MỤC LỤC
Phần 1. MỞ ĐẦU 2
1. Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm 2
2. Mục đích của sáng kiến 3
3. Phạm vi, đối tượng áp dụng của sáng kiến 3
4. Thời gian thực hiện và triển khai sáng kiến 3
Phần 2. NỘI DUNG 4
I. Cơ sở lý luận 4
1. Đạo đức 4
2. Vai trò của giáo dục đạo đức trong quá trình hình thành và phát triển nhân
cách 5
3. Vị trí, vai trò của môn Giáo dục công dân trong nhà trường trung học phổ
thông 5
II. Thực trạng của vấn đề 8
III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề 9
1. Nội dung giáo dục đạo đức qua giảng dạy môn Giáo dục công dân ở các tr-
ường trung học phổ thông 9
2. Phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua giảng dạy môn Giáo
dục công dân và phần đạo đức 10
3.Một số ví dụ cụ thể 13
Sau khi áp dụng sáng kiến tại trường từ đầu năm học 2014-2015, so với năm học
trước tỉ lệ học sinh xếp loại hạnh kiểm tốt và khá tăng, học sinh bị xếp loại hạnh
kiểm trung bình và yếu giảm đáng kể, vấn đề HS của trường THPT Hồng Quang
bị đưa ra hội đồng kỷ luật đã giảm một cách rõ rệt, không còn tình trạng tổ chức
thành nhóm đánh nhau ngoài cổng trường như những năm trước đây, mặc dù
tình trạng xích mích dẫn tới mâu thuẫn là không thể tránh khỏi nhưng tính chất
và mức độ đã có nhiều chuyển biến giảm rõ rệt. Đó được xem là kết quả mà tập
thể sư phạm nhà trường nói chung và công tác giáo dục đạo đức cho học sinh
trong bộ môn GDCD nói riêng trong quá trình định hướng, hình thành, phát
triển nhân cách của học sinh 23
Phần 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 24
1.Kết luận 24
2. Kiến nghị 25
1
Phần 1. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm
Giáo dục công dân là bộ môn thuộc khoa học xã hội đang được giảng dạy
trong trường trung học phổ thông. Môn học này trang bị cho học sinh trung học
phổ thông những kiến thức phổ thông cơ bản, thiết thực về triết học, chủ nghĩa
tư bản, chủ nghĩa xã hội, về thời đại ngày nay, về đạo đức, đường lối, chính
sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và pháp luật của Nhà nước. Qua đó, bước
đầu hình thành và bồi dưỡng cho học sinh thế giới quan khoa học, nhân sinh
quan cộng sản, phương pháp tư duy biện chứng trong việc phân tích, đánh giá
hiện thực khách quan, đặc biệt góp phần hình thành con người mới xã hội chủ
nghĩa, bao gồm phẩm chất và năng lực - hai nhân tố cơ bản tạo nên nhân cách.
Nhân cách bao gồm tất cả các nét, các mặt, các phẩm chất có ý nghĩa xã
hội trong một con người. Nhìn chung nhân cách thể hiện ở hai mặt tài năng và
đạo đức, trong đó đạo đức là gốc, là nền tảng trong việc hoàn thiện nhân cách
cá nhân.
Chính vì vậy, để đào tạo con người toàn diện về đức, trí, thể, mĩ thì giáo
dục đạo đức cho học sinh thông qua các môn học trong nhà trường trung học
phổ thông nói chung và môn Giáo dục công dân nói riêng cần đặc biệt quan
tâm, chú ý.
Công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông qua giảng dạy
môn Giáo dục công dân trong thời gian vừa qua đã được các cấp, các ngành
quan tâm và đạt được nhiều thành tựu. Nhưng nhìn chung đội ngũ giáo viên,
nhất là giáo viên Giáo dục công dân chưa có điều kiện đảm bảo cho việc giáo
dục đạo đức cho học sinh qua môn học của mình.
Bên cạnh đó, một thực tế đáng buồn hiện nay là “học sinh sa sút về đạo
đức ngày càng có chiều hướng gia tăng trong nhà trường phổ thông” (Diễn đàn
nhân dân cuối tuần - Đỗ Tấn Ngọc) là vấn đề báo động đối với những người
quản lý giáo dục và làm công tác giảng dạy.
Do đó, việc giáo dục đạo đức cho học sinh qua giảng dạy Giáo dục công
dân đang là nhiệm vụ mang tính cấp bách
Với ý nghĩa đó, tôi đã chọn sáng kiến: “Giáo dục đạo đức cho học sinh
qua giảng dạy môn Giáo dục công dân
”.
2
2. Mục đích của sáng kiến
Sáng kiến làm rõ vai trò, nhiệm vụ của việc giáo dục đạo đức cũng như
những nội dung và những phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh. Trên cơ
sở đó, làm rõ công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông qua
môn học Giáo dục công dân, đặc biệt là thông qua phần đạo đức trong chương
trình.
3. Phạm vi, đối tượng áp dụng của sáng kiến
Phạm vi
Nghiên cứu việc giáo dục đạo đức cho học sinh qua giảng dạy môn Giáo dục
công dân ở trường trung học phổ thông Hồng Quang
Đối tượng áp dụng của sáng kiến
Giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua giảng dạy môn Giáo dục công
dân ở trường trung học phổ thông Hồng Quang theo chương trình lớp 10, 11, 12
4. Thời gian thực hiện và triển khai sáng kiến
Nghiên cứu và thực nghiệm từ năm học 2014-2015
3
Phần 2. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
1. Đạo đức
Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiến Latinh là mos (moris) - lề thói
(moralis nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa). Còn “luân lý” được xem
như đồng nghĩa với “đạo đức” có gốc từ tiếng Hy Lạp là ethicos – lề thói, tập
tục. Khi nói đến đạo đức, tức là nói đến những lề thói và tập tục biểu hiện mối
quan hệ nhất định giữa người với người trong sự giao tiếp với nhau hằng ngày.
Sau này, người ta thường phân biệt hai khái niệm: moral là đạo đức, còn ethicos
là đạo đức học.
Ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại
xuất hiện sớm, được biểu hiện trong quan niệm về đạo đức của họ. Đạo là con
đường, đường đi, đời sống của con người trong xã hội. Đức nói đến nhân đức,
đức tính. Như vậy, có thể nói đạo đức của người Trung Quốc cổ đại chính là
những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân
theo.
Theo quan điểm đạo đức học Mácxít:
Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội. Đạo đức là một phạm
trù phản ánh hệ thống các nguyên tắc, yêu cầu, các chuẩn mực, các quy tắc điều
chỉnh sự ứng xử của con người trong tất cả các mối quan hệ, trong tất cả các
lĩnh vực đời sống xã hội. Các chuẩn mực ứng xử được củng cố bởi các khái
niệm như: thiện - ác, chính – tà, vinh – nhục, lương tâm – trách nhiệm, quyền
lợi – nghĩa vụ, hạnh phúc – bất hạnh Hệ thống khái niệm này biểu hiện và
phản ánh bản chất xã hội của con người mà chủ yếu là các mối quan hệ giữa cá
nhân và xã hội ở các mức độ khác nhau.
Quan hệ đạo đức đan kết trong mọi hoạt động xã hội. Đạo đức là một bộ
phận quan trọng của đời sống xã hội. Thể hiện ở chỗ các quan hệ đạo đức, các
động cơ đạo đức, hành động, hành vi đạo đức, luôn tồn tại và phát triển cùng
với đời sống xã hội. Đạo đức là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh
giá trình độ văn minh của xã hội.
