A. Phần mở đầu
1. Tính cấp bách của đề tài
Đạo Phật truyền vào nớc ta khoảng đầu Công nguyên và đã trở thành một
trong những hệ t tởng - tôn giáo có sức sống lâu dài, tồn tại cho đến ngày
nay, đã ảnh hởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của con ngời Việt Nam
trong lịch sử. Đạo Phật với quan niệm nhân sinh độc đáo của nó trở thành
một bộ phận không thể thiếu của nền văn hoá dân tộc. Ngày nay, trong bối
cảnh công cuộc đổi mới của đất nớc, do sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế
thị trờng cùng với các học thuyết t tởng và tôn giáo khác, đạo Phật đã có những
biến chuyển mạnh mẽ cùng với sự chuyển mình lớn lao của đất nớc. Tình hình
đó có tác động không nhỏ, theo cả hai chiều hớng tích cực, tiêu cực, tới đời
sống xã hội, tới lối sống, đạo đức của xã hội nớc ta. Đặc biệt, thủ đô Hà Nội
là một trong hai trung tâm lớn của Phật giáo Việt Nam cũng không nằm
ngoài dòng chảy trên. Do yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội của đất nớc cũng nh đóng góp một phần nhỏ vào nhiệm vụ xây
dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bẩn sắc dân tộc mà Bộ Chính trị của
Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra trong Đại hội Đảng lần thứ VIII, việc đứng trên
lập trờng triết học mác-xít để nghiên cứu nhân sinh quan đạo Phật và sự thể hiện
của nó ở các tín đồ đạo Phật hiện nay, chỉ ra những yếu tố tích cực, phát hiện
những giá trị tinh tuý của nó cũng nh những mặt hạn chế của nó chính là một
việc làm có ý nghĩa thiết thực cả về mặt lý luận cũng nh về mặt thực tiễn.
Với tầm quan trọng và ý nghĩa nh vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài: "Nhân sinh
quan Phật giáo và sự thể hiện của nó ở một số tín đồ đạo Phật hiện nay"
(qua quan sát một số chùa ở Hà Nội).
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nhân sinh quan Phật giáo (nguyên thủy) là một đề tài đã đợc nhiều nhà
khoa học, Phật tử nghiên cứu, đặc biệt trong thời gian gần đây, cụ thể là:
- Năm 1984, Tiến sĩ Peter D. Santina viết cuốn sách "Fundamentals of
Buddhism" (Nền tảng của đạo Phật). Cuốn sách đợc Thích Tâm Quang dịch
sang tiếng Việt năm 1996. Trong cuốn sách này, tác giả trình bày 12 bài
giảng về lịch sử ra đời của đạo Phật và những phần giáo lý căn bản nhất của
đạo Phật nh: tứ diệu đế, lý nhân duyên, nghiệp, ngũ uẩn,... Tác giả xuất phát
từ quan niệm của một Phật tử ở phơng Tây, có hiểu biết sâu sắc phần giáo lý
nên khi trình bày, tác giả cố gắng làm rõ từng nội dung trong quan niệm
nhân sinh của đạo Phật nguyên thủy.
- Năm 1984, ủy ban khoa học xã hội Việt Nam - Viện triết học xuất
bản cuốn "Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử t tởng Việt Nam" tập hợp 25
bài tham luận của các nhà nghiên cứu có tên tuổi của giới khoa học nớc ta
nh các giáo s Trần Văn Giầu, Nguyễn Tài Th, Nguyễn Đức Sự, Trần Bạch
Đằng, Hà Văn Tấn, Phan Đại Doãn, Trần Đình Hợu,... trong cuộc hội thảo
về "Mối quan hệ giữa Phật giáo và lịch sử t tởng Việt Nam". Trong tập bài
tham luận này, các tác giả đã phân tích và làm sáng tỏ mối quan hệ tác động
qua lại giữa Phật giáo và lịch sử t tởng Việt Nam, tính chất của Phật giáo và
Phật giáo Việt Nam và đề cập đến một số tông phái Phật giáo ở Việt Nam,
ảnh hởng của Phật giáo tới chủ nghĩa yêu nớc, tới văn hóa Việt Nam,...
- Năm 1988, Nhà xuất bản khoa học xã hội xuất bản cuốn "Lịch sử
Phật giáo Việt Nam" của Viện Triết học do PGS Nguyễn Tài Th chủ biên.
