Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Vấn đề giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên việt nam hiện nay (qua khảo sát thực tế ở hà tĩnh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.94 KB, 94 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ý thức pháp luật là một trong những hình thái ý thức xã hội, được hình
thành, tồn tại và phát triển trong những hình thái kinh tế - xã hội đã có giai
cấp, nhà nước và pháp luật. Ý thức pháp luật thể hiện tri thức và sự đánh giá
về tính cơng bằng của những quy chế được chấp nhận trong một xã hội nhất
định với tính cách là luật pháp, về quyền hạn và nghĩa vụ các thành viên trong
cộng đồng, xã hội về tính hợp pháp hay khơng hợp pháp của hành vi con
người, nó là một trong những vấn đề cơ bản, đa dạng, phức tạp của đời sống
pháp luật - xã hội.
Ý thức pháp luật phản ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế của xã hội,
trước hết là các quan hệ sản xuất được thể hiện trong hệ thống pháp luật.
Bằng việc thơng qua sự duy trì, điều hành của nhà nước mà ý thức pháp luật
tác động mạnh mẽ đến cơ sở kinh tế và các hình thái ý thức xã hội khác. Mức
độ và hiệu quả sự tác động của ý thức pháp luật đối với đời sống xã hội một
phần phụ thuộc vào sự truyền bá và xâm nhập của ý thức pháp luật cả về bề
rộng và bề sâu của nó vào trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, việc tổ chức
giáo dục ý thức pháp luật nhằm nâng cao sự đồng thuận, tính tích cực và tự giác
trong việc chấp hành pháp luật cho mọi người ngày càng đóng vai trị quan trọng
và trở thành nhân tố góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Công cuộc đổi mới đất nước, sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố
đang đi vào chiều sâu, mở rộng hội nhập quốc tế trong bối cảnh tồn cầu
hố, thì u cầu tiếp tục mở rộng hiểu biết và nâng cao ý thức pháp luật
cho thanh niên nói chung, sinh viên nói riêng - họ là một bộ phận của thanh
niên, là lớp người có trình độ, có tri thức, nhiệt huyết, nhạy bén trong tiếp
thu cái mới, là “nguồn lực đặc biệt quan trọng” cho tương lai, lực lượng
xung kích trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố - là vấn đề có ý
nghĩa quan trọng và cần thiết.



2
Thực tiễn cách mạng cho thấy, ở nước ta thanh niên là thế hệ kế tục sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, lớp người xây dựng và phát triển
đất nước. Sự phát triển của thanh niên không những quan hệ đến vận mệnh và
tồn tại của đất nước mà cịn ảnh hưởng đến tương lai dân tộc. Vì vậy, giáo dục
đạo đức cách mạng cho thanh niên, đào tạo thanh niên thành những người kế
thừa, xây dựng chủ nghĩa xã hội ‘vừa hồng vừa chuyên” là nhiệm vụ hết sức
quan trọng, trong đó giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật cho thanh niên, sinh
viên là nhiệm vụ không thể thiếu trong bồi dưỡng phát triển thanh niên hiện
nay.
Quán triệt, thực hiện quan điểm của Đảng về vị trí, vai trị của thanh
niên, sinh viên trước u cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố
trong những năm qua trên phạm vi cả nước nói chung, tỉnh Hà Tĩnh nói riêng,
lực lượng thanh niên, sinh viên đã được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ
nhận thức về nhiều mặt, trong đó hiểu biết, nhận thức về pháp luật của sinh
viên từng bước được nâng cao, ý thức chấp hành pháp luật trong sinh viên có
nhiều chuyển biến… Vì vậy, đã góp phần tích cực bồi dưỡng, phát triển thanh
niên nói chung và sinh viên nói riêng đóng góp xứng đáng tài năng , trí tuệ
cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Hà Tĩnh là một tỉnh nằm ở miền trung của đất nước, là một tỉnh có
nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội. Trong những năm qua
các trường đại học, cao đẳng ở đây đã đào tạo được số lượng lớn lao động có
chất lượng cao, từng bước đáp ứng nhu cầu phát triển của. Tuy nhiên, nằm
trong bối cảnh chung của đất nước cho đến nay, Hà Tĩnh vẫn là một tỉnh có
kinh tế còn chậm phát triển, đời sống của nhân dân còn thấp, nhiều mặt của
đời sống xã hội còn nhiều hạn chế, sự hiểu biết về Hiến pháp và pháp luật của
nhân dân còn thấp kém, việc giáo dục ý thức pháp luật cho người dân nói
chung và thanh niên, sinh viên nói riêng trong tỉnh cịn nhiều khó khăn, bất
cập và chưa được quan tâm đúng mức. Tình trạng vi phạm pháp luật của



3
thanh niên, sinh viên vẫn tiếp tục xẩy ra, tập trung vào một số lĩnh vực như an
tồn giao thơng, trộm cắp, ma t, hơn nhân, gia đình…
Những mặt hạn chế nêu trên, đã và đang là những yếu tố gây ảnh
hưởng và cản trở khơng nhỏ đến sự đóng góp của lực lượng thanh niên, sinh
viên cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và tỉnh
Hà Tĩnh nói riêng. Do đó, việc tiếp tục giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật
cho thanh niên, sinh viên nói chung, sinh viên ở tỉnh Hà Tĩnh nói riêng là vấn
đề có ý nghĩa cơ bản, lâu dài và cấp bách. Vì thế, tác giả lựa chọn đề tài:
“Vấn đề giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên Việt Nam hiện nay (qua
khảo sát thực tế ở Hà Tĩnh)” làm luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành
Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ngoài những nội dung cơ bản về ý thức pháp luật được thể hiện trong
các tác phẩm kinh điển của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Chủ tịch Hồ
Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và các chính sách của Nhà nước
Việt Nam, trong các sách giáo khoa triết học Mác - Lênin, các giáo trình
giảng dạy trong các trường Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp về
ý thức pháp luật, thì vấn đề ý thức pháp luật và giáo dục ý thức pháp luật còn
được nhiều tác giả nghiên cứu, khai thác theo từng khía cạnh chuyên biệt và
đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Trong đó có một số cơng trình có liên quan
trực tiếp hay gián tiếp đến đề tài “Vấn đề giáo dục ý thức pháp luật cho sinh
viên Việt Nam hiện nay (qua khảo sát thực tế ở Hà Tĩnh)”. Cụ thể như: Lê
Quý Đình (1991), “Giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh trong nhà trường
phổ thông ở nước ta hiện nay” ,Luận án phó tiến sỹ, bảo vệ tại Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Nguyễn Ngọc Hưng (1993), “Pháp luật với
q trình dân chủ hố đời sống xã hội ở địa phương miền núi” ,Luận văn thạc
sỹ, bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Nguyễn Như Phát
(1993), “Chính sách pháp luật và ý thức pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Nhà