Có thể nói, đạo đức là một hình thái ý thức được hình thành rất sớm trong
lịch sử phát triển nhân loại và được mọi xã hội, mọi giai cấp, mọi thời đại quan
tâm. Sự phát triển của đạo đức xã hội từ thấp lên cao như những nấc thang giá
trị của văn minh con người, trên cơ sở phát triển của sức sản xuất vật chất và
4
thông qua sự đấu tranh, gạn lọc, kế thừa mà nội dung đạo đức ngày càng phong
phú, hoàn thiện hơn.
2. Vai trò của giáo dục đạo đức trong quá trình hình thành và phát triển
nhân cách
Nhân cách của con người bao gồm tất cả các nét, các mặt, các phẩm chất có
ý nghĩa xã hội trong một con người. Những thuộc tính này được hình thành
trong quá trình tác động qua lại giữa người đó với những người khác trong xã
hội. Vì thế, nhân cách đựơc xem là “sản phẩm muộn” trong sự phát triển của
con người.
Khi nói đến nhân cách người ta thường quan niệm đó là sự thống nhất biện
chứng giữa các mặt: phẩm chất và năng lực (còn gọi là đức và tài) của con
người. Trong đó đạo đức là nền tảng, là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan
trọng của nhân cách con người nói chung, học sinh nói riêng. Bộ phận quan
trọng ấy không tự nhiên mà hình thành một cách trọn vẹn, đòi hỏi phải có một
quá trình hướng vào mục đích ấy.
Do đó, ta hiểu: “Giáo dục đạo đức là một quá trình sư phạm bộ phận trong
đó dưới tác động chủ đạo của nhà giáo dục nhằm hình thành và phát triển ở học
sinh ý thức đạo đức, tình cảm đạo đức, hành vi và thói quen đạo đức, nhờ đó mà
tạo ra các phẩm chất đạo đức ở học sinh, theo những nguyên tắc đạo đức cộng
sản chủ nghĩa”
Như chúng ta biết, con người muốn làm được điều thiện, tránh được điều
ác, muốn cho những hành vi của mình được mọi người chấp nhận, không bị dư
luận xã hội lên án thì họ phải nắm được những quan điểm, những nguyên tắc,
quy tắc, chuẩn mực đạo đức cơ bản. Từ đó, con người có thể tự do lựa chọn
những hành vi phù hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội, đồng thời mới có
khả năng đánh giá đúng đắn các hiện tượng, hành vi trong quan hệ xã hội theo
quan điểm đạo đức tiến bộ, cách mạng. Vì vậy, công tác giáo dục đạo đức góp
phần quan trọng vào quá trình hình thành, phát triển nhân cách của con người.
3. Vị trí, vai trò của môn Giáo dục công dân trong nhà trường trung
học phổ thông
Mỗi môn học trong trường trung học phổ thông đều có một vị trí nhất định
của nó.
Môn Giáo dục công dân vừa có vị trí thông thường của một môn học, vừa
có vị trí đặc biệt của nó. Ở vị trí thông thường, môn Giáo dục công dân được
xếp cùng loại, ngang hàng với các môn học khác trong hệ thống các môn học.
5
Nó có những nhiệm vụ như các môn học khác: trang bị tri thức, giáo dục tư
tưởng, tình cảm, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, phát triển trí tuệ học sinh. Ở vị trí
đặc biệt của nó, môn Giáo dục công dân có những đặc điểm riêng, những nhiệm
vụ riêng, khác biệt so với các môn học khác. Có thể nêu lên mấy đặc điểm sau
đây:
Một là, môn Giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông đề cập và giải
quyết một cách toàn diện hệ thống tri thức cơ bản, cần thiết của một công dân
Việt Nam trong thời đại mới. Chủ đề mà môn Giáo dục công dân đề cập bao
hàm từ những cái gần gũi, thiết thực trong đời thường cá nhân, công dân, gia
đình, xã hội đến những vấn đề lớn hơn như quốc gia, nhân loại; từ những vấn
đề thường nhật đến những vấn đề mang tính lý luận, trừu tượng khái quát như
triết học, logic học, từ những hiểu biết cần thiết về cuộc sống đến thế giới quan,
nhân sinh quan, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa
Hai là, môn Giáo dục công dân mang tính định hướng chính trị sâu sắc vì
nó trực tiếp đề cập, trực tiếp giải quyết những vấn đề chính trị, tư tưởng của giai
cấp công nhân, của Đảng ta, trực tiếp xác nhận, củng cố định hướng chính trị xã
hội chủ nghĩa cho học sinh.
Môn Giáo dục công dân trong toàn bộ nội dung của nó từ lớp 10 đến lớp 12
trước hết tập trung vào việc xây dựng cho học sinh phổ thông thế giới quan
khoa học, nhân sinh quan cộng sản và phương pháp luận đúng đắn bằng nhiều
biện pháp, hình thức khác nhau. Tất cả đều nhằm làm cho học sinh có những
quan niệm, niềm tin triết học làm nền tảng cho hệ thống thế giới quan. Từ đó,
học sinh có được định hướng đúng đắn trong hoạt động thực tiễn, giải quyết
đúng đắn các mối quan hệ của bản thân với các cộng đồng trên các lĩnh vực, các
phạm vi khác nhau.
Cùng với việc hình thành thế giới quan một cách trực tiếp, môn Giáo dục
công dân giúp học sinh trả lời một cách khoa học đúng đắn câu hỏi: Sống để
làm gì? Sống như thế nào cho xứng đáng với vai trò, vị trí của người công dân
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tính định hướng chính trị còn thể hiện ở chỗ, môn Giáo dục công dân trực
tiếp đề cập đến những vấn đề có tính đường lối chính sách của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Đó là những vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội nóng bỏng của đất
nước và thế giới. Với những phương pháp luận đã được trang bị, học sinh bước
đầu tiên hiểu, phân tích, đánh giá và tự rút ra kết luận cần thiết đúng đắn.
6
Mỗi môn học trong nhà trường đều có nhiệm vụ xây dựng thế giới quan,
nhân sinh quan, phương pháp luận khoa học, giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo
đức cho học sinh. Lợi thế hơn các môn học khác, môn Giáo dục công dân thực
hiện nhiệm vụ này một cách trực tiếp. Đặc điểm này mở ra khả năng to lớn và
trách nhiệm nặng nề đối với môn Giáo dục công dân.
Ba là, hệ thống tri thức của môn Giáo dục công dân mang tính tích hợp.
Phân tích chương trình của môn Giáo dục công dân ta thấy nó tập trung khá
nhiều phân môn, chứa đựng nhiều loại kiến thức của các môn khoa học khác
nhau: triết học, kinh tế, chủ nghĩa xã hội khoa học, đạo đức, pháp luật, và ở
một mức độ nhất định còn chứa đựng cả kiến thức một số môn khoa học tự
nhiên.