Cuốn sách đề cập đến quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo vào Việt
Nam từ đầu Công nguyên cho đến nửa đầu thế kỷ XX.
- Năm 1994, tác giả Thích Tâm Thiện viết cuốn "Tìm hiểu nhân sinh
quan Phật giáo" do Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh xuất bản.
Đây là cuốn nhập môn Phật học. Tác giả trình bày Duyên sinh - Vô ngã qua
các thời kỳ, trong các bộ kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng Già,... cuối
cùng nhận diện Phật giáo trong sự đối chiếu với các học thuyết triết học,
thấy đợc vị trí và giá trị của Phật giáo với những nguyên lý nền tảng của
Phật giáo. Tuy nhiên, trong tác phẩm này, tác giả trình bày nhân sinh quan
Phật giáo nguyên thủy dới góc độ một Phật tử.
- Năm 1997, TS Nguyễn Hùng Hậu viết cuốn "Lợc khảo t tởng Thiền
Trúc Lâm Việt Nam" Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản. Trong đó tác
giả phân tích khía cạnh bản thể luận, quan niệm nhân sinh của các thiền s
thời Trần nh Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thợng sĩ, Pháp
Loa, Huyền Quang,... ở đây, tác giả mới đề cập giai đoạn Phật giáo phát
triển đến đỉnh cao - thời kỳ Nhà Trần.
Nhìn chung, các công trình trên đã nghiên cứu về nhân sinh quan Phật
giáo về mặt lý luận, nhng cha có công trình nào đi sâu nghiên cứu những
biểu hiện của nhân sinh quan Phật giáo ở các tín đồ Phật giáo tại Hà Nội -
một trung tâm Phật giáo lớn của cả nớc trong điều kiện công cuộc đổi mới
của đất nớc hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích của luận văn là:
+ Trình bày một cách có hệ thống về nhân sinh quan Phật giáo (nguyên
thủy), rút ra những mặt tích cực và hạn chế của nó.
+ Phân tích những biểu hiện của quan niệm nhân sinh ở các tín đồ đạo
Phật hiện nay (tập trung ở tín đồ Hà Nội).
- Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Hệ thống hóa và phân tích những vấn đề thuộc nhân sinh quan của
Phật giáo nh: Quan niệm về con ngời và cuộc đời con ngời, quan niệm về
giải thoát và con đờng giải thoát.
+ Phân tích những biểu hiện của quan niệm nhân sinh Phật giáo ở tín
đồ đạo Phật Hà Nội hiện nay qua niềm tin tôn giáo, việc thực hiện lễ nghi và
sự thực hành giới luật của họ. Từ đó rút ra những kết luận về ảnh hởng của
nó đến đời sống xã hội nớc ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở phơng pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin về triết học và lịch sử triết học, kết hợp với phơng pháp
luận nghiên cứu triết học phơng Đông.
- Phơng pháp nghiên cứu cụ thể: Kết hợp các phơng pháp: phân tích
với tổng hợp, lôgic với lịch sử,, quan sát, phỏng vấn,...
5. Cái mới của luận văn
Luận văn đã nghiên cứu một cách có hệ thống quan niệm nhân sinh
Phật giáo (nguyên thủy), chỉ ra những giá trị tích cực cùng những hạn chế
của nó; đi sâu nghiên cứu những biểu hiện của quan niệm nhân sinh đạo
Phật ở các tín đồ đạo Phật ở Hà Nội trong công cuộc đổi mới của đất nớc ta
hiện nay.
6. ý nghĩa của luận văn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu,
giảng dạy và tìm hiểu lịch sử t tởng Phật giáo Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chơng, 6 tiết.
B. Phần nội dung
Chơng 1
Quan niệm của phật giáo (nguyên thủy)
về nhân sinh
1.1. Hoàn cảnh kinh tế - xã hội, văn hóa - t tởng của sự hình thành
nhân sinh quan Phật giáo
- Về điều kiện kinh tế - xã hội: Từ thế kỷ VI (tr.CN) đến thế kỷ I (sau
CN) ấn Độ cổ đại đã khá phát triển về kinh tế nh sản xuất nông nghiệp, th-
ơng mại nhng về mặt xã hội lại bị bóp nghẹt bởi tính chất kiên cố của tổ
chức công xã nông thôn cùng chế độ phân biệt đẳng cấp hết sức khắc nghiệt,
nặng nề. Xã hội ấn Độ lúc này chia thành 4 đẳng cấp theo chế độ thế tập
cha truyền con nối tạo thành một tổ chức xã hội bất công.
