Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Nhân sinh quan phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống tinh thần của người dân vùng đồng bằng bắc bộ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.16 KB, 96 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phật giáo truyền vào nước ta với thời gian đã được hàng ngàn năm
(Theo cuốn “Đạo Phật và dòng sử Việt” của Hòa Thượng Thích Đức Nhuận
thì: trong sách“Lĩnh Nam Chích Qi” của Vũ Quỳnh có đoạn Truyện Đầm
Nhất Dạ nói về nàng Tiên Dung Mị Nương và Chử Đồng Tử đã chứng minh
sự có mặt của Đạo Phật vào đời Hùng Vương TK thứ III. (Triều đại 18 vua
Hùng kể từ 2879 - 257 TCN Thục An Dương Vương). Trong truyện: Hai vợ
chồng Tiên Dung Mị Nương và Chử Đồng Tử, sau khi bị vua cha đuổi ra khỏi
nước, bèn lập ra cái chợ để buôn bán. Ngôi chợ này vẫn thường có các thương
nhân ngoại quốc lui tới. Người ngoại quốc ở đây chỉ có thể là người Ấn Độ đã
vượt biên giới phía bắc Ấn Độ sang vùng trù phú Myanmar (Miến Điện) rồi
vào vùng Founan (Phù Nam). Trong truyện có nói rõ là hai vợ chồng gặp một
đại thương gia dùng thuyền để đi bn, sau đó Chử Đồng Tử đã theo người
thương gia này, trên đường ra đến biển Đồ Sơn có ghé vào lấy nước ngọt, Chử
Đồng Tử đã gặp Tăng sĩ Phật Quang, được thuyết pháp cho nghe nên giác ngộ
và được truyền pháp khí là chiếc gậy và cái nón lá và bảo rằng: "những cái ấy
làm chìa khóa cho mọi năng lực thần bí"; Đồng Tử có pháp khí thần thơng
nên bỏ nghề bn. Khi về gặp vợ, Đồng Tử đem Đạo Phật nói với Tiên
Dung…). Từ đó trở về sau cũng có nhiều tư liệu chứng minh đạo Phật du
nhập vào Việt Nam từ rất sớm. Do vậy, ở Việt Nam Phật giáo đã trở thành một
trong những hệ tư tưởng - tôn giáo ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần
của con người Việt Nam theo chiều dài lịch sử. Đạo Phật với quan niệm nhân
sinh độc đáo của nó trở thành một bộ phận không thể thiếu của nền văn hoá
dân tộc. Ngày nay, đất nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới, do sự tác
động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường cùng với các học thuyết tư tưởng và
tơn giáo khác, Phật giáo đã có những biến chuyển mạnh mẽ cùng với sự


2


chuyển mình lớn lao của đất nước. Tình hình đó có tác động khơng nhỏ, theo
cả hai chiều hướng tích cực, tiêu cực, tới đời sống xã hội, tới lối sống, đạo
đức của xã hội nước ta. Đặc biệt, vùng đồng bằng Bắc Bộ là vùng đông dân
cư nhất nước, vùng đất lịch sử lâu đời, là một trong hai trung tâm lớn của
Phật giáo Việt Nam cũng không nằm ngồi dịng chảy trên. Do u cầu
khách quan của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước cũng
như đóng góp một phần nhỏ vào nhiệm vụ: “Xây dựng một nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc… làm cho các giá trị văn hóa
thấm sâu vào mọi mặt đời sống, được thể hiện cụ thể trong sinh hoạt, công
tác, quan hệ hàng ngày của cộng đồng và từng con người, tạo sức đề kháng
với các sản phẩm độc hại [10, tr.107].
Sinh thời chủ tịch hồ chí minh đã dạy: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã
hội phải có con người xã hội chủ nghĩa”, mà theo Bác đó phải là những người
“vừa hồng vừa chuyên”, tức là sự phát triển xã hội, công cuộc xã hội chủ
nghĩa phải lấy con người là gốc, là vấn đề nền tảng, là điều kiện cơ bản mang
tính quyết định để xây dựng xã hội mới, xã hội XHCN.
Sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng phát triển đất nước ta hiện nay
đang đặt ra những đòi hỏi cao đối với cả hệ thống chính trị, cũng như với mỗi
người cán bộ đảng viên nói riêng, đối với người dân Việt Nam nói chung. Do
đó xây dựng phát triển đời sống tinh thần lành mạnh cho nhân dân nói chung,
với người dân ở vùng đồng bằng Bắc bộ nói riêng là nhiệm vụ quan trọng và
cấp bách để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, xây dựng
thành công CNXH. Việc đứng trên lập trường triết học mác-xít để nghiên cứu
nhân sinh quan Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần
của người dân vùng đồng bằng Bắc bộ hiện nay, chỉ ra những yếu tố tích cực,
những giá trị của nó cũng như những mặt hạn chế của nó chính là một việc
làm có ý nghĩa thiết thực cả về mặt lý luận cũng như về mặt thực tiễn trong
tình hình hiện nay.



3
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về Phật giáo, nghiên cứu về ảnh hưởng của Phật giáo đối
với đời sống tinh thần của con người Việt Nam là đề tài rộng lớn. Đã có nhiều
cơng trình nghiên cứu và đạt được những kết quả đáng trân trọng. Có thể kể
ra một số cơng trình sau đây:
Mấy vấn đề Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam của Viện Triết
học, Hà Nội, 1986; Lịch sử Phật giáo Việt Nam của PGS Nguyễn Tài Thư
(chủ biên), Viện Triết học, Hà Nội, 1991; Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập I của
Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, 1993 ; Thiền học Trần
Thái Tông của Nguyễn Đăng Thục, Nxb Văn hóa Thơng tin, 1996; Tơn giáo
tín ngưỡng hiện nay, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp thiết, Trung tâm
Thông tin tư liệu - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1996; Văn hóa
Phật giáo và lối sống của người Việt ở Hà Nội và châu thổ Bắc Bộ của
Nguyễn Thị Bảy, Nxb Văn hóa thơng tin 1997; Ảnh hưởng của các hệ tư
tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay của Nguyễn Tài Thư
(chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997; Tư tưởng triết của học
Thiền phái Trúc Lâm đời Trần của Trương Văn Chung, Nxb Chính trị quốc
gia, 1998; Ảnh hưởng của tư tưởng triết học Phật giáo trong đời sống văn
hóa tinh thần ở Việt Nam của Lê Hữu Tuấn, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1998; Tư tưởng Phật giáo Việt Nam của
Nguyễn Duy Hinh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999 ; Phật Giáo với văn
hóa Việt Nam của Nguyễn Đăng Duy, Nxb Hà Nội, 1999; Đại cương triết học
Phật giáo Việt Nam, tập I của Nguyễn Hùng Hậu, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 2002...
Có thể nhận xét một cách khái qt, những cơng trình nghiên cứu trên
đều thống nhất ở một số điểm: Phật giáo có ảnh hưởng nhất định trong đời
sống xã hội Việt Nam, đặc biệt là đời sống tinh thần. Những triết lý đầy tính
nhân sinh của Phật giáo kết hợp với văn hóa truyền thống đã tạo nên sự phong