Tính tích hợp đòi hỏi môn Giáo dục công dân không chỉ xác lập phương
pháp chung đặc thù cho cả bộ môn mà còn phải có phương pháp riêng cho từng
phân môn. Mỗi phân môn là một bộ môn khoa học độc lập nên cần có phương
pháp dạy học phù hợp: Dạy triết học phải khác với dạy kinh tế, đạo đức, pháp
luật
Bốn là, môn Giáo dục công dân đòi hỏi chặt chẽ việc dạy và học phải gắn
liền một cách trực tiếp, cụ thể với đời sống, với việc rèn luyện, tu dưỡng của
mỗi học sinh. Dạy và học Giáo dục công dân là dạy và học để trở thành công
dân của nước Việt Nam. Bởi vậy, nếu tách khỏi thực tiễn xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thì việc dạy và học sẽ mất hết ý nghĩa và
tác dụng.
Bốn đặc điểm trên kết hợp chặt chẽ với nhau trong một hệ thống nhất quy
định nội dung và phương pháp dạy học bộ môn. Vị trí, vai trò, đặc điểm như
trên của bộ môn Giáo dục công dân nói rõ nó vừa là một hệ thống tri thức khoa
học, vừa là một hệ thống các yêu cầu về hành vi chính trị, đạo đức. Trong đó,
quá trình dạy học bộ môn Giáo dục công dân chúng ta cần phải:
+ Luôn luôn đảm bảo tính khoa học cho bộ môn Giáo dục công dân, triệt để
khắc phục những nhược điểm về hô hào chung chung, động viên tư tưởng
chung chung. Khắc phục quan niệm coi môn học này là môn chính trị thuần tuý,
chỉ là môn học phụ. Mỗi bài giảng Giáo dục công dân phải là hệ thống những tri
thức khoa học, chính xác, chặt chẽ. Chỉ trên cơ sở đó, môn Giáo dục công dân
mới có ích về mặt giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức.
+ Luôn luôn gắn bài giảng với thực tế đời sống, đặc biệt là tư tưởng nhận
thức của học sinh, mỗi giờ học mang lại cho người học những hiểu biết mới,
7
kích thích học sinh suy nghĩ, xem xét những nhận thức của bản thân. Đó là
những nhiệm vụ chính trị của một giờ học hấp dẫn, sinh động, có hiệu quả.
Cũng xuất phát từ vị trí, vai trò trên, nên trong nhà trường môn Giáo dục
công dân là môn học không thể thay thế được bằng bất cứ môn học nào khác.
Đó cũng là một tất yếu khách quan buộc chúng ta phải nhận thức đúng đắn
và đầy đủ vị trí của môn học này. Nhận thức đúng đắn và đầy đủ vị trí của môn
Giáo dục công dân, chúng ta mới có cơ sở đảm bảo thực hiện được mục tiêu và
nhiệm vụ quan trọng của nó trong sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo của
nước nhà.
II. Thực trạng của vấn đề
Nhiệm vụ của các trường trung học phổ thông là trang bị học vấn, bồi
dưỡng phẩm chất chính trị và năng lực hoạt động thực tiễn cho học sinh. Tất cả
các môn học ở trường trung học phổ thông đều thể chế hoá nhiệm vụ trên bằng
việc vừa cung cấp kiến thức, vừa hình thành kỹ năng, bồi dưỡng tình cảm, lý
tưởng cho các thế hệ học sinh.
Môn Giáo dục công dân được xác định có vị trí quan trọng trong việc hình
thành thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, phương pháp tư duy
khoa học cho thế hệ trẻ. Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng nhấn mạnh:
“Phải tăng cường giáo dục công dân, giáo dục thế giới quan khoa học, lòng
yêu nước, ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước”
Trong đó, phần đạo đức góp phần không nhỏ vào việc hoàn thành mục tiêu
của chương trình Giáo dục công dân nói riêng và của trường trung học phổ
thông nói chung.
Theo chương trình của lớp 10 thì phần đạo đức thuộc phần II: “Công dân
với đạo đức”.
Theo chương trình lớp 11 gồm 2 phần: Công dân với kinh tế và Công dân
với các vấn đề chính trị - xã hội. Thông qua đó giáo dục đạo đức XHCN cho
học sinh khi tham gia các hoạt động kinh tế và chính trị xã hội
Theo chương trình của lớp 12 thì phần đạo đức nằm trong nội dung giáo dục
pháp luật
Cùng nằm ở ba khối lớp khác nhau nhưng nội dung chương trình đạo đức đã
có sự thay đổi nhất định. Tuy nhiên, cả ba đều giới thiệu cho chúng ta những
phạm trù đạo đức cơ bản, những nguyên tắc đạo đức xã hội chủ nghĩa và một
số vấn đề về đạo đức liên quan đến đời sống thường nhật của học sinh cùng một
số truyền thống đạo đức của dân tộc.
8
Qua tìm hiểu phần đạo đức, ta thấy nội dung chương trình được xây dựng
trên cơ sở kế thừa, phát triển kết quả giáo dục, dạy học của môn Đạo đức ở tiểu
học và môn Giáo dục công dân ở trung học cơ sở. Mục tiêu, nội dung chương
trình góp phần củng cố, phát triển hệ thống giá trị đạo đức, lối sống mà học sinh
hình thành ở tiểu học và trung học cơ sở. Đồng thời, giúp học sinh nhận thức về
trách nhiệm của mình đối với mọi người xung quanh và đối với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng cho học sinh phương pháp luận đúng đắn để
họ nhận thức, có đủ bản lĩnh, đủ năng lực chủ động và tự giác xác định phương
hướng phát triển của bản thân sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông.
Những phẩm chất đạo đức, lối sống phải là những giá trị của con người Việt
Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá thể hiện ở nhận thức, hành vi và
tình cảm, niềm tin với tư cách là một chủ thể của sự phát triển nhân cách, phát
triển xã hội.
Phần đạo đức góp phần phát triển cân đối, hài hoà giữa các giá trị, giữa kiến
thức, kỹ năng và thái độ; giữa nhận thức và hành động của học sinh để hình
thành ở họ tình cảm, niềm tin và ý thức trách nhiệm của tuổi trẻ trước sự phát
triển của đất nước.
Cùng với những tri thức về triết học, chủ nghĩa xã hội khoa học, đường lối
chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, pháp luật của Nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, những tri thức đạo đức đã làm hoàn thiện hệ thống tri
thức môn Giáo dục công dân trong nhà trường trung học phổ thông. Đồng thời,
hoàn thiện những phẩm chất cần phải có của một công dân thật sự, góp phần
xây dựng đất nước “công bằng, dân chủ, văn minh.”
Như vậy, chỉ là một phần nhỏ nhưng phần đạo đức có giá trị, vị trí và vai trò
rất quan trọng trong chương trình Giáo dục công dân ở trường trung học phổ
thông.
III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề.
1. Nội dung giáo dục đạo đức qua giảng dạy môn Giáo dục công dân ở
các trường trung học phổ thông
Là môn học thuộc khoa học xã hội, Giáo dục công dân góp phần đào tạo
nên những người lao động mới, hình thành ở họ phẩm chất và năng lực của
người công dân. Đó là phẩm chất về tư tưởng, chính trị, đạo đức và năng lực
hoạt động thực tiễn. Để đạt được những nhiệm vụ này, môn Giáo dục công dân
ở trường trung học phổ thông đã xây dựng cho mình một hệ thống tri thức khá
đầy đủ và logic với những vai trò tương ứng:
9
- Hệ thống tri thức triết học góp phần hình thành thế giới quan khoa học,
nhân sinh quan cách mạng, phương pháp tư duy biện chứng.
- Hệ thống tri thức kinh tế chính trị hình thành tư duy, khoa học về các quan
điểm kinh tế của chủ nghĩa Mác- Lênin và sự vận dụng của Đảng ta trong công
cuộc xây dựng đất nước hiện nay.