- Về văn hóa - t tởng: ấn Độ cổ đại có một nền triết học phát triển từ
rất sớm. Từ thế kỷ XV (tr. CN) đã xuất hiện bộ thánh kinh Rg Vêđa. Sau
này là thời kỳ triết học Bàlamôn (1000-800 năm tr. CN) và Upanishad (800-
600 năm tr. CN). Trong Upanishad đã đề cập đến nhiều vấn đề có ý nghĩa
triết học thực sự nh mối quan hệ giữa tinh thần vũ trụ (Brahman) và linh hồn
cá thể (Atman), thuyết luân hồi, nghiệp nhân quả, vấn đề giải thoát... Những
t tởng đó đã đặt nền móng vững chắc để cho các trào lu t tởng mới sau này
phát triển. Thế giới quan thần thoại, chủ nghĩa duy tâm trong thánh kinh
Vêđa, Upanishad và đạo Bàlamôn thống trị đời sống tinh thần của xã hội ấn
Độ cổ đại.
Đứng trớc nhu cầu đòi hỏi sự tự do, công bằng, bình đẳng của quần
chúng lao động đang rên xiết dới ách thống trị của các đẳng cấp Bàlamôn,
Kshatiya về kinh tế, xã hội, tinh thần, đạo Phật ra đời với t cách là một hệ t
tởng phản đối chế độ phân biệt đẳng cấp, phủ nhận uy thế của kinh Vêđa,
chống giáo lý duy tâm hoang đờng của Bàlamôn giáo. Nó là sự khẳng định
một đạo lý, một đờng hớng cứu khổ mới cho con ngời.
Theo các sử liệu ghi lại, ngời sáng lập ra Phật giáo là Thích-ca-mâu-ni,
có tên thật là Tất-đạt-đa, họ là Gô-ta-ma, thái tử con vua Tịnh Phạn, quốc v-
ơng ở phía Bắc ấn Độ. Ông sinh năm 563 (tr. CN). Năm 29 tuổi ông quyết
định đi tu. Sau 7 năm tu luyện ông đã ngộ đạo và lập ra giáo đoàn Phật giáo.
ông mất năm 483 (tr. CN).
1.2. Quan niệm về con ngời
Để có thể đứng vững trong một đất nớc có nhiều dòng phái triết học
cũng nh tôn giáo nh ấn Độ, Đức Phật đã xây dựng thuyết nhân duyên sinh
làm nền tảng cho học thuyết của mình.
Có thể tóm tắt nguyên lý nhân duyên sinh nh sau:
- Cái này có thì cái kia có,
Cái này sinh thì cái kia sinh,
Cái này không thì cái kia không,
Cái này diệt thì cái kia diệt
(1)
Theo nguyên lý nhân duyên sinh, thế giới vũ trụ, vạn pháp, con ngời
đều đợc cấu thành bởi vô số nhân và trùng trùng duyên khởi. Các pháp
(
1) Theo Nguyễn Văn Chế, Những vấn đề cơ bản trên Phật học, Hội Phật giáo
Thống nhất Việt Nam, 1976. tr. 95.
không có thực thể, chỉ có nhân duyên hòa hợp, chúng hiện hữu một cách giả
hợp. Cho nên vạn pháp là vô thủy và vô chung. Sự vật là một chuỗi nhân
quả, ảnh hởng lẫn nhau không bao giờ đứt quãng. Đó là nhân quả.
Giáo lý nhân duyên sinh đa đến hai hệ quả trực tiếp: thuyết vô thờng
(Amicca): các pháp luôn biến dịch, không có gì là thờng trụ, bất biến. Vạn
vật vô tình trong vũ trụ đều tuân theo quy luật: thành - trụ - hoại - không; các
sinh vật thì tuân theo quy luật. Sinh - trụ - dị -diệt.
Thuyết vô ngã (Anatta) khẳng định không có cái ta trờng tồn vĩnh cửu.
Mọi sự vật đều là một pháp duyên sinh nên đều vô ngã: thân vô ngã, tâm vô
ngã, cảnh vô ngã.
Từ nguyên lý cơ bản trên, Đức Phật trình bày về con ngời và cuộc đời
con ngời.