4
nước và Pháp luật, số 4; “Tội phạm ở Việt Nam, thực trạng, nguyên nhân và
giải pháp” (Đề tài KX.04.14, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1994); Lê Ngọc
Lan (1994), “Vấn đề giáo dục pháp luật trong các trường trung học chuyên
nghiệp và dạy nghề”, Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, số 6;
Vương Thanh Hương và Nguyễn Minh Đức đồng chủ biên (1995), “Thực
trạng phạm tội của học sinh, sinh viên trong mấy năm gần đây và vấn đề
giáo dục pháp luật trong nhà trường”, Viện nghiên cứu phát triển giáo dục,
Hà Nội; Đinh Xuân Thảo (1996), “Giáo dục ý thức pháp luật trong các
trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật)
ở nước ta hiện nay”, Luận án phó tiến sỹ, bảo vệ tại Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh; Đào Duy Tấn (2000), “Những đặc điểm của quá
trình hình thành ý thức pháp luật ở Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sỹ,
bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Mai Thị Minh Ngọc
(2003), “Ý thức pháp luật với việc xây dựng nền dân chủ dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sỹ, bảo vệ tại Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Trần Đức Hữu (2006), “ Giáo dục ý thức
chính trị qua truyền thơng đại chúng ở Quảng Trị hiện nay” Luận văn thạc
sỹ, bảo vệ tại trường Đại học Khoa học Huế; Lương Đình Hải (2006), “Xây
dựng Nhà nước pháp quyền và vấn đề dân chủ hoá xã hội ở nước ta hiện
nay” Tạp chí Triết học, số 1; “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và
các định chế xã hội ở nước ta hiện nay” của Lê Văn Quang và Văn Đức
Thanh đồng chủ biên (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006); Nguyễn Thế
Kiệt (2006), “Mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước trong xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” Tạp chí Triết học,
số 6; Nguyễn Đình Hồ “Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” Tạp chí Triết
học, số 7, 2006; Nguyễn Thị Nga (2007), “Vấn đề xây dựng ý thức xã hội

mới ở nước ta hiện nay” Tạp chí Triết học, số 4.


5
Những cơng trình nghiên cứu trên đã đạt được những kết quả nhất định,
và đã giải quyết được một số vấn đề về lý luận, về phương pháp, vấn đề thực
trạng, giải pháp và phương hướng của công tác giáo dục ý thức pháp luật
trong các trường Đại học, Cao đẳng.v.v... Tuy nhiên cho đến nay, chưa có
cơng trình nào đi sâu nghiên cứu vấn đề giáo dục ý thức pháp luật cho sinh
viên ở Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích ý thức pháp luật, giáo dục ý thức pháp luật cho sinh
viên Việt Nam hiện nay, qua khảo sát thực tế ở Hà Tĩnh, đưa ra những giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên Hà Tĩnh hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên đây, nhiệm vụ của luận văn là:
- Làm rõ tầm quan trọng và nội dung của giáo dục ý thức pháp luật cho
sinh viên Việt Nam hiện nay.
- Phân tích thực trạng và nguyên nhân của việc giáo dục ý thức pháp
luật cho sinh viên ở Hà Tĩnh hiện nay
- Nêu ra những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho
sinh viên ở Hà Tĩnh hiện nay
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu về việc giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên ở Việt
Nam hiện nay và qua thực tế ở Hà Tĩnh mà đưa ra một số giải pháp chủ yếu
nhằm tiếp tục giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên tỉnh Hà Tĩnh
hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý, quan điểm cơ

bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về ý thức pháp luật, về công tác giáo dục


6
chính trị, tư tưởng nói chung và ý thức pháp luật nói riêng cho sinh viên
Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác - Lênin, luận văn sử
dụng các phương pháp cụ thể chủ yếu sau: lơgíc - lịch sử, phân tích - tổng
hợp, so sánh và hệ thống hố …
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn làm rõ tầm quan trọng và nội dung của việc giáo dục ý thức
pháp luật cho sinh viên Việt Nam hiện nay.
- Làm rõ thực trạng giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên Hà Tĩnh
thời gian qua, trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp chủ yếu cho việc giáo
dục và nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên ở Hà Tĩnh hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho những đối tượng quan
tâm đến vấn đề này và tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy những nội
dung liên quan trong chương trình các môn lý luận Mác - Lênin ở các
trường Đại học và Cao đẳng, nâng cao nhận thức lý luận và việc vận dụng
lý luận vào thực tiễn.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 4 tiết.


7
Chương 1
TẦM QUAN TRỌNG VÀ NỘI DUNG CỦA VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC

PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Ý THỨC PHÁP LUẬT - KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ CẤU TRÚC

1.1.1. Khái niệm ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội trong xã hội có giai cấp;
nó tồn tại bên cạnh một số hình thái ý thức xã hội khác như: triết học, chính
trị, tơn giáo, đạo đức, nghệ thuật... Theo đó, ý thức pháp luật thể hiện tri thức
và sự đánh giá về tính cơng bằng của những quy tắc được chấp nhận trong
một xã hội nhất định với tính cách là luật pháp, về quyền hạn và nghĩa vụ các
thành viên trong cộng đồng, xã hội, về tính hợp pháp hay không hợp pháp của
hành vi con người, nó là một trong những vấn đề cơ bản, đa dạng, phức tạp
của đời sống pháp luật.
Đời sống pháp luật đó là nhu cầu cần phải điều chỉnh những hành vi có
tính lặp đi, lặp lại thường xun, phổ biến của con người trong đời sống xã
hội nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp nắm quyền lực và duy trì sự ổn định của
cộng đồng xã hội. Nhu cầu cần điều chỉnh đó được con người phản ảnh một
cách tích cực và sáng tạo hình thành ý thức pháp luật.
Pháp luật ra đời cùng với Nhà nước để thực hiện quyền lực cơng cộng,
nó là cơng cụ của bộ máy nhà nước nhằm quản lý và điều chỉnh xã hội. Thực
chất của pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được thể chế hoá và được
thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Do vậy, bên cạnh sự phản
ánh sự công bằng xã hội theo những chuẩn mực nhất định, ý thức pháp luật
phản ánh sâu sắc ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội.
Ý thức pháp luật hiểu theo nghĩa thông thường thì đó là ý thức chấp
hành những quy định pháp luật của con người. Quan niệm này thường được
xem như sự đánh giá và thái độ chủ quan của một cá nhân nào đó về mức độ


8
chấp hành hành vi của một đối tượng nhất định trong việc thực hiện pháp luật

theo những quy định trong văn bản pháp lý, đó là sự đánh giá mức độ ý thức
pháp luật cao hay thấp, tốt hay xấu của họ. Cách quan niệm này đã đồng nhất
ý thức pháp luật với hình thức biểu hiện cụ thể của nó (ý thức pháp luật đồng
nghĩa với ý thức chấp hành pháp luật). Như vậy, sẽ là quá hẹp, phiến diện vì
nó chưa thể hiện rõ được vai trị, chức năng, bản chất và kết cấu của ý thức
pháp luật.
Trong khoa học lý luận, ý thức pháp luật được hiểu theo nghĩa rộng, có
tính khách quan, tồn diện và khái quát cao. Tuy nhiên, do mục đích yêu cầu
và phương diện nghiên cứu khác nhau nên cho đến nay đã xuất hiện nhiều
quan niệm khác nhau về ý thức pháp luật.
Quan niệm thứ nhất cho rằng: "Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức
xã hội, biểu thị mối quan hệ của con người đối với pháp luật" [45, tr.130]. Đây là
quan niệm mang tính khái quát cao, nhưng lại quá chung, chưa thể hiện đầy đủ
kết cấu, nội dung và nguồn gốc của ý thức pháp luật.
Cách quan niệm thứ hai: lại nhấn mạnh mặt này hay mặt khác của ý
thức pháp luật. Chẳng hạn, có quan niệm tập trung nhấn mạnh kết cấu của ý
thức pháp luật như:
Ý thức pháp luật là tổng hợp những tư tưởng quan điểm pháp luật và
tâm lý pháp luật. Hay cụ thể hơn, là tổng hợp những nhận thức, những
hiểu biết quan điểm pháp lý, những tình cảm pháp luật cùng với sự tơn
trọng và thói quen chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật [50, tr.233].
Nhấn mạnh yếu tố pháp lý của ý thức pháp luật, một quan niệm khác lại
cho rằng: ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những
học thuyết, quan điểm, tư tưởng, tình cảm của con người, thể hiện thái độ, sự
đánh giá về tính cơng bằng hay khơng cơng bằng, đúng đắn hay khơng đúng
đắn của pháp luật, về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự
của con người, trong các hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính


