Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

vấn đề giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên việt nam hiện nay (qua khảo sát thực tế ở hà tĩnh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (658.83 KB, 97 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH



PHẠM THỊ THANH HUYỀN




VẤN ĐỀ GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT
CHO SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY
(QUA KHẢO SÁT THỰC TẾ Ở HÀ TĨNH)


Chuyên ngành : Triết học
Mã số : 60 22 80


LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN NGỌC UẨN



HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả trình bày trong luận văn là trung thực. Những
kết luận khoa học của luân văn chưa từng được công bố trong bất cứ công
trình nào.

TÁC GIẢ



Phạm Thị Thanh Huyền



MỤC LỤC


Trang
MỞ ĐẦU

1
Chương 1: TẦM QUAN TRỌNG VÀ NỘI DUNG CỦA VIỆC GIÁO
DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
7
1.1. Ý thức pháp luật - khái niệm, đặc điểm và cấu trúc 7
1.2. Tầm quan trọng và nội dung của việc giáo dục ý thức pháp luật
cho sinh viên hiện nay 20
Chương 2: GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN Ở TỈNH
HÀ TĨNH HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

32
2.1. Thực trạng giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên ở tỉnh Hà
Tĩnh hiện nay 32
2.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục giáo dục, nâng cao ý
thức pháp luật cho sinh viên ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay 66
KẾT LUẬN
89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
91



1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ý thức pháp luật là một trong những hình thái ý thức xã hội, được hình
thành, tồn tại và phát triển trong những hình thái kinh tế - xã hội đã có giai
cấp, nhà nước và pháp luật. Ý thức pháp luật thể hiện tri thức và sự đánh giá
về tính công bằng của những quy chế được chấp nhận trong một xã hội nhất
định với tính cách là luật pháp, về quyền hạn và nghĩa vụ các thành viên trong
cộng đồng, xã hội về tính hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi con
người, nó là một trong những vấn đề cơ bản, đa dạng, phức tạp của đời sống
pháp luật - xã hội.
Ý thức pháp luật phản ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế của xã hội,
trước hết là các quan hệ sản xuất được thể hiện trong hệ thống pháp luật.
Bằng việc thông qua sự duy trì, điều hành của nhà nước mà ý thức pháp luật
tác động mạnh mẽ đến cơ sở kinh tế và các hình thái ý thức xã hội khác. Mức
độ và hiệu quả sự tác động của ý thức pháp luật đối với đời sống xã hội một
phần phụ thuộc vào sự truyền bá và xâm nhập của ý thức pháp luật cả về bề
rộng và bề sâu của nó vào trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, việc tổ chức

giáo dục ý thức pháp luật nhằm nâng cao sự đồng thuận, tính tích cực và tự giác
trong việc chấp hành pháp luật cho mọi người ngày càng đóng vai trò quan trọng
và trở thành nhân tố góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Công cuộc đổi mới đất nước, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đang đi vào chiều sâu, mở rộng hội nhập quốc tế trong bối cảnh toàn cầu
hoá, thì yêu cầu tiếp tục mở rộng hiểu biết và nâng cao ý thức pháp luật
cho thanh niên nói chung, sinh viên nói riêng - họ là một bộ phận của thanh
niên, là lớp người có trình độ, có tri thức, nhiệt huyết, nhạy bén trong tiếp
thu cái mới, là “nguồn lực đặc biệt quan trọng” cho tương lai, lực lượng
xung kích trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá - là vấn đề có ý
nghĩa quan trọng và cần thiết.

2
Thực tiễn cách mạng cho thấy, ở nước ta thanh niên là thế hệ kế tục sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, lớp người xây dựng và phát triển
đất nước. Sự phát triển của thanh niên không những quan hệ đến vận mệnh và
tồn tại của đất nước mà còn ảnh hưởng đến tương lai dân tộc. Vì vậy, giáo
dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, đào tạo thanh niên thành những người
kế thừa, xây dựng chủ nghĩa xã hội ‘vừa hồng vừa chuyên” là nhiệm vụ hết
sức quan trọng, trong đó giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật cho thanh niên,
sinh viên là nhiệm vụ không thể thiếu trong bồi dưỡng phát triển thanh niên
hiện nay.
Quán triệt, thực hiện quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của thanh
niên, sinh viên trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
trong những năm qua trên phạm vi cả nước nói chung, tỉnh Hà Tĩnh nói riêng,
lực lượng thanh niên, sinh viên đã được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ
nhận thức về nhiều mặt, trong đó hiểu biết, nhận thức về pháp luật của sinh
viên từng bước được nâng cao, ý thức chấp hành pháp luật trong sinh viên có
nhiều chuyển biến… Vì vậy, đã góp phần tích cực bồi dưỡng, phát triển thanh
niên nói chung và sinh viên nói riêng đóng góp xứng đáng tài năng , trí tuệ

cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Hà Tĩnh là một tỉnh nằm ở miền trung của đất nước, là một tỉnh có
nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội. Trong những năm qua
các trường đại học, cao đẳng ở đây đã đào tạo được số lượng lớn lao động có
chất lượng cao, từng bước đáp ứng nhu cầu phát triển của. Tuy nhiên, nằm
trong bối cảnh chung của đất nước cho đến nay, Hà Tĩnh vẫn là một tỉnh có
kinh tế còn chậm phát triển, đời sống của nhân dân còn thấp, nhiều mặt của
đời sống xã hội còn nhiều hạn chế, sự hiểu biết về Hiến pháp và pháp luật của
nhân dân còn thấp kém, việc giáo dục ý thức pháp luật cho người dân nói
chung và thanh niên, sinh viên nói riêng trong tỉnh còn nhiều khó khăn, bất
cập và chưa được quan tâm đúng mức. Tình trạng vi phạm pháp luật của

3
thanh niên, sinh viên vẫn tiếp tục xẩy ra, tập trung vào một số lĩnh vực như an
toàn giao thông, trộm cắp, ma tuý, hôn nhân, gia đình…
Những mặt hạn chế nêu trên, đã và đang là những yếu tố gây ảnh
hưởng và cản trở không nhỏ đến sự đóng góp của lực lượng thanh niên, sinh
viên cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và tỉnh
Hà Tĩnh nói riêng. Do đó, việc tiếp tục giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật
cho thanh niên, sinh viên nói chung, sinh viên ở tỉnh Hà Tĩnh nói riêng là vấn
đề có ý nghĩa cơ bản, lâu dài và cấp bách. Vì thế, tác giả lựa chọn đề tài:
“Vấn đề giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên Việt Nam hiện nay (qua
khảo sát thực tế ở Hà Tĩnh)” làm luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành
Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ngoài những nội dung cơ bản về ý thức pháp luật được thể hiện trong
các tác phẩm kinh điển của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Chủ tịch Hồ
Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và các chính sách của Nhà nước
Việt Nam, trong các sách giáo khoa triết học Mác - Lênin, các giáo trình
giảng dạy trong các trường Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp về