4
phú của đời sống tinh thần người dân Việt Nam. Những cơng trình nghiên cứu
nói trên, trực tiếp hoặc gián tiếp, ở các mức độ và khía cạnh khác nhau, đã thể
hiện tư tưởng triết học Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống xã hội
Việt Nam. Do đó, việc đánh giá những ảnh hưởng tích cực, tiêu cực của Phật
giáo, mà trước hết là nhân sinh quan Phật giáo, trên cơ sở đó đưa ra những
giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh
hưởng tiêu cực của tư tưởng triết học này trong đời sống xã hội Việt Nam lâu
nay. Đây là việc làm hết sức có ý nghĩa... Tuy nhiên, đến nay chưa có cơng
trình nào nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống dưới góc độ triết học về nhân
sinh quan Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống tinh thần của người
dân vùng đồng bằng Bắc bộ.
Vì thế, tác giả lựa chọn vấn đề: “Nhân sinh quan Phật giáo và ảnh
hưởng của nó đến đời sống tinh thần của người dân vùng đồng bằng Bắc
bộ hiện nay” làm đề tài nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn làm rõ nhân sinh quan Phật giáo và thực trạng ảnh hưởng của
nhân sinh quan phật giáo đến đời sống tinh thần của người dân vùng đồng bằng
Bắc bộ hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những ảnh
hưởng tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật
giáo đến đời sống tinh thần của người dân vùng đồng bằng Bắc bộ hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để giải quyết được mục đích như đã trình bày ở trên, luận văn có những
nhiệm vụ sau:
- Phân tích làm rõ nội dung nhân sinh quan Phật giáo.
- Chỉ ra thực trạng ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời
sống tinh thần của người dân vùng đồng bằng Bắc bộ hiện nay, từ đó đưa ra
một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh



5
hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần của người
dân vùng đồng bằng Bắc bộ hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần của
người dân ở vùng đồng bằng Bắc bộ hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu sự ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống
tinh thần của người dân vùng đồng bằng Bắc bộ hiện nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên
cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; những quan điểm, chủ trương chính sách của
Đảng, Nhà nước ta về vấn đề tơn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng.
5.2. Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn của luận văn là từ điều tra thực tế về ảnh hưởng của
nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần của người dân vùng đồng
bằng Bắc bộ hiện nay.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời vận
dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, khái qt hố, trừu tượng hố để
hồn thành luận văn.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm vai trò của nhân sinh quan Phật
giáo đối với đời sống tinh thần của người dân vùng đồng bằng Bắc bộ.



6
- Chỉ ra những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống
của người dân vùng đồng bằng Bắc bộ hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực,
hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống
tinh thần của người dân vùng đồng bằng Bắc bộ hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy tôn giáo ở các trường Đại học, Cao đẳng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.


7
Chương 1
NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO
1.1. SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ TRUYỀN BÁ NHÂN SINH QUAN
PHẬT GIÁO

1.1.1. Cơ sở hình thành nhân sinh quan Phật giáo
Khi nghiên cứu về một tôn giáo hay một trào lưu tư tưởng,... chúng ta
phải xem xét đến hồn cảnh ra đời của nó. Sự hình thành nhân sinh quan Phật
giáo cũng tương tự như vậy, Ấn Độ là nước lớn, đất rộng, người đơng ở miền
Nam Châu Á, là nước có lịch sử lâu đời - một trong những nơi có nền văn
minh sớm nhất và rực rỡ nhất trên thế giới và đây cũng chính là nơi ra đời
Đạo Phật (Phật giáo).
Niên đại của nền Văn minh Ấn Độ muộn hơn một chút so với Ai Cập
và Lưỡng Hà cổ đại, tức là vào khoảng thiên niên kỷ III đến thiên niên kỷ ITCN.Các nhà sử học chia lịch sử Ấn Độ đại thành 2 thời kỳ:

- Thời kỳ văn hoá Ha-Ra-pa, cịn gọi là nên Văn minh Sơng Ấn;
- Thời kỳ văn hố Vê-đa, cịn gọi là nên Văn minh Sơng Hằng, với sự
hình thành đạo Bà - la - mơn và đạo Phật,
Về mặt xã hội, văn hoá Ha-Ra-Pa bắt đầu xuất hiện nhà nước, giai cấp,
thời kỳ đầu của nhà nước phương Đông cổ đại. Chủ nhân của văn hoá Ha-RaPa là người Đra-vi-a.
Nếu như thời kỳ văn hoá Ha-ra-pa được biết qua các hiện vật khảo cổ,
thì thời kỳ văn hoá Vê - đa được phản ánh qua bộ sách Vê-đa, do vậy gọi là
thời kỳ Vê-đa. Văn hố Vê-đa có niên đại khoảng thiên niên kỷ II, I - TCN.
Chủ nhân văn hoá Vê-đa là người A-ri-an. Với văn hoá Vê-đa, văn minh Ấn
Độ chuyển từ lưu vực sông Ấn sang sông Hằng. Cùng với sự phát triển về
kinh tế, về mặt xã hội thời kỳ Vê-đa có những chuyển biến quan trọng. Đây là
thời kỳ tan rã hẳn của chế độ thị tộc và hình thành nhà nước hoàn chỉnh.


8
Điều đáng quan tâm là, trong thời kỳ Vê-đa cùng với q trình phân
hố giai cấp và hình thành nhà nước, ở Ấn Độ xuất hiện đạo Bà-la-mơn và
hình thành chế độ phân chia đẳng cấp, còn gọi là chế độ Vác-na (nguyên
nghĩa chữ Phạn, Vác-na là mầu sắc, thực chất).
Chế độ đẳng cấp phân chia cư dân trong xã hội Ấn Độ thành bốn giai
tầng với thành phần xuất thân khác nhau:
- Bà-la-môn (Brahamnas) gồm giới tăng lữ của đạo Bà-la-môn, gồm
những người hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp;
- Sát-đế-lị (Vaisyas) gồm vua quan cai trị tầng lớp võ sỹ;
- Vệ xá (Vaisyas) gồm dân tự do, những người làm nông nghiệp, buôn
bán thợ thủ công;
- Thủ-đà-la (Sunras) gồm những chiến binh bại trận trong các cuộc
chiến tranh, những người ở tầng lớp trên bị phá sản,… tóm lại là khơng có tư
liệu sản xuất, đứng ngồi tổ chức cơng xã.
Ngồi ra, cịn đẳng cấp Pa-ri-a là người có bố là một trong ba đẳng cấp

trên, mẹ là Thủ-đà-la. Đẳng cấp này tuy ít nhưng mang thân phận của những
người cùng khổ hơn cả đẳng cấp Thủ-đà-la.
Sự phân chia đẳng cấp thể hiện ở nhiều mặt, không chỉ về quyền lợi,
địa vị chính trị, kinh tế, xã hội, mà cả trong quan hệ giao tiếp, ăn mặc, sinh
hoạt tôn giáo, thậm chí cả trong những việc nhỏ nhặt như: đặt tên cho con, sử
dụng màu sắc trong sinh hoạt,… Ba đẳng cấp trên là lực lượng bóc lột và
thống trị xã hội, trong đó nổi bật là đẳng cấp Bà-la-môn, đẳng cấp được coi là
cao quý, trong sạch nhất, sánh ngang với thần thánh, được hưởng mọi đặc
quyền, đặc lợi. Đẳng cấp Thủ-đà-la chiếm đại đa số nhưng ở vị trí tận cùng
của xã hội, làm nơ lệ cho ba đẳng cấp trên.
Chế độ phân chia đẳng cấp một cách nghiệt ngã như nói trên được luật
pháp của nhà nước Luật Ma-nu và tôn giáo: đạo Bà-la-môn bảo vệ. Luật Manu quy định khung hình phạt cho một tội danh sẽ tăng dần đối với những đẳng


