GDCD cần tạo cơ hội cho học sinh
được chia sẻ, bày tỏ quan điểm, ý kiến cá nhân về vấn đề đang học, nêu
những băn khoăn thắc mắc cho thầy, cho bạn. Bên cạnh đó, giáo viên cần
khuyến khích học sinh tự liên hệ, điều tra, phân tích, đánh giá các sự kiện
trong đời sống thực tiễn nhà trường, địa phương, đất nước.
Nghiên cứu, xem xét đặc điểm tâm sinh lý học sinh THPT là một trong
những căn cứ quan trọng để xác định nội dung, cách thức tổ chức giáo dục
phù hợp trong quá trình xây dựng và phát triển nhân cách cho các em.
1.1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng tới sự hình thành, phát triển nhân
cách học sinh trung học phổ thông ở nước ta hiện nay

Những nhân tố ảnh hưởng tới sự hình thành, phát triển nhân cách học
sinh trung học phổ thông ở nước ta hiện nay là quá trình diễn biến phức tạp,
vừa tuân thủ những nguyên tắc chung vừa có những đặc điểm riêng. Về cơ
bản nó chịu sự chi phối của các yếu tố sau:


×