- Hệ thống tri thức đạo đức trực tiếp hình thành những suy nghĩ, tình cảm,
phẩm chất, hành động đúng đắn, phù hợp với chuẩn mực xã hội.
- Hệ thống tri thức pháp luật nhằm xây dựng ý thức chấp hành pháp luật.
- Hệ thống tri thức về đường lối của Đảng góp phần giúp học sinh nắm
vững đường lối của Đảng, tin tưởng vào sự lãnh đạo đúng đắn và vị trí không
thể thay thế của Đảng trong đời sống xã hội.
Như vậy, việc giáo dục đạo đức cho học sinh qua môn Giáo dục công dân
được tiến hành trên cơ sở nội dung khoa học của nó.
Môn Giáo dục công dân có nhiều khả năng giáo dục đạo đức cho học sinh,
bằng nhiều phương diện khác nhau.
- Đưa vào chương trình các bài học đạo đức và các vấn đề đạo đức vào các
bài có nội dung phù hợp.
- Trong quá trình giảng dạy, giáo viên liên hệ với các vấn đề đạo đức cần
thiết phải giáo dục liên quan đến nội dung bài giảng.
- Học sinh tự vận dụng các nội dung của bài học vào quá trình tu dưỡng, rèn
luyện của bản thân và giải quyết các vấn đề đạo đức trong cuộc sống hằng ngày.
Khi học sinh biết vận dụng những tri thức trong sách vở để giải quyết những
vấn đề đặt ra trong cuộc sống trên cơ sở khoa học, tức là các em đã hình thành
những hành vi đạo đức tiến bộ một cách tự giác. Các em đã có niềm tin và niềm
tin đó phải được hình thành trên cơ sở hệ thống tri thức khoa học mới là niềm
tin vững chắc. Trách nhiệm này thuộc về các môn khoa học, trong đó có môn
Giáo dục công dân trong nhà trường phổ thông.
Thông qua các bài học của mình, môn Giáo dục công dân có tác dụng giáo
dục đạo đức cho học sinh một cách sâu sắc.
2. Phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua giảng dạy
môn Giáo dục công dân và phần đạo đức
Phương pháp giáo dục là một vấn đề quan trọng của lý luận dạy học trong
đó bao hàm phương pháp giảng dạy. Chính vì vậy, việc xác định hợp lý các
phương pháp giảng dạy để thực hiện tốt những bài giảng đạo đức trên lớp,
10
chính là một phần hết sức quan trọng trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh.
Để giáo dục đạo đức thông qua giảng dạy môn Giáo dục công dân đạt hiệu quả
cao thì giáo viên có thể sử dụng hệ thống các phương pháp cơ bản sau:
Phương pháp giảng giải:
Đây là phương pháp phải dùng luận cứ, số liệu để giải thích, chứng minh
một hiện tượng, sự kiện, quy tắc, định lý, định luật trong môn học. Giảng dạy
chứa đựng các yếu tố phán đoán, suy lý nên có nhiều khả năng phát triển tư duy
cho học sinh.
Phương pháp giảng giải các phạm trù, các chuẩn mực đạo đức bằng con
đường quy nạp (thuyết trình) là phương pháp phù hợp với trình độ của học sinh,
nhằm hình thành ở các em những biểu tượng đạo đức, niềm tin vào những
chuẩn mực đạo đức cao đẹp, mong muốn rèn luyện và đạt được những chuẩn
mực đó trong cuộc sống.
Phương pháp đàm thoại, nêu vấn đề.
Đây là phương pháp tối ưu trong giảng dạy đạo đức ở cấp trung học phổ
thông. Phương pháp này sẽ phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh
khi các em tiếp nhận kiến thức và sự giáo dục đạo đức. Thực hiện tốt phương
pháp đàm thoại sẽ tạo ra không khí thoải mái, dân chủ trong lớp học. Không
những thế, giáo viên còn có thể kiểm tra trình độ nhận thức, cũng như cách ứng
xử, thái độ đánh giá của học sinh trước những chuẩn mực và hiện thực đạo đức.
Phương pháp nêu gương (Liên hệ thực tế, đấu tranh chống phản diện).
Nêu gương là phương pháp đặc thù của giáo dục đạo đức. Trong đó, nhà giáo
dục đưa ra những tấm gương sáng, những việc tốt, những giá trị xã hội chuẩn mực
của các nhân hay tập thể, để người được giáo dục học tập và noi theo.
Như vậy, thông thường nói đến nêu gương thì có nghĩa là dùng những
“gương tốt” – gương chính diện để giáo dục học sinh. Tuy nhiên, khi cần thiết
nhà giáo dục còn dùng những “gương xấu” - gương phản diện để giáo dục học
sinh, nhằm lên án, né tránh những cái xấu.
Trong giáo dục đạo đức, việc nêu gương sẽ làm cho các chuẩn mực đạo
đức, xã hội trở nên trực quan hơn, sinh động và cụ thể hơn, có sức thuyết phục
thực sự. Mặt khác, những hành vi đạo đức của giáo viên hội đồng giáo dục và
bạn bè có tác dụng giáo dục đạo đức rất sâu sắc.
Phương pháp động não.
11
Đây là phương pháp giúp cho học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh được
nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề. Phương pháp này có ích để “lôi ra”
một danh sách các thông tin. Hơn nữa, những tri thức Giáo dục công dân mang nội
dung đạo đức sâu sắc, lại khá quen thuộc với học sinh và cuộc sống xung quanh. Vì
vậy, phương pháp tác động não sẽ kích thích hứng thú học tập.
Phương pháp thảo luận nhóm.
Về thực chất, phương pháp thảo luận nhóm là tổ chức cho học sinh bàn bạc,
trao đổi trong nhóm nhỏ. Thảo luận nhóm được sử dụng rộng rãi nhằm giúp cho
mọi học sinh tham gia một cách chủ động vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho
học sinh có thể chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải quyết một vấn đề
có liên quan đến nội dung bài học.
Nhờ phương pháp thảo luận nhóm mà:
- Kiến thức của học sinh sẽ giảm bớt tính chủ quan, phiến diện, làm tăng
tính khách quan khoa học. Kiến thức trở nên sâu sắc, bền vững, dễ nhớ và nhớ
nhanh hơn do được giao lưu, học hỏi giữa các thành viên trong nhóm. Từ đó,
các em tin tưởng vào sự đúng đắn của tri thức và mong muốn được vận dụng
chúng vào cuộc sống.
- Nhờ không khí thảo luận cởi mở giúp học sinh thoải mái, tự tin hơn
trong việc trình bày ý kiến của mình và biết lắng nghe có phê phán của những
thành viên khác.
- Phương pháp này hình thành ở các em tinh thần tập thể, cộng đồng, ý
thức tự giác cao,…
Phương pháp đóng vai:
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho người học thực hành, “làm thử” một
số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là phương pháp dạy
học nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào
một sự kiện cụ thể mà họ quan sát được. Việc “diễn” không phải là phần chính
của phương pháp này mà điều quan trọng là sự thảo luận sau phần “diễn” ấy.
Thông qua phương pháp này, học sinh được rèn luyện, thực hành, những kĩ
năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước khi thực hành
trong thực tiễn, khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo hướng
tích cực.
