Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Nâng cao hiệu quả công tác tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh nghệ an hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.49 KB, 103 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng tác tun giáo là một bộ phận cấu thành hết sức quan trọng trong
toàn bộ hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong những năm qua, công
tác tuyên giáo đã thực hiện tốt chức năng dự báo và tham mưu chiến lược cho
Đảng ở lĩnh vực công tác được giao; chủ động nắm bắt tình hình, phân tích,
dự báo, phát hiện, xử lý các vấn đề tư tưởng chính trị, tâm trạng xã hội đặt ra;
tuyên truyền, giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân;
góp phần làm tốt cơng tác tun truyền, báo chí, xuất bản, văn hoá, văn nghệ,
khoa học, giáo dục, y tế, các vấn đề xã hội; khẳng định và bảo vệ đường lối,
quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; giữ gìn, củng cố sự
đồn kết, thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội; tạo cơ sở cho
sự gắn kết chặt chẽ, thường xuyên giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
với củng cố quốc phòng - an ninh, tăng cường đối ngoại; góp phần xây dựng
Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng.
Trong hơn 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới, cơng tác tun giáo đã
góp phần nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cho cán
bộ, đảng viên và nhân dân. Thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục, nhiều
tổ chức đảng và đảng viên đã trưởng thành mọi mặt về phẩm chất chính trị;
đổi mới tư duy lý luận cũng như năng lực lãnh đạo công tác xây dựng Đảng
và công tác vận động quần chúng; tạo nên sự thống nhất trong Đảng và sự
đồng thuận trong xã hội, củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con
đường đi lên CNXH ở nước ta.
Cơng tác tun giáo cịn góp phần đẩy mạnh phong trào thi đua yêu
nước, cổ vũ những nhân tố mới, điển hình tiên tiến trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội, có tác dụng giáo dục, thuyết phục cao. Nâng cao nhận thức


2


cho các cấp, các ngành, các địa phương, các tầng lớp nhân dân, phát động các
phong trào thi đua yêu nước, tạo động lực cho việc thực hiện nhiệm vụ chính
trị, khắc phục được những lệch lạc trong đời sống xã hội.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác tun giáo cịn một số
hạn chế, như: Tính định hướng, tính thuyết phục, sự hấp dẫn của cơng tác
tun giáo chưa cao, có biểu hiện né tránh những vấn đề bức xúc mà dư luận
quan tâm. Phương thức hoạt động cịn nặng tun truyền một chiều từ trên
xuống, ít chú trọng nắm bắt thông tin hai chiều, thiếu khả năng chủ động lắng
nghe, đối thoại trong hoạt động tuyên truyền. Nội dung, hình thức, phương
thức tun truyền cịn đơn điệu, thiếu tính sáng tạo, hiệu quả tuyên truyền tác
động đến đối tượng chưa cao. Đấu tranh, phản bác các thông tin, quan điểm
sai trái, thù địch còn thụ động, chưa có sức thuyết phục, chưa phát huy được
trí tuệ, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống cán bộ làm công tác tư tưởng, lý
luận, các nhà khoa học. Hiệu quả công tác tuyên truyền ở nhiều lúc, nhiều
nơi, nhiều lĩnh vực cịn thấp làm cho tình hình tư tưởng trong một bộ phận
cán bộ, đảng viên và nhân dân vẫn có những biểu hiện thiếu thống nhất; mâu
thuẫn trong nội bộ nhân dân có biểu hiện phức tạp; cịn nhiều yếu tố tư tưởng
cản trở việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và sự đồng thuận xã hội.
Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới; tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ
phận cán bộ, đảng viên, gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là rất
nghiêm trọng; xuất hiện những biểu hiện xa rời mục tiêu của CNXH; các thế
lực thù địch thực hiện âm mưu “diễn biến hồ bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử
dụng các chiêu bài dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc, lợi dụng sự phát
triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là in-tơ-nét như một công cụ lợi hại để
chống phá hịng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Điều đó địi hỏi trong
những năm tiếp theo cần phải nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác tuyên giáo
để thực hiện thắng lợi những mục tiêu đã đề ra trong tình hình mới.



3
Tun giáo là cơng việc có nội dung phong phú, đa dạng với yêu cầu
khác nhau ở từng phạm vi khác nhau. Do vậy, việc đánh giá hiệu quả của
công tác tun giáo cũng cần có những tiêu chí cụ thể và phải đứng trên quan
điểm lịch sử - cụ thể.
Ở phạm vi quốc gia, hiệu quả công tác tuyên giáo là làm cho cán bộ,
đảng viên và các tầng lớp nhân dân hiểu và thực hiện tốt các chủ trương,
chính sách, đường lối quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước góp
phần thực hiện những mục tiêu chung của đất nước.
Ở phạm vi cấp tỉnh, hiệu quả công tác tuyên giáo là tuyên truyền, vận
động để từng bước đưa các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp
luật của Nhà nước đi vào cuộc sống, tùy thuộc vào điều kiện từng địa phương,
đơn vị để vận dụng cho phù hợp, vận dụng sáng tạo có hiệu quả nhằm thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của từng địa phương nói riêng và cả nước
nói chung.
Ở phạm vi cấp huyện, hiệu quả của công tác tuyên giáo được xác định
ở những tiêu chí cụ thể hơn. Cấp huyện là cấp có vị trí và vai trị quan trọng
trong hệ thống tổ chức và bộ máy của Đảng theo hệ thống 4 cấp ở nước ta.
Cấp huyện là cấp thứ ba (Trung ương, tỉnh (thành phố trực thuộc tỉnh) huyện
(quận, thị xã), xã (phường, thị trấn)). Cấp huyện là cấp trực tiếp hướng dẫn cụ
thể hóa đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn
cuộc sống. Nói cách khác, mọi chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật
của Nhà nước vào cuộc sống nhanh hay chậm, chính xác hay khơng chính xác
phụ thuộc nhiều vào công tác tuyên giáo cấp huyện.
Hiệu quả công tác tuyên giáo cấp huyện được đánh giá trên những tiêu
chí sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức chính trị, định hướng tư tưởng, chỉ đạo
và hướng dẫn mọi hoạt động của toàn đảng bộ và nhân dân nhằm thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ chính trị của từng địa phương.