ý thức pháp luật, thì vấn đề ý thức pháp luật và giáo dục ý thức pháp luật còn
được nhiều tác giả nghiên cứu, khai thác theo từng khía cạnh chuyên biệt và
đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Trong đó có một số công trình có liên quan
trực tiếp hay gián tiếp đến đề tài “Vấn đề giáo dục ý thức pháp luật cho sinh
viên Việt Nam hiện nay (qua khảo sát thực tế ở Hà Tĩnh)”. Cụ thể như: Lê
Quý Đình (1991), “Giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh trong nhà trường
phổ thông ở nước ta hiện nay” ,Luận án phó tiến sĩ, bảo vệ tại Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh; Nguyễn Ngọc Hưng (1993), “Pháp luật với quá
trình dân chủ hoá đời sống xã hội ở địa phương miền núi” ,Luận văn thạc sĩ,
bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Nguyễn Như Phát
(1993), “Chính sách pháp luật và ý thức pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Nhà

4
nước và Pháp luật, số 4; “Tội phạm ở Việt Nam, thực trạng, nguyên nhân và
giải pháp” (Đề tài KX.04.14, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1994); Lê Ngọc
Lan (1994), “Vấn đề giáo dục pháp luật trong các trường trung học chuyên
nghiệp và dạy nghề”, Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, số 6;
Vương Thanh Hương và Nguyễn Minh Đức đồng chủ biên (1995), “Thực
trạng phạm tội của học sinh, sinh viên trong mấy năm gần đây và vấn đề
giáo dục pháp luật trong nhà trường”, Viện nghiên cứu phát triển giáo dục,
Hà Nội; Đinh Xuân Thảo (1996), “Giáo dục ý thức pháp luật trong các
trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật)
ở nước ta hiện nay”, Luận án phó tiến sĩ, bảo vệ tại Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh; Đào Duy Tấn (2000), “Những đặc điểm của quá
trình hình thành ý thức pháp luật ở Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ,
bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Mai Thị Minh Ngọc
(2003), “Ý thức pháp luật với việc xây dựng nền dân chủ dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ, bảo vệ tại Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Trần Đức Hữu (2006), “Giáo dục ý thức
chính trị qua truyền thông đại chúng ở Quảng Trị hiện nay” Luận văn thạc

sĩ, bảo vệ tại trường Đại học Khoa học Huế; Lương Đình Hải (2006), “Xây
dựng Nhà nước pháp quyền và vấn đề dân chủ hoá xã hội ở nước ta hiện
nay” Tạp chí Triết học, số 1; “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và
các định chế xã hội ở nước ta hiện nay” của Lê Văn Quang và Văn Đức
Thanh đồng chủ biên (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006); Nguyễn Thế
Kiệt (2006), “Mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước trong xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” Tạp chí Triết học,
số 6; Nguyễn Đình Hoà “Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” Tạp chí Triết
học, số 7, 2006; Nguyễn Thị Nga (2007), “Vấn đề xây dựng ý thức xã hội
mới ở nước ta hiện nay” Tạp chí Triết học, số 4.

5
Những công trình nghiên cứu trên đã đạt được những kết quả nhất định,
và đã giải quyết được một số vấn đề về lý luận, về phương pháp, vấn đề thực
trạng, giải pháp và phương hướng của công tác giáo dục ý thức pháp luật
trong các trường đại học, cao đẳng.v.v Tuy nhiên cho đến nay, chưa có công
trình nào đi sâu nghiên cứu vấn đề giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên ở
Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích ý thức pháp luật, giáo dục ý thức pháp luật cho sinh
viên Việt Nam hiện nay, qua khảo sát thực tế ở Hà Tĩnh, đưa ra những giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên Hà Tĩnh hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên đây, nhiệm vụ của luận văn là:
- Làm rõ tầm quan trọng và nội dung của giáo dục ý thức pháp luật cho
sinh viên Việt Nam hiện nay.
- Phân tích thực trạng và nguyên nhân của việc giáo dục ý thức pháp
luật cho sinh viên ở Hà Tĩnh hiện nay

- Nêu ra những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho
sinh viên ở Hà Tĩnh hiện nay
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu về việc giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên ở Việt
Nam hiện nay và qua thực tế ở Hà Tĩnh mà đưa ra một số giải pháp chủ yếu
nhằm tiếp tục giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên tỉnh Hà Tĩnh
hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý, quan điểm cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về ý thức pháp luật, về công tác giáo dục

6
chính trị, tư tưởng nói chung và ý thức pháp luật nói riêng cho sinh viên
Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác - Lênin, luận văn sử
dụng các phương pháp cụ thể chủ yếu sau: lôgíc - lịch sử, phân tích - tổng
hợp, so sánh và hệ thống hoá …
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn làm rõ tầm quan trọng và nội dung của việc giáo dục ý thức
pháp luật cho sinh viên Việt Nam hiện nay.
- Làm rõ thực trạng giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên Hà Tĩnh
thời gian qua, trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp chủ yếu cho việc giáo
dục và nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên ở Hà Tĩnh hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho những đối tượng quan
tâm đến vấn đề này và tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy những nội
dung liên quan trong chương trình các môn lý luận Mác - Lênin ở các
trường đại học và cao đẳng, nâng cao nhận thức lý luận và việc vận dụng lý
luận vào thực tiễn.

8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 4 tiết.