9
cấp thấp, đặc biệt là đối với đẳng cấp Thủ-đà-la. Ví dụ việc vay mượn, tỷ xuất
lãi cùng tăng lên với những đẳng cấp thấp: đẳng cấp Bà-la-mơn thì khơng
phải trả lãi, đẳng cấp Sát-đế-lị 2%, Vệ-xá 4%, nhưng đến Thủ-đà-la phải trả
16%. Luật Ma-nu còn quy định, đẳng cấp Thủ-đà-la không được tham gia các
cuộc hội họp, không được tham dự và hưởng lễ vật trong các buổi tế lễ, thậm
chí người Thủ-đà-la, khơng được sờ vào người Bà-la-mơn khi họ chết, không
được khiêng khi đưa đi mai táng; đẳng cấp Thủ-đà-la không được mặc quần
áo kiểu dáng đẹp, mà phải mặc kiểu dáng xấu và màu sắc tối xỉn. Họ cũng
không được đặt tên biểu hiện sự cao quý, hùng tráng hay thanh lịch, mà phải
những tên thể hiện thấp hèn, ngu dốt.
Tình hình trên đây làm cho tầng lớp đa số trong xã hội - những người
Thủ-đà-la càng ốn ghét chế độ bóc lột, ốn ghét chế độ phân chia đẳng cấp.
Phản ánh tâm trạng của những người nơ lệ lúc đó, ở Ấn Độ đã xuất hiện nhiều
trào lưu tư tưởng, trào lưu xã hội thuộc các xu hướng khác nhau. Các trào lưu
đều gặp nhau ở chỗ, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp chống lại chế độ đẳng cấp và

đạo Bà-la-môn. Học thuyết Phật giáo là một trong những trào lưu đó.
Như vậy có thể nói, Phật giáo ra đời trong xã hội Ấn Độ thời cổ đại bắt
nguồn từ những nguyên nhân chính trị, xã hội sâu xa, trào lưu xã hội chống
lại chế độ đẳng cấp và đạo Bà-la-môn.
Phật giáo ra đời, xét về mặt tư tưởng còn là sự kế thừa tiếp nối các học
thuyết tư tưởng triết học đương thời. Ấn Độ thời cổ đại có nền tư tưởng triết
học rất phát triển, khơng kể giáo thuyết Bà-la-mơn, cịn có sáu trường phái
triết học:
Một là, trường phái Samkhuya (còn gọi là số luận), đi theo xu hướng
nhị nguyên, thừa nhận sự tồn tại của hai bản nguyên cấu tạo nên vũ trụ là vật
chất tinh thần (Thần ngã);
Hai là, trường phái Yoga (Du-già), chú trọng việc rèn luyện về tâm
linh, tinh thần vì cho rằng nếu rèn luyện tốt sẽ chế ngự dục vọng và giải thoát;


10
Ba là, trường phái Nyaya (Cịn gọi là Chính lý), cho rằng nguyên tử là
viên gạch cuối cùng cấu tạo nên thế giới, đồng thời thừa nhận sự tồn tại của
lực lượng siêu nhiên;
Bốn là, trường phia Vaisesika (còn gọi là Thắng luận), đứng trên lập
trường tự nhiên để giải thích thế giới và cho rằng sự giải thốt chỉ khi nào tri
thức thấu triệt thế giới;
Năm là trường phái Vedanta (cịn gọi là Giaỉ thốt), cho rằng trở về với
Brahma là cái thiện, đó cũng chính là giải thốt;
Sáu là trường phái Mimansa (còn gọi là Tế tự học), nhấn mạnh về đức
hy sinh để có sự giải thốt.
Ngồi ra, ở Ấn Độ cổ cịn có tư tưởng duy vật giản đơn cho rằng thế
giới vạn hữu đều là vật chất với bốn yếu tố là đất, nước, lửa, gió.
Các giáo thuyết của Phật giáo sau này đựơc hình thành, ít nhiều đều thể
hiện tư tưởng của đạo Bà-la-mơn và các trào lưu triết học nói trên.

Theo truyền thuyết, người sáng lập ra Phật giáo là Thái tử Cổ Đàm Tất
Đạt Đa (Gautama Siddhàrtha), con vua Tịnh Phạm (Shuddhodana) thuộc bộ
tộc Thích Ca (Sakya), trị vì một vương quốc nhỏ là Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu)
ở trung lưu sông Hằng, bao gồm một phần nam Nê-pan và một phần các bang
Ut-ta-rơ, Pra-đe-zơ, Bi-he của Ấn Độ ngày nay. Mẹ của Tất Đạt Đa tên là Ma
Da, công chúa con vua Thiện Giác trị vì vương quốc Câu-ly (Koli). Theo
truyền thuyết, bà Ma Da đến 45 tuổi mới mangthai Tất Đạt Đa sau một giấc
mơ kỳ lạ thấy con voi trắng sáu ngà chui vào trong người. Sắp đến ngày mãn
nguyệt khai hoa, theo tập quán, bà Ma Da trở về quê hương để sinh nở. Bà
Ma Da đã sinh Tất Đạt Đa vào đêm trăng trịn tháng tư dưới gốc cây Vơ ưu
của vườn Lâm-tì-ni (Lumbini) trong một buổi dạo chơi. Tương truyền khi
sinh ra, Tất Đạt Đa được chín con rồng phun nước để tắm. Tắm xong, ông
bước đi bảy bước, mỗi một bước có một đài sen ở dưới chân, một tay chỉ lên


11
trời, một tay chỉ xuống đất và nói: Thiên thượng, thiên hạ, duy ngã, độc tôn!
(trên là trời, dưới là chúng sinh, chỉ có bản ngã là độc tơn, ngự trị).
Vua và hoàng hậu yêu quý Tất Đạt Đa. Ngay từ nhỏ Tất Đạt Đa đã sống
trong môi trường nhung lụa và được mọi người tránh cho những nỗi ưu lo
phiền não. Tuổi trẻ của Tất Đạt Đa không bao giờ rời khỏi hoàng cung, chỉ sử
dụng thời gian vào việc cung kiếm, học hành, vào việc lễ bái tế tự và yến tiệc,
giải trí. Tất Đạt Đa khơng hề thấy và cũng khơng hề biết gì những gì là đen
tối, cực nhọc, xấu xa, bất hạnh đang xảy ra xung quanh mình, thậm chí cũng
khơng ngờ rằng trong cuộc đời lại có cảnh bệnh tật, già yếu và chết chóc theo
quy luật của tự nhiên.
Năm 17 tuổi, Tất Đạt Đa cưới công chúa Da Du Đà La và sinh hạ được
một người con trai tên là La Hầu La. Từ đấy sự tiếp xúc của Tất Đạt Đa với
hiện thực xã hội đã tác động mạnh đến trí tuệ nhạy cảm của ông. Theo truyền
thuyết, lý do dẫn đến bước ngoặt trong tâm hồn Tất Đạt Đa là những cuộc gặp

bất ngờ tại các cửa ra vào hoàng cung. Tất Đạt Đa mắt nhìn thấy một cụ già
cịm cõi, một người bị bệnh tật dày vị, và sau đó là một người chết được mọi
người mang đi mai táng. Lần đầu tiên Tất Đạt Đa nhận ra rằng: bệnh tật, già
yếu, và cái chết đều là sự khổ, đều là những điều bất hạnh, bi kịch cho tất cả
mọi người. Cuối cùng, Tất Đạt Đa gặp một tu sỹ thân dáng uy nghi, diện
tướng đoan chính tu khổ hạnh (người tự nguyện chối bỏ cuộc sống hàng ngày
để đi tìm sự yên tĩnh của tâm hồn trong khổ hạnh), và rồi quyết định noi
gương vị tu sĩ ấy, Tất Đạt Đa quyết tâm đi tu để cứu khổ cho mọi người.
Năm 29 tuổi, vào một đêm trăng tròn tháng Hai, Tất Đạt Đa rời bỏ gia
đình, cung điện, từ chối giàu sang và quyền lực, mà ơng gọi đó là “ngục
vàng” để trở thành một người ẩn tu khổ hạnh tại Khổ hạnh lâm (rừng khổ
hạnh). Sau hơn sáu năm ròng sống khổ hạnh, tu thiền, luyện pháp ở trong
rừng, nhưng Tất Đạt Đa vẫn không đạt được sự yên tĩnh trong tâm hồn và
cũng không nhận thức được chân lý. Tuy nhiên, từ thực tế tu hành, Tất Đạt Đa