4
Thứ hai, kịp thời nắm bắt và hướng dẫn mọi người định hướng những
suy nghĩ và ý kiến khác nhau. Từ đó nhận định được ý kiến đúng, phù hợp với
đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước. Xây dựng và củng cố sự đoàn
kết thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong nhân dân.
Thứ ba, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn góp phần bổ sung, phát triển lý
luận cách mạng của Đảng, nhất là lý luận về đổi mới tồn diện của đất nước.
Thơng qua hoạt động tổng kết thực tiễn, cấp huyện đã cung cấp cho Đảng
những kinh nghiệm quý, những yếu tố mới để Đảng bổ sung, hoàn thiện
đường lối đổi mới, đề ra các chủ trương, chính sách mới phù hợp thực tiễn đời
sống của nhân dân cả nước.
Với phạm vi nghiên cứu là công tác tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh Nghệ An
nên luận văn cũng đánh giá hiệu quả công tác tư tưởng trên những góc độ đó.
Trong thời gian qua, cơng tác tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh Nghệ An,
đã kịp thời tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước như tổ chức quán triệt, học tập các nghị quyết, chỉ thị của
Đảng các cấp đến cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân có hiệu quả
góp phần to lớn vào việc phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng,
an ninh và xây dựng Đảng trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên một số cấp ủy đảng
nhận thức chưa đầy đủ, chưa sâu sắc về tầm quan trọng của công tác tuyên
giáo, nên những năm qua trên địa bàn một số huyện, hiệu quả công tác
tuyên giáo chưa cao. Việc nắm bắt dư luận xã hội ở một số địa bàn, một số
đối tượng chưa thường xuyên, chưa chủ động dự báo và định hướng dư
luận xã hội; đơi lúc cịn chưa tạo sự đồng thuận cao trong Đảng và các tầng
lớp nhân dân. Thơng tin kinh tế - xã hội; quốc phịng, an ninh và xây dựng
Đảng đến với các tầng lớp nhân dân chưa đầy đủ và thiếu kịp thời. Quán
triệt và triển khai thực hiện một số chủ trương, nghị quyết của cấp uỷ có
nơi, có lúc chưa sâu, cịn hình thức, chưa tạo được sự thống nhất và nhất
quán trong nhận thức và tổ chức thực hiện. Một bộ phận cán bộ làm công



5
tác tun giáo cịn hạn chế về trình độ lý luận chính trị cũng như kiến thức
thực tiễn. Chưa gắn chặt công tác tuyên giáo với công tác đào tạo, đề bạt,
luân chuyển cán bộ làm công tác tuyên giáo từ huyện đến tỉnh.
Để nâng cao hiệu quả công tác tuyên giáo cấp huyện nói chung, ở Nghệ
An nói riêng trong những năm tiếp theo, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách
mạng trong tình hình mới địi hỏi phải xây dựng được một bộ máy tổ chức
cán bộ, một đội ngũ làm công tác tuyên giáo trung thành với lý tưởng và mục
tiêu của Đảng; có năng lực chun mơn cao; đầu tư các phương tiện, trang
thiết bị kỹ thuật hiện đại đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; nâng cao nhận thức trách
nhiệm của các cấp ủy đảng về thực hiện nhiệm vụ công tác tuyên giáo trong
giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả
công tác tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh Nghệ An hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về cơng tác tư
tưởng (cơng tác tun giáo) có liên quan đến nội dung của đề tài như:
- Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2002), Tài liệu bồi dưỡng cơng
tác tun giáo cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tài liệu đề cập 5 bài
giảng và Công văn số 997-HD/TTVH, ngày 15/3/2002 của Ban tư tưởng Văn hóa Trung ương “Hướng dẫn thực hiện chương trình bồi dưỡng cơng tác
tun giáo ở cơ sở”.
- Hà Ngọc Hợi, Ngô Văn Thạo (2002), Đổi mới và nâng cao chất
lượng, hiệu quả cơng tác tư tưởng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, cuốn sách
trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới, nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác tư tưởng, dự báo tình hình tư tưởng xã hội của nước ta đến
năm 2020 trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đề xuất nội
dung, giải pháp cơ bản và một số nhiệm vụ trước mắt của công tác tư tưởng
- Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Xây dựng Đảng

(2004), Giáo trình cơng tác tư tưởng của Đảng, Nxb Lý luận chính trị, Hà


6
Nội. Cuốn sách trang bị những kiến thức có bản và khoa học về xây dựng
Đảng, góp phần thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
cũng như có thể đảm đương và hồn thành tốt chức trách, nhiệm vụ của người
cán bộ cơng tác Đảng, đồn thể.
- Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2005), Tài liệu bồi dưỡng
nghiệp vụ công tác tuyên giáo ở cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia. Tài liệu góp
phần nâng cao nghiệp vụ công tác tuyên giáo, công tác tư tưởng, giáo dục lý
luận chính trị, tuyên truyền, cổ động, hướng dẫn dư luận xã hội và công tác
khoa học, giáo dục của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, cơ sở cần
phải tổ chức cho cán bộ, đảng viên, tri thức về khoa học và công nghệ tiên
tiến, không ngừng nâng cao năng suất lao động, đảm bảo đời sống nhân dân
ngày một ấm no, hạnh phúc…
- Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Nghệ An (2005), 75 năm công tác tuyên giáo
Đảng bộ Nghệ An, Nxb Nghệ An, cuốn sách góp phần tìm hiểu về nội dung
cơng tác, phương thức hoạt động và tổ chức của ngành tuyên giáo Nghệ An
trong từng thời kỳ cách mạng, đồng thời cung cấp những bài học kinh nghiệm
quý báu trong lĩnh vực tun giáo, qua đó nâng cao lịng tự hào với truyền
thống của ngành, góp phần đẩy mạnh cơng cuộc đổi mới trên quê hương
Nghệ An.
- Huỳnh Minh Khởi (2006), Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội
ngũ báo cáo viên của đảng bộ cấp huyện ở đồng bằng sông Cửu Long, Luận
văn Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội. Tác giả đã tập trung nghiên cứu lý luận chính trị và vai trị của nó đối
với hoạt động của người báo cáo viên.
- Trần Thị Anh Đào (2010), Công tác tư tưởng và vấn đề đào tạo cán
bộ làm cơng tác tư tưởng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách trình

bày một cách hệ thống các vấn đề về công tác tư tưởng như các khái niệm về
tư tưởng, cơng tác tư tưởng, tính khoa học và tính cách mạng trong cơng tác