9

trị - xã hội và của các chủ thể khác. Nếu xét theo góc độ của người làm cơng
tác quản lý pháp luật, quan niệm này chưa thể hiện được tính khái qt của ý
thức pháp luật. Vì rằng "tính hợp pháp hay khơng hợp pháp" cịn cần phải được
xem xét dưới giác độ giai cấp, gắn với một thể chế nhà nước nhất định và sự
phục vụ cho giai cấp cầm quyền nào trong xã hội. Mặt khác, quan niệm trên chỉ
hàm ý áp dụng cho thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ
nghĩa, nó chưa phản ánh tồn diện kết cấu nội dung ý thức pháp luật.
Quan điểm thứ ba cho rằng:
Ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa là tổng hoà những quan điểm,
quan niệm, tình cảm về pháp luật thể hiện thái độ của giai cấp công
nhân và của nhân dân lao động do giai cấp công nhân lãnh đạo đối
với pháp luật, đối với các yêu cầu khác của pháp luật, đối với quyền
và nghĩa vụ của công dân [50, tr.196].
Theo quan niệm này, chỉ phản ảnh nội dung cơ bản ý thức pháp luật xã
hội chủ nghĩa theo thể chế chính trị Xơ Viết, nhà nước xã hội chủ nghĩa theo
mơ hình tập trung, kế hoạch hố với sự thuần chất và đồng điệu giai cấp, nó
đã đề cao và nhấn mạnh yếu tố giai cấp, thực tế nó được áp dụng trong điều
kiện mơ hình xã hội chủ nghĩa Xô Viết trước khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô và Đông Âu tan rã. Trong điều kiện chế độ dân chủ nhân dân, trong
thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội với sự tồn tại của
nhiều thành phần giai cấp và tầng lớp xã hội thì nó khó tránh khỏi một sự chủ
quan và phiến diện.
Quan niệm thứ tư, lại thu hẹp kết cấu ý thức pháp luật, chỉ mới nhấn
mạnh mặt tri thức pháp luật, yếu tố hợp pháp, yếu tố pháp nhân của ý thức
pháp luật, như:
Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm
và quan niệm thịnh hành trong xã hội, thể hiện thông qua sự hiểu
biết của con người đối với pháp luật hiện hành, pháp luật đã và pháp



10
luật phải có, thể hiện sự đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp
pháp trong hành vi xử sự của con người cũng như trong hoạt động
của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội [20, tr.229].
Một quan niệm khác lại tập trung nhấn mạnh ý thức pháp luật thể hiện
ý thức của chủ thể pháp luật, rằng: " ý thức pháp luật là trình độ hiểu biết của
các tầng lớp nhân dân về pháp luật... ý thức pháp luật còn là thái độ đối với
pháp luật, ý thức tơn trọng hay coi thường pháp luật, đó là thái độ đối với
hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm" [49, tr.19].
Ý thức phải gắn với chủ thể, với một đối tượng nhất định, song với
cách quan niệm trên sẽ là chưa hồn chỉnh, bởi lẽ nó chưa đề cập đến yếu tố
giáo dục, văn hoá pháp luật cũng như chức năng quản lý xã hội của Nhà nước
thơng qua pháp luật. Q nhấn mạnh khía cạnh răn đe, ngăn chặn các hành vi
vi phạm pháp luật của con người ta sẽ gây tâm trạng bắt buộc, cưỡng chế và
thụ động bởi sự áp đặt của văn bản pháp luật, quy phạm pháp luật, nó khơng
thể hiện tính nhân đạo ưu việt của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, có thể nói do mục đích nghiên cứu của các chủ thể, ý thức
pháp luật được xem xét theo những góc độ khác nhau nên nó cũng quan niệm
một cách khác nhau. Trên bình diện khoa học triết học, qua tham khảo các ý
kiến nêu trên, theo mục đích yêu cầu và nhiệm vụ của đề tài luận văn đặt ra,
chúng tôi quan niệm rằng: ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội. Nó
là tồn bộ các quan điểm, quan niệm của con người và thái độ của họ đối với
pháp luật xuất phát từ từ các quan hệ kinh tế, đặc biệt là quan hệ sản xuất
trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử. Mặt khác nó cịn chịu sự
tác động của các hình thái ý thức xã hội khác, trước hết là ý thức chính trị, ý
thức đạo đức, ý thức thẩm mỹ, cả ý thức tôn giáo và kế thừa ý thức pháp luật
truyền thống trong lịch sử.
Vì vậy, khi nghiên cứu ý thức pháp luật khơng nên nhìn nhận phiến diện
một chiều mà phải đặt nó trong mối quan hệ phức tạp của đời sống xã hội.



11
Là một hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật phản ánh sâu sắc đời
sống pháp luật, trước hết là sự phản ánh quá trình nhận thức về pháp luật, ý
thức chấp hành pháp luật của nhân dân và việc điều chỉnh hành vi của họ
nhằm duy trì trật tự kỷ cương xã hội theo pháp luật của Nhà nước. Bởi vậy, để
xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân,
vì dân ở Việt Nam, địi hỏi một mặt phải nâng cao hiệu lực pháp luật xã hội
chủ nghĩa, mặt khác phải đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến giáo dục ý thức
pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là đối tượng sinh viên ở nước ta
hiện nay.
1.1.2. Đặc điểm của ý thức pháp luật
Là một hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật tuân thủ quy luật chung
của sự hình thành ý thức xã hội, phản ánh đời sống pháp luật mà trước hết là
nhu cầu pháp lý đặt ra của đời sống xã hội thông qua chuẩn mực pháp luật để
điều chỉnh hành vi con người nhằm thiết lập trật tự, kỷ cương xã hội theo ý
chí của giai cấp cầm quyền.
Những đặc điểm cơ bản sẽ giúp chúng ta nhận diện một cách rõ hơn về
ý thức pháp luật với tư cách là một hình thái ý thức xã hội như: chịu sự quy
định của tồn tại xã hội; tính độc lập tương đối; tính giai cấp.
Thứ nhất, ý thức pháp luật chịu sự quy định của tồn tại xã hội. Đây là
đặc điểm cơ bản chỉ rõ nguồn gốc ra đời của ý thức pháp luật. Những nhận
thức, thái độ, tình cảm, quan niệm, mong muốn của con người về pháp luật,
về nhà nước suy cho cùng đều do những điều kiện xã hội khách quan quy
định, chi phối. Trong tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức", C.Mác đã phê phán triết
học Đức trước đó khi họ
tun bố rằng ý thức chính trị, ý thức pháp luật, ý thức đạo đức là ý
thức tôn giáo hay ý thức thần học, rằng con người chính trị, con
người pháp luật và con người đạo đức xét cho cùng "con người nói
chung" - là con người tơn giáo… Người ta lấy sự thống trị của tôn