12
hiểu ra rằng từ cuộc sống no đủ tràn trề vật chất, thoả mãn dục vọng như khi ở
hoàng cung, lẫn cuộc sống khổ hạnh ép xác như sáu năm tu khổ hạnh, đều đi
chệch khỏi con đường chân lý. Cuộc sống thứ nhất là cuộc sống lạc thú tầm
thường vơ tích sự, nó chỉ đưa con người đến chỗ tham ái. Cuộc sống thứ hai
cũng tăm tối, không xứng đáng và cũng vô nghĩa như cuộc sống thứ nhất, nó
chẳng đem lại kết quả gì ngồi thân thể gầy mòn tiều tụy, tâm thần tán loạn.
Con đường đúng đắn phải là trung đạo, con đường ở giữa, khắc phục hai
trạng huống cực đoan kia, con đường tự mình đào sâu suy nghĩ để nhận thức
chân lý, con đường dẫn tới sự yên tĩnh và sự bừng sáng của tâm hồn, trí tuệ.
Từ đó, Tất Đạt Đa từ bỏ tu khổ hạnh đi vào tư duy trí tuệ. Tin vào con đường
trung đạo, tin vào năng lực bản thân, sau 49 ngày thiền sâu thẳm, cuối cùng
Tất Đạt Đa tuyên bố đã chứng được đạo, đến được với chân lý, đã hiểu được
bản chất của tồn tại (của thế giới và con người), nguồn gốc của khổ đau phiền

não và con đường cứu vớt khỏi sự khổ đau và phiền não đó. Sau khi thành
đạo Tất Đạt đa có tơn hiệu là Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni) - bậc thánh của
dịng họ Thích Ca và được gọi là Bút Đa (Buddha), phiên âm qua chữ Hán là
Phật Đà, quen gọi là Phật (hay Bụt) tức người đã giác ngộ, đã hiểu được chân
lý. Đó chính là con đường hình thành nhân sinh quan Phật giáo.
1.1.2. Sự phát triển nhân sinh quan Phật giáo
Phật Thích Ca thực hiện chương trình giáo hoá chúng sinh, sách Phật
gọi là chuyển pháp luân. Người đầu tiên mà Phật Thích Ca giáo hố là U Ba
Ca (Upaca) và giáo đoàn Phật giáo đầu tiên được thành lập gồm năm người
anh em của ông Kiều Trần - người cùng tu khổ hạnh với Phật Thích Ca ngày
trước. Năm anh em Kiều Trần được coi là những để tử đầu tiên của Phật
Thích Ca. Trong quá trình giáo hố, Phật Thích Ca đã đi nhiều nơi, tiếp cận
nhiều tầng lớp, đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ và thu hút được nhiều người tin
theo. Phật Thích Ca đã giác ngộ được nhiều hạng người, từ tướng cướp Vơ
Não đến các hồng thân quốc thích trong hồng cung tin theo giáo thuyết của


13
ơng. Ơng cũng vấp phải gian nan vất vả, khi thì bị người em bà con là Đề Bà
Đạt Đa làm phản, khi thì bị người Bà-La-Mơn ghen ghét, vu cáo tình ái với
Chiên Già, một cơ gái lẳng lơ,… Nhung ơng đã vượt qua tất cả. Trong q
trình giáo hố, Phật Thích Ca đã chọn được 1.250 đệ tử tiêu biểu, trong đó có
10 vị ưu tú nhất, sách Phật gọi kà Thập đại Thánh chúng. Cụ thể:
1. Xá Lợi Phất (Sariputra): vị Thánh chúng “trí tuệ đệ nhất”(Tức là
người trí tuệ tư duy siêu việt nhất);
2. Mục Kiền Liên (Manda Galyayana): vị Thánh chúng “Thần thông đệ
nhất” (Tức là người chứng được nhiều phép thần thông nhất);
3. Tu Bồ Đề (Subhuti): vị Thánh chúng “giải không đệ nhất” (tức là
người nhận rõ tính khơng của các pháp và lý giải tính khơng thấu đáo nhất);
4. Phu Lâu La (Purana): vị Thánh chúng “thuyết pháp đệ nhất” (tức là

người hội đủ 10 đức tính và thuyết pháp hiệu quả nhất);
5. Ca Chiên Diên (Katyayana): vị Thánh chúng “luận nghi đệ nhất ”
(tức là người có khả năng dùng lời nói hố giải mọi nghi hoặc hiệu quả nhất);
6. Đại Ca Diếp (Mahakasyapa): vị Thánh chúng “phẩm hạnh đệ nhất”
(tức là người tu theo lối khắc khổ nhất);
7. An La Luật (Anirudha): vị Thánh chúng “thiên nhãn thông đệ nhất”
(tức là người nhìn thấu mọi thế giới);
8. Ưu Bà ly (Upali): vị Thánh chúng “trì giới đệ nhất” (tức là người
thực hiện giới luật nghiêm túc nhất);
9. A Nan Đa (Ananda): vị Thánh chúng “đa văn đệ nhất”(tức là người
được nghe Phật thuyết pháp nhiều nhất và hiểu sâu sắc nhất);
10. La Hầu La (Rahuala): vị Thánh chúng “mật hạnh đệ nhất” (tức là
người chịu nhẫn nhục nhất).
Phật Thích Ca hoạt động giáo hoá chúng sinh liên tục cho đến năm 80
tuổi thì viên tịch (sách Phật cịn gọi là nhập Niết Bàn). Những lý thuyết Phật
Thích Ca truyền bá thu hút được đơng người tin theo và sau đó phát triển trở
thành một tôn giáo mới: Phật giáo.


14
Phật Thích ca thuyết pháp tất cả 49 năm kể từ khi thành đạo (giác ngộ).
Các nhà nghiên cứu Phật học thường chia thời gian Thuyết Pháp của ông
thành năm thời kỳ, gọi là Ngũ thời Phật pháp. Cụ thể:
-Thời Hoa Nghiêm. Sau khi thành đạo, Phật Thích Ca ngồi dưới gốc
cây Bồ đề thêm 21 ngày. Sau đó Phật bắt đầu thuyết pháp, tất cả những lời
giảng của Phật Thích Ca thời gian này được các đệ tự của ông nghi lại thành
bộ kinh Hoa Nghiêm, được gọi là thời Hoa Nghiêm.
- Thời A Hàm. Sau khi thuyết pháp lần thứ nhất, Phật Thích Ca nhận thấy
rằng dân chúng khơng hiểu hết được ý mình, nên ơng căn cứ vào trình đội đối
tượng, giảng về phương pháp tu hành trong suốt 12 năm. Tất cả lời giảng của

Phật Thích Ca được ghi lại thành bộ kinh A Hàm, được gọi là Thời A Hàm.
- Thời Phương Đẳng. Sau thời A Hàm, giáo lý Phật giáo được phổ cập.
Song các luận thuyết, học phái khác ở Ấn Độ nổi lên đả kích, chống đối.Cho
nên vừa nói về phương pháp tu hành, trong tám năm Phật Thích Ca vừa nhấn
mạnh về luận thuyết, cả Tiểu thừa và Đại thừa. Tất cả những lời giảng của
Phật Thích ca được ghi vào hai bộ kinh: Duy Ma và Đại Tập, được gọi là
Phương Đẳng.
- Thời Bát Nhã. Sau khi trao đổi luận với các học thuyết khác ở thời
Phương Đẳng, uy tín của Phật Thích Ca và giáo thuyết của ơng tiếp tục được
khẳng định. Phật Thích Ca tiếp tục nâng cao nội dung thuyết giảng của mình
trong 22 năm. Tất cả những lời giảng đó của Phật Thích Ca được ghi trong
kinh Bát Nhã, được gọi là thời Bát Nhã.
- Thời Pháp Hoa. Thời kỳ này, sau khi Phật giáo đã hưng thịnh, đánh
đổ được các luận thuyết đương thời, Phật Thích Ca đem lý thuyết và Bồ-tát để
giáo hoá chúng sinh suốt bẩy năm. Tất cả những lời giảng đó được ghi trong
kinh Pháp Hoa, được gọi là thời Pháp Hoa.
Tuy nhiên, những lời thuyết pháp giáo hoá chúng sinh của Phật Thích
Ca như nói trên khơng phải được ghi lại thành kinh sách ngay mà phải trải