7
tư tưởng, phân tích sâu sắc nội dung và phương thức hoạt động của công tác
tư tưởng, nêu rõ một số giải pháp nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác tư tưởng…
- Phạm Văn Hải (2010), Nâng cao năng lực xử lý thông tin dư luận xã
hội cho cán bộ tuyên giáo cấp cơ sở ở tỉnh Quảng Ninh hiện nay, Luận văn
thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội. Luận văn đã làm rõ vai trò của thông tin và năng lực xử lý thông tin của
cán bộ làm công tác tuyên giáo ở tỉnh Quảng Ninh hiện nay.
- Đào Duy Quát (2010), Quản lý hoạt động tư tưởng - văn hóa, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách gồm 8 chương, giới thiệu khái quát cơ sở
lý luận của quản lý hoạt động tư tưởng - văn hóa; trình bày những hoạt động
quản lý nghiên cứu khoa học Mác - Lênin, hoạt động văn hóa, văn nghệ, giáo
dục - đào tạo, công tác xuất bản, hoạt động báo chí, hoạt động báo cáo viên và
những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động tư tưởng - văn hóa.
- Nguyễn Danh Tiên (2010), Đảng lãnh đạo công tác tư tưởng trong thời
kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đi sâu nghiên cứu sự
lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực tư tưởng trong thời kỳ mới là việc làm cần
thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần tổng kết q trình
Đảng lãnh đạo cơng tác tư tưởng trong bối cảnh phức tạp của tình hình quốc
tế và trong nước, đồng thời nêu phương hướng, nhiệm vụ và các giải pháp
nhằm nâng cao sự lãnh đạo của Đảng trong tình hình hiện nay.
- Ngơ Huy Tiếp và Đinh Ngọc Giang (2010), Nâng cao chất lượng và
hiệu quả công tác tư tưởng ở cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác
phẩm nhằm giúp các cấp ủy đảng cơ sở, ban tuyên giáo các cấp nâng cao chất
lượng hiệu quả công tác tư tưởng, nắm vững nghiệp vụ trong cơng tác, góp

phần củng cố tổ chức Đảng, nâng cao chất lượng đảng viên.
- Phạm Tất Thắng, Nguyễn Thúy Anh, Phùng Văn Đông (2010), Đổi
mới công tác tư tưởng, lý luận phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ


8
quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đề cập đến nhiều vấn đề,
nhiều khía cạnh, nhiều tác động khác nhau cả về thực tiễn và lý luận đối với
công tác tư tưởng, lý luận của Đảng trong thời kỳ đổi mới đất nước với những
phân tích sắc sảo, những dẫn liệu cụ thể, sinh động, giàu tính thuyết phục.
- Ngô Huy Tiếp (2011), Những vấn đề lý luận về công tác tư tưởng của
Đảng hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách tập trung làm rõ
và trình bày một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về công tác tư
tưởng của Đảng trong giai đoạn hiện nay, bao gồm: tư tưởng và công tác tư
tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam; lý luận và công tác lý luận của Đảng
Cộng sản Việt Nam; công tác tuyên truyền, cổ động của Đảng; giáo dục, rèn
luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên; cuộc đấu tranh tư tưởng ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh uỷ Nghệ An, Đề án (2011), "Nâng cao
chất lượng Báo Nghệ An giai đoạn 2011-2015 có tính đến năm 2020", Nhà in
Báo Nghệ An. Đề án đã tiếp tục khẳng định vị trí, vai trịlà cơ quan chính trị tư tưởng của Đảng bộ tỉnh là tiếng nói của Đảng, chính quyền và nhân dân
tỉnh nhà; để theo kịp tình hình phát triển mạnh mẽ, phong phú và đa chiều của
báo giới nước ngoài và trên thế giới.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh uỷ Nghệ An, Đề án (2011), Nâng cao
chất lượng bản tin "Thông tin nội bộ"", Nhà in Báo Nghệ An. Thông tin nội
bộ (TTNB) là bản tin của Tỉnh ủy Nghệ An, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy được ủy
quyền xuất bản, là tài liệu phục vụ sinh hoạt chi bộ hàng tháng của Đảng bộ
tỉnh Nghệ An. Trong những năm qua, TTNB là một kênh thơng tin chính
thống, quan trọng, tun truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
và pháp luật của Nhà nước, tình hình thời sự trong tỉnh, trong nước và quốc tế

đến từng đảng viên. TTNB là tài liệu quan trọn giúp đội ngũ báo cáo viên
thực hiện tốt nhiệm vụ tuyên truyền trong toàn Đảng bộ
- Ban Tuyên giáo Trung ương (2012), Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ
công tác tuyên giáo lĩnh vực nghiên cứu, giáo dục lý luận chính trị, Nxb


9
Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đây là tài liệu góp phần nâng cao nghiệp vụ cơng
tác tun giáo nói chung trong tình hình mới.
- Hồng Chí Bảo (2012), Từ thực tiễn đổi mới đến nhận thức lý luận
mới về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (1986-2011), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, trên cơ sở phân tích triết học về những đặc điểm của đổi mới, về triết lý
giải phóng, sáng tạo và phát triển, tác giả đã phân tích, luận giải q trình
hình thành và phát triển tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Đỗ Khánh Tặng (2012), Nghiên cứu lý luận phục vụ công tác tuyên
giáo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách khẳng định công tác tuyên
giáo là một ngành, một nghề của hoạt động chính trị - xã hội; nêu bật truyền
thống vẻ vang của ngành tuyên giáo trong tiến trình cách mạng dân tộc dân
chủ trước đây và công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa hiện nay.
Mặc dù đã có nhiều cơng trình nghiên cứu những vấn đề liên quan đến
đề tài, nhưng chủ thể, đối tượng, nội dung của công tác tuyên giáo luôn biến
động cùng với sự biến động của đời sống xã hội, nên vẫn cần nghiên cứu sâu
hơn tình hình cơng tác tuyên giáo trong điều kiện hiện nay. Mặt khác, vấn đề
nâng cao hiệu quả công tác tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh Nghệ An trong giai
đoạn hiện nay thì chưa có cơng trình nghiên cứu nào đề cập tới. Do vậy nên
tác giả chọn vấn đề “Nâng cao hiệu quả công tác tuyên giáo cấp huyện ở
tỉnh Nghệ An hiện nay” làm nội dung nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong việc
nâng cao hiệu quả công tác tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh Nghệ An hiện nay,
luận văn đề xuất những quan điểm và giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao
hiệu quả của công tác tuyên giáo ở cấp này đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trong tình hình mới.


10
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích thực chất, yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả công tác
tuyên giáo cấp huyện ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong việc nâng cao hiệu
quả công tác tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh Nghệ An trong những năm qua.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản góp phần nâng cao hiệu
quả công tác tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Cơng tác tun giáo có phạm vi nghiên cứu rộng nên ở phạm vi của
một luận văn thạc sĩ khó có thể nghiên cứu sâu được mọi góc độ của nó. Do
vậy luận văn tập trung vào việc phân tích hiệu quả của cơng tác tuyên giáo
cấp huyện ở Nghệ An hiện nay, dưới góc độ triết học.
- Luận văn nghiên cứu hiệu quả công tác tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh
Nghệ An, giai đoạn từ năm 2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, tập trung là những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về công tác tuyên
giáo, đồng thời kế thừa kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa học khác
có liên quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các phương pháp lịch sử - lơgic, so sánh, phân
tích - tổng hợp cũng được sử dụng trong quá trình nghiên cứu, trên cơ sở đó
đưa ra những nhận xét, đánh giá và kết luận.
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
- Nghiên cứu sâu hơn về thực chất, nội dung, yêu vầu, tầm quan trọng
của cơng tác tun giáo trong tình hình mới.