7
Chương 1
TẦM QUAN TRỌNG VÀ NỘI DUNG CỦA VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC
PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1. Ý THỨC PHÁP LUẬT - KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ CẤU TRÚC
1.1.1. Khái niệm ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội trong xã hội có giai cấp;
nó tồn tại bên cạnh một số hình thái ý thức xã hội khác như: triết học, chính
trị, tôn giáo, đạo đức, nghệ thuật Theo đó, ý thức pháp luật thể hiện tri thức
và sự đánh giá về tính công bằng của những quy tắc được chấp nhận trong
một xã hội nhất định với tính cách là luật pháp, về quyền hạn và nghĩa vụ các
thành viên trong cộng đồng, xã hội, về tính hợp pháp hay không hợp pháp của
hành vi con người, nó là một trong những vấn đề cơ bản, đa dạng, phức tạp
của đời sống pháp luật.
Đời sống pháp luật đó là nhu cầu cần phải điều chỉnh những hành vi có
tính lặp đi, lặp lại thường xuyên, phổ biến của con người trong đời sống xã
hội nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp nắm quyền lực và duy trì sự ổn định của
cộng đồng xã hội. Nhu cầu cần điều chỉnh đó được con người phản ảnh một
cách tích cực và sáng tạo hình thành ý thức pháp luật.
Pháp luật ra đời cùng với Nhà nước để thực hiện quyền lực công cộng,
nó là công cụ của bộ máy nhà nước nhằm quản lý và điều chỉnh xã hội. Thực
chất của pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được thể chế hoá và được
thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Do vậy, bên cạnh sự phản
ánh sự công bằng xã hội theo những chuẩn mực nhất định, ý thức pháp luật
phản ánh sâu sắc ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội.

Ý thức pháp luật hiểu theo nghĩa thông thường thì đó là ý thức chấp
hành những quy định pháp luật của con người. Quan niệm này thường được
xem như sự đánh giá và thái độ chủ quan của một cá nhân nào đó về mức độ

8
chấp hành hành vi của một đối tượng nhất định trong việc thực hiện pháp luật
theo những quy định trong văn bản pháp lý, đó là sự đánh giá mức độ ý thức
pháp luật cao hay thấp, tốt hay xấu của họ. Cách quan niệm này đã đồng nhất
ý thức pháp luật với hình thức biểu hiện cụ thể của nó (ý thức pháp luật đồng
nghĩa với ý thức chấp hành pháp luật). Như vậy, sẽ là quá hẹp, phiến diện vì
nó chưa thể hiện rõ được vai trò, chức năng, bản chất và kết cấu của ý thức
pháp luật.
Trong khoa học lý luận, ý thức pháp luật được hiểu theo nghĩa rộng, có
tính khách quan, toàn diện và khái quát cao. Tuy nhiên, do mục đích yêu cầu
và phương diện nghiên cứu khác nhau nên cho đến nay đã xuất hiện nhiều
quan niệm khác nhau về ý thức pháp luật.
Quan niệm thứ nhất cho rằng: "Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức
xã hội, biểu thị mối quan hệ của con người đối với pháp luật" [45, tr.130]. Đây là
quan niệm mang tính khái quát cao, nhưng lại quá chung, chưa thể hiện đầy đủ
kết cấu, nội dung và nguồn gốc của ý thức pháp luật.
Cách quan niệm thứ hai: lại nhấn mạnh mặt này hay mặt khác của ý
thức pháp luật. Chẳng hạn, có quan niệm tập trung nhấn mạnh kết cấu của ý
thức pháp luật như:
Ý thức pháp luật là tổng hợp những tư tưởng quan điểm pháp luật và
tâm lý pháp luật. Hay cụ thể hơn, là tổng hợp những nhận thức, những
hiểu biết quan điểm pháp lý, những tình cảm pháp luật cùng với sự tôn
trọng và thói quen chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật [52, tr.233].
Nhấn mạnh yếu tố pháp lý của ý thức pháp luật, một quan niệm khác
lại cho rằng: ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp
những học thuyết, quan điểm, tư tưởng, tình cảm của con người, thể hiện thái

độ, sự đánh giá về tính công bằng hay không công bằng, đúng đắn hay không
đúng đắn của pháp luật, về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi
xử sự của con người, trong các hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức

9
chính trị - xã hội và của các chủ thể khác. Nếu xét theo góc độ của người làm
công tác quản lý pháp luật, quan niệm này chưa thể hiện được tính khái quát của
ý thức pháp luật. Vì rằng "tính hợp pháp hay không hợp pháp" còn cần phải
được xem xét dưới giác độ giai cấp, gắn với một thể chế nhà nước nhất định và
sự phục vụ cho giai cấp cầm quyền nào trong xã hội. Mặt khác, quan niệm trên
chỉ hàm ý áp dụng cho thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ
nghĩa, nó chưa phản ánh toàn diện kết cấu nội dung ý thức pháp luật.
Quan điểm thứ ba cho rằng:
Ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa là tổng hoà những quan điểm,
quan niệm, tình cảm về pháp luật thể hiện thái độ của giai cấp công
nhân và của nhân dân lao động do giai cấp công nhân lãnh đạo đối
với pháp luật, đối với các yêu cầu khác của pháp luật, đối với quyền
và nghĩa vụ của công dân [52, tr.196].
Theo quan niệm này, chỉ phản ảnh nội dung cơ bản ý thức pháp luật xã
hội chủ nghĩa theo thể chế chính trị Xô Viết, nhà nước xã hội chủ nghĩa theo
mô hình tập trung, kế hoạch hoá với sự thuần chất và đồng điệu giai cấp, nó
đã đề cao và nhấn mạnh yếu tố giai cấp, thực tế nó được áp dụng trong điều
kiện mô hình xã hội chủ nghĩa Xô Viết trước khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô và Đông Âu tan rã. Trong điều kiện chế độ dân chủ nhân dân, trong
thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội với sự tồn tại của
nhiều thành phần giai cấp và tầng lớp xã hội thì nó khó tránh khỏi một sự chủ
quan và phiến diện.
Quan niệm thứ tư, lại thu hẹp kết cấu ý thức pháp luật, chỉ mới nhấn
mạnh mặt tri thức pháp luật, yếu tố hợp pháp, yếu tố pháp nhân của ý thức
pháp luật, như:

Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm
và quan niệm thịnh hành trong xã hội, thể hiện thông qua sự hiểu
biết của con người đối với pháp luật hiện hành, pháp luật đã và pháp
10
luật phải có, thể hiện sự đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp
pháp trong hành vi xử sự của con người cũng như trong hoạt động
của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội [20, tr.229].
Một quan niệm khác lại tập trung nhấn mạnh ý thức pháp luật thể hiện
ý thức của chủ thể pháp luật, rằng: " ý thức pháp luật là trình độ hiểu biết của
các tầng lớp nhân dân về pháp luật ý thức pháp luật còn là thái độ đối với
pháp luật, ý thức tôn trọng hay coi thường pháp luật, đó là thái độ đối với
hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm" [51, tr.19].
Ý thức phải gắn với chủ thể, với một đối tượng nhất định, song với
cách quan niệm trên sẽ là chưa hoàn chỉnh, bởi lẽ nó chưa đề cập đến yếu tố
giáo dục, văn hoá pháp luật cũng như chức năng quản lý xã hội của Nhà nước
thông qua pháp luật. Quá nhấn mạnh khía cạnh răn đe, ngăn chặn các hành vi
vi phạm pháp luật của con người ta sẽ gây tâm trạng bắt buộc, cưỡng chế và
thụ động bởi sự áp đặt của văn bản pháp luật, quy phạm pháp luật, nó không
thể hiện tính nhân đạo ưu việt của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, có thể nói do mục đích nghiên cứu của các chủ thể, ý thức
pháp luật được xem xét theo những góc độ khác nhau nên nó cũng quan niệm
một cách khác nhau. Trên bình diện khoa học triết học, qua tham khảo các ý
kiến nêu trên, theo mục đích yêu cầu và nhiệm vụ của đề tài luận văn đặt ra,
chúng tôi quan niệm rằng: ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội. Nó
là toàn bộ các quan điểm, quan niệm của con người và thái độ của họ đối với
pháp luật xuất phát từ từ các quan hệ kinh tế, đặc biệt là quan hệ sản xuất
trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử. Mặt khác nó còn chịu sự
tác động của các hình thái ý thức xã hội khác, trước hết là ý thức chính trị, ý
thức đạo đức, ý thức thẩm mỹ, cả ý thức tôn giáo và kế thừa ý thức pháp luật
truyền thống trong lịch sử.

Vì vậy, khi nghiên cứu ý thức pháp luật không nên nhìn nhận phiến
diện một chiều mà phải đặt nó trong mối quan hệ phức tạp của đời sống xã
11
hội.
Là một hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật phản ánh sâu sắc đời
sống pháp luật, trước hết là sự phản ánh quá trình nhận thức về pháp luật, ý
thức chấp hành pháp luật của nhân dân và việc điều chỉnh hành vi của họ
nhằm duy trì trật tự kỷ cương xã hội theo pháp luật của Nhà nước. Bởi vậy, để
xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân,
vì dân ở Việt Nam, đòi hỏi một mặt phải nâng cao hiệu lực pháp luật xã hội
chủ nghĩa, mặt khác phải đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến giáo dục ý thức
pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là đối tượng sinh viên ở nước ta
hiện nay.
1.1.2. Đặc điểm của ý thức pháp luật
Là một hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật tuân thủ quy luật chung
của sự hình thành ý thức xã hội, phản ánh đời sống pháp luật mà trước hết là
nhu cầu pháp lý đặt ra của đời sống xã hội thông qua chuẩn mực pháp luật để
điều chỉnh hành vi con người nhằm thiết lập trật tự, kỷ cương xã hội theo ý
chí của giai cấp cầm quyền.
Những đặc điểm cơ bản sẽ giúp chúng ta nhận diện một cách rõ hơn về
ý thức pháp luật với tư cách là một hình thái ý thức xã hội như: chịu sự quy
định của tồn tại xã hội; tính độc lập tương đối; tính giai cấp.
Thứ nhất, ý thức pháp luật chịu sự quy định của tồn tại xã hội. Đây là
đặc điểm cơ bản chỉ rõ nguồn gốc ra đời của ý thức pháp luật. Những nhận
thức, thái độ, tình cảm, quan niệm, mong muốn của con người về pháp luật,
về nhà nước suy cho cùng đều do những điều kiện xã hội khách quan quy
định, chi phối. Trong tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức", C.Mác đã phê phán triết
học Đức trước đó khi họ
tuyên bố rằng ý thức chính trị, ý thức pháp luật, ý thức đạo đức là ý
thức tôn giáo hay ý thức thần học, rằng con người chính trị, con

người pháp luật và con người đạo đức xét cho cùng "con người nói
12
chung" - là con người tôn giáo… Người ta lấy sự thống trị của tôn
giáo làm tiền đề. Và dần dà, người ta tuyên bố mọi quan hệ thống trị
là một quan hệ tôn giáo và người ta biến quan hệ đó thành sự sùng
bái pháp luật, sùng bái nhà nước, v.v [31, tr.26-27].
C.Mác khẳng định rằng: "không phải ý thức quyết định đời sống mà
chính đời sống quyết định ý thức" [31, tr.38].
Một nền kinh tế mà ở đó người dân sản xuất ra thứ gì phải cống, nạp ít
nhiều, phải chịu đựng sưu cao, thuế nặng, sự hà khắc của luật pháp phong
kiến, người dân sẽ có thái độ chống đối pháp luật và tìm kiếm những quy định
của cộng đồng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của họ. Điều đó khác xa với
thái độ quan tâm tới pháp luật một cách tự giác, tuân thủ pháp luật một cách
tự nguyện và chủ động tham gia xây dựng pháp luật của người dân trong nền
kinh tế thị trường hiện đại.
Thứ hai, ý thức pháp luật có tính độc lập tương đối. Mặc dù ý thức
pháp luật chịu sự quy định của tồn tại xã hội, phản ánh tồn tại xã hội, nhưng
nó vẫn có sự độc lập tương đối, có những sự khác biệt, sự phát triển tự thân.
Tính độc lập tương đối của ý thức pháp luật được biểu hiện ra ở một số khía
cạnh như:
Ý thức pháp luật thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Mặc dù xã
hội cũ đã bị xã hội mới thay thế nhưng ý thức pháp luật của xã hội cũ vẫn còn
tồn tại ở xã hội mới trong một khoảng thời gian nhất định, đặc biệt là trong
lĩnh vực tâm lý pháp luật. Sự tồn tại của ý thức pháp luật của xã hội cũ dựa
trên hai lý do cơ bản, đó là: hoặc vì lợi ích giai cấp hoặc do thói quen của chủ
thể. Khi xã hội mới được thiết lập thường đi kèm với nó là sự xoá bỏ các quy
định đem lại lợi ích cục bộ cho một giai cấp nào đó hoặc cho một số ít nhóm
người trong xã hội. Vì vậy, giai cấp này muốn lưu giữ, hành động theo quy
định pháp luật cũ nhằm duy trì lợi ích của giai cấp mình, về cơ bản, sẽ đi
ngược lại, thậm chí chống lại pháp luật của xã hội mới. Còn tồn tại do thói