15
qua bốn lần đại hội để tập hợp chỉnh lý, sách Phật gọi là Bốn lần tập kết kinh
điển. Cụ thể:
- Đại hội kết tập kinh điển lần thứ I, tổ chức sau khi Phật nhập diệt
được một năm với 500 tỷ kheo dự, kéo dài 07 tháng, do Đại Ca Diếp triệu tập
và chủ toạ. Lần này, A Nan Đa đọc (kể) lại những lời Phật nói về giáo lý; Ưu
Bà Ly đọc (kể) lại những lời luận giải của Phật nói về giới luật tu hành; Đại
Ca Diếp đọc (kể) về những lời luận giải của Phật về giáo lý và giới tu hành.
Như vậy ba tạng: Kinh, Luật, Luận của Phật giáo được khởi soạn từ đây,
nhưng tất cả đều chưa được ghi thành văn tự.

Đại hội kết tập kinh điển lần thứ II, vào khoảng thế kỷ IV - TCN với
khoảng 700 tỷ kheo, kéo dài 08 tháng. Nội dung chủ yếu giải quyết những bất
đồng về việc thực hành giới luật và việc luận giải kinh điển. Lần kết tập này
khởi đầu của việc phân chia thành hai phái: Thượng toạ Trưởng lão bộ gồm
các tỷ kheo cao tuổi và Đại chúng gồm các tỷ kheo trẻ tuổi.
- Đại hội kết tập kinh điển lần thứ III,Giữa thế kỷ III-TCN, do vua A
Dục (Asoka) đứng ra triệu tập với 1000 tỷ kheo dự, kéo dài 09 tháng. Kết quả
lần kết tập này đã ghi thành văn bản về Kinh, Luật, Luận. Sau đại hội, được
vua A Dục bảo trợ, các tăng đoàn được thành lập để bắt đầu công việc truyền
bá Phật giáo ra nước ngoài.
- Đại hội kết tập kinh điển lần thứ IV,vào đầu thế kỷ II-SCN dưới triều
vua Ca Nhị Sắc Ca (Kaniska), có 500 tỷ kheo dự. Kết quả lần kết tập này đã
hoàn chỉnh Tam tạng kinh điển của Phật giáo và tồn tại cho đến ngày nay. Và
cũng từ đây, Phật giáo chính thức chia làm hai phái lớn: Phật giáo Tiểu thừa
và Phật giáo Đại thừa.
1.1.3. Sự truyền bá nhân sinh quan Phật giáo và quá trình du nhập
vào Việt Nam
- Sự truyền bá nhân sinh quan Phật giáo
Phật giáo ra đời tuy không tuyên bố tiêu diệt chế độ đẳg cấp và đạo Bàla-môn nhưng thực tế là phủ nhận chế độ đó. Hơn nữa, giáo lý của Phật giáo


16
sâu sắc, hấp dẫn, nêu lên khả năng chế ngự dục vọng, vai trị tự giải thốt của
con người, sự bình đẳng giữa con người với con người (ít nhất về phương
diện tôn giáo), lễ nghi đơn giản, không rườm rà tốn kém như đạo Bà-la-môn,
… nên được đông đảo quần chúng,nhất là những người có địa vị xã hội thấp
kém tin theo. Tuy nhiên, từ đầu thế kỷ VI đến thế kỷ IV-TCN, Ấn Độ liên tục
bị xâm lược từ bên ngoài (thế kỷ VI-TCN Ấn Độ bị Ba Tư xâm lược, sau đó
thế kỷ IV-TCN lại bị Hy Lạp xâm lược) nên Phật giáo cũng chỉ mở rộng đựơc
một số phía Bắc gần Ca-tì-la-vệ. Phật giáo thực sự phát triển mạnh ở Ấn Độ

phải đợi đến triều đại Mô-Ri-a (Maurya) từ năm 321 đến 187-TCN, đặc biệt
dưới vương triều A Dục. Vua A Dục (ở ngôi 273-236) sau khi lên ngôi đã tiến
hành công cuộc chinh phục các nước nhỏ để thống nhất Ấn Độ thành một
quốc gia rộng lớn. Đặc biệt, ông đã nâng đỡ và hộ trợ cho Phật giáo phát triển
mở rộng ra toàn bộ Ấn Độ và trở thành quốc đạo. Ơng cịn cho xây dựng
84.000 ngôi chùa và cho tổ chức, bảo trợ nhiều giáo đoàn đi truyền giáo ở
nước ngoài. Sau khi A Dục qua đời một thời gian, Ấn Độ lại chia thành nhiều
nước nhỏ và bị Hy Lạp xâm lược, Phật giáo theo đó cũng bị sa sút. Đến cuối
thế kỷ I-SCN, một bộ tộc ở vùng Trung Á là Nhục Chi (Tukhary) tấn công Ấn
Độ lập ra triều Ca-san (Kusara). Vào khoảng đầu thế kỷ II-SCN, đời vua thứ
ba của vương triều Ca-san là Ca Nhị Sắc Ca (ở ngôi 125-150) đã chấn hưng
Phật giáo ở Ấn Độ. Tuy không được hưng thịnh như thời vua A Dục nhưng
lấy lại được uy tín và ảnh hưởng trong nhân dân. Thế kỷ III-SCN, vương triều
Ca-san bị lật dổ, Ấn Độ bị Ba Tư xâm lược, đất nước lại bị chia cắt làm cho
Phật giáo rơi vào tình trạng sa sút kéo dài. Đến thời vua Gúp-ta, Phật giáo
phải nhường chỗ cho tôn giáo mới: Ấn Độ giáo - một tôn giáo kết hợp đạo
Bà-la-mơn với một số tín ngưỡng dân gian, trong đó có một số yếu tố của
Phật giáo (đúng ra là đạo Bà-la-môn cải cách). Đặc biêt từ cuối thế kỷ VII,
với sự xâm nhập của Hồi giáo, chủ yếu bằng vũ trang vào Ấn Độ làm cho


17
phật giáo ở Ấn Độ càng thêm suy tàn. Từ đó trở đi, Phật giáo chỉ giữ vị trí thứ
yếu trong đời sống tín ngưỡng văn hố của xã hội Ấn Độ.
Phật giáo suy vi ở Ấn Độ nhưng lại mở rộng và hưng thịnh ở bên ngoài
lãnh thổ Ấn Độ. Phật giáo được truyền đến Xri-lan-ca, My-an-ma, Tây Tạng,
Trung Quốc,…Tuy nhiên, khi truyền giáo ra bên ngoài, Phật giáo đã có sự
phân rẽ thành hai phái mà sau này trở thành Đại thừa và Tiểu Thừa. Thời kỳ
đầu cả hai phái đều nỗ lực truyền giáo, không phân chia thành khu vực truyền
giáo đối với từng phái. Sau này, trong quá trình truyền giáo đã dẫn đến sự