11
- Góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác tun giáo cấp huyện ở tỉnh
Nghệ An hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy, tuyên truyền tư tưởng, lý luận ở các cấp trong hệ thống chính trị.
- Luận văn giúp người làm lãnh đạo, quản lý xã hội, làm công tác tư
tưởng nhận định, tổng kết, rút kinh nghiệm ở địa phương mình để xây dựng
các chính sách cụ thể phù hợp.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 6 tiết.


12
Chương 1
THỰC CHẤT, YÊU CẦU CỦA VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO CẤP HUYỆN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. THỰC CHẤT CỦA VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC TUYÊN
GIÁO CẤP HUYỆN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


1.1.1. Thực chất của cơng tác tun giáo
Nói một cách khái qt, tuyên giáo là công tác tuyên truyền, giáo dục
hệ tư tưởng của một chính đảng, một nhà nước nhất định đối với các giai cấp
trong xã hội vì những mục tiêu nhất định. Hệ tư tưởng được tuyên truyền
trong xã hội là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị trong xã hội. Trong mỗi giai
đoạn lịch sử nhất định, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng giữ địa vị
thống trị trong lĩnh vực tinh thần, tư tưởng. Giai cấp thống trị sẽ tìm nhiều
phương thức khác nhau để tác động tư tưởng của giai cấp mình đối với toàn
xã hội. Việc truyền bá tư tưởng dưới những phương thức khác nhau được gọi
là công tác tuyên giáo của một đảng phái nhất định. Thông qua việc truyền bá
tư tưởng, xây dựng, xác lập, phát triển và truyền bá hệ tư tưởng của mình vào
các giai cấp, tầng lớp nhân dân trong xã hội, để thực hiện những mục đích
nhất định. Tuy vậy, hệ tư tưởng của các giai cấp khác nhau, có vai trị khác
nhau đối với sự phát triển của xã hội.
Lịch sử đã chứng tỏ rằng tư tưởng, hệ tư tưởng của giai cấp tiến bộ,
cách mạng có tính vượt trước và góp phần cải tạo xã hội. Khi còn là giai cấp
cách mạng, tiến bộ, hệ tư tưởng của giai cấp tư sản đã thúc đẩy cách mạng tư
sản bùng nổ và đem lại bước tiến mới cho lịch sử nhân loại. Nhưng khi giai
cấp tư sản bộc lộ tính chất lỗi thời, phản động thì nó đã kìm hãm sự phát triển
của các dân tộc và thế giới. Trong thời đại ngày nay, hệ tư tưởng của giai cấp
vô sản là hệ tư tưởng tiến bộ, cách mạng. Nó là cơ sở tạo ra sự thắng lợi của
cách mạng vô sản, thiết lập chế độ xã hội mới, thúc đẩy sự phát triển của lịch
sử nhân loại.


13
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng sản Việt Nam ln coi trọng lãnh đạo và thực hiện công tác tư
tưởng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Lãnh đạo quan trọng nhất là công
tác tư tưởng, phải hiểu tư tưởng của mỗi cán bộ để giúp đỡ thiết thực trong

công tác, vì tư tưởng thơng suốt thì làm tốt, tư tưởng nhùng nhằng thì khơng
làm được việc gì” [35, tr.233 - 234]. Đảng Cộng sản Việt Nam cũng luôn xác
định vai trị, vị trí của cơng tác tư tưởng trong cơng tác xây dựng Đảng và coi
đó là một trong những phương thức lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên ở mỗi thời
kỳ khác nhau, nội dung, nhiệm vụ, hình thức của cơng tác tun giáo có
những thay đổi nhất định.
Ở nước ta trước đây, công tác tuyên truyền, giáo dục quan điểm, đường
lối, chính sách của Đảng do Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương và Ban Khoa
giáo Trung ương thực hiện. Ngày 11/4/2007, Bộ Chính trị ra Quyết định số
44-QĐ/TW, về việc hợp nhất Ban Khoa giáo Trung ương, Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương thành Ban Tuyên giáo Trung ương. Ban Tuyên giáo
Trung ương là cơ quan tham mưu của Ban Chấp hành Trung ương, trực tiếp
và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong cơng tác xây dựng Đảng
về chính trị, tư tưởng; tun truyền chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội; đồng thời là cơ quan chuyên
môn - nghiệp vụ về các lĩnh vực cơng tác này của Đảng.
Cơng tác tun giáo có vai trị, nhiệm vụ xác định. Cơng tác tun giáo
trước hết hướng vào việc xây dựng Đảng vững mạnh về mọi mặt, nhất là sự
thống nhất tư tưởng, bảo đảm sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, nhằm thống
nhất nhận thức và hành động, góp phần thực hiện sự lãnh đạo của Đảng một
cách toàn diện. Đối với xã hội, cơng tác tun giáo của Đảng góp phần quan
trọng trong việc xác lập hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, làm cho chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chiếm vai trị chủ đạo trong đời
sống tinh thần của xã hội, đồng thời xây dựng con người Việt Nam có lý


14
tưởng cách mạng, trí tuệ, tài năng, đạo đức lối sống mới mang những đặc
trưng của con người xã hội chủ nghĩa.
Công tác tuyên giáo là hoạt động nghiên cứu, góp phần phát triển lý
luận cách mạng, là hoạt động của cấp ủy cấp huyện tác động đến cán bộ, đảng

viên và nhân dân nhằm phát triển truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, nghị quyết, chủ trương của tỉnh ủy và những tư tưởng tiến
bộ, khoa học. Qua đó hình thành ở cán bộ, đảng viên và nhân dân thế giới
quan, phương pháp luận khoa học, nhân sinh quan cộng sản, xây dựng bản
lĩnh chính trị vững vàng, củng cố và nâng cao niềm tin vào con đường xã hội
chủ nghĩa, công cuộc đổi mới và sự lãnh đạo của Đảng, vào nghị quyết, chủ
trương của tỉnh ủy, các cấp ủy, các cơ quan chính quyền cấp tỉnh; nâng cao ý
chí tiến cơng cách mạng, phát huy tính tự giác, tích cực sáng tạo thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ cách mạng và nhiệm vụ chính trị của địa phương; góp
phần hình thành con người mới, đấu tranh chống lại những luận điệu sai trái,
phản động, xuất hiện tại địa phương, đơn vị; bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chủ trương nghị quyết
của tỉnh ủy, huyện ủy giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và truyền
thống tốt đẹp của từng địa phương.
Cơng tác tun giáo góp phần cổ vũ động viên mọi người hành động
chủ động, tích cực, sáng tạo vì lý tưởng, mục tiêu xã hội chủ nghĩa; đấu tranh
chống lại những luận điệu sai trái phản động; bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, giữ gìn và phát huy
bản sắc dân tộc.
Khái quát lại, tuyên giáo là một nhiệm vụ trọng tâm của Đảng, góp
phần tuyên truyền, giáo dục, truyền bá hệ tư tưởng; nắm bắt diễn biến tâm
trạng, tâm lý, dư luận xã hội; nghiên cứu, giáo dục lý luận chính trị; tuyên
truyền cổ động; định hướng các hoạt động thơng tin, báo chí, xuất bản, công