12
giáo làm tiền đề. Và dần dà, người ta tuyên bố mọi quan hệ thống trị
là một quan hệ tôn giáo và người ta biến quan hệ đó thành sự sùng
bái pháp luật, sùng bái nhà nước, v.v.. [31, tr.26-27].
C.Mác khẳng định rằng: "không phải ý thức quyết định đời sống mà
chính đời sống quyết định ý thức" [31, tr.38].
Một nền kinh tế mà ở đó người dân sản xuất ra thứ gì phải cống, nạp ít
nhiều, phải chịu đựng sưu cao, thuế nặng, sự hà khắc của luật pháp phong
kiến, người dân sẽ có thái độ chống đối pháp luật và tìm kiếm những quy định
của cộng đồng phù hợp với điều kiện, hồn cảnh của họ. Điều đó khác xa với
thái độ quan tâm tới pháp luật một cách tự giác, tuân thủ pháp luật một cách
tự nguyện và chủ động tham gia xây dựng pháp luật của người dân trong nền
kinh tế thị trường hiện đại.
Thứ hai, ý thức pháp luật có tính độc lập tương đối. Mặc dù ý thức
pháp luật chịu sự quy định của tồn tại xã hội, phản ánh tồn tại xã hội, nhưng
nó vẫn có sự độc lập tương đối, có những sự khác biệt, sự phát triển tự thân.
Tính độc lập tương đối của ý thức pháp luật được biểu hiện ra ở một số khía
cạnh như:
Ý thức pháp luật thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Mặc dù xã
hội cũ đã bị xã hội mới thay thế nhưng ý thức pháp luật của xã hội cũ vẫn còn
tồn tại ở xã hội mới trong một khoảng thời gian nhất định, đặc biệt là trong
lĩnh vực tâm lý pháp luật. Sự tồn tại của ý thức pháp luật của xã hội cũ dựa
trên hai lý do cơ bản, đó là: hoặc vì lợi ích giai cấp hoặc do thói quen của chủ
thể. Khi xã hội mới được thiết lập thường đi kèm với nó là sự xố bỏ các quy
định đem lại lợi ích cục bộ cho một giai cấp nào đó hoặc cho một số ít nhóm
người trong xã hội. Vì vậy, giai cấp này muốn lưu giữ, hành động theo quy
định pháp luật cũ nhằm duy trì lợi ích của giai cấp mình, về cơ bản, sẽ đi
ngược lại, thậm chí chống lại pháp luật của xã hội mới. Cịn tồn tại do thói

quen có thể là: thói quen hàng ngày, lâu dài, ổn định, sự thay đổi các quy định


13
pháp lý làm cho chủ thể không kịp thay đổi theo, hoặc chủ thể có thói quen
phản ứng với những quy định mới. Chẳng hạn, sự phản ứng của người dân về
sự thay thế tiền đồng bằng tiền giấy của triều đại nhà Hồ, mặc dù đây là một
cải cách mà cho đến nay đã chứng minh được tính hiện đại và đúng đắn của
nó. Ngồi ngun nhân trên, tính lạc hậu của ý thức pháp luật so với tồn tại xã
hội sản sinh ra nó cịn thể hiện sự vận động, thay đổi, phát triển không ngừng
của tồn tại xã hội, của thực tiễn. C.Mác từng lưu ý chúng ta: "Tư duy của con
người khơng theo kịp tiến trình của các sự kiện" [35, tr.41]. Pháp luật phản
ánh các lợi ích xã hội tất nhiên là sau khi có sự thay đổi của các điều kiện
kinh tế - xã hội và nhất là phải sau đó một khoảng thời gian nhất định đủ để
nhận thức, đo lường và cân nhắc các điều kiện thay đổi đó. Độ dài của khoảng
thời gian đó có thể khác nhau, tuỳ thuộc vào tính chất của các quan hệ xã hội,
vào mối quan hệ và sự mong muốn của các giai cấp và vào một số nhân tố
khác như tư tưởng và lý luận tiên tiến, khuynh hướng phát triển chung của
nhà nước và pháp luật v.v..
Mặc dù ý thức pháp luật thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội,
nhưng trong những điều kiện nhất định, những tư tưởng pháp luật tiến bộ
mang tính khoa học có thể đi trước so với tồn tại xã hội. Điều đó thể hiện:
xuất phát từ những ý tưởng, do tầm nhìn của chủ thể và nếu tư tưởng pháp
luật đó là của giai cấp thống trị thì nó có thể được ghi nhận, được thể chế hoá
và sẽ thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
Ý thức pháp luật phản ánh tồn tại xã hội của thời đại sinh ra nó, nhưng
nó có tính kế thừa một số yếu tố nhất định của ý thức pháp luật của các thời
đại trước đó. Các tư tưởng, quan điểm của pháp luật tiến bộ của xã hội này có
thể sử dụng trong một xã hội khác.
Tính tương đối của ý thức pháp luật còn thể hiện ở chỗ: một mặt nó

chịu sự quy định của tồn tại xã hội, nhưng mặt khác nó lại tác động trở lại đối
với tồn tại xã hội, tác động tới ý thức chính trị, ý thức đạo đức v.v.. các yếu tố


14
khác của thượng tầng kiến trúc xã hội như nhà nước, pháp luật v.v.. Sự tác
động này cũng diễn ra theo hai hướng: nếu ý thức pháp luật tiến bộ thì sẽ tác
động thúc đẩy sự phát triển của tồn tại xã hội và các yếu tố nêu trên. Ngược
lại, ý thức pháp luật lạc hậu, bảo thủ sẽ là lực cản kìm hãm sự phát triển của
kinh tế - xã hội, kìm hãm sự năng động sáng tạo của con người.
Trong các hình thái ý thức xã hội mà ý thức pháp luật tác động, mối liên
hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại giữa ý thức pháp luật với ý thức chính trị và
ý thức đạo đức diễn ra rõ rệt hơn và tương hỗ cho nhau cùng phát triển.
Ý thức pháp luật và ý thức đạo đức cùng phản ánh tồn tại xã hội, nhưng
khác nhau ở phương thức và kết quả phản ánh: ý thức pháp luật phản ánh đời
sống pháp luật xã hội, mà kết quả phản ánh được mơ hình hố thành quyền và
nghĩa vụ mang tính bắt buộc chung, được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh
cưỡng chế từ nhà nước để điều chỉnh hành vi con người; còn ý thức đạo đức
phản ánh tồn tại xã hội dưới dạng các quy tắc điều chỉnh hành vi con người
bằng lương tâm và sự tự điều chỉnh, tự đánh giá về hành động của mình, hoặc
cùng lắm là chịu sức ép của dư luận xã hội. Mặc dù có sự khác nhau như trên,
nhưng cả hai có mối quan hệ tác động qua lại và hỗ trợ, làm tiền đề cho nhau
trong sự hình thành và phát triển. Trong đó, ý thức đạo đức có vai trị đặc biệt
quan trọng trong q trình hình thành và thúc đẩy con người ngày càng nâng
cao ý thức pháp luật của mình một cách tự giác. Cùng với pháp luật, các quy
phạm đạo đức hàng ngày, hàng giờ cùng đang tham gia điều chỉnh các lĩnh
vực sinh hoạt xã hội một cách có hiệu quả. Các quy phạm đạo đức có ý nghĩa
bổ sung cho pháp luật trong điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Tuy cùng ra đời và tồn tại với ý thức chính trị trong xã hội có giai cấp,
ý thức pháp luật vừa có tính độc lập tương đối, vừa chịu sự chi phối của ý

thức chính trị. Ý thức chính trị phản ánh các quan hệ chính trị, kinh tế giữa
các giai cấp, các quốc gia dân tộc, cũng như thái độ của các giai cấp đối
với quyền lực nhà nước, nó thể hiện trực tiếp và tập trung lợi ích giai cấp.