Trên đây là những phương pháp cơ bản, thường hay sử dụng để giảng dạy,
giáo dục đạo đức cho học sinh. Phương pháp giáo dục đó phải phù hợp với mục
đích, yêu cầu cụ thể của từng bài học, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của học
12
sinh, xuất phát từ nội dung của những chuẩn mực đạo đức mới đáp ứng yêu cầu
phát triển của xã hội. Phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh trung học
phổ thông vừa bao hàm cả công tác giảng dạy lý thuyết đạo đức, nhằm cung cấp
cho các em hệ thống tri thức khoa học về đạo đức, để hình thành ý thức đạo đức
vừa rèn luyện để học sinh củng cố, hình thành kỹ năng, thói quen đạo đức trong
đời sống hằng ngày.
3.Một số ví dụ cụ thể
3.1 Một số ví dụ trong giảng dạy Giáo dục công dân
Ví dụ 1:
Bài 4-lớp 10: Nguồn gốc vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng.
Mục tiêu bài học:
Học xong bài, học sinh cần đạt được các yêu cầu:
Về kiến thức:
- Những hiểu biết cơ bản về khái niệm mâu thuẫn theo quan điểm của
chủ nghĩa duy vật biện chứng.
- Hiểu được sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc khách quan
của mọi sự vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng.
Về kĩ năng:
- Biết vận dụng khái niệm mâu thuẫn khi phân tích một số sự vật, hiện
tượng. Tránh sự nhầm lẫn giữa khái niệm trong triết học với khái niệm mâu
thuẫn trong sinh hoạt hằng ngày.
- Vận dụng được ý nghĩa của nguyên lý đấu tranh giữa các mặt đối lập của
mâu thuẫn khi nhận xét các hiện tượng biến đổi trong giới tự nhiên và đời sống
xã hội.
Về thái độ:
- Dám đấu tranh giải quyết mâu thuẫn trong đời sống phù hợp với lứa tuổi.
- Phê phán lối sống ngại va chạm, che dấu mâu thuẫn, “dĩ hoà vi quý” trong
đời sống cá nhân và tập thể.
- Trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay, phải chú ý cả mặt
hợp tác và đấu tranh, đối thoại và đối đầu, tránh cả hai xu hướng cực đoan: tả
khuynh và hữu khuynh.
Phương pháp dạy học:
- Phương pháp đàm thoại
13
- Phương pháp thảo luận nhóm
- Phương pháp nêu vấn đề
- Phương pháp vận dụng tri thức liên môn
Với hệ thống phương pháp trên, giáo viên cần giúp học sinh hiểu hai nội
dung của bài:
Một là: Thế nào là mâu thuẫn.
Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất với
nhau, vừa đấu tranh với nhau.
Để học sinh hiểu rõ hơn về khái niệm mâu thuẫn, giáo viên cần giúp học
sinh hiểu:
Mặt đối lập của mâu thuẫn là những khuynh hướng, tính chất, đặc điểm …
mà trong quá trình vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng, chúng phát
triển theo những chiều hướng trái ngược nhau.
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập: Trong mỗi mâu thuẫn, hai mặt đối lập
liên hệ gắn bó với nhau, làm tiền đề tồn tại cho nhau.
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập: Tức là hai mặt đối lập luôn luôn tác
động, bài trừ, gạt bỏ nhau.
Hai là: Mâu thuẫn là nguồn gốc vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Trong phần này, giáo viên cần giúp học sinh hiểu:
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng.
Mâu thuẫn chỉ được giải quyết bằng sự đấu tranh giữa các mặt đối lập của
mâu thuẫn.
Trong đó, trọng tâm của bài là nguyên lý về sự đấu tranh giữa các mặt đối
lập của mâu thuẫn.
Như vậy, để làm rõ nội dung của bài và thông qua đó giáo dục đạo đức cho
học sinh thì ngoài các phương pháp trên, giáo viên cần sử dụng các bài tập thực
hành để rèn luyện kĩ năng cho học sinh. Chẳng hạn:
Câu 1: Em đồng ý với ý kiến nào sau đây:
a) Mâu thuẫn là một chỉnh thể.
b) Mâu thuẫn có hai mặt đối lập.
c) Mâu thuẫn là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Câu 2: Dựa vào quy luật mâu thuẫn để giải thích các câu thành ngữ sau:
14
a) Dao có mài mới sắc.
b) Vàng có luyện mới trong.
c) Thất bại là mẹ của thành công.
Hiểu những nội dung trên, học sinh biết vận dụng vào cuộc sống hàng ngày
trong việc phân tích những mâu thuẫn trong nhận thức, trong rèn luyện phẩm
chất đạo đức. Biết phân biệt đâu là đúng, là sai, cái gì là tiến bộ, cái gì là lạc hậu
để nâng cao nhận thức khoa học, phát triển nhân cách. Biện pháp thường xuyên
để giải quyết mâu thuẫn trong cuộc sống tập thể là phải tiến hành phê bình và tự
phê bình, tránh thái độ xuề xoà, “dĩ hoà vi quý”, không dám đấu tranh chống lại
những cái lạc hậu, tiêu cực. Đó chính là bài học đạo đức sâu sắc đối với lứa tuổi
học sinh.
Ví dụ 2
Bài 8 - Lớp 11: Chủ nghĩa xã hội
Mục tiêu bài học:
Học xong bài, học sinh cần đạt được các yêu cầu:
Về kiến thức:
- Hiểu được Chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của xã hội Cộng sản chủ
nghĩa
- Nêu được tính tất yếu khách quan đi lên Chủ nghĩa xã hội và đặc điểm thời
kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Về kĩ năng:
- Phân biệt sự khác nhau cơ bản giữa Chủ nghĩa xã hội với các chế độ xã
hội trước ở Việt Nam.
Về thái độ:
- Tin tưởng vào thắng lợi của Chủ nghĩa xã hội ở nước ta, có ý thức sắn
sàng tham gia xây dựng và bảo vệ Đất nước, bảo vệ Chủ nghĩa xã hội.
Phương pháp dạy học:
- Phương pháp đàm thoại
- Phương pháp nêu vấn đề
- Phương pháp liên hệ thực tế
- Phương pháp thảo luận nhóm.
- Phương pháp thuyết trình
15
Với hệ thống phương pháp trên giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ hai
nội dung:
Một là: Chủ nghĩa xã hội và những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam
Hai là: Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Ở bài này, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh nói chuyện chuyên đề: “Sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn hiện nay ở địa
phương em” để khắc sâu và củng cố nội dung bài học. Đây cũng là phương
pháp giáo dục đạo đức có hiệu quả cao. Qua buổi ngoại khoá này, học sinh sẽ
hiểu rõ hơn về thực tiễn xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội không chỉ ở địa
phương mình mà còn ở các địa phương khác. Từ đó, hình thành ở các em ý
thức, niềm tin vào sự tất thắng của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã
hội; ý thức tham gia các hoạt động trường, lớp, làng xóm, quê hương,…phù hợp
với lứa tuổi. Đặc biệt, qua buổi nói chuyện chuyên đề này, học sinh rèn luyện
cho mình khả năng nói, phong cách tự tin, chững chạc, ý thức tự giác,…trong
sinh hoạt tập thể. Buổi nói chuyện chuyên đề cần làm rõ được các nội dung:
- Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở địa phương em (thành tựu và hạn chế).
+ Về kinh tế.
+ Về chính trị.
+ Về văn hoá - xã hội.
- Thực tiễn bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở địa phương em (thành tựu và hạn chế).