15
tác giáo dục đào tạo, công tác khoa học công nghệ, công tác y tế, thể dục thể
thao, nghiên cứu lịch sử, công tác xã hội và các lĩnh vực cơ bản khác.
Công tác tuyên giáo được tiến hành trong tất cả các lĩnh vực hoạt động

nhằm tác động vào toàn bộ ý thức của con người từ giáo dục phổ thông đến
giáo dục đại học; từ cung cấp thông tin đến giáo dục lý luận; từ sáng tác văn
học nghệ thuật đến bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, định hướng giá trị tư tưởng,
lối sống và nhân cách. Đấy chính là hoạt động quan trọng bậc nhất của Đảng.
Cơng tác tuyên giáo sử dụng cơ bản mọi thành quả trí tuệ, văn hóa, mọi phát
minh khoa học mới nhất, kể cả những thành tựu công nghệ tiên tiến để tiến
hành và thực hiện công tác tuyên giáo. Trên cơ sở đó nhằm xây dựng, thiết lập
phát triển hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, hình thành niềm tin, định hướng giá
trị đúng đắn, góp phần xây dựng thế giới quan khoa học và nhân sinh quan
cộng sản, đặc biệt là giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho cán bộ,
đảng viên, thế hệ trẻ và quần chúng nhân dân. Lênin cũng đã chỉ ra rằng:
“Nâng cao sự giác ngộ của quần chúng hiện nay cũng như bất cứ lúc nào, vẫn
là nền tảng và nội dung chủ yếu của tồn bộ cơng tác chúng ta” [26, tr.472].
Cơ sở của cơng tác tun giáo là vấn đề lợi ích. Theo C.Mác và
Ph.Ăngghen lợi ích là động lực thúc đẩy quần chúng nhân dân trong các cuộc
cách mạng, cải biến xã hội, qua đó thúc đẩy lịch sử phát triển.
Trong quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, quần chúng nhân dân
không chỉ là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử mà còn là lực lượng cơ
bản tham gia vào cách mạng nhằm cải biến xã hội theo những mục đích nhất
định. Vì vậy, về thực chất, cách mạng là sự thực hiện lợi ích của quần chúng.
Quần chúng nhân dân sẽ không làm cách mạng nếu họ không thấy được lợi
ích của mình được phản ánh trong lợi ích chung. C.Mác và Ph.Ăngghen cũng
đã giải thích tại sao những cuộc cách mạng trước kia, mặc dù không đem lại
lợi ích thực sự cho quần chúng, chỉ đem lại lợi ích thật sự cho một giai cấp
thiểu số - giai cấp thống trị, mà quần chúng vẫn đi theo. Sở dĩ như vậy vì họ


16
tìm thấy lợi ích trong cách mạng, cái “khêu gợi” nhiệt tình của họ. Giai cấp
thiểu số chỉ lơi kéo được quần chúng tham gia cách mạng khi chúng nhân

danh lợi ích chung, và những tư tưởng, học thuyết chính trị của giai cấp thiểu
số cũng phải thể hiện trên danh nghĩa lợi ích chung đó. C.Mác và Ph.Ăngghen
viết: “Một khi “tư tưởng” tách rời “lợi ích” thì nhất định nó sẽ tự làm nhục
nó” [32, tr.122]. Khi nói về điều này, V.I.Lênin viết:
Những lý tưởng cao cả nhất cũng không đáng giá một xu nhỏ,
chừng nào mà người ta khơng biết kết hợp chặt chẽ những lý tưởng
đó với lợi ích của chính ngay những người đang tham gia cuộc đấu
tranh kinh tế, chừng nào người ta không biết kết hợp những lý
tưởng đó với những vấn đề “chật hẹp” và nhỏ nhặt trong cuộc sống
hàng ngày của giai cấp ấy [23, tr.150 - 151].
V.I.Lênin viết tiếp:
Chừng nào người ta chưa phân biệt được lợi ích của giai cấp này
hay của giai cấp khác, ẩn đằng sau bất kỳ những câu nói, những tuyên
bố và những lời hứa hẹn nào có tính chất đạo đức, tơn giáo, chính trị và
xã hội, thì trước sau bao giờ người ta cũng vẫn là kẻ ngốc nghếch bị
người khác lừa bịp và tự lừa bịp mình về chính trị [27, tr.57].
Do vậy, để thực hiện tốt công tác tuyên truyền đường lối chính sách,
pháp luật, giáo dục tư tưởng cho nhân dân thì trước hết đường lối, chính sách,
pháp luật đó phải phản ánh được lợi ích của nhân dân. Cách đây hơn 64 năm,
với bút danh X.Y.Z, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài báo “Dân vận” đăng trên
Báo Sự Thật số ra ngày 15/10/1949, Người diễn đạt rất khái quát: “Bao nhiêu
lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Chính quyền từ xã đến
Trung ương do dân cử ra. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của
nhân dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là cơng việc của dân. Đồn thể từ
Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng
đều ở nơi dân, nhà nươc ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân".