15
Còn ý thức pháp luật phản ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế - xã hội, trước
hết là các quan hệ sản xuất, thể hiện trong các bộ luật, luật của nhà nước.
Mỗi chế độ xã hội có giai cấp, có nhà nước chỉ có một hệ thống pháp luật
duy nhất, thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền. Dù trong xã hội cịn có hệ
tư tưởng, quan điểm pháp luật của các giai cấp khác, thể hiện ý chí và phản
ánh lợi ích riêng của các giai cấp đó, nhưng đều bị chi phối bởi ý chí của
giai cấp cầm quyền. Như vậy, trong mối quan hệ với ý thức chính trị, ý
thức pháp luật bị chi phối, ảnh hưởng bởi ý thức chính trị và điều đó quy
định tính giai cấp của ý thức pháp luật.
Thứ ba, ý thức pháp luật ln mang tính giai cấp. C.Mác đã viết:
Trong mọi thời đại, những tư tưởng của giai cấp thống trị là những
tư tưởng thống trị. Điều đó có nghĩa là giai cấp là lực lượng vật chất
thống trị trong xã hội thì cũng là lực lượng tinh thần thống trị trong xã
hội. Giai cấp nào chi phối những tư liệu sản xuất thì cũng chi phối luôn
cả những tư liệu sản xuất tinh thần… những tư tưởng thống trị khơng
phải là cái gì khác mà chỉ là sự biểu hiện tinh thần của những quan hệ
vật chất thống trị, chúng là những quan hệ vật chất thống trị được biểu
hiện dưới hình thức tư tưởng… [31, tr.66-67].
Xét riêng trong mối quan hệ giữa ý thức pháp luật và pháp luật thì ý
thức pháp luật là cái lõi. Pháp luật là q trình vật chất hố ý thức pháp luật,
biến ý thức pháp luật thành các quy phạm pháp luật thực định. Trong xã hội có
giai cấp, nhu cầu sử dụng các quy tắc để điều chỉnh hành vi của con người trong
đời sống cộng đồng được giai cấp nhận thức và hình thành nên ý thức pháp luật
của giai cấp mình. Xuất phát từ lợi ích giai cấp, những giai cấp khác nhau sẽ

nhìn nhận nhu cầu điều chỉnh hành vi của con người khác nhau. Trong một xã
hội có nhiều giai cấp thì ý thức pháp luật cũng khác nhau, thậm chí ý thức pháp
luật của một giai cấp cũng khơng thuần nhất. Trong đó, ý thức pháp luật giữ địa
vị thống trị là ý thức pháp luật của giai cấp nắm quyền lực nhà nước. Các giai


16
cấp bị trị chịu ảnh hưởng và tác động của ý thức pháp luật của giai cấp thống trị,
bắt buộc phải tuân theo ý thức pháp luật của giai cấp thống trị.
1.1.3. Cấu trúc của ý thức pháp luật
Cấu trúc của ý thức pháp luật là cách thức tổ chức bên trong của ý thức
pháp luật. Trong đó các nhân tố cấu thành của ý thức pháp luật vừa thống nhất
với nhau vừa tác động và ảnh hưởng lẫn nhau.
Tuỳ từng góc độ nghiên cứu khác nhau mà chúng ta có thể xem xét ý
thức pháp luật bao gồm những thành tố nhất định.
Xét về trình độ bao gồm: ý thức pháp luật lý luận (ý thức pháp luật
khoa học) và ý thức pháp luật thông thường.
Ý thức pháp luật thông thường là những quan niệm, hiểu biết nhất định
của chủ thể về các quy phạm pháp luật, hình thành một cách trực tiếp trong
hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hoá, khái quát hoá. ý
thức pháp luật thông thường phản ánh những hiện tượng pháp lý - xã hội
mang tính bề ngồi, chưa đi sâu vào bản chất của vấn đề, về chức năng giải
thích các sự kiện pháp lý cũng như tập quán, thói quen, tiêu chuẩn hành vi.
ý thức pháp luật thơng thường có ưu điểm là phản ánh một cách sinh động,
trực tiếp, chân thực các hiện tượng pháp lý, nó có tính phong phú, gần gũi
với cuộc sống, trong nhiều trường hợp, ý thức pháp luật này lại góp phần
nâng cao sự hiểu biết pháp luật của quần chúng nhân dân lao động có hiệu
quả hơn ý thức pháp luật lý luận. Hơn nữa, ý thức pháp luật thơng thường
có vai trị rất quan trọng, làm tiền đề cho sự hình thành các ý tưởng khoa
học, các lý thuyết khoa học về pháp luật.

Ý thức pháp luật lý luận tồn tại dưới dạng các quan điểm, học thuyết,
trường phái pháp lý khác nhau về bản chất của pháp luật, về sự tương tác giữa
pháp luật với các hiện tượng xã hội khác như chính trị, đạo đức, văn hố v.v..
Những quan điểm về pháp luật mang tính lý luận, khoa học thường có tính
khái qt hố, hệ thống hố cao, được xây dựng trên cơ sở khoa học đúc kết
từ thực tiễn. Nó có vai trị chỉ đạo, hướng dẫn ý thức pháp luật thông thường.


17
Căn cứ vào chủ thể mang ý thức pháp luật, có thể phân chia ý thức
pháp luật thành ý thức pháp luật cá nhân, ý thức pháp luật nhóm (tập thể), ý
thức pháp luật xã hội.
Ý thức pháp luật cá nhân là những tư tưởng và tâm lý pháp luật của
mỗi con người cụ thể, hình thành dưới ảnh hưởng của các quan hệ pháp luật
mà cá nhân sinh sống. Do có sự khác biệt về điều kiện sống, mơi trường giáo
dục, hồn cảnh gia đình, trình độ học vấn, kinh nghiệm, v.v.. mà ý thức pháp
luật của mỗi cá nhân cũng khác nhau, đa dạng và phong phú, đặc biệt là về
trình độ ý thức pháp luật.
Ý thức pháp luật nhóm phản ánh những đặc điểm của từng nhóm xã hội
nhất định. Sự tồn tại của các nhóm xã hội khác nhau được liên kết lại vì
những mục tiêu, lợi ích nhất định, nghề nghiệp và trong những điều kiện sống
có nhiều nét tương đồng. Do vậy, mỗi nhóm xã hội có những quan niệm, tư
duy, thái độ, tình cảm, cách đánh giá tương đối giống nhau đối với các quy
phạm pháp luật hiện hành.
Ý thức pháp luật xã hội phản ánh quan hệ đối với pháp luật của một xã
hội. Là tổng thể những tư tưởng và tâm lý pháp luật phản ánh đời sống pháp
luật. Ý thức pháp luật xã hội xuất phát từ ý thức pháp luật cá nhân nhưng
không phải là tổng số giản đơn các ý thức pháp luật cá nhân, mà là một hệ
thống hồn chỉnh, hình thành từ sự tác động lẫn nhau giữa ý thức pháp luật cá
nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể. Ý thức pháp luật xã hội luôn vận động