+ Về kinh tế.
+ Về chính trị.
+ Về văn hoá - xã hội.
- Một số giải pháp góp phần thực hiện và hoàn thành tốt sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở địa phương em.
Đồng thời, với việc giúp học sinh hiểu những kiến thức trên, giáo viên
cần biến sự hiểu biết đó thành lối sống, hành động đúng đắn. Luôn xem xét, giải
quyết các vấn đề xã hội một cách khoa học, không chủ quan, nóng vội, phiến
diện. Đó chính là bài học đạo đức xuyên suốt toàn bài mà giáo viên cần hình
thành ở học sinh.
Ví dụ 3:
Bài 14 - lớp 11: Chính sách quốc phòng và an ninh.
Mục tiêu bài học:
16
Học xong bài, học sinh cần đạt được các yêu cầu:
Về kiến thức:
- Nêu được vai trò của quốc phòng và an ninh ở nước ta.
- Nêu được những phương hướng cơ bản nhằm tăng cường Quốc phòng và
an ninh ở nước ta hiện nay.
- Hiểu được trách nhiệm của công dân trong việc thực hiện chính sách
Quốc phòng và An ninh của Nhà nước.
Về kĩ năng:
- Biết tham gia tuyên truyền và thực hiện tốt chính sách Quốc phòng và An
ninh của Nhà nước.
Về thái độ:
- Tin tưởng, ủng hộ chính sách Quốc phòng và An ninh của Nhà nước, sẵn
sàng tham gia giữ gìn trật tự, an ninh và bảo vệ Tổ quốc.
Phương pháp dạy học:
- Phương pháp đàm thoại
- Phương pháp liên hệ thực tế
- Phương pháp nêu vấn đề
- Phương pháp thảo luận nhóm
- Ngoài ra, phương pháp nêu gương cũng là một phương pháp rất quan
trọng. Nó không chỉ làm rõ nội dung của bài mà với các gương mặt chiến sĩ
công an, cảnh sát dũng cảm bảo vệ trật tự xã hội, biên cương quốc gia sẽ là tấm
gương cho học sinh noi theo.
Với hệ thống phương pháp trên, giáo viên cần làm rõ ba nội dung sau:
Một là: Vai trò của quốc phòng và an ninh.
Quốc phòng là các công việc, các hoạt động nhằm phục vụ cho việc giữ gìn
và bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
An ninh là các công việc, các hoạt động đảm bảo ổn định chính trị, trật tự và
an toàn xã hội trên tất cả các mặt, làm thất bại mọi hành động phá hoại của
địch.
Quốc phòng và an ninh có vai trò trực tiếp giữ gìn và bảo vệ Tổ quốc.
Quốc phòng và an ninh có vai trò đảm bảo sự ổn định chính trị và trật tự an
toàn xã hội.
Hai là: Nhiệm vụ của quốc phòng và an ninh.
17
Quốc phòng có nhiệm vụ: Trong hoà bình, bảo vệ vững chắc độc lập dân
tộc, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ; trong chiến tranh, đập tan mọi kẻ thù xâm
lược, giữ từng tấc đất của Tổ quốc, thường xuyên ngăn chặn làm thất bại mọi
âm mưu, hành động phá hoại của kẻ thù.
An ninh có nhiệm vụ: Giữ vững sự ổn định và phát triển của mọi hoạt động;
chống lại các hành động phá hoại, lật đổ của gián điệp, phản động…Giữ gìn trật
tự an toàn xã hội, bảo vệ tính mạng, tài sản cho nhân dân.
Ba là: Những chủ trương và biện pháp lớn thực hiện chính sách quốc
phòng, an ninh.
Xây dựng củng cố nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân.
Ổn định và phát triển mọi mặt của đời sống xã hội tạo nên nền tảng của
quốc phòng, an ninh.
Phát triển kinh tế xã hội đôi với tăng cường tiềm lực quốc phòng an ninh.
Xây dựng quân đội nhân dân và lực lượng công an nhân dân vững mạnh.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và công an nhân dân.
Trong đó, trọng tâm của bài là làm rõ vai trò, nhiệm vụ của quốc phòng, an
ninh cũng những chủ trương, biện pháp của Đảng và Nhà nước ta nhằm xây
dựng quốc phòng, an ninh vững mạnh.
Đây là bài có nội dung khá gần gũi với đời sống thực tiễn, học sinh ít nhiều
đã được nghe và hiểu thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Vì vậy,
bên cạnh các phương pháp dạy học trên thì công tác giáo dục đạo đức cho học
sinh qua bài học sẽ đạt hiệu quả cao hơn khi sử dụng phương pháp tấn công
não. Cụ thể là: Trong phần I: “Vai trò của quốc phòng và an ninh”, khi giảng
khái niệm quốc phòng, an ninh; giáo viên có thể chuẩn bị những mảnh giấy nhỏ
chia cho 6 – 8 em, trả lời câu hỏi sau: Thế nào là quốc phòng, an ninh?
Lưu ý giáo viên cần quán triệt học sinh gấp sách vở lại. Sau 2 phút, giáo
viên thu câu trả lời, đọc lên cho cả lớp nghe rồi giáo viên nhận xét và cho học
sinh ghi khái niệm chính xác vào vở. Đồng thời, giáo viên cho học sinh lấy ví
dụ làm rõ hơn khái niệm.
Thông qua việc giúp học sinh hiểu rõ những vấn đề trên, người giáo viên
hình thành ở học sinh tinh thần trách nhiệm và nghĩa vụ đối với Tổ quốc. Đặc
biệt trong điều kiện hiện nay, chúng ta phải cảnh giác với mọi âm mưu thâm
độc của kẻ thù (chúng tìm cách đầu độc thanh niên); chấp hành nghiêm chỉnh
18
luật pháp, giữ vững kỷ cương của trường, lớp; sẵn sàng tham gia nghĩa vụ quân
sự và thực hiện các nhiệm vụ trên mặt trận an ninh ở nơi cư trú.
3.2. Một số ví dụ trong giảng dạy đạo đức
Ví dụ 1.
Bài 11 – lớp 10: Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học
Mục tiêu bài học:
Học xong bài, học sinh cần đạt được các yêu cầu:
Về kiến thức:
- Hiểu được thế nào là nghĩa vụ, lương tâm, nhân phẩm, danh dự và hạnh
phúc.
- Hiểu rõ những yêu cầu và nhiệm vụ mà đạo đức xã hội dặt ra cho con
người. Từ đó có nhận thức đúng về đạo đức cá nhân và có ý thức bội dưỡng đạo
đức mới.
Về kĩ năng:
- Đánh giá một cách khoa học các hiện tượng đạo đức trong xã hội.
- Đánh giá được các hành vi đạo đức diên ra trong cuộc sống hàng ngày.
Về thái độ:
- Biết tôn trọng và giữ gìn các giá trị và chuẩn mực đạo đức mới, tiến bộ.
- Có ý thức tự giác thực hiện hành vi của bản thân theo các giá trị, chuẩn
mực ấy trong cuộc sống
Phương pháp dạy học:
- Phương pháp đàm thoại
- Phương pháp liên hệ thực tế
- Phương pháp thảo luận nhóm
- Phương pháp thuyết trình
- Phương pháp nêu vấn đề
Với hệ thống phương pháp trên, giáo viên cần giúp học sinh hiểu bốn nội
dung:
Một là: Nghĩa vụ
Nghĩa vụ là trách nhiệm của cá nhân đối với yêu cầu, lợi ích chung của cộng
đồng, của xã hội . Cá nhân phải biết đặt nhu cầu, lợi ích của xã hội lên trên.
