Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

Văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ ở tỉnh quảng bình hiện nay (qua khảo sát cán bộ cấp huyện thuộc diện ban thường vụ tỉnh ủy quản lý)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.48 KB, 119 trang )

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Mối quan hệ giữa văn hố với chính trị có ý nghĩa rất to lớn đối với sự
nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước. Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện
đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, chuyển từ cơ chế tập
trung, bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi đội
ngũ cán bộ phải có bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, năng lực tư duy trí
tuệ… phù hợp với u cầu mới. Trong đó, văn hóa chính trị là một động lực
quan trọng thúc đẩy tính tích cực của các chủ thể chính trị nhằm thực hiện
mục tiêu chung của sự nghiệp đổi mới.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (Khoá VIII) cho rằng: “Phải xây
dựng văn hoá từ trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước” như Bác Hồ đã dạy
để “Đảng ta là đạo đức, là văn minh””. Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ X
của Đảng đã nhấn mạnh “Bảo đảm gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế
là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với phát triển văn hoá - nền tảng
tinh thần của xã hội. Đặc biệt nâng cao vai trị văn hố lãnh đạo và quản
lý”. Các văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ tư, thứ năm (Khoá X) về:
Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, bộ máy Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị xã hội; Về tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị… đều gắn văn
hóa với chính trị.
Văn hóa chính trị tác động đến việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
- những người giữ trọng trách trong các cơ quan và hệ thống chính trị, đồng
thời tác động đến sự tồn tại và phát triển của một Đảng cầm quyền vì nó chính
là nguồn sức mạnh bên trong của chính bản thân cơ thể chính trị.
Thực tiễn, đội ngũ cán bộ chúng ta nhìn chung đã đạt đến trình độ văn
hóa chính trị nhất định, đáp ứng cơ bản yêu cầu sự nghiệp đổi mới của đất
nước. Song toàn Đảng, toàn dân ta ra sức phấn đấu từng bước thực hiện mục



2
tiêu: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; vì dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, cơng bằng, văn minh trong bối cảnh quốc tế có những diễn biến phức
tạp, khó lường; thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức đan xen tác động
lẫn nhau. Một bộ phận cán bộ vẫn còn thiếu hụt những giá trị văn hóa chính
trị như: giác ngộ lý tưởng cách mạng cịn hời hợt, hạn chế về trình độ và năng
lực nhận thức, khả năng hoạt động thực tiễn yếu, sa sút phẩm chất đạo đức
cách mạng… dẫn tới nguy cơ đối với vận mệnh của Đảng, gây mất ổn định
chính trị xã hội. Trong đó, một bộ phận cán bộ cấp huyện thuộc diện Ban
Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Bình quản lý - những người tổ chức, chỉ đạo cấp
cơ sở, những người quyết định việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh và công tác xây dựng Đảng của cấp huyện trên
địa bàn tỉnh Quảng Bình cũng khơng ngoại lệ.
Đối với tỉnh Quảng Bình, thời gian qua, đội ngũ cán bộ cấp huyện thuộc
diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Bình quản lý (CBCHTDBTVTUQBQL) đã
phấn đấu vươn lên về mọi mặt, họ đã tạo nên sắc diện văn hóa chính trị cho
chính mình trong đời sống chính trị. Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo,
tổ chức thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và công tác
xây dựng Đảng trong giai đoạn hiện nay, đội ngũ CBCHTDBTVTUQBQL vẫn
bộc lộ những bất cập hạn chế. Do vậy, phải có những giải pháp để khắc phục và
nâng cao văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ nêu trên. Việc nghiên cứu và
phát huy nhân tố văn hóa chính trị cũng chính là một trong những giải pháp
cấp bách hiện nay.
Từ nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của văn hóa chính trị trong
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như thực tiễn và những
vấn đề đặt ra hiện nay của Tỉnh, việc chọn đề tài: “Văn hóa chính trị của đội
ngũ cán bộ ở tỉnh Quảng Bình hiện nay (Qua khảo sát cán bộ cấp huyện
thuộc diện Ban thường vụ Tỉnh ủy quản lý) ” làm luận văn thạc sĩ chun
ngành Văn hóa học có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.