17
Vừa qua, Đảng ta đã phát triển, bổ sung một số nội dung về phong

cách của cán bộ theo tinh thần bài báo “Dân vận” của Bác Hồ góp phần
khắc phục bệnh hình thức, đối phó của cán bộ, đảng viên trong cơng tác
dân vận, đó là trong Nghị quyết TW 7 (khóa XI) đã đề ra phương châm
giáo dục cán bộ, công chức, đảng viên xây dựng và thực hành phong cách
“trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với nhân dân”,
“nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. Như vậy công tác Dân vận cũng
không thể tách rời công tác Tuyên giáo tất cả đều hướng về nhân dân vì lợi
ích chính đáng của nhân dân.
Cơng tác tun giáo của Đảng có chủ thể và đối tượng xác định. Chủ
thể công tác tuyên giáo của Đảng là toàn bộ các tổ chức của hệ thống chính
trị, trong đó Đảng là lực lượng lãnh đạo, là toàn thể cán bộ, hội viên các cơ
quan làm công tác tuyên giáo do Đảng tổ chức và lãnh đạo. Cơ quan tuyên
giáo và cán bộ làm công tác tuyên giáo ở cấp huyện làm tham mưu nòng cốt.
Đối tượng của công tác tuyên giáo của Đảng là toàn bộ cán bộ, đảng viên và
các tầng lớp nhân dân. Công tác tuyên giáo phải được tiến hành trên bình diện
rộng khắp cả trong Đảng và trong xã hội. Chủ thể và đối tượng của công tác
tuyên giáo cũng không phải cố định mà luôn thay đổi. Sự thay đổi này do sự
thay đổi về điều kiện xã hội, về trình độ nhận thức, về nhiệm vụ chính trị
trong mỗi thời kỳ nhất định. Do vậy, chức năng, nhiệm vụ của công tác tuyên
giáo cũng thay đổi theo.
Trong hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay, cấp huyện là cấp có vị
trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ rất quan trọng trong hệ thống tổ chức và bộ
máy của Đảng theo hệ thống 4 cấp ở nước ta. Cấp huyện là cấp thứ ba (Trung
ương, tỉnh, thành phố trực thuộc tỉnh, huyện, quận, thị xã, xã, phường, thị
trấn). Cấp huyện là cấp trực tiếp hướng dẫn cụ thể hóa đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn cuộc sống nên nó ảnh hưởng
trực tiếp tới hiệu quả của việc thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật.


18

Ở cấp huyện, đảng bộ các huyện thực hiện sự lãnh đạo toàn diện đối
với các mặt của đời sống xã hội trong toàn huyện. Đảng bộ huyện là cấp dưới,
chịu sự lãnh đạo trực tiếp của tỉnh ủy, thực hiện các nhiệm vụ, xây dựng nội
bộ Đảng, lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội, các tổ chức trong hệ thống
chính trị, các tổ chức kinh tế, xã hội, nghề nghiệp, có vai trị to lớn trong lãnh
đạo thực hiện các nghị quyết của cấp trên và cấp mình.
Đảng bộ huyện trực tiếp lãnh đạo, kiểm tra mọi hoạt động tổ chức cơ sở
cấp dưới, đảm bảo xây dựng các tổ chức cơ sở đảng có năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu hoàn thành nhiệm vụ ở cơ sở. Đảng bộ huyện lãnh đạo công tác
tổ chức cán bộ của tổ chức cơ sở đảng và của các tổ chức trong hệ thống
chính trị cấp huyện và cơ sở trực thuộc huyện ủy quản lý, chỉ đạo xây dựng và
thực hiện quy hoạch cán bộ thuộc diện huyện ủy quản lý, phê duyệt quy
hoạch cán bộ của tổ chức cơ sở trực thuộc. Đảng bộ huyện có vai trị đối với
tồn bộ sự phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh, quốc phịng, lãnh đạo
mọi mặt hoạt động trên địa bàn huyện.
Nhiệm vụ của Đảng bộ huyện trước hết là tuân thủ nhiệm vụ được quy
định tại Điều 19, Điều lệ Đảng thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng: “Cấp ủy huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc (gọi tắt là
huyện ủy, quận ủy, thị ủy, thành ủy) lãnh đạo thực hiện Nghị quyết đại hội đại
biểu; nghị quyết, chỉ thị của cấp trên” [14, tr.33]. Trên cơ sở quy định đó, xuất
phát từ chức năng của cấp ủy, từ hướng dẫn của tỉnh ủy và từ nhiệm vụ chính
trị và tình hình thực tế của cấp huyện ở tỉnh Nghệ An có thể khái quát thành
những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện các lĩnh vưc: chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng, mà trọng tâm là lãnh đạo kinh
tế, xây dựng và hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị của huyện
giữa hai kỳ đại hội;


19
- Triển khai, quán triệt và tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của

Trung ương của tỉnh ủy và nghị quyết của đảng bộ huyện cho cán bộ, đảng
viên và quần chúng nhân dân. Thảo luận, quyết định chương trình cơng tác
q, 6 tháng, năm, tồn khóa và ra nghị quyết chuyên đề về kinh tế, xã hội,
quốc phịng, an ninh, cơng tác xây dựng Đảng, cơng tác vận động nhân dân
thực hiện các nhiệm vụ chính trị của huyện;
- Thảo luận thông qua kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội và
kế hoạch phân bổ ngân sách hàng năm do uỷ ban nhân dân huyện chuẩn bị;
- Quyết định chủ trương, về công tác tổ chức bộ máy và cán bộ theo
quy định của Điều lệ Đảng và phân cấp quản lý cán bộ, quyết định phân công
nhân sự và các chức danh của uỷ ban nhân dân huyện;
- Thảo luận và cho ý kiến về tình hình hoạt động của Ban Thường vụ,
các ban của Đảng và thực hiện các chính sách đối với cán bộ các đồn thể
chính trị xã hội;
- Quyết định quy chế hoạt động và chương trình làm việc tồn khóa của
uỷ ban kiểm tra huyện ủy. Kiểm tra giám sát hoạt động của các tổ chức Đảng
trực thuộc và cán bộ, đảng viên, trước hết là các tổ chức cơ sở đảng và những
đảng viên là cán bộ thuộc diện huyện ủy quản lý;
- Chuẩn bị báo cáo chính trị, dự kiến nhân sự và tổ chức Đại hội nhiệm
kỳ tới.
Đảng bộ huyện có chức năng lãnh đạo tất cả các hoạt động trên địa bàn
huyện, là cơ quan cao nhất của Đảng bộ huyện giữa hai kỳ Đại hội Đảng bộ
huyện. Đảng bộ huyện lãnh đạo đảm bảo cho các hoạt động xây dựng Đảng,
chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội,
nghề nghiệp, các tổ chức kinh tế và các lĩnh vực đời sống xã hội theo đúng
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, đảm bảo
cho sự phát triển xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ chính trị của huyện.