Không những thế, còn phải biết hi sinh quyền lợi của mình vì quyền lợi
chung…Ở nội dung này có tính giáo dục đạo đức cao vì sau khi tìm hiểu nghĩa
19
vụ của người thanh niên hiện nay thì học sinh có thể tự rút ra được mình có
những nghĩa vụ nào
Hai là: Lương tâm.
Lương tâm là năng lực tự đánh giá hành vi đạo đức của tình cảm đạo đức.
Khi tự đánh giá được nếu làm điều gì trái với đạo đức thì có người nảy sinh
sắc thái tình cảm hối hận và xấu hổ. Hối hận là nhận thấy việc làm sai trái của
mình. Xấu hổ là tình cảm lo sợ bị xã hội lên án, chê trách động cơ hành vi trái
đạo đức của mình.
Làm thế nào để giữ cho lương tâm luôn được trong sáng
Nội dung của phần này mang tính giáo dục đạo đức sâu sắc. Vì vậy, bên
cạnh các phương pháp trên, giáo viên có thể sử dụng phương pháp nêu gương
để khắc sâu bài học đạo đức cho học sinh. Với những tấm gương chính diện và
phản diện về lương tâm con người sẽ tác động trực tiếp đến tâm tư, tình cảm
của học sinh. Ví dụ: Sự ủng hộ của nhân dân cả nước đối với đồng bào miền
Trung trong cơn bão …
Với nội dung trên, giáo viên hình thành ở học sinh ý thức tự kiểm tra đánh
giá hành vi của mình, biết hối hận và xấu hổ khi làm việc sai trái. Luôn chăm lo
rèn luyện tư tưởng, đạo đức theo quan điểm tiến bộ, cách mạng. Chăm lo bồi
dưỡng những tình cảm đẹp đẽ để lương tâm luôn trong sáng. Thực hiện tốt
nghĩa vụ đạo đức của mình đối với xã hội, phấn đấu trở thành con ngoan, trò
giỏi, công dân tốt.
Ba là: Nhân phẩm và danh dự
Với nội dung kiến thức này giáo viên có thể sử dụng phương pháp nêu gương
về những người tốt biết giữ gìn nhân phẩm và danh dự của mình. Giúp học sinh
hiểu được nhân phẩm và danh dự làm nên giá trị của mỗi con người, người có
nhân phẩm biết trọng danh dự là một cá nhân có đạo đức. Từ đó có phương
hướng rèn luyện đạo đức cho bản thân
Bốn là: Hạnh phúc
Trên cơ sở nội dung kiến thức phần này giáo viên giúp học sinh hiểu đúng hạnh
phúc của con người là sự thỏa mãn cá nhân về nhu cầu vật chất và tinh thần,
nhưng phải là nhu cầu chân chính lành mạnh. Đồng thời biết tự điều chỉnh nhu
cầu cho phù hợp thực tế
Như vậy, qua bài học này hình thành ở học sinh bài học đạo đức sâu sắc,
thiết thực, phù hợp với lứa tuổi trung học phổ thông. Hiểu được thế nào là nghĩa
20
vụ, lương tâm, nhân phẩm, danh dự, hạnh phúc. Từ đó các em sẽ thấy cần phải
có trách nhiệm thực hiện tốt, biết phấn đấu hoàn thiện mình, để góp phần xây
dựng gia đình và xã hội hạnh phúc. Đồng thời có thái độ nghiêm túc trong cuộc
sống, có cuộc sống lành mạnh tránh xa các tệ nạn xã hội, tránh lối sống ích kỉ,
thực dụng, phấn đấu vì một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ,
văn minh
Ví dụ 2:
Bài 14 - lớp 10: Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Mục tiêu bài học:
Học xong bài, học sinh cần đạt được các yêu cầu:
Về kiến thức:
- Nêu được thế nào là lòng yêu nước và các biểu hiện cụ thể của lòng yêu nước.
- Trình bày được trách nhiệm của công dân đặc biệt là công dân học sinh
đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Về kĩ năng:
- Biết tham gia các hoạt động xây dựng, bảo vệ quê hương, đất nước phù
hợp với khả năng của bản thân.
Về thái độ:
- Lòng yêu quý, tự hào về quê hương, đất nước, dân tộc. Biết tôn trọng
truyền thống, tôn trọng giá trị đạo đức cao quý của dân tộc.
- Có ý thức học tập, rèn luyện để góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ quê hương.
Phương pháp dạy học:
- Phương pháp đàm thoại
- Phương pháp thảo luận nhóm
- Phương pháp liên hệ thực tế
- Phương pháp vận dụng tri thức liên môn
- Giáo viên có thể tổ chức diễn đàn: “Thanh niên học sinh với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”; có thể tổ chức cho học sinh nghe băng cát-sét, xem băng
hình, trình bày các bài hát, bài thơ, tiểu phẩm về tình yêu quê hương, đất nước.
Với hệ thống phương pháp trên, giáo viên cần giúp học sinh hiểu ba nội dung:
Một là: Lòng yêu nước
21
Lòng yêu nước là tình yêu quê hương đất nước và tinh thần sẵn sàng đem
hết khả năng của mình phục vụ lợi ích của Tổ quốc.
Lòng yêu nước được biểu hiện ở tình cảm gắn bó với quê hương đất nước;
tình yêu thương đối với đồng bào, giống nòi, dân tộc; lòng tự hào dân tộc chính
đáng; đoàn kết, kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm; cần cù, sáng tạo
trong lao động.
Hai là: Trách nhiệm xây dựng Tổ quốc.
Ba là: Trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc.
Trong đó, trọng tâm của bài là học sinh hiểu được yêu nước là một truyền
thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, là cội nguồn sức mạnh của đất nước; hiểu
được trách nhiệm của thanh niên, học sinh trong việc học tập, rèn luyện để
chuẩn bị tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Để khắc sâu kiến thức của bài, đồng thời giáo dục đạo đức cho học sinh;
giáo viên nên sử dụng các bài tập thực hành để rèn luyện kĩ năng cho học sinh.
Cụ thể là:
Câu 1: Biểu hiện nào sau đây thể hiện lòng yêu nước:
a) Tình cảm yêu quý, gắn bó với quê hương.
b) Nhớ về cội nguồn, biết ơn các thế hệ đi trước.
c) Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
d) Sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc.
e) Tham gia hoạt đong xã hội, từ thiện.
f) Tất cả các biểu hiện trên.
Câu 2: Sưu tầm một số câu ca dao, tục ngữ nói về lòng yêu nước.
Qua nội dung trên học sinh hiểu được những việc mình cần phải làm. Đó là
cố
gắng học tập, trau dồi kiến thức, rèn luyện đạo đức, tác phong, tích cực tham gia các
hoạt động đoàn thể, hoạt động xã hội, hoạt động lao động công ích, các hoạt động bảo vệ
trật tự an ninh, đền ơn đáp nghĩa các gia đình thương binh, liệt sỹ… ở nhà
trường và địa
phương, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đây chính là quan niệm sống liên quan đến bài học mà người giáo viên cần
hình thành ở học sinh.