Đức Phật xác định con ngời là một chỉnh thể vũ trụ, là kết quả của sự
kết hợp danh và sắc, bao gồm hai phần: sinh lý và tâm lý. Phần con ngời
sinh lý là sự kết hợp của tứ đại: địa, thủy, hỏa, phong. Phần an ngời tâm lý
bao gồm thụ, tởng, hành, thức. Các yếu tố vật chất khi hội đủ nhân và có
duyên cần thiết sẽ hợp thành những thực thể hữu hình (thân xác con ngời) và
có ý thức thì con ngời sống và tồn tại. Trong thời gian con ngời tồn tại đã
gây ra nghiệp (thiện hoặc ác) khiến con ngời luân hồi trong lục đào. Nhng
Phật quan niệm con ngời là sinh vật hoàn thiện hơn cả nên đã khuyên con
ngời hãy tạo nghiệp thiện để kiếp sau sẽ đợc trở lại làm ngời. Con ngời là
một pháp duyên sinh nên con ngời chịu sự chi phối của quy luật vô thờng:
sinh - lão - bệnh - tử. Con ngời sinh ra rồi lại chết đi để một sinh linh mới lại
ra đời. Từ quan điểm vô thờng, đạo Phật phủ nhận sự tồn tại của cái Ngã,
phủ nhận sự tồn tại đích thực của chính bản thân con ngời.
Dựa trên nguyên lý duyên sinh, Phật giáo đã nêu nhiều luận điểm triết
học sâu sắc, phủ nhận vai trò của một đấng siêu nhiên tối cao trong việc
sáng tạo ra con ngời. Những t tởng "vô thờng", "vô ngã" đã chứa đựng những
yếu tố biện chứng khi xem xét sự vật hiện tợng trong quá trình vận động của
nó, thể hiện một sự nhận thức có chiều sâu. ở đây cũng bộc lộ quan điểm
biện chứng không triệt để của đạo Phật khi tuyệt đối hóa sự vận động, biến
đổi đi đến phủ nhận sự tồn tại hiện thực của con ngời, sự vật, dễ đem lại sự
bi quan và thái độ buông xuôi cho con ngời. Phật giáo không thừa nhận có
"linh hồn bất tử" song t tởng về sự đền bù h ảo về một kiếp sau của vòng
luân hồi vô tận có sự phán xét công minh của nghiệp báo và báo ứng,... vẫn
là "thuốc phiện" cho nỗi bất lực của con ngời hiện thực trong đời sống xã hội
ở trần gian.
1.3. Quan niệm về cuộc đời con ngời
Toàn bộ quan niệm về cuộc đời con ngời đợc đức Phật trình bày trong Tứ
diệu đế. Đức Phật đã xuất phát từ khổ đế (Dukkha Arya Satya) nêu lên
những nỗi khổ mà con ngời phải chịu đựng trong cuộc đời của mình, đó là: sinh,
lão, bệnh, tử, sở cầu bất đắc khổ, ái biệt ly khổ, oán tăng hội khổ và ngũ thủ
uẩn khổ. Đức Phật phân tích những nỗi đau khổ đó về mặt tâm sinh lý con ng-
ời, chứ cha phân tích đợc sự khổ đau của con ngời bắt nguồn từ nguyên nhân
trong đời sống xã hội. Tuy vậy, hơn tất cả các học thuyết phơng Đông khác,
Đức Phật đã đi sâu phân tích mặt phát triển tự nhiên của con ngời, chỉ ra đó là
sự phát triển tất yếu của cơ thể sống của con ngời.
Phần tập đế (Dukkha samudaya Satya) trình bày nguyên nhân của khổ.
Triết lý Phật giáo cho rằng cuộc đời con ngời bị chi phối bởi mời hai nhân
duyên trong đó Đức Phật luôn nhấn mạnh đến Vô minh và ái thủ bởi chính
Vô minh là nguyên nhân của mọi khổ đau, còn ái thủ trực tiếp gây ra mọi
vọng động. Mời hai nhân duyên chuyển liên tục từ khâu này sang khâu khác
trong ba thời gian: quá khứ, hiện tại, vị lai. Vì thế chúng sinh bị chìm đắm
mãi trong bể khổ trầm luân.