theo xu hướng phát triển của xã hội và chịu sự quy định bởi ý thức pháp luật
của bộ phận giai cấp cầm quyền (giai cấp thống trị). Ý thức pháp luật xã hội
còn được thể hiện trong quan điểm mang tính nguyên tắc là pháp luật phải vì
con người, vì những lợi ích chính đáng của con người.
Ý thức pháp luật cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, xét về cấp
độ, nó bao gồm tâm lý pháp luật và hệ tư tưởng pháp luật.
Tâm lý pháp luật được hình thành trong hoạt động thực tiễn của con
người trên bình diện cá nhân và các nhóm xã hội. Tâm lý pháp luật gắn liền


18
với các hiện tượng tâm lý con người, đó chính là các cảm xúc, tâm trạng, tình
cảm, thói quen,tập qn, truyền thống, niềm tin, thái độ đối với pháp luật và
các hiện tượng pháp lý khác.
Truyền thống, thói quen, niềm tin pháp luật... là những yếu tố tương đối
ổn định. Trong lịch sử, nhiều truyền thống pháp luật tốt đẹp được lưu giữ và phát
huy. Chính nó giúp cho con người hoạt động tự tin, kiên định, nó là nhân tố biểu
lộ tích cực, tiến bộ nên thường được tuyên truyền, khuyến khích phát triển.
Tình cảm pháp luật, tâm trạng pháp luật là nhân tố rất quan trọng trong
tâm lý pháp luật. Bởi vì trong thực tế cuộc sống, một số quy định pháp luật ra
đời phù hợp với lợi ích, nguyện vọng, nhu cầu của con người thì xuất hiện
trong họ tình cảm hưng phấn, thái độ tích cực. Ngược lại, nếu những quy định
đó đi trái với mục đích và lợi ích của họ thì xuất hiện trạng thái tiêu cực,
chống đối, miễn cưỡng khi chấp hành.
Tâm lý pháp luật được hình thành một cách tự phát, thiếu tính hệ thống
nhưng nó có tính bền vững, ít biến đổi và tính bảo thủ cao. Tâm lý pháp luật
của các cá nhân chịu sự tác động mạnh mẽ, thường xuyên từ phía các yếu tố
khách quan và chủ quan như mơi trường xã hội, tình trạng kinh tế, văn hố,
tơn giáo, học vấn, tính cách, các mối quan hệ gia đình và xã hội của cá nhân...
Ví dụ như: tâm lý sợ hãi pháp luật; thái độ thờ ơ, lãnh đạm với những vi phạm

pháp luật nơi công cộng hay tình cảm, thái độ khơng khoan nhượng với
những hành vi vi phạm pháp luật: cướp giật trên đường phố, trộm cắp, móc
túi, đánh bạc hay gây tai nạn giao thông rồi bỏ chạy…
Yếu tố quan trọng nhất của tâm lý pháp luật là thái độ đối với pháp
luật, nó được thể hiện ra bên ngoài của hành vi con người đối với các quy
định pháp luật. Đó là thái độ đồng tình hay phản đối, thờ ơ hay trân trọng,
xem thường hay tôn trọng pháp luật... thông qua thái độ ấy mà con người thể
hiện niềm tin, trạng thái tâm lý khác nhau trong thực hiện hành vi ứng xử.
Thái độ đối với pháp luật có thể chia thành hai loại biểu hiện, đó là thái
độ tơn trọng pháp luật và thái độ coi thường pháp luật. Thái độ tôn trọng pháp


19
luật là việc chấp hành pháp luật thông qua hành vi tuân thủ pháp luật trong
hoạt động và trong thực tế cuộc sống. Thái độ coi thường pháp luật, đó là sự
thờ ơ, không quan tâm đến những quy định của pháp luật hoặc chống đối
pháp luật.
Trong xã hội có lợi ích đối kháng, thái độ cố tình vi phạm pháp luật của
quần chúng lao động, cách mạng là để phản đối lại các đạo luật bất công đi
ngược lại lợi ích của nhân dân.
Trong điều kiện ở nước ta hiện nay, lại có những cá nhân, nhóm xã hội
cố tình vi phạm pháp luật là để làm ăn phi pháp, trục lợi cho cá nhân làm thiệt
hại cho xã hội, đó là điều chúng ta cần lên án.
Vì vậy, thái độ coi thường pháp luật cũng có thể là tích cực hoặc tiêu
cực, điều này phụ thuộc nhiều vào hoàn cảnh lịch sử.
Hệ tư tưởng pháp luật là tổng thể các tư tưởng, học thuyết về pháp luật, phản
ánh đời sống pháp luật một cách sâu sắc và được hình thành một cách tự giác.
Hệ tư tưởng pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội
có giai cấp một cách sâu sắc. Mỗi một chế độ chính trị - xã hội ở mỗi quốc gia
dân tộc, ở mỗi thời đại khác nhau, hệ tư tưởng pháp luật chính thống bao giờ

cũng là hệ tư tưởng thống trị. Nó sẽ là tiến bộ, dân chủ, khoa học, cách mạng
khi giai cấp cầm quyền là lực lượng tiến bộ, có lợi ích kinh tế - xã hội phù
hợp với lợi ích của số đơng quần chúng và đại diện cho những lợi ích đó.
Ngược lại, hệ tư tưởng pháp luật sẽ trở nên lạc hậu khi nó đối lập với sự phát
triển của xã hội. Tuy nhiên, điều đó chỉ xảy ra khi giai cấp cầm quyền trở
thành lực lượng bảo thủ, phản động.
Những quan điểm, tư tưởng, học thuyết pháp luật chủ yếu đề cập đến
vai trị, bản chất giai cấp, các thuộc tính, giá trị của pháp luật cũng như mối
quan hệ giữa pháp luật với dân chủ, công bằng, tự do, quyền con người, mối
quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ pháp lý trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước, về nhận thức, sáng tạo và thực hiện pháp luật.