13
quen có thể là: thói quen hàng ngày, lâu dài, ổn định, sự thay đổi các quy định
pháp lý làm cho chủ thể không kịp thay đổi theo, hoặc chủ thể có thói quen
phản ứng với những quy định mới. Chẳng hạn, sự phản ứng của người dân về
sự thay thế tiền đồng bằng tiền giấy của triều đại nhà Hồ, mặc dù đây là một
cải cách mà cho đến nay đã chứng minh được tính hiện đại và đúng đắn của
nó. Ngoài nguyên nhân trên, tính lạc hậu của ý thức pháp luật so với tồn tại xã
hội sản sinh ra nó còn thể hiện sự vận động, thay đổi, phát triển không ngừng
của tồn tại xã hội, của thực tiễn. C.Mác từng lưu ý chúng ta: "Tư duy của con
người không theo kịp tiến trình của các sự kiện" [35, tr.41]. Pháp luật phản
ánh các lợi ích xã hội tất nhiên là sau khi có sự thay đổi của các điều kiện
kinh tế - xã hội và nhất là phải sau đó một khoảng thời gian nhất định đủ để
nhận thức, đo lường và cân nhắc các điều kiện thay đổi đó. Độ dài của khoảng
thời gian đó có thể khác nhau, tuỳ thuộc vào tính chất của các quan hệ xã hội,
vào mối quan hệ và sự mong muốn của các giai cấp và vào một số nhân tố
khác như tư tưởng và lý luận tiên tiến, khuynh hướng phát triển chung của
nhà nước và pháp luật v.v
Mặc dù ý thức pháp luật thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội,
nhưng trong những điều kiện nhất định, những tư tưởng pháp luật tiến bộ
mang tính khoa học có thể đi trước so với tồn tại xã hội. Điều đó thể hiện:
xuất phát từ những ý tưởng, do tầm nhìn của chủ thể và nếu tư tưởng pháp
luật đó là của giai cấp thống trị thì nó có thể được ghi nhận, được thể chế hoá
và sẽ thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
Ý thức pháp luật phản ánh tồn tại xã hội của thời đại sinh ra nó, nhưng
nó có tính kế thừa một số yếu tố nhất định của ý thức pháp luật của các thời
đại trước đó. Các tư tưởng, quan điểm của pháp luật tiến bộ của xã hội này có
thể sử dụng trong một xã hội khác.
Tính tương đối của ý thức pháp luật còn thể hiện ở chỗ: một mặt nó
chịu sự quy định của tồn tại xã hội, nhưng mặt khác nó lại tác động trở lại đối
14

với tồn tại xã hội, tác động tới ý thức chính trị, ý thức đạo đức v.v các yếu tố
khác của thượng tầng kiến trúc xã hội như nhà nước, pháp luật v.v Sự tác
động này cũng diễn ra theo hai hướng: nếu ý thức pháp luật tiến bộ thì sẽ tác
động thúc đẩy sự phát triển của tồn tại xã hội và các yếu tố nêu trên. Ngược
lại, ý thức pháp luật lạc hậu, bảo thủ sẽ là lực cản kìm hãm sự phát triển của
kinh tế - xã hội, kìm hãm sự năng động sáng tạo của con người.
Trong các hình thái ý thức xã hội mà ý thức pháp luật tác động, mối liên
hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại giữa ý thức pháp luật với ý thức chính trị và
ý thức đạo đức diễn ra rõ rệt hơn và tương hỗ cho nhau cùng phát triển.
Ý thức pháp luật và ý thức đạo đức cùng phản ánh tồn tại xã hội, nhưng
khác nhau ở phương thức và kết quả phản ánh: ý thức pháp luật phản ánh đời
sống pháp luật xã hội, mà kết quả phản ánh được mô hình hoá thành quyền và
nghĩa vụ mang tính bắt buộc chung, được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh
cưỡng chế từ nhà nước để điều chỉnh hành vi con người; còn ý thức đạo đức
phản ánh tồn tại xã hội dưới dạng các quy tắc điều chỉnh hành vi con người
bằng lương tâm và sự tự điều chỉnh, tự đánh giá về hành động của mình, hoặc
cùng lắm là chịu sức ép của dư luận xã hội. Mặc dù có sự khác nhau như trên,
nhưng cả hai có mối quan hệ tác động qua lại và hỗ trợ, làm tiền đề cho nhau
trong sự hình thành và phát triển. Trong đó, ý thức đạo đức có vai trò đặc biệt
quan trọng trong quá trình hình thành và thúc đẩy con người ngày càng nâng
cao ý thức pháp luật của mình một cách tự giác. Cùng với pháp luật, các quy
phạm đạo đức hàng ngày, hàng giờ cùng đang tham gia điều chỉnh các lĩnh
vực sinh hoạt xã hội một cách có hiệu quả. Các quy phạm đạo đức có ý nghĩa
bổ sung cho pháp luật trong điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Tuy cùng ra đời và tồn tại với ý thức chính trị trong xã hội có giai cấp,
ý thức pháp luật vừa có tính độc lập tương đối, vừa chịu sự chi phối của ý
thức chính trị. Ý thức chính trị phản ánh các quan hệ chính trị, kinh tế giữa
các giai cấp, các quốc gia dân tộc, cũng như thái độ của các giai cấp đối với
15
quyền lực nhà nước, nó thể hiện trực tiếp và tập trung lợi ích giai cấp. Còn ý