20

Trong các nhiệm vụ của đảng bộ huyện, công tác tuyên giáo là một
nhiệm vụ trọng tâm. Công tác tuyên giáo cấp huyện là bộ phận của công tác
xây dựng Đảng trong hệ thống chính trị cấp huyện. Đó là toàn bộ những hoạt
động tác động đến tư tưởng của đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân trên
địa bàn một huyện nhất định. Nhằm định hướng và giải quyết những mâu
thuẫn tư tưởng, tạo sự đồng thuận và phát huy khả năng sáng tạo và tinh thần
trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân ở địa bàn huyện
đó. Góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của đảng bộ huyện đề ra trong
từng nhiệm kỳ đại hội.
Chủ thể công tác tuyên giáo cấp huyện là đảng bộ, ban thường vụ
huyện ủy, các đảng bộ trực thuộc huyện ủy và đội ngũ cán bộ làm công tác
tuyên giáo chuyên trách. Lực lượng tiến hành cơng tác tun giáo cấp
huyện, ngồi Đảng bộ cịn có chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đồn
thể chính trị - xã hội cấp huyện. Đối tượng của công tác tuyên giáo cấp
huyện là nội bộ đảng bộ huyện, tức là trong các cấp ủy, tổ chức đảng của
các đảng bộ huyện ở các tỉnh và quần chúng nhân dân. Tiến hành tốt công
tác tuyên giáo đảng bộ huyện là yếu tố cơ bản bảo đảm hiệu quả công tác
tuyên giáo trong nhân dân.
Có thể nói, cấp huyện là nơi trực tiếp diễn ra các hoạt động của đời
sống xã hội, nơi quyết định và kiểm nghiệm kết quả cụ thể của công tác tuyên
giáo. Đồng thời cũng là nơi diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt giành quần
chúng, đấu tranh với các luận điệu phản tuyên truyền, chiến tranh tâm lý,
tuyên truyền xóa bỏ những tư tưởng, lối sống lạc hậu, mê tín dị đoan, tệ nạn
xã hội, xây dựng cuộc sống mới lành mạnh, ổn định và phát triển; vì thế cơng
tác tun giáo cấp huyện có các nhiệm vụ quan trọng như sau:
Thứ nhất, góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân
dân về lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, những kiến thức



21
khoa học, tạo sự thống nhất cao trong Đảng và sự đồng thuận trong nhân dân
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Thứ hai, cổ vũ, động viên các tầng lớp nhân dân tham gia các phong
trào và hành động cách mạng, thực hiện thắng lợi nghị quyết của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước và góp phần xây dựng con người mới; nền văn
hóa mới; xây dựng quê hương giàu đẹp và văn minh.
Thứ ba, đấu tranh chống mọi thủ đoạn tuyên truyền của các thế lực thù
địch, chống những quan điểm sai trái, phản động, bài trừ các loại hủ tục lạc
hậu, các biểu hiện phi văn hóa trong nhân dân.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, ở mỗi giai đoạn lịch sử, trước
mỗi bước ngoặt của cách mạng, cơng tác tun giáo đã khẳng định được vai
trị, tầm quan trọng của nó trong củng cố trận địa chính trị tư tưởng, xây dựng
lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự thắng lợi của cách mạng, vào sự
lãnh đạo của Đảng. Sở dĩ như vậy là vì chúng ta đã kết hợp tốt giữa công tác
tư tưởng, lý luận với tuyên truyền đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước đến với mọi tầng lớp nhân dân, làm cho nhân dân
hiểu hơn về Đảng, gắn bó với Đảng.
Quán triệt tinh thần nghị quyết của Trung ương và cấp tỉnh; triển khai,
cụ thể hóa xuống cơ sở. Sau khi các chủ trương, chính sách được qn triệt
vai trị quan trọng đối với cơng tác tun giáo là phát huy hiệu quả của lực
lượng báo cáo viên, tuyên truyền viên cơ sở để biến các chủ trương, chính
sách đó thành các chương trình hành động, các nhiệm vụ cụ thể phù hợp với
điều kiện từng địa phương, đơn vị, nên tính đúng đắn của các chủ trương,
chính sách, nghị quyết tác động trực tiếp tới hiệu quả cơng tác tun giáo.
1.1.2. Tiêu chí đánh giá hiệu quả của công tác tuyên giáo cấp huyện
ở Việt Nam hiện nay
Đánh giá hiệu quả của công tác tuyên giáo cấp huyện căn cứ vào nhiều
tiêu chí, trong đó việc chuyển biến của nhận thức, tư tưởng mỗi giai cấp, tầng



22
lớp và toàn xã hội, thể hiện trong những kết quả kinh tế, chính trị, xã hội,
phong trào thực tiễn là tiêu chí quan trọng nhất. Mặt khác, hiệu quả của công
tác tuyên giáo được đánh giá theo các mức độ như; hiệu quả lâu dài, hiệu quả
trước mắt và hiệu quả trực tiếp.
Hiệu quả lâu dài của công tác tuyên giáo thể hiện ở việc hình thành thế
giới quan, niềm tin, lý tưởng cách mạng, việc xác lập các chuẩn mực và thang
bậc giá trị của xã hội góp phần điều chỉnh các quan hệ trong xã hội. Hiệu quả
lâu dài của công tác tư tưởng liên quan đến tính bền vững tương đối của các
trạng thái và tâm lý xã hội, hệ tư tưởng và phương pháp tư duy. Để đánh giá
hiệu quả lâu dài của công tác tư tưởng cần nhiều yêu tố, dữ kiện, thông qua
nhiều biện pháp, như điều tra, thăm dò dư luận xã hội, các trắc nghiệm điểm,
đối thoại, chọn mẫu…với những câu hỏi mang tính hình thức; phân tích, đánh
giá chiều sâu của các phong trào, sự vận động của ý thức xã hội…
Hiệu quả trước mắt, thể hiện trong việc phát triển và nâng cao hơn nữa
ý thức tự giác của quần chúng thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã
hội, văn hóa, quốc phịng, an ninh, đối ngoại… đang đặt ra cho xã hội và công
tác tư tưởng đang hướng vào. Để đánh giá hiệu quả công tác này có thể căn cứ
vào các chỉ tiêu về kinh tế, xã hội, văn hóa đã đạt được so với trước đây, các
phong trào thi đua, mức độ tham gia của các tầng lớp quần chúng nhân dân
trong các cuộc vận động trên phạm vi toàn quốc hay ở cơ sở, kết quả điều tra
dư luận xã hội với những câu hỏi cụ thể… để xác định.
Hiệu quả trực tiếp, là kết quả của một biện pháp, một hoạt động tác động
tư tưởng xác định, như tác dụng của một bài báo, một bài giảng, một buổi nói
chuyện, một lời kêu gọi thi đua, một gương tiêu biểu được phát động… đối với
nhận thức tư tưởng của đối tượng công tác tư tưởng. Đây là hiệu quả cụ thể và
trực tiếp cả trên hai mặt tuyên truyền, giáo dục và cổ vũ hành động.
Việc đánh giá hiệu quả công tác tư tưởng và hiệu quả đổi mới công tác
tư tưởng cần chú ý ở cả ba mức độ trên. Hiệu quả trực tiếp góp phần tạo ra