20
So với tâm lý pháp luật thì hệ tưởng pháp luật mang tính lý luận khoa
học, tính hệ thống hơn. Tư tưởng pháp luật thể hiện sự nhận thức khoa học về
pháp luật với tư cách là công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội, nó có tính chiều sâu
hơn tâm lý pháp luật trong nhận thức pháp luật. Nhưng điều đó khơng có nghĩa
là hệ tư tưởng pháp luật có vị trí cao hơn, quan trọng hơn hay đứng trước so với
tâm lý pháp luật. Đây là hai bộ phận của ý thức pháp luật tồn tại trong mối
quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau rất chặt chẽ. Tâm lý pháp luật ra
đời và phản ánh thái độ, tình cảm của con người đối với pháp luật một cách
chưa hồn chỉnh, mức độ cảm xúc, tình cảm pháp luật của con người phụ thuộc
vào trình độ tư tưởng pháp luật của cá nhân và chịu sự chi phối của hệ tư tưởng
pháp luật. Ngược lại, sự phát triển và hoàn thiện của hệ tư tưởng pháp luật cũng
chịu ảnh hưởng của tâm lý pháp luật, nó là điều kiện, tiền đề kích thích tư duy
sáng tạo của con người, hướng họ vươn lên trình độ tư tưởng pháp luật.
V.I.Lênin đã từng cho rằng: "Khơng có sự "xúc cảm của con người" thì xưa nay
khơng có và khơng thể có sự tìm tịi chân lý" [27, tr.131].
Sự phân chia ý thức pháp luật thành các bộ phận, dù theo tiêu chí nào,

cũng chỉ mang ý nghĩa tương đối, phục vụ cho các mục đích khảo sát, nghiên
cứu. Bởi vì các bộ phận hợp thành ấy ln nằm trong mối quan hệ chặt chẽ
với nhau, tác động qua lại và bổ sung cho nhau.
Tóm lại, khi nói đến kết cấu của ý thức pháp luật là cách thức tổ chức
bên trong của ý thức pháp luật. Nó bao gồm nhiều nhân tố cấu thành, tùy theo
góc độ nghiên cứu mà người ta phân chia ý thức pháp luật theo các cách thức
khác nhau.
1.2. TẦM QUAN TRỌNG VÀ NỘI DUNG CỦA VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC
PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN HIỆN NAY

1.2.1. Đặc điểm của sinh viên
“Sinh viên” là thuật ngữ dùng để chỉ những người đang học tập ở các
trường đại học và cao đẳng. Ở một số nước, nội hàm của khái niệm sinh viên


21
được mở rộng hơn. Chẳng hạn, ở nước Pháp, thuật ngữ: “sinh viên” không chỉ
dùng để gọi những người đang học trong các trường đại học và cao đẳng, mà
còn dùng cho cả những người đang học trong các trường trung học và các
trường dạy nghề.
Sinh viên là đội ngũ trí thức trong tương lai, là lực lượng trẻ có học
thức, họ là những người nhạy cảm với cái mới, năng động và sáng tạo, là chủ
nhân tương lai của đất nước. Sinh viên là một tầng lớp xã hội ln được gia
đình, nhà trường và xã hội hết sức quan tâm. Bởi lẽ, ngay từ khi đất nước còn
chiến tranh, sinh viên Việt Nam đã từng gắn bó và có những đóng góp lớn lao
vào sự nghiệp cách mạng và thắng lợi của dân tộc ta. Ngày nay, trong sự phát
triển của đất nước, sinh viên Việt Nam có vai trò hết sức to lớn. Tại Đại hội
sinh viên tồn quốc lần thứ V, ngun Tổng Bí thư Đỗ Mười đã khẳng định:
Sự nghiệp đổi mới của đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công hay
không thành cơng, đất nước ta bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong

cộng đồng thế giới hay khơng, chủ yếu do thế hệ thanh niên hiện nay quyết
định, trong đó sinh viên là một bộ phận có vai trò hết sức quan trọng.
Độ tuổi chủ yếu của họ trong khoảng 18 đến 25, lứa tuổi này ở con người
đã có sự trưởng thành nhất định về mặt sinh học lẫn quan hệ xã hội.
Về mặt sinh học, sinh viên ở giai đoạn thanh niên của đời người, cơ thể
đang dần đi đến hoàn thiện về mọi mặt: cơ bắp, chiều cao, trọng lượng tăng
nhanh, các đặc điểm sinh lý, giới tính phát triển đến độ chín muồi, đặc biệt là
sự phát triển của bộ não. Có thể nói, đây là độ tuổi cơ thể con người đang ở
thời kỳ hài hoà, đẹp đẽ với sinh lực dồi dào nhất.
Về đời sống tâm lý, xã hội, ở sinh viên có sự phong phú, phức tạp, bộc lộ
nhiều mối quan hệ khác nhau, phản ánh tồn tại xã hội nhiều vẻ, đa dạng. Với
tâm lý nhạy cảm, thích cái mới lạ, ưa tìm tịi, khám phá, sáng tạo, sinh viên là
những người giàu ước mơ, hồi bảo, giàu trí tưởng tượng, ln mong muốn tự
khẳng định mình, khơng lệ thuộc vào người khác, có nhu cầu cao về học vấn,


22
về tình bạn, tình u nam nữ, thích cơng bằng, ghét bất cơng, thích giao lưu
và các hoạt động xã hội. Vì vậy, về mặt xã hội, sinh viên đã biết quan tâm đến
tương lai của bản thân và suy nghĩ đến sự phát triển của dân tộc. Ở họ, bước
đầu đã ý thức được trách nhiệm của người công dân cũng như nghĩa vụ của
mình đối với tổ quốc.
Về hoạt động, sinh viên khi nhập học, với tư cách là một cộng đồng xã
hội mới, hoạt động chính chi phối họ là học tập, đây chính là thời gian quá độ
chuyển từ học tập là cơ bản sang hoạt động chủ đạo là lao động về sau này,
đồng thời cũng là giai đoạn quá độ chuyển từ vị trí là học trị sang vị thế “nhà
trí thức” sinh viên hiện tại và là trí thức của tương lai. Dưới sự điều khiển,
hướng dẫn của giảng viên, hoạt động học tập của họ có tính chất nghiên cứu
nhằm nắm lấy tri thức, các kỹ năng, kỹ xảo cần thiết cho nghề nghiệp của
mình sau này. Tri thức họ được trang bị gồm tri thức cơ bản, tri thức chuyên

ngành của một lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, văn hoá… cụ thể nào đó, theo
hướng cơ bản, hiện đại và thiết thực, nhằm đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của
thị trường sức lao động, của sự phát triển đất nước và sự hội nhập khu vực
cũng như quốc tế. Hoạt động học tập, rèn luyện của nhà trường làm người
sinh viên lớn lên mọi mặt, đặc biệt là khả năng trí tuệ, tư duy độc lập, sáng tạo
ngày càng phát triển, năng lực khái quát hoá, trừu tượng hoá được nâng cao;
khối lượng tri thức, thông tin trở nên phong phú theo thời gian, con người
ngày càng trưởng thành.
Nhà trường đào tạo nhiều thế hệ sinh viên khác nhau, nhưng các thế hệ
sinh viên đều có cái chung giống nhau là: đến trường thực hiện quá trình học
tập tri thức khoa học, rèn luyện những phẩm chất đạo đức cần thiết phục vụ
cho mục tiêu phát triển đất nước trong tương lai. Các thế hệ sinh viên, trí thức
đã có sự đóng góp nhiều cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc đều thấy
nổi bật lên một điều là giữa tri thức khoa học và phẩm chất đạo đức của họ có
quan hệ mật thiết với nhau. Nhờ có phẩm chất đạo đức làm điểm tựa, làm bàn