thức pháp luật phản ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế - xã hội, trước hết là các
quan hệ sản xuất, thể hiện trong các bộ luật, luật của nhà nước. Mỗi chế độ xã
hội có giai cấp, có nhà nước chỉ có một hệ thống pháp luật duy nhất, thể hiện ý
chí của giai cấp cầm quyền. Dù trong xã hội còn có hệ tư tưởng, quan điểm
pháp luật của các giai cấp khác, thể hiện ý chí và phản ánh lợi ích riêng của các
giai cấp đó, nhưng đều bị chi phối bởi ý chí của giai cấp cầm quyền. Như vậy,
trong mối quan hệ với ý thức chính trị, ý thức pháp luật bị chi phối, ảnh hưởng
bởi ý thức chính trị và điều đó quy định tính giai cấp của ý thức pháp luật.
Thứ ba, ý thức pháp luật luôn mang tính giai cấp. C.Mác đã viết:
Trong mọi thời đại, những tư tưởng của giai cấp thống trị là những
tư tưởng thống trị. Điều đó có nghĩa là giai cấp là lực lượng vật chất
thống trị trong xã hội thì cũng là lực lượng tinh thần thống trị trong xã
hội. Giai cấp nào chi phối những tư liệu sản xuất thì cũng chi phối luôn
cả những tư liệu sản xuất tinh thần… những tư tưởng thống trị không
phải là cái gì khác mà chỉ là sự biểu hiện tinh thần của những quan hệ
vật chất thống trị, chúng là những quan hệ vật chất thống trị được biểu
hiện dưới hình thức tư tưởng… [31, tr.66-67].
Xét riêng trong mối quan hệ giữa ý thức pháp luật và pháp luật thì ý
thức pháp luật là cái lõi. Pháp luật là quá trình vật chất hoá ý thức pháp luật,
biến ý thức pháp luật thành các quy phạm pháp luật thực định. Trong xã hội có
giai cấp, nhu cầu sử dụng các quy tắc để điều chỉnh hành vi của con người trong
đời sống cộng đồng được giai cấp nhận thức và hình thành nên ý thức pháp luật
của giai cấp mình. Xuất phát từ lợi ích giai cấp, những giai cấp khác nhau sẽ
nhìn nhận nhu cầu điều chỉnh hành vi của con người khác nhau. Trong một xã
hội có nhiều giai cấp thì ý thức pháp luật cũng khác nhau, thậm chí ý thức pháp
luật của một giai cấp cũng không thuần nhất. Trong đó, ý thức pháp luật giữ địa
vị thống trị là ý thức pháp luật của giai cấp nắm quyền lực nhà nước. Các giai
16
cấp bị trị chịu ảnh hưởng và tác động của ý thức pháp luật của giai cấp thống trị,
bắt buộc phải tuân theo ý thức pháp luật của giai cấp thống trị.

1.1.3. Cấu trúc của ý thức pháp luật
Cấu trúc của ý thức pháp luật là cách thức tổ chức bên trong của ý thức
pháp luật. Trong đó các nhân tố cấu thành của ý thức pháp luật vừa thống nhất
với nhau vừa tác động và ảnh hưởng lẫn nhau.
Tuỳ từng góc độ nghiên cứu khác nhau mà chúng ta có thể xem xét ý
thức pháp luật bao gồm những thành tố nhất định.
Xét về trình độ bao gồm: ý thức pháp luật lý luận (ý thức pháp luật
khoa học) và ý thức pháp luật thông thường.
Ý thức pháp luật thông thường là những quan niệm, hiểu biết nhất định
của chủ thể về các quy phạm pháp luật, hình thành một cách trực tiếp trong
hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hoá, khái quát hoá. ý thức
pháp luật thông thường phản ánh những hiện tượng pháp lý - xã hội mang tính
bề ngoài, chưa đi sâu vào bản chất của vấn đề, về chức năng giải thích các sự
kiện pháp lý cũng như tập quán, thói quen, tiêu chuẩn hành vi. ý thức pháp luật
thông thường có ưu điểm là phản ánh một cách sinh động, trực tiếp, chân thực
các hiện tượng pháp lý, nó có tính phong phú, gần gũi với cuộc sống, trong nhiều
trường hợp, ý thức pháp luật này lại góp phần nâng cao sự hiểu biết pháp luật
của quần chúng nhân dân lao động có hiệu quả hơn ý thức pháp luật lý luận. Hơn
nữa, ý thức pháp luật thông thường có vai trò rất quan trọng, làm tiền đề cho sự
hình thành các ý tưởng khoa học, các lý thuyết khoa học về pháp luật.
Ý thức pháp luật lý luận tồn tại dưới dạng các quan điểm, học thuyết,
trường phái pháp lý khác nhau về bản chất của pháp luật, về sự tương tác giữa
pháp luật với các hiện tượng xã hội khác như chính trị, đạo đức, văn hoá v.v
Những quan điểm về pháp luật mang tính lý luận, khoa học thường có tính
khái quát hoá, hệ thống hoá cao, được xây dựng trên cơ sở khoa học đúc kết
từ thực tiễn. Nó có vai trò chỉ đạo, hướng dẫn ý thức pháp luật thông thường.
Căn cứ vào chủ thể mang ý thức pháp luật, có thể phân chia ý thức
17
pháp luật thành ý thức pháp luật cá nhân, ý thức pháp luật nhóm (tập thể), ý
thức pháp luật xã hội.

Ý thức pháp luật cá nhân là những tư tưởng và tâm lý pháp luật của
mỗi con người cụ thể, hình thành dưới ảnh hưởng của các quan hệ pháp luật
mà cá nhân sinh sống. Do có sự khác biệt về điều kiện sống, môi trường giáo
dục, hoàn cảnh gia đình, trình độ học vấn, kinh nghiệm, v.v mà ý thức pháp
luật của mỗi cá nhân cũng khác nhau, đa dạng và phong phú, đặc biệt là về
trình độ ý thức pháp luật.
Ý thức pháp luật nhóm phản ánh những đặc điểm của từng nhóm xã hội
nhất định. Sự tồn tại của các nhóm xã hội khác nhau được liên kết lại vì
những mục tiêu, lợi ích nhất định, nghề nghiệp và trong những điều kiện sống
có nhiều nét tương đồng. Do vậy, mỗi nhóm xã hội có những quan niệm, tư
duy, thái độ, tình cảm, cách đánh giá tương đối giống nhau đối với các quy
phạm pháp luật hiện hành.
Ý thức pháp luật xã hội phản ánh quan hệ đối với pháp luật của một xã
hội. Là tổng thể những tư tưởng và tâm lý pháp luật phản ánh đời sống pháp
luật. Ý thức pháp luật xã hội xuất phát từ ý thức pháp luật cá nhân nhưng
không phải là tổng số giản đơn các ý thức pháp luật cá nhân, mà là một hệ
thống hoàn chỉnh, hình thành từ sự tác động lẫn nhau giữa ý thức pháp luật cá
nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể. Ý thức pháp luật xã hội luôn vận động
theo xu hướng phát triển của xã hội và chịu sự quy định bởi ý thức pháp luật
của bộ phận giai cấp cầm quyền (giai cấp thống trị). Ý thức pháp luật xã hội
còn được thể hiện trong quan điểm mang tính nguyên tắc là pháp luật phải vì
con người, vì những lợi ích chính đáng của con người.
Ý thức pháp luật cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, xét về cấp
độ, nó bao gồm tâm lý pháp luật và hệ tư tưởng pháp luật.
Tâm lý pháp luật được hình thành trong hoạt động thực tiễn của con
người trên bình diện cá nhân và các nhóm xã hội. Tâm lý pháp luật gắn liền
với các hiện tượng tâm lý con người, đó chính là các cảm xúc, tâm trạng, tình
18
cảm, thói quen,tập quán, truyền thống, niềm tin, thái độ đối với pháp luật và
các hiện tượng pháp lý khác.