1.4. Vấn đề giải thoát
Trong phần Diệt đế (Nirodha) Phật nói về mục tiêu tối hậu của đạo
Phật là giải thoát con ngời thoát khỏi nỗi khổ, đạt tới Niết bàn. Niết bàn là
cảnh giới siêu thời gian và không gian. Chúng ta không thể dùng t duy và
ngôn ngữ để định nghĩa hay mô tả trực tiếp Niết bàn đợc mà phải bằng sự
chứng ngộ, trực giác của mỗi con ngời. Phật quan niệm mọi chúng sinh đều
bình đẳng ngang nhau trên con đờng giải thoát. Vậy bằng cách nào để thực
hiện đợc mục đích giải thoát? Đức Phật lý giải vấn đề này trong phần Đạo
đế (Marga Satya). Phật khẳng định con đờng để giải thoát phải là con đờng
trung đạo qua thực hành Tam học - Bát chính đạo, bao gồm:
Giới học là toàn bộ luân lý thực hành của đạo Phật, mục đích để kiềm
chế đi đến chấm dứt mọi dục vọng ở con ngời. Giới làm cho cá nhân con ng-
ời trải qua những biến đổi đạo đức nhất định theo chiều hớng thiện. Giới bao
gồm chính ngữ (nói lời chân chính) chính nghiệp (hành động chân chính),
chính mệnh (làm ăn chân chính).
Định học là đình chỉ mọi t tởng xấu vọng niệm, tập trung t tởng suy
nghĩ để từ đó nảy sinh một trạng thái an lạc, tạo điều kiện cho tuệ phát ra.
Muốn vậy phải thực hiện chính tinh tấn (tập trung năng lực trong tu luyện
bỏ tâm ác củng cố t tởng thiện) chính niệm (nghĩ về chính pháp, trừ bỏ t t-
ởng, hành động bất chính) chính định (thiền).
Phơng pháp thiền là phơng pháp chiêm nghiệm hớng về nội tâm con ng-
ời, hớng về dòng tình cảm, dòng t duy của chính mình. Đạo Phật dùng thiền
để đạt đến giác ngộ, thiền khiến tâm trong sáng.
Tuệ học là trí tuệ sáng suốt của ngời tu hành đã diệt đợc dục vọng thấy
đợc lý vô thờng, vô ngã. Tuệ học bao gồm: chính kiến (nhận thức đúng đắn);
chính t duy (suy nghĩ chân chính.
Ngoài "tam học" và "bát chính đạo" Đức Phật còn đa ra phơng pháp tu
luyện tổng quát cho mọi Phật tử đó là "Ngũ giới" và "Lục độ". Có thể nói
"Tam học" và "Bát chính đạo" là cách thức tu luyện đạo đức, nhân sinh cho
con ngời có tính chất toàn diện nhằm làm cho con ngời chấm dứt vô minh,
giác ngộ đạt tới cõi Niết bàn. Khi đạt giác ngộ và thể nhập Niết bàn rồi thì
ngay cả "Bát chính đạo" và mọi ý niệm về Niết bàn, Phật, pháp cũng phải từ
bỏ nốt.
T tởng giải thoát của Phật giáo thể hiện tính nhân bản sâu sắc. Nó quan
tâm đến thân phận của mỗi con ngời và chủ trơng giải thoát cho tất cả chúng
sinh bằng chính đời sống đạo đức và sức mạnh trí tuệ của con ngời. Phật chủ
trơng mọi chúng sinh đều bình đẳng với nhau về khả năng giải thoát.
Tuy nhiên, Phật giáo nghiên cứu con ngời giới hạn ở con ngời cá nhân
hớng nội chứ không phải con ngời xã hội. Đạo Phật phủ nhận những ham
muốn tự nhiên, những khát vọng của con ngời. Điều đó trái với thực tế bởi vì
chính khát vọng mới là động lực của sự vận động và phát triển xã hội. Đạo
Phật không có quan điểm lịch sử về xã hội, không coi con ngời tồn tại nh
những thành viên của một quan hệ sản xuất hay quan hệ xã hội - chính trị
mà chỉ xét con ngời trong quan hệ đạo đức. Đạo Phật ít quan tâm, chú ý tới
việc làm thế nào cho của cải vật chất ngày càng phong phú, tới việc giải
phóng con ngời về mặt xã hội. Nó khiến con ngời ta không hớng vào thực để
tìm lời giải đáp cho hiện tại mà chỉ hớng vào tâm linh để mong đợc sự giải
thoát tuần túy về mặt tinh thần, đạo đức.
Về sau này, khi Đức Phật nhập diệt, giáo lý và tổ chức đạo phật đã phát
triển thành ba dòng phái:
1. Phật giáo nguyên thủy (Theravada) còn gọi là Tiểu thừa chủ trơng
thờ Phật (Buddha) không thờ thần linh, chủ trơng tu để bản thân giác ngộ
thành La Hán...