hình thành hai khu vực Phật giáo khá điển hình: Phật giáo Tiểu thừa thành
cơng ở các nước phía Nam, như: Xri-lan-ca, Miến Điện, Căm-pu-chia, Thái
Lan, Lào,… nên Phật giáo ở các nước này gọi là Phật giáo Nam tông; Phật
giáo Đại thừa thành cơng ở các nước phía Bắc như: Tây Tạng, Trung Quốc,
Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên… Nên Phật giáo ở các nước này gọi là Phật
giáo Bắc tông. Nếu như phật giáo Ấn Độ, Phật giáo Xri-lan-ca có vị trí quan
trọng đối với các nước phía Nam, thì Phật giáo Trung Quốc có vị trí quan
trọng đối với các nước phía Bắc. Do đó, dẫn đến việc các nước theo Phật giáo
Nam tông chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, các nước theo Phật giáo Bắc
tơng chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc.
Lịch sử truyền bá Phật giáo cụ thể ở từng quốc gia, khu vực dù trong
những thời gian khác nhau, hồn cảnh chính trị, xã hội khác nhau và kết quả
khác nhau, nhưng nhìn chung đều có những nét chung, có thể coi đó là đặc
điểm của quá trình truyền bá Phật giáo. Cụ thể:
- Một là, Phật giáo truyền bá bằng con đường “hịa bình”, kết hợp giữa
hình thức truyền đạo trực tiếp qua các giáo đồn với hình thức nhân dân một
cách đa dạng, rộng rãi. Đến nay, hầu như không thấy việc Phật giáo truyền
đạo gắn với chiến tranh hoặc bằng chiến tranh.
- Hai là, với thái độ khoan dung nên q trình truyền bá Phật giáo
khơng gây ra xung đột về tơn giáo, văn hóa tư tưởng. Khơng những thế, Phật


18
giáo cịn chấp nhận chung sống với các tín ngưỡng tơn giáo nơi nó truyền
đến. Đặc biệt, với chủ trương “tùy duyên phương tiện”, “khế cơ, khế hợp”,
Phật giáo còn tiếp thu, dung nạp các phong tục tập quán tín ngưỡng, tơn giáo
bản địa hình thành nên nhiều pháp mơn tu hành mang tính chất địa phương.
- Ba là, trong q trình phát triển, Phật giáo có vị trí quan trọng trong
việc xây dựng bảo vệ độc lập dân tộc, góp phần hình thành văn hóa, đạo đức,
lối sống, phong tục tập quán của nhiều quốc gia ở châu Á.

Phật giáo phát triển chủ yếu ở các nước châu Á. Tuy nhiên, trong mấy
thập niên gần đây, Phật giáo vượt khỏi phạm vi châu Á truyền sang các nước
châu Âu, châu Mỹ. Việc Phật giáo có mặt trong xã hội Âu - Mỹ định cư hình
thành những cộng đơng Phật giáo. Mặt khác, trong nhịp sống dồn dập của xã
hội cơng nghiệp, một số người châu Âu đã tìm đến với Phật giáo khơng chỉ để
nghiên cứu mà coi đó là chỗ dựa của tinh thần, tâm linh. Điều này đưa đến
việc tăng cường và mở rộng tính quốc tế của Phật giáo.
Theo thống kế của bộ Từ điển Tín ngưỡng và Tôn giáo của Nhà xuất
bản larouse ấn hành năm 1995, và theo sách Giới thiệu 250 nước và vùng
lãnh thổ trên thế giới xuất bản năm 2005, Phật giáo có khoảng 325 triệu tín
đồ (khơng kể trên dưới một tỷ người ở Châu Á chịu ảnh hưởng của văn hóa,
lối sống Phật giáo). Cụ thể ở một số quốc gia và vùng lãnh thổ có đơng tín đồ
như: Trung Quốc: 75 triệu, Thái Lan: 57 triệu, Nhật Bản: 48 triệu, My-an-ma:
47 triệu, Xri-lan-ca: 13 triệu, Việt Nam: 10 triệu, Đài Loan: 10 triệu,…
- Quá trình du nhập vào Việt Nam
Việt Nam vốn là nước có nền kinh tế tiểu nông lạc hậu.Về mặt địa lý,
Việt Nam nằm trong bán đảo Đông Dương, tiện lợi cho việc giao lưu với
những nước trong khu vực trong đó có Ấn Độ và Trung Quốc. Đây là hai
nước có hai nền văn minh cổ xưa nhất của châu Á. Như vậy, sự ảnh hưởng
của hai nền văn minh đó đối với Việt Nam là tất yếu.
Việt Nam, những năm đầu Công nguyên, vốn là nước có nền kinh tế
nơng nghiệp trồng lúa nước và đang ở thời kỳ Bắc thuộc. Về tôn giáo, tầng


19
lớp trên của xã hội đã bắt đầu chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, tầng lớp
dưới có quan niệm về ông trời - đấng gây phúc họa cho con người, tin ở các
hiện tượng tự nhiên, có tín ngưỡng thờ tổ tiên...
Đạo Phật được truyền vào Việt Nam từ đầu Công nguyên bằng hai con
đường: Đường thuỷ thông qua con đường buôn bán với thương gia ấn Độ.

Qua việc bn bán đó, những tư tưởng của Phật giáo cũng được đưa vào (qua
việc tiếp xúc với tín ngưỡng Phật giáo của thương gia ấn Độ, qua việc truyền
bá của những nhà sư của ấn Độ). Sau này Phật giáo từ Trung Quốc truyền
sang nước ta theo đường bộ. Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng Phật giáo ấn
Độ và Trung Quốc. Sự truyền bá đạo Phật vào Việt Nam là cả một q trình
lâu dài từ đầu Cơng nguyên tới cuối thời kỳ Bắc thuộc và cả thời kỳ độc lập.
Hướng Tây Nam trực tiếp từ ấn Độ sang trong buổi đầu nhanh chóng được
thay thế bằng hướng Bắc xuống. Phật giáo Trung Quốc truyền vào nước ta
gồm có: Thiền tơng, Tịnh Độ tơng và Mật tơng.
Thiền tơng, là phái chủ trương tập trung trí tuệ suy nghĩ (Thiền) để tìm
ra các chân lý của đạo Phật, vì vậy nó phổ biến chủ yếu ở tầng lớp trí thức và
tầng lớp thượng lưu. Dòng Thiền thứ nhất do nhà sư Tì-ni-đa-lưu-chi lập ra ở
Luy Lâu (Thuận Thành - Bắc Ninh). Ông là người ấn Độ, hành đạo ở Trung
Quốc vào Việt Nam năm 580, tu ở chùa Pháp Vân (Thuận Thành - Bắc Ninh)
và truyền cho tổ thứ hai là Pháp Hiền. Dòng Thiền này truyền được mười chín
thế hệ (1216). Phái Thiền này chú trọng tu định, tham Thiền song vẫn chú ý
đến việc giáo hóa chúng sinh. Dịng Thiền thứ hai do nhà sư Vơ Ngơn Thông
(ở Quảng Châu - Trung Quốc) vào Việt Nam năm 820, tu ở chùa Kiến Sơ
(Phù Đổng - Bắc Ninh) lập ra, tổ thứ hai là Cảm Thành, truyền được mười
lăm đời (1221). Dòng thiền này cho rằng: "chân lý" không ở đâu xa, mà ở
ngay bản thân mỗi người. Nhưng "chân lý" đó chỉ có thể có được bằng giác
ngộ trực tiếp, chứ không thể nắm được qua ngôn ngữ. Ở đây, đã đặt vấn đề
đốn ngộ và giác ngộ. Có thể tóm tắt tư tưởng của phái Thiền tông này như


20
sau: không lập văn tự, truyền pháp không qua giáo lý, chỉ thẳng vào tâm, kiến
tính thành Phật. Như vậy, giáo lý đạo Phật lúc này không chỉ đặt vấn đề giải
thoát cho mọi đau khổ của con người mà còn đặt vấn đề giác ngộ thành Phật.
Phái Thiền thứ ba do nhà sư Thảo Đường lập ra vào thời Lý. Thiền sư