Truyền thống, thói quen, niềm tin pháp luật là những yếu tố tương đối
ổn định. Trong lịch sử, nhiều truyền thống pháp luật tốt đẹp được lưu giữ và phát
huy. Chính nó giúp cho con người hoạt động tự tin, kiên định, nó là nhân tố biểu
lộ tích cực, tiến bộ nên thường được tuyên truyền, khuyến khích phát triển.
Tình cảm pháp luật, tâm trạng pháp luật là nhân tố rất quan trọng trong
tâm lý pháp luật. Bởi vì trong thực tế cuộc sống, một số quy định pháp luật ra
đời phù hợp với lợi ích, nguyện vọng, nhu cầu của con người thì xuất hiện
trong họ tình cảm hưng phấn, thái độ tích cực. Ngược lại, nếu những quy định
đó đi trái với mục đích và lợi ích của họ thì xuất hiện trạng thái tiêu cực,
chống đối, miễn cưỡng khi chấp hành.
Tâm lý pháp luật được hình thành một cách tự phát, thiếu tính hệ thống
nhưng nó có tính bền vững, ít biến đổi và tính bảo thủ cao. Tâm lý pháp luật
của các cá nhân chịu sự tác động mạnh mẽ, thường xuyên từ phía các yếu tố
khách quan và chủ quan như môi trường xã hội, tình trạng kinh tế, văn hoá,
tôn giáo, học vấn, tính cách, các mối quan hệ gia đình và xã hội của cá nhân
Ví dụ như: tâm lý sợ hãi pháp luật; thái độ thờ ơ, lãnh đạm với những vi phạm
pháp luật nơi công cộng hay tình cảm, thái độ không khoan nhượng với
những hành vi vi phạm pháp luật: cướp giật trên đường phố, trộm cắp, móc
túi, đánh bạc hay gây tai nạn giao thông rồi bỏ chạy…
Yếu tố quan trọng nhất của tâm lý pháp luật là thái độ đối với pháp
luật, nó được thể hiện ra bên ngoài của hành vi con người đối với các quy
định pháp luật. Đó là thái độ đồng tình hay phản đối, thờ ơ hay trân trọng,
xem thường hay tôn trọng pháp luật thông qua thái độ ấy mà con người thể
hiện niềm tin, trạng thái tâm lý khác nhau trong thực hiện hành vi ứng xử.
Thái độ đối với pháp luật có thể chia thành hai loại biểu hiện, đó là thái
độ tôn trọng pháp luật và thái độ coi thường pháp luật. Thái độ tôn trọng pháp
19
luật là việc chấp hành pháp luật thông qua hành vi tuân thủ pháp luật trong
hoạt động và trong thực tế cuộc sống. Thái độ coi thường pháp luật, đó là sự
thờ ơ, không quan tâm đến những quy định của pháp luật hoặc chống đối

pháp luật.
Trong xã hội có lợi ích đối kháng, thái độ cố tình vi phạm pháp luật của
quần chúng lao động, cách mạng là để phản đối lại các đạo luật bất công đi
ngược lại lợi ích của nhân dân.
Trong điều kiện ở nước ta hiện nay, lại có những cá nhân, nhóm xã hội
cố tình vi phạm pháp luật là để làm ăn phi pháp, trục lợi cho cá nhân làm thiệt
hại cho xã hội, đó là điều chúng ta cần lên án.
Vì vậy, thái độ coi thường pháp luật cũng có thể là tích cực hoặc tiêu
cực, điều này phụ thuộc nhiều vào hoàn cảnh lịch sử.
Hệ tư tưởng pháp luật là tổng thể các tư tưởng, học thuyết về pháp luật, phản
ánh đời sống pháp luật một cách sâu sắc và được hình thành một cách tự giác.
Hệ tư tưởng pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội
có giai cấp một cách sâu sắc. Mỗi một chế độ chính trị - xã hội ở mỗi quốc gia
dân tộc, ở mỗi thời đại khác nhau, hệ tư tưởng pháp luật chính thống bao giờ
cũng là hệ tư tưởng thống trị. Nó sẽ là tiến bộ, dân chủ, khoa học, cách mạng
khi giai cấp cầm quyền là lực lượng tiến bộ, có lợi ích kinh tế - xã hội phù
hợp với lợi ích của số đông quần chúng và đại diện cho những lợi ích đó.
Ngược lại, hệ tư tưởng pháp luật sẽ trở nên lạc hậu khi nó đối lập với sự phát
triển của xã hội. Tuy nhiên, điều đó chỉ xảy ra khi giai cấp cầm quyền trở
thành lực lượng bảo thủ, phản động.
Những quan điểm, tư tưởng, học thuyết pháp luật chủ yếu đề cập đến
vai trò, bản chất giai cấp, các thuộc tính, giá trị của pháp luật cũng như mối
quan hệ giữa pháp luật với dân chủ, công bằng, tự do, quyền con người, mối
quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ pháp lý trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước, về nhận thức, sáng tạo và thực hiện pháp luật.
20
So với tâm lý pháp luật thì hệ tưởng pháp luật mang tính lý luận khoa
học, tính hệ thống hơn. Tư tưởng pháp luật thể hiện sự nhận thức khoa học về
pháp luật với tư cách là công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội, nó có tính chiều sâu
hơn tâm lý pháp luật trong nhận thức pháp luật. Nhưng điều đó không có nghĩa