4. Kết quả cụ thể
22
Sau khi giảng dạy
Giáo dục đạo đức cho học sinh qua giảng dạy môn Giáo
dục công dân
. Đánh giá hiệu quả qua xếp loại hạnh kiểm cuối kỳ và cuối năm
như sau thu được kết quả sau:
STT LỚP
SỈ
SỐ
Hạnh kiểm năm học 2013-
2014
Hạnh kiểm học kỳ I
năm học 2014-2015
Tốt, Khá TB, Yếu Tốt, Khá TB, Yếu
1 11A1 40 100 % 0 % 100% 0 %
2 11A2 38 97 % 3 % 98 % 2 %
3 11A3 37 98 % 2 % 100% 0 %
4 11A4 39 98 % 2 % 100% 0 %
5 11A5 41 98 % 2 % 99 % 1 %
6 12A1 34 100% 0 % 100% 0 %
7 12A2 31 97 % 3 % 99 % 1 %
8 12A3 32 98 % 2 % 100% 0 %
9 12A4 32 98 % 2 % 100% 0 %
10 12A5 33 96 % 4 % 98 % 2 %
11 12A6 29 99 % 1 % 100% 0 %
Cộng 97.5 % 2.5 % 99 % 1 %
Sau khi áp dụng sáng kiến tại trường từ đầu năm học 2014-2015, so với năm
học trước tỉ lệ học sinh xếp loại hạnh kiểm tốt và khá tăng, học sinh bị xếp loại
hạnh kiểm trung bình và yếu giảm đáng kể, vấn đề HS của trường THPT Hồng
Quang bị đưa ra hội đồng kỷ luật đã giảm một cách rõ rệt, không còn tình trạng
tổ chức thành nhóm đánh nhau ngoài cổng trường như những năm trước đây,
mặc dù tình trạng xích mích dẫn tới mâu thuẫn là không thể tránh khỏi nhưng
tính chất và mức độ đã có nhiều chuyển biến giảm rõ rệt. Đó được xem là kết
quả mà tập thể sư phạm nhà trường nói chung và công tác giáo dục đạo đức cho
học sinh trong bộ môn GDCD nói riêng trong
quá trình
định hướng,
hình thành,
phát triển nhân cách của học sinh
.
23
Phần 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện từ buổi bình minh của lịch
sử loài người. Nó được hoàn thiện, phát triển trên cơ sở các chế độ kinh tế - xã
hội nối tiếp nhau từ thấp đến cao, đỉnh cao của nó là đạo đức mới - đạo đức
Cộng sản chủ nghĩa.
Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người. Chức năng
này được thực hiện bằng dư luận xã hội và lương tâm nhằm đảm bảo sự tồn tại
và phát triển của xã hội. Những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực, phẩm chất đạo
đức tác động mạnh mẽ, thường xuyên đến các quan hệ ứng xử giữa người và
người, cá nhân và xã hội, nhằm hướng con người tới cái chân, cái thiện, cái mỹ;
chống cái ác, cái xấu, cái giả; đưa xã hội ta đạt mục tiêu cao cả: dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, dân chủ. Sự điều chỉnh của đạo đức mang
tính tự nguyện, đạo đức là sự tự do lựa chọn của con người.
Con người vốn sinh ra chưa có nhân cách. “Nhân cách cũng không có sẵn
bằng cách bộc lộ dần dần những xung đột bản năng, nguyên thuỷ mà một lúc
nào đó đã bị kìm chế, chèn ép”. Nhân cách con người có cơ sở vật chất là yếu
tố sinh học, nhưng cái quyết định chất lượng xã hội của nhân cách lại thuộc về
yếu tố lịch sử - xã hội.
Giáo dục chính là con đường quan trọng nhất để con người hình thành nhân
cách. Giáo dục đạo đức đóng vai trò hạt nhân trong toàn bộ quá trình giáo dục
con người.
Giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông chính là giáo dục các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình học tập, lao động, sản xuất và sinh hoạt
giữa người với người. Bao gồm: quan hệ cá nhân đối với xã hội, những người
xung quanh; quan hệ cá nhân đối với lao động; quan hệ cá nhân đối với tài sản
xã hội chủ nghĩa và các di sản văn hoá - xã hội - thiên nhiên và với chính bản
thân mình. Bốn mối quan hệ trên không tồn tại tách rời nhau, trái lại nó hoà
quyện vào nhau, là cơ sở cho công tác giáo dục đạo đức lối sống cho học sinh.
Giáo dục công dân là bộ môn khoa học với nội dung mang tính giáo dục
đạo đức cao nhất. Thông qua giảng dạy bộ môn Giáo dục công dân ở trường
trung học phổ thông, đặc biệt là phần đạo đức không những giúp học sinh hiểu
được những tri thức triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học,
đạo đức, pháp luật, đường lối của Đảng ta mà còn góp phần hình thành và
phát triển thế giới quan duy vật, phương pháp luận biện chứng, hiểu được một
24
số yêu cầu đạo đức đối với người công dân hiện nay, hiểu được trách nhiệm của
công dân trong việc thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách của
Nhà nước, hiểu được trách nhiệm đạo đức, trách nhiệm trị giá phát triển kinh tế
của công dân. Từ đó, học sinh sẽ có hoài bão và mục đích sống cao đẹp.
2. Kiến nghị
Nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông
qua giáo dục công dân cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
- Tránh tình trạng thiếu tự tin, thiếu sáng tạo, tự ti, mặc cảm trong giảng dạy
môn Giáo dục công dân.
- Tránh khuynh hướng tách rời lý luận với thực tiễn và thực tiễn với lý luận,
những biểu hiện không đúng trong việc vận dụng tri thức lý luận của môn học
vào cuộc sống. Không có tri thức của bộ môn khoa học nào lại gắn chặt với đời
sống xã hội như tri thức của môn Giáo dục công dân. Đó là sự khái quát thành
lý luận từ những hiện tượng tiêu biểu của cuộc sống thực tiễn.
- Đổi mới nhận thức của toàn xã hội về nội dung cũng như phương pháp giáo
dục đạo đức. Giáo dục đạo đức trong giảng dạy Giáo dục công dân phải đặt trong
mối liên hệ mật thiết với các môn học khác trong trường trung học phổ thông.
- Tổ chức các buổi thảo luận, tham quan, ngoại khoá hoặc các cuộc thi tìm
hiểu các vấn đề xung quanh nội dung đã được học. Từ đó, học sinh không chỉ
hiểu sâu hơn về tri thức khoa học mà còn hình thành ở các em niềm tin vào tri
thức, thôi thúc các em hành động, phát huy tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn
nhau.
- Ngoài ra, cần nâng cao vai trò bổ trợ của các tổ chức chính trị xã hội ở
trường trung học phổ thông trong công tác giáo dục đạo đức.
Những giải pháp trên đây không chỉ có ý nghĩa thiết thực đối với việc giáo
dục đạo đức cho học sinh qua giảng dạy Giáo dục công dân ở các trường trung
học phổ thông mà còn có ý nghĩa tích cực đối với sự thành công của một bài
giảng Giáo dục công dân nói chung.
Giáo dục đạo đức cho học sinh là trách nhiệm của gia đình, nhà trường và
của toàn xã hội. Thành công của quá trình này chủ yếu tuỳ thuộc vào lương
tâm, trách nhiệm, tài năng của người giáo viên, mà điểm cốt lõi là tình yêu
thương, phẩm giá và nhân cách mẫu mực của người thầy.
, ngày 2 tháng 2 năm 2015
Người thực hiện:
25