Thảo Đường là người Trung Quốc, theo sư phụ sang ở Chiêm Thành. Vua
Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành bắt được Ngài đem về nước (1069). Sau
Ngài được Vua Lý phong làm quốc sư. Dòng này truyền được sáu đời
(1205) [43, tr.202].
Điều đáng chú ý là thời Trần, có vua Trần Nhân Tơng, vốn nghiên cứu
và thơng tuệ giáo lý nhà Phật từ trước, sau khi xuất gia vào năm 1299 đã lên
tu ở núi Yên Tử (Quảng Ninh) và tại đây đã lập ra Thiền phái Trúc Lâm,
thống nhất được các Thiền phái tồn tại trước đó và toàn bộ Giáo hội Phật giáo
thời Trần về một mối. Tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm là nhà sư Pháp
Loa, tổ thứ ba là nhà sư Huyền Quang. Sau này còn xuất hiện một số Thiền
phái khác (như phái Tào Động, phái Liên Tông, phái Lâm Tế, phái Liễu
Qn,...) nhưng nhìn chung phạm vi ảnh hưởng khơng lớn.
Tịnh Độ tông, là phái chủ trương dựa vào sức mạnh siêu nhiên của Phật
Adiđà để giúp đỡ những người bình thường giác ngộ. Tịnh độ tơng gợi mở
cho tín đồ về một Niết bàn cụ thể - đó là nước Tây phương cực lạc. Tịnh độ
tông cho rằng chỉ cần niệm tên Phật Adiđà thường xuyên là có thể đến Tây
phương cực lạc. Có thể nói, tịnh độ tơng là con đường đơn giản nhất để đến
Niết bàn. Vì vậy nó có ảnh hưởng rộng trong tầng lớp bình dân.
Mật tông, là phái chủ trương dùng những phép tu huyền bí như dùng
linh phù, mật chú, ấn quyết... để mau chóng đạt đến giác ngộ và giải thốt.
Tương truyền, Mật tông do Phật Đại Nhật (Mahavatnocama) chủ xướng với
hai bộ kinh cơ bản là Đại Nhật và Kinh Kim cương, vào Việt Nam và nhanh
chóng hồ vào dịng tín ngưỡng dân gian với những truyền thống cầu đồng,
dùng pháp thuật yểm bùa, trị tà ma và chữa bệnh.


21
Cần chú ý: các tông phái Thiền tông, Tịnh Độ tông và Mật tông của
Phật giáo Trung Quốc khi truyền vào Việt Nam đã khơng cịn tồn tại với tư
cách ba tông phái độc lập. Khi vào Việt Nam chỉ cịn Thiền tơng được tồn tại

với tư cách một dịng phái độc lập, cịn Tịnh độ tơng và Mật tơng đã trở thành
những yếu tố hồ lẫn vào Thiền tơng.
Giáo sư Hà Văn Tấn đã nhận xét về tình hình trên như sau: "Trong lịch
sử Phật giáo Việt Nam, trước sau chỉ có các phái Thiền tơng là tồn tại với tư
cách là các phái độc lập... Tịnh Độ tông và Mật tông ở Việt Nam không hề trở
thành các tông phái riêng biệt, độc lập với Thiền tông mà chỉ là các yếu tố
được Thiền tông tiếp nhận" [55, tr.84-85].
Có thể thấy rõ là: Từ Trung Quốc truyền vào Việt Nam, Phật giáo đã có
sự biến đổi cho phù hợp với đặc điểm cư dân người Việt chứ không phải là
người Việt tiếp nhận nguyên vẹn, giản đơn các tơng phái đạo Phật của Trung
Quốc. Vì vậy ở nước ta, Phật giáo khi được xét là một thực thể tơn giáo thì ba
yếu tố này lại gắn chặt với nhau.
Tư tưởng nhân sinh của Phật giáo khi du nhập vào Việt Nam đã có mối
liên hệ qua lại mật thiết với tư tưởng Việt Nam, văn hóa Việt Nam. Vì vậy,
một mặt Phật giáo có những đóng góp vào văn hóa Việt Nam và mặt khác
chính văn hóa Việt Nam làm biến đổi Phật giáo, làm cho Phật giáo Việt Nam
có những đặc trưng riêng khác với Phật giáo ở các nước khác trên thế giới.
Điều đó được thể hiện rõ nét trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất, do đặc điểm đa số cư dân Việt Nam là cư dân trồng lúa nước
với tín ngưỡng bản địa là đa thần giáo nên khi Phật giáo với thuyết nhân quả,
luân hồi, nghiệp báo thâm nhập vào Việt Nam thì nó đã gặp gỡ với thế giới
quan và nhân sinh quan người dân bản địa. Vì vậy đối với người dân Việt, đạo
Phật không chỉ là một triết thuyết mà quan trọng hơn đó là một cuộc sống
thiện, sống có đạo đức, trung thực, nhân ái, bao dung. Đạo Phật ở Việt Nam
được đông đảo quần chúng lao động nghèo khổ tiếp nhận. Giáo sư Trần Đình


22
Hượu đã khái quát: ở Việt Nam "Nước Phật không chỉ dành cho người xuất
gia, càng không phải dành riêng cho người giàu sang, không phải quần chúng

đến với Phật mà Phật đến với quần chúng... Kết quả của việc đó là người tu
hành gắn với quần chúng nghèo khổ và nhà chùa gắn với làng xã" [41, tr.58].
Đạo Phật ở Việt Nam đã tiếp nhận hồ đồng với tín ngưỡng bản địa
(thờ tổ tiên, thờ thành hồng). Vì vậy, lối kiến trúc phổ biến trong các ngôi
chùa là "Tiền Phật, hậu Thánh" với việc trong chùa thờ cả Phật cùng các vị
anh hùng dân tộc như Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, Nguyên phi ỷ Lan...
Chính sự kết hợp này đã làm cho đạo Phật gần gũi hơn với mọi người dân,
giúp cho đạo Phật thâm nhập vào quần chúng nhân dân, duy trì và phát triển
theo suốt chiều dài lịch sử dân tộc.
Thứ hai, đạo Phật Việt Nam kết hợp chặt chẽ việc đạo với việc đời.
Tuy bản chất của đạo Phật là xuất thế nhưng Phật giáo Việt Nam lại rất
nhập thế. Ngay ở giai đoạn đầu của Phật giáo Việt Nam thì giới tu hành
cũng là giới trí thức, họ khơng chỉ hoạt động truyền bá Phật giáo mà còn
dạy học và chữa bệnh, nhiều nhà sư đã từng tham chính hoặc làm cố vấn
cho các nhà vua về các vấn đề đại sự quốc gia. Tiêu biểu như nhà sư Ngô
Chân Lưu được Đinh Tiên Hoàng cử làm Tăng thống năm 971 và ban hiệu
là Khuông Việt đại sư; nhà sư Đỗ Pháp Thuận (mất năm 990) là cố vấn cho
vua Lê Đại Hành; Nhà sư Vạn Hạnh, Đa Bảo, Viên Thông... cố vấn cho các
vua triều Lý...[43, tr.140-161].
Thời Lý Trần có khá nhiều thiền sư thuộc dòng thiền Thảo Đường là
các vua quan đương nhiệm. Với truyền thống gắn đạo với đời, Phật giáo luôn
theo sát với lịch sử dân tộc. Thái độ đạo "cứu đời", đạo gần đời khiến đạo
Phật đi vào đời sống người Việt Nam dễ dàng hơn. Nhất là những giai đoạn
các vị cao tăng đã tham gia trực tiếp vào cơng việc chính sự của đời sống dân
tộc thì dấu ấn của đạo Phật trong văn hoá dân tộc được ghi lại rất đậm nét và
được lịch sử người Việt Nam rất tôn trọng.