2. Phật giáo đại thừa (Mahayana) chủ trơng "tự giác" cho bản thân và
"giác tha" cho chúng sinh đau khổ...
3. Kim cang thừa, còn gọi là Mật tông (Tantrayana hay Vajrayana) có
tính chất huyền bí kết hợp phù chú, bùa linh...
Chơng 2
Nhân sinh quan phật giáo
trong tín đồ đạo phật Hà Nội hiện nay
2.1. Đạo Phật du nhập và phát triển ở Việt Nam nói chung và Hà
Nội nói riêng
Việt Nam là nớc nằm trong khu vực có hai nền văn minh phát triển rực
rỡ thời cổ đại đó là ấn Độ và Trung Quốc và tất yếu chịu ảnh hởng của hai
nền văn minh đó. Đạo Phật truyền vào nớc ta từ đầu Công nguyên theo hai
hớng: từ ấn Độ sang bằng đờng biển và từ Trung Quốc sang bằng đờng bộ.
Phật giáo từ Trung Quốc sang gồm Thiền Tông, Tịnh Độ Tông và Mật Tông
vào đến Việt Nam đã có sự biến đổi cho phù hợp với đặc điểm dân c ngời
Việt nên xét về tông phái thì chỉ còn Thiền tông tồn tại với t cách là tông
phái độc lập còn Tịnh Độ tông và Mật tông trở thành những yếu tố đợc
Thiền tông tiếp nhận.
Phật giáo Việt Nam có những đặc trng riêng: Thứ nhất, đối với ngời
dân Việt, đạo Phật không chỉ là một triết thuyết mà quan trọng hơn đó là
cuộc sống thiện, có đạo đức, nhân ái, bao dung. Đạo Phật ở Việt Nam đã
tiếp nhận, hòa đồng với tín ngỡng bản địa khiến cho nó thâm nhập đợc vào
đông đảo dân c và phát triển theo suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Thứ hai,
đạo Phật ở Việt Nam kết hợp chặt chẽ việc đạo với việc đời cho nên có xu h-
ớng nhập thế. Thái độ đạo "cứu đời" khiến đạo Phật đi vào đời sống ngời
Việt Nam dễ dàng hơn. Dấu ấn của đạo Phật trong nền văn hóa dân tộc đợc
ghi lại rất đậm nét. Thứ ba, Phật giáo Việt Nam rất đề cao phụ nữ. Nhiều
nhân vật lịch sử đợc tôn thành Phật. Chùa là nơi phụ nữ chiếm u thế.
Ngay từ buổi đầu khi đạo Phật du nhập, Thăng Long - Hà Nội đã nhanh
chóng trở thành một trung tâm Phật giáo quan trọng. Nhiều ngôi chùa, nhiều
bậc cao tăng đã xuất hiện ở đây. Phật giáo ở Việt Nam nói chung và ở Hà
Nội nói riêng đã đạt tới đỉnh cao vào thời đại Lý- Trần, tạo nên những nét
riêng biệt đặc trng cho Phật giáo Việt Nam. Các thiền s đời Trần cho rằng
sắc thân con ngời do niệm khởi, duyên hội, ngũ uẩn hợp thành. Con ngời
chịu sự chi phối của các quyluật biến diệt. Cuộc đời con ngời là khổ và
nguyên nhân gây ra khổ chính là vô mình. Muốn diệt khổ phải diệt trừ vô
minh để không tạo nghiệp dẫn đến quả khổ. Con đờng giải thoát do các thiền
s đời Trần chủ trơng là sự kết hợp giữa phép tiệm ngộ và đốn ngộ. Phơng
pháp thoát khổ của họ mang nặng tính chất tâm lý, chú trọng đến việc cải
tạo cái tâm để đạt đến giải thoát. Đó là quan điểm hoàn toàn duy tâm. Nhng
nhờ tinh thần biện tâm và phá chấp làm cho Phạt giáo thời kỳ này có khuynh
hớng nhập thế tích cực, gắn bó với vận mệnh dân tộc.
Sau thời kỳ phát triển đạt đến đỉnh cao trên, từ thế kỷ XV đến trớc cách
mạng tháng Tám 1945, cùng với những biến động của lịch sử, Phật giáo
Thăng Long - Hà Nội không còn đạt đợc đỉnh cao nh trong thời kỳ Lý - Trần