23
hiệu quả trước mắt và từ đó củng cố, làm bền vững nhận thức tư tưởng, tức
hiệu quả lâu dài.
Hiện nay, việc đánh giá hiệu quả của công tác tuyên giáo cấp huyện
được xem xét dưới những góc độ sau:
Thứ nhất, hiệu quả của công tác tuyên giáo được đánh giá trên cơ sở
sự chuyển biến trên các mặt của đời sống xã hội.
Những năm qua, công tác tuyên giáo cấp huyện đã góp phần tích cực
vào việc phổ biến, tuyên truyền đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng,
pháp luật của Nhà nước đến với các tổ chức đảng cơ sở, cán bộ, đảng viên và
nhân dân; góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ
chức cơ sở đảng, phát huy sức mạnh đồn kết tồn dân tộc, đẩy mạnh cơng
cuộc đổi mới, thực hiện thắng lợi mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh".
Thông qua việc quán triệt đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, cơng tác tun giáo cấp huyện góp phần nâng cao nhận thức
của quần chúng nhân dân ở cơ sở, tích cực, chủ động bám sát tình hình của
đất nước, nhiệm vụ của địa phương; tập trung tuyên truyền, cổ vũ, động viên
nhân dân phát huy tính tích cực xã hội góp phần đưa nghị quyết của Đảng,
pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống, phát triển kinh tế xã hội, xóa đói giảm
nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống, tạo sự đồng thuận xã hội, bảo đảm sự
ổn định tình hình chính trị - xã hội tại các địa bàn dân cư.
Sau mỗi kỳ đại hội Đảng và các hội nghị Trung ương, đảng bộ các tỉnh,
thành phố thực hiện việc học tập quán triệt, phổ biến các nghị quyết, chương
trình hành động đối với các đảng bộ trên địa bàn, đặc biệt là ban tuyên giáo
các huyện. Ban tuyên giáo các huyện là cơ quan trực tiếp thực hiện việc
hướng dẫn nội dung, yêu cầu, phương thức tuyên truyền từng quan điểm,
đường lối, nghị quyết, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Do vậy,

ban tuyên giáo cấp huyện có ảnh hưởng trực tiếp tới tính chính xác trong các
nội dung và hiệu quả tuyên truyền đối với cấp ủy cơ sở.


24
Các nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước có đi vào đời sống một cách tích cực hay khơng một phần
khơng nhỏ nhờ vào cách thức tuyên truyền vận động của đội ngũ làm công tác
tuyên giáo nhất là các cộng tác viên, tuyên truyền viên là những người trực
tiếp va chạm và thực thi cơng việc, bởi vậy địi hỏi người làm cơng tác tun
giáo phải có trình độ chun mơn, nghiệp vụ nhất định để nắm và triển khai
các nội dung của chỉ thị, nghị quyết, chủ trương một cách sát đúng và kịp thời
như vậy mới phát huy được hiệu quả của công tác tuyên giáo ở cấp huyện.
Thứ hai, hiệu quả của công tác tuyên giáo được đánh giá trên cơ sở
tính tích cực xã hội của mỗi cá nhân trong xã hội được phát huy mạnh mẽ.
Phát huy tính tích cực xã hội trong mỗi cá nhân là công việc hết sức
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Mỗi chủ trương,
chính sách của Đảng triển khai có hiệu quả khơng những phụ thuộc vào
những người làm công tác tuyên giáo cấp huyện mà nó cịn địi hỏi sự đồng
thuận của phần lớn tầng lớp nhân dân mà nhất là việc phát huy nhân tố tích
cực xã hội của mỗi cá nhân.
Tính tích cực xã hội của mỗi cá nhân được đo bằng mức độ hoạt
động, số lượng, chất lượng và hiệu quả lao động. Tính tích cực lao động
của các cá nhân thể hiện sự năng động của người đó, thể hiện ham muốn
lao động, nhu cầu cống hiến, sự chịu khó, sự chủ động trong lao động, sự
sáng tạo, có trách nhiệm trong giải quyết công việc, chấp hành nghiêm chỉnh
pháp luật của nhà nước.
Những năm qua ở nước ta, tính tích cực xã hội của quần chúng nhân
dân được phát huy mạnh mẽ. Điều này được thể hiện thông qua sự tăng
trưởng kinh tế - xã hội, tình hình chính trị - xã hội ở các địa phương về cơ bản

được ổn định, đời sống nhân dân được nâng cao, các phóng trào cách mạng
được nhân dân tham gia sơi nổi… Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn cịn nhiều
ngun nhân tác động cản trở tính tích cực của các cá nhân trong xã hội.


25
Trước tiên phải nói đến tình trạng thiếu cơng bằng xảy ra ở nhiều lĩnh vực của
đời sống xã hội; hiện tượng "bình qn chủ nghĩa" cịn khá phổ biến; thực
hành dân chủ vẫn chưa thường xuyên, đều khắp, có lúc, có nơi vi phạm quyền
làm chủ của nhân dân; tình trạng quan liêu cửa quyền, tham nhũng, hối lộ, tự
do vô tổ chức, tuỳ tiện, coi thường kỷ cương, kỷ luật công vụ của cán bộ địa
phương cơ sở; sự suy giảm uy tín của người lãnh đạo, quản lý do sự yếu kém
về năng lực quản lý, sự giảm sút về phẩm chất đạo đức dẫn tới hiệu quả giải
quyết công việc thấp và hiện tượng "hành dân" để thu lợi ích cá nhân…
Mặc dù vậy, thơng qua công tác vận động, tuyên truyền, ban tuyên giáo
cấp huyện đã góp phần định hướng, khắc phục những tư tưởng thiếu tích cực,
chỉ đạo các địa phương cơ sở nhanh chóng nắm tình hình, uốn nắn, định
hướng tư tưởng và giải quyết những vấn đề liên quan đến tâm tư, nguyện
vọng của nhân dân. Trong xã hội hiện nay, ngày càng xuất hiện nhiều mơ
hình, tấm gương tiên tiến có nhiều đóng góp thiết thực trong cuộc sống. Các
cấp ủy đảng, chính quyền đã phát huy, nhân rộng các điển hình để ngày càng
có nhiều điển hình đóng góp tích cực trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê
hương đất nước. Khi nói về vai trị tích cực của tư tưởng, của lý luận C.Mác
viết: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thay thế được sự phê phán của
vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất,
nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất một khi nó xâm nhập vào
quần chúng” [30, tr.580].
Trong điều kiện hiện nay, việc phát huy tính tích cực xã hội của quần
chúng nhân dân cần phải tập trung vào việc giải quyết cho dân những lợi ích
trước mắt và những lợi ích lâu dài nhất định. Những lợi ích trước mắt của

nhân dân hiện nay là việc làm, thu nhập, đất sản xuất, sự giúp đỡ của chính
quyền về vốn, ưu đãi về chính sách thuế, bao tiêu sản phẩm… Lợi ích lâu dài
là sự giao khoán ruộng đất lâu dài cho nhân dân an tâm đầu tư sản xuất, xây
dựng mơi trường xã hội hài hịa, mơi trường sống lành mạnh, tính kỷ cương
của pháp luật, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.


×