3

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về văn hóa chính trị nói chung và văn hóa chính trị gắn liền
với việc nâng cao chất lượng chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị
đang ngày được quan tâm của các chuyên ngành khoa học văn hóa học, triết
học, chính trị học, lãnh đạo học…. Sau đây là một số cơng trình tiêu biểu:
- Văn hóa cơng dân của G. Almonde và Verba (Hoa kỳ), Văn hóa chính
trị của Pye (Anh) và một số tác giả người Nga như Nhicốpva hay Antinovic…
Ở Trung Quốc được các học giả Trường Đảng Cộng sản Trung Quốc
nghiên cứu với cách tiếp cận văn minh tinh thần với việc xây dựng CNXH
gắn liền với chiến lược phát triển thế hệ lãnh đạo mới.
Ở Việt Nam ngoài hệ thống các chuyên đề được giảng dạy cho các
chuyên ngành Văn hóa học, Chính trị học… có thể kể một số cơng trình cụ
thể sau:
- “Văn hóa chính trị Việt Nam - truyền thống và hiện đại” của Nguyễn
Hồng Phong.
- Vai trò của văn hóa chính trị đối với cơng cuộc đổi mới ở nước ta
hiện nay, Luận văn Thạc sĩ của tác giả Lê Tấn Lập.
- “Văn hóa chính trị và việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước
ta hiện nay” do PGS.TS Phạm Ngọc Quang chủ biên.
- “Nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ lãnh đạo quản lý ở nước ta
hiện nay” của Tiến sĩ Lâm Quốc Tuấn.
- “Văn hóa chính trị với các cuộc vận động quần chúng nhân dân trong
tình trạng hiện nay” của GS.TS Hồng Chí Bảo.
- “Văn hố chính trị và lịch sử dưới góc nhìn văn hố chính trị” của
PGS.TS Phạm Hồng Tung.
Nghiên cứu chất lượng đội ngũ đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở
nước ta hiện nay là đề tài khá quen thuộc của khoa học chính trị. Tỉnh Quảng

Bình cũng có những cơng trình khoa học về cán bộ, đó là hai đề tài của Sở
Nội vụ và Ban tổ chức Tỉnh ủy là:


4
- “Một số giải pháp về nâng cao nguồn nhân lực Quảng Bình”, 2006.
- “Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của đội ngũ đảng viên và các tổ
chức cơ sở đảng”, 2010.
Qua nghiên cứu các cơng trình, chun đề, chuyên luận và các văn bản,
chúng tôi nhận thấy hiện chưa có một tài liệu nào đề cập, đi sâu nghiên cứu cụ thể
về văn hóa chính trị của đội ngũ CBCHTDBTVTUQBQL trong giai đoạn hiện nay.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận chung về văn hóa chính trị,
cũng như vị trí, vai trị và đặc điểm của đội ngũ CBCHTDBTVTUQBQL,
luận văn đánh giá, phân tích thực trạng văn hóa chính trị của đội ngũ
CBCHTDBTVTUQBQL, từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ này đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính
trị của các huyện, thành phố của tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Làm rõ những vấn đề lý luận về văn hóa chính trị như: khái niệm, cấu
trúc, đặc điểm, chức năng của VHCT.
Khảo sát, phân tích thực trạng văn hóa chính trị của đội ngũ CBCHTD
BTVTUQBQL, chỉ ra những ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân và rút ra bài
học kinh nghiệm.
Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để nâng cao văn hóa chính trị của đội
ngũ CBCHTDBTVTUQBQL.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu văn hóa chính trị của đội ngũ CBCHTDBTVTUQBQL.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt thời gian: nghiên cứu, đánh giá thực trạng VHCT của đội ngũ
CBCHTDBTVTUQBQL từ 2006 đến nay. Các giải pháp đề xuất hướng đến
năm 2020.


5
Về không gian: Luận văn khảo sát, nghiên cứu chất lượng văn hóa
chính trị của độ ngũ CBCHTDBTVTUQBQL và các hoạt động của Tỉnh ủy,
Thành ủy, Huyện ủy ở Quảng Bình để tạo nên chất lượng văn hóa chính trị
của đội ngũ này.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chính trị và về văn hóa chính trị.
- Để hịan thành các mục tiêu nghiên cứu, luận văn vận dụng phương
pháp nghiên cứu liên ngành văn hóa học, chính trị học, xã hội học và các
phương pháp cụ thể: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so
sánh và đối chiếu.