23
đạp, đã giúp cho họ tiến xa hơn trong lĩnh vực khoa học. Ngược lại, những
tri thức khoa học của họ được kết hợp với những phẩm chất đạo đức phù
hợp với xã hội đã có ở họ, làm cho việc đóng góp của họ với xã hội trở nên
hữu ích hơn.
Sinh viên Việt Nam là một bộ phận của thanh niên Việt Nam, đây là lớp
người có trình độ học vấn nhất định, nhạy bén, năng động trong việc tiếp nhận
cái mới, khẳng định những giá trị mới, nhưng sự phát triển vẫn chưa hồn
thiện, ở họ vẫn cịn có những hạn chế nhất định: bồng bột, chủ quan, thiếu
thực tế, dễ bốc đồng, ham chuộng hình thức, bệnh cá nhân, anh hùng không
muốn thua kém ai, dễ bị dao động, bị chi phối bởi tác động của những tiêu
cực của cơ chế thị trường dẫn đến mất phương hướng về chính trị, tha hố
về đạo đức, lối sống và vì vậy, dễ bị kích động, bị lợi dụng mua chuộc, bị

lôi kéo vào các hoạt động thiếu lành mạnh, ảnh hưởng xấu đến bản thân, gia
đình và xã hội.
Sở dĩ có những nhược điểm này là vì sinh viên đang ở độ tuổi phát triển,
đang định hình về mặt nhân cách, chưa từng trải, thiếu kinh nghiệm cuộc
sống, do đó, việc định hướng rèn luyện cho sinh viên biết khắc phục mặt yếu,
phát huy mặt mạnh của mình trong học tập, đặc biệt là trong rèn luyện đạo
đức để trở thành những con người đủ đức, đủ tài, đáp ứng được yêu cầu cách
mạng của đất nước là điều rất cần thiết.
Như vậy, nói đến sinh viên là nói đến tầng lớp trí thức trẻ trong tương lai,
có trình độ, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, là những người có lịng
nhiệt tình và cũng rất nhạy cảm trong cuộc sống. Đây là nét nổi bật có ở tầng
lớp sinh viên. Những ước mơ, những hoài bảo lớn là động lực chắp cánh cho
người sinh vịên thời nay bay cao, bay xa. Với lịng nhiệt tình, tính hăng say,
khơng chịu lùi bước trước những khó khăn, thử thách của cuộc đời, đại bộ
phận sinh viên có chí tiến thủ, vươn lên trong học tập. Bên cạnh những ưu
đểm đó, trong đội ngũ sinh viên vẫn cịn tồn tại một số hạn chế như: tính bồng


24
bột, muốn tự khẳng định mình, trong khi bản thân chưa có điều kiện, và khi
thất bại thì dễ nản chí và trượt dài. Do vậy, hiểu rõ đặc điểm tâm - sinh lý lứa
tuổi sinh viên là một vấn đề hết sức quan trọng để có phương pháp giáo dục,
vận động sinh viên một cách khoa học, thiết thực, phù hợp.
1.2.2. Tầm quan trọng của việc giáo dục ý thức pháp luật cho sinh
viên hiện nay
Hiện nay, để thực hiện thành cơng sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước do Đảng ta lãnh đạo, nhằm xây dựng xã hội Việt Nam ngày càng
trở nên giàu đẹp thì chúng ta cần có nguồn lực con người vững mạnh, đó phải là
những con người mới, những con người phát triển tồn diện về mọi mặt, trong
đó, ý thức chấp hành pháp luật là một nhiệm vụ mà mỗi sinh viên cần phải được

giáo dục, rèn luyện, bởi lẽ, chính ý thức chấp hành pháp luật nghiêm chỉnh sẽ
góp phần hình thành tính tự giác, tích cực ở sinh viên. Với chiến lược phát triển
con người toàn diện phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thế hệ trẻ
Việt Nam là đối tượng cần phải chú ý đầu tiên, bởi lẽ, họ “là người chủ tương lai
của nước nhà” và “muốn hồi sinh dân tộc, trước hết phải hồi sinh thanh niên”,
trong đó, đội ngũ sinh viên có vai trị hết sức quan trọng.
Chính vì vậy, việc xây dựng, hình thành ý thức chấp hành pháp luật cho
sinh viên có một ý nghĩa quan trọng đặc biệt, khẳng định điều đó là do:
Một là, vị trí, vai trò của sinh viên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khoá X)
Đảng ta xác định: "Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, một trong những
nhân tố quan trọng quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc; là lực lượng chủ
yếu trên nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm những cơng việc địi hỏi hy sinh, gian
khổ, sức khoẻ và sáng tạo" [12, tr.35] trong đó có sinh viên.
Sinh viên là một lực lượng xã hội đặc thù, là lực lượng tinh tuý trong
thanh niên. Với họ, sức sống của tuổi trẻ, tri thức khoa học, bản lĩnh chính trị,


25
phẩm chất đạo đức và ý thức pháp luật luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Mặt
khác, sinh viên cịn là lực lượng dự bị cho đội ngũ trí thức của đất nước và khi
họ trở thành những trí thức thì sự đóng góp của họ cho đất nước càng to lớn,
càng có ý nghĩa hơn. Trong thư "Gửi Đại hội quốc tế các sinh viên xã hội chủ
nghĩa", Ph.Ăngghen viết rằng: Các bạn hãy cố gắng làm cho thanh niên ý thức
được rằng giai cấp vô sản lao động trí óc phải được hình thành từ hàng ngũ
sinh viên. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương (khoá
X) Đảng ta khẳng định:
Trong mọi thời đại, trí thức ln là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ
trí thức là lực lượng nịng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức (...)

Bằng hoạt động sáng tạo, trí thức nước ta đã có đóng góp to lớn trên
tất cả các lĩnh vực xây dựng, bảo vệ Tổ quốc [12, tr.81-82].
Thực tiễn chỉ cho chúng ta thấy, muốn có đội ngũ trí thức thì khơng thể
khơng thơng qua đào tạo cơ bản. Bước đầu tiên để xây dựng, đào tạo đội ngũ
trí thức tương lai là đào tạo họ trong trường đại học, cao đẳng. Với sinh viên,
những ngày họ học ở trường là q trình tích luỹ tri thức cơ bản, kỹ năng, kỹ
xảo, phương pháp tư duy của nghề nghiệp để tiếp tục đi sâu hơn vào sự
nghiệp khoa học sau này. Vì vậy, hơn bao giờ hết, vấn đề giáo dục ý thức
pháp luật cho đội ngũ sinh viên ngày càng trở nên cấp thiết. Ý thức pháp luật
giúp họ ý thức được trách nhiệm của tuổi trẻ với đất nước, biết sống vì mọi
người, tăng cường ý chí vượt qua những khó khăn trong q trình học tập tu
dưỡng bản thân, sống có trách nhiệm với mình và với cộng đồng. Ở đây, ý
thức pháp luật là động lực, là sức mạnh thôi thúc con người tránh xa cái ác,
cái xấu đi ngược lại với lợi ích xã hội, bảo vệ và phát triển cái tốt, cái thiện,
làm cho xã hội ngày càng phát triển.
Hai là, giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên trong các trường Đại
học, Cao đẳng bắt nguồn từ việc đề cao nhân tố con người.
Trước triết học Mác, các nhà triết học chưa có sự nhìn nhận và đánh giá
một cách đúng đắn và khách quan về con người và xã hội loài người. Chỉ đến


×