là hệ tư tưởng pháp luật có vị trí cao hơn, quan trọng hơn hay đứng trước so với
tâm lý pháp luật. Đây là hai bộ phận của ý thức pháp luật tồn tại trong mối
quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau rất chặt chẽ. Tâm lý pháp luật ra
đời và phản ánh thái độ, tình cảm của con người đối với pháp luật một cách
chưa hoàn chỉnh, mức độ cảm xúc, tình cảm pháp luật của con người phụ thuộc
vào trình độ tư tưởng pháp luật của cá nhân và chịu sự chi phối của hệ tư tưởng
pháp luật. Ngược lại, sự phát triển và hoàn thiện của hệ tư tưởng pháp luật cũng
chịu ảnh hưởng của tâm lý pháp luật, nó là điều kiện, tiền đề kích thích tư duy
sáng tạo của con người, hướng họ vươn lên trình độ tư tưởng pháp luật.
V.I.Lênin đã từng cho rằng: "Không có sự "xúc cảm của con người" thì xưa
nay không có và không thể có sự tìm tòi chân lý" [27, tr.131].
Sự phân chia ý thức pháp luật thành các bộ phận, dù theo tiêu chí nào,
cũng chỉ mang ý nghĩa tương đối, phục vụ cho các mục đích khảo sát, nghiên
cứu. Bởi vì các bộ phận hợp thành ấy luôn nằm trong mối quan hệ chặt chẽ
với nhau, tác động qua lại và bổ sung cho nhau.
Tóm lại, khi nói đến kết cấu của ý thức pháp luật là cách thức tổ chức
bên trong của ý thức pháp luật. Nó bao gồm nhiều nhân tố cấu thành, tùy theo
góc độ nghiên cứu mà người ta phân chia ý thức pháp luật theo các cách thức
khác nhau.
1.2. TẦM QUAN TRỌNG VÀ NỘI DUNG CỦA VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC
PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN HIỆN NAY
1.2.1. Đặc điểm của sinh viên
“Sinh viên” là thuật ngữ dùng để chỉ những người đang học tập ở các
trường đại học và cao đẳng. Ở một số nước, nội hàm của khái niệm sinh viên
21
được mở rộng hơn. Chẳng hạn, ở nước Pháp, thuật ngữ: “sinh viên” không chỉ
dùng để gọi những người đang học trong các trường đại học và cao đẳng, mà
còn dùng cho cả những người đang học trong các trường trung học và các
trường dạy nghề.
Sinh viên là đội ngũ trí thức trong tương lai, là lực lượng trẻ có học

thức, họ là những người nhạy cảm với cái mới, năng động và sáng tạo, là chủ
nhân tương lai của đất nước. Sinh viên là một tầng lớp xã hội luôn được gia
đình, nhà trường và xã hội hết sức quan tâm. Bởi lẽ, ngay từ khi đất nước còn
chiến tranh, sinh viên Việt Nam đã từng gắn bó và có những đóng góp lớn lao
vào sự nghiệp cách mạng và thắng lợi của dân tộc ta. Ngày nay, trong sự phát
triển của đất nước, sinh viên Việt Nam có vai trò hết sức to lớn. Tại Đại hội
sinh viên toàn quốc lần thứ V, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã khẳng định:
Sự nghiệp đổi mới của đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công hay
không thành công, đất nước ta bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong
cộng đồng thế giới hay không, chủ yếu do thế hệ thanh niên hiện nay quyết
định, trong đó sinh viên là một bộ phận có vai trò hết sức quan trọng.
Độ tuổi chủ yếu của họ trong khoảng 18 đến 25, lứa tuổi này ở con người
đã có sự trưởng thành nhất định về mặt sinh học lẫn quan hệ xã hội.
Về mặt sinh học, sinh viên ở giai đoạn thanh niên của đời người, cơ thể
đang dần đi đến hoàn thiện về mọi mặt: cơ bắp, chiều cao, trọng lượng tăng
nhanh, các đặc điểm sinh lý, giới tính phát triển đến độ chín muồi, đặc biệt là
sự phát triển của bộ não. Có thể nói, đây là độ tuổi cơ thể con người đang ở
thời kỳ hài hoà, đẹp đẽ với sinh lực dồi dào nhất.
Về đời sống tâm lý, xã hội, ở sinh viên có sự phong phú, phức tạp, bộc lộ
nhiều mối quan hệ khác nhau, phản ánh tồn tại xã hội nhiều vẻ, đa dạng. Với
tâm lý nhạy cảm, thích cái mới lạ, ưa tìm tòi, khám phá, sáng tạo, sinh viên là
những người giàu ước mơ, hoài bảo, giàu trí tưởng tượng, luôn mong muốn tự
khẳng định mình, không lệ thuộc vào người khác, có nhu cầu cao về học vấn,
22
về tình bạn, tình yêu nam nữ, thích công bằng, ghét bất công, thích giao lưu
và các hoạt động xã hội. Vì vậy, về mặt xã hội, sinh viên đã biết quan tâm đến
tương lai của bản thân và suy nghĩ đến sự phát triển của dân tộc. Ở họ, bước
đầu đã ý thức được trách nhiệm của người công dân cũng như nghĩa vụ của
mình đối với tổ quốc.
Về hoạt động, sinh viên khi nhập học, với tư cách là một cộng đồng xã

hội mới, hoạt động chính chi phối họ là học tập, đây chính là thời gian quá độ
chuyển từ học tập là cơ bản sang hoạt động chủ đạo là lao động về sau này,
đồng thời cũng là giai đoạn quá độ chuyển từ vị trí là học trò sang vị thế “nhà
trí thức” sinh viên hiện tại và là trí thức của tương lai. Dưới sự điều khiển,
hướng dẫn của giảng viên, hoạt động học tập của họ có tính chất nghiên cứu
nhằm nắm lấy tri thức, các kỹ năng, kỹ xảo cần thiết cho nghề nghiệp của
mình sau này. Tri thức họ được trang bị gồm tri thức cơ bản, tri thức chuyên
ngành của một lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, văn hoá… cụ thể nào đó, theo
hướng cơ bản, hiện đại và thiết thực, nhằm đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của
thị trường sức lao động, của sự phát triển đất nước và sự hội nhập khu vực
cũng như quốc tế. Hoạt động học tập, rèn luyện của nhà trường làm người
sinh viên lớn lên mọi mặt, đặc biệt là khả năng trí tuệ, tư duy độc lập, sáng tạo
ngày càng phát triển, năng lực khái quát hoá, trừu tượng hoá được nâng cao;
khối lượng tri thức, thông tin trở nên phong phú theo thời gian, con người
ngày càng trưởng thành.
Nhà trường đào tạo nhiều thế hệ sinh viên khác nhau, nhưng các thế hệ
sinh viên đều có cái chung giống nhau là: đến trường thực hiện quá trình học
tập tri thức khoa học, rèn luyện những phẩm chất đạo đức cần thiết phục vụ
cho mục tiêu phát triển đất nước trong tương lai. Các thế hệ sinh viên, trí thức
đã có sự đóng góp nhiều cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc đều thấy
nổi bật lên một điều là giữa tri thức khoa học và phẩm chất đạo đức của họ có
quan hệ mật thiết với nhau. Nhờ có phẩm chất đạo đức làm điểm tựa, làm bàn

×