23
Thứ ba, Phật giáo Việt Nam rất tôn trọng phụ nữ.Nguyên gốc vị Phật

Ấn Độ vốn là vị Phật đàn ông, vậy mà Phật giáo Việt Nam có cả Phật ơng và
Phật bà. Bên cạnh Đức Phật cịn có Phật bà Quan Âm (tương truyền Nguyên
phi ỷ Lan được nhân dân tôn xưng là Phật bà quan âm), Phật Mẫu (nàng Man
nương)... [41, tr.152]. Ngồi ra, có rất nhiều ngơi chùa mang tên phụ nữ như
chùa Dâu, chùa Bà Đá, chùa Bà Tướng, chùa Bà Đanh... Trong sinh hoạt văn
hoá tín ngưỡng làng xã nếu đình là địa phận của giới đàn ơng thì chùa là nơi
phụ nữ chiếm ưu thế.
Nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng, Thăng Long - Hà Nội sớm nổi
lên là một đô thị hàng đầu của nước ta từ những thế kỷ đầu sau công nguyên.
Cho đến nay, Hà Nội đã có hơn một ngàn năm lịch sử văn hiến, với tư cách là
một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của dân tộc ta. Với đặc điểm là các
thị dân gắn bó mật thiết với làng quê của mình nên Hà Nội là mảnh đất tốt
cho giáo lý Phật giáo thâm nhập. Vì vậy, ngay từ buổi đầu khi đạo Phật du
nhập, Thăng Long - Hà Nội nhanh chóng trở thành một trung tâm Phật giáo
quan trọng. Theo giáo sư Hà Văn Tấn: Thế kỷ VI, chùa Khai Quốc (chùa Trấn
Quốc ở Hà Nội ngày nay) được xây dựng; thế kỷ IX (năm 820) dịng Thiền
Vơ Ngơn Thơng được thành lập ở Chùa Kiến Sơ (Phù Đổng- Gia Lâm ngày
nay); thế kỷ X, Đại La thành (Hà Nội ngày nay) là một trung tâm truyền thụ
Phật giáo. Đặc biệt Thiền phái Thảo Đường được xây dựng tại Thăng Long
vào thế kỷ XI. Nơi đây cũng xuất hiện nhiều vị cao tăng nổi tiếng như: Lý
Thánh Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông, Trần Nhân Tông,Tuệ Trung
Thượng Sĩ,... [43, tr.128-129].
Phật giáo ở Việt Nam nói chung và ở Hà Nội nói riêng đã đạt đến đỉnh
cao vào thời đại Lý - Trần (XI - XIV), tạo nên những nét riêng biệt đặc trưng
cho Phật giáo Việt Nam. Trong quan niệm về con người, các Thiền sư đời
Trần cho rằng sắc thân con người do niệm khởi, duyên hội, ngũ uẩn hợp
thành. Thân của con người do cha mẹ sinh ra, do tứ đại, ngũ uẩn hợp thành, là


24

cái thân có trong cuộc đời nhưng lại là ảo, không phải là thực (vô ngã). Con
người chịu sự chi phối của các quy luật biến diệt (vô thường) nên cuộc đời
con người chỉ là thống qua như mây trơi, nước chảy, mong manh tạm bợ
giống như hơi thở nơi mũi. Mọi công danh phú quý chỉ là một giấc mộng. Các
ông cho rằng cuộc đời con người là khổ. Ngun nhân sâu xa gây ra khổ
chính là vơ minh, nhận thức bị mê mờ sinh ra vọng niệm - con người cho rằng
thế giới vô thường là thực tại chấp có cái Ta... Vọng niệm là nguyên nhân gây
ra phiền não, gây ra mọi nghiệp nhân tạo thành quả khổ sinh tử. Vì vậy, muốn
diệt khổ, trước hết phải không tạo nghiệp nhân, tức phải diệt trừ vô minh, diệt
được ngã tưởng, từ đó, nhận chân được thế giới vơ thường vơ ngã, cắt được
xiềng xích của ln hồi, thoát khỏi khổ não trong bể sinh tử, tới chốn Niết bàn
giải thoát. Con đường giải thoát do các Thiền sư đời Trần đưa ra, đó là sự kết
hợp giữa phép đốn ngộ và tiệm ngộ. Con đường tiệm ngộ được thực hiện qua
quá trình tu tập Tam học và Bát chính đạo. Đốn ngộ được thực hiện khơng phải
qua con đường ngôn ngữ văn tự hay suy luận tư biện mà bằng trực giác "tâm
truyền tâm". Phương pháp thoát khổ của họ mang nặng tính chất tâm lý. Họ
khơng hướng vào hiện thực để cải tạo hiện thực, chỉ chú trọng đến việc cải tạo
cái tâm để đạt đến giải thốt. Đó là quan điểm hồn tồn duy tâm. Thiền tông
thời Trần là Thiền hướng nội, biện tâm và phá chấp. Khuynh hướng đó làm cho
Phật giáo ở nước ta thời kỳ này gắn bó chặt chẽ với vận mệnh của dân tộc.
Người tín đồ khơng bị bó mình trong đời sống đạo mà đã tham gia tích
cực vào sự nghiệp chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước.Phật giáo đời Trần
mang một luồng sinh khí mới, đó là đạo gắn bó với đời. Phật giáo thời kỳ này
đã vạch ra một con đường mới đi đến giác ngộ hồn tồn khác với Phật giáo
Ấn Độ, Trung Quốc. Đó là con đường đi đến giác ngộ bằng cứu nhân độ thế.
Trên con đường này, tâm con người ngày càng khai mở trùm thiên hạ, mn
lồi, vạn pháp, tức là đạt đến tâm Phật. Đó chính là khuynh hướng nhập thế
tích cực làm cho Phật giáo thời kỳ này khơng bị bi quan yếm thế.



25
Sau thời kỳ phát triển đạt đến đỉnh cao trên, từ thế kỷ XV đến trước
Cách mạng tháng 8/1945,với những biến động của lịch sử dân tộc, Phật giáo ở
Việt Nam nói chung và ở vùng đồng bằng Bắc bộ nói riêng cũng có những
bước thăng trầm, có lúc được chấn hưng, có lúc bị suy thối nhưng nó khơng
đạt được đỉnh cao như trong thời kỳ Lý - Trần. Tuy vậy, vùng đồng bằng Bắc
bộ vẫn là một trung tâm Phật giáo lớn, là đầu não của Phật giáo Việt Nam.
Từ sau Cách mạng tháng 8/1945 đến 1975, Phật giáo ở Việt Nam nói
chung và Phật giáo ở Vùng đồng bằng Bắc bộ nói riêng đã tham gia tích cực
vào hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ cùng với dân tộc.
Từ khi đất nước thống nhất và nhất là từ khi Đảng đề ra đường lối đổi
mới đến nay, đất nước ta bước vào thời kỳ mới. Sau hơn hai mươi năm đổi
mới, đất nước ta có những biến đổi sâu sắc trong đời sống kinh tế - xã hội.
Nền kinh tế chuyển từ chế độ kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền
kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự
quản lý của Nhà nước nên có sự tăng trưởng nhanh và ổn định.
Cùng với sự chuyển mình của đất nước, cùng với chính sách tơn giáo
của Đảng và Nhà nước tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của cơng dân. Các
hoạt động có liên quan đến tín ngưỡng, tơn giáo đã trở nên nhộn nhịp và đem
lại nhiều những sắc thái mới tươi vui.
1.2. NỘI DUNG NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO

1.2.1. Quan niệm về con người
Trước hết, Phật giáo cho rằng con người không phải do Thượng đế hay
một Đấng thiêng liêng nào sinh ra. Con người là một pháp đặt biệt của thế
giới vạn pháp. Con người bao gồm hai phần: phần sinh lý, phần tâm lý, và là
sự kết hợp của Ngũ uẩn. Nguyên nghĩa uẩn hay ẩm (Rapa skadha) là tích tụ.
Ngũ uẩn gồm năm yếu tố: sắc, thụ, tưởng, hành, thức được chia làm hai phần.
Phần sinh lý - sắc uẩn (Rupa kaya) là thân tướng, hình sắc, được giới
hạn trong không gian bằng xương, thịt, da được tạo thành bởi bốn yếu tố vật



×