6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn đóng góp một cái nhìn về văn hóa chính trị từ góc độ văn hóa
học. Việc tiếp cận văn hóa chính trị trong luận văn được diễn ra từ cả hai
phương diện: lý luận và thực tiễn. Luận văn vừa làm rõ hơn những vấn đề
lý luận về văn hóa chính trị đồng thời vừa áp dụng lý luận đó vào trường
hợp cụ thể; đó là phân tích, đánh giá văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ
tỉnh Quảng Bình và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao văn hóa chính trị
cho đội ngũ này.

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận: Trên cơ sở kế thừa các cơng trình khoa học đi trước,
luận văn góp phần hệ thống hóa và làm sâu sắc hơn về văn hóa chính trị từ
góc độ văn hóa học.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần làm rõ thực trạng văn hóa chính trị ở
cả hai phương diện thành tựu và hạn chế của một nhóm đối tượng có vị trí quan
trọng trong hệ thống chính trị ở cơ sở, đó là đội ngũ CBCHTDBTVTUQBQL.
Những đánh giá về thực trạng cũng như những đề xuất về phương hướng, giải


6
pháp của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho Tỉnh ủy Quảng
Bình trong việc đánh giá và xây dựng chiến lược cán bộ của Tỉnh. Đồng thời,
kết quả này cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác giảng
dạy và nghiên cứu về cơng tác cán bộ ở Trường chính trị tỉnh Quảng Bình.
8. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.


7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ
CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ

1.1.1. Khởi nguồn các cách tiếp cận về văn hóa chính trị
Ở phương Đơng, Nho giáo đã mở đầu cho truyền thống tiếp cận văn
hóa chính trị trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Mệnh đề “việc chính trị cốt ở

tâm của người trị dân” là mệnh đề bất hủ của Khổng Tử.
Quan điểm của Khổng Tử tiếp tục được phát triển bởi các thế hệ học trị
của ơng. Mạnh Tử đã đề ra tư tưởng “văn trị giáo hóa” (nghĩa là chính trị gắn
với giáo dục): “Chính giỏi khơng thể tranh thủ được dân bằng giáo giỏi.
Chính giỏi thì dân sợ, giáo giỏi thì dân u. Chính giỏi thì được của cải của
thiên hạ, của dân; giáo giỏi thì được lịng dân” [17, tr.158, 308].
Ở phương Tây, ngày nay các học giả hiện đại đều coi Platon và Arixtôt
là những người mở đầu cho cách tiếp cận văn hóa chính trị truyền thống
phương Tây. Bởi trong quan điểm của mình, các ơng đều coi quan điểm, thái
độ cơ bản của con người đối với quyền lực, đối với việc làm thế nào để quản
lý các mối quan hệ xã hội và đối với vai trị của chính thể, với người dân là
hết sức quan trọng.
Học thuyết chính trị - xã hội của Platon đặc biệt quan tâm đến vấn đề
nhà nước và ở đó các nhà triết học xuất hiện với tư cách là những người cầm
quyền. Arixtot thì nói đến vai trị của chính trị trong việc xác định tư cách tồn
tại của con người khi ông coi con người là “động vật chính trị”. Xuất phát từ
lý do đó, ơng cho rằng mục đích cao nhất của chính trị là làm sao để mọi
người có thể sống và sống tốt hơn, nhà nước phải đảm bảo được một cuộc
sống ưu việt không chỉ là về phương diện của cải vật chất mà còn đảm bảo về
phương diện công lý.


8
Thuật ngữ “văn hóa chính trị” mới xuất hiện từ cuối thế kỷ XVIII bởi
nhà triết học cổ điển Đức I. Herder (1744 - 1803) khi ông nghiên cứu mối
quan hệ tương tác giữa văn hóa và chính trị. Trong cuốn sách “Các phương
pháp triết học lịch sử nhân loại” năm 1784, lần đầu tiên ông đưa ra khái niệm
“văn hóa chính trị”, “sự chín muồi của văn hóa chính trị” hay “những đại biểu
của văn hóa chính trị” [37].
Khái niệm “văn hóa chính trị” gia nhập vào hệ thống khái niệm, phạm

trù của khoa học chính trị từ những năm 50 - 60 của thế kỷ XX với tên tuổi
của nhà chính trị học Gabriel Almond người Mỹ trong tài liệu nghiên cứu
“Các hệ thống chính trị so sánh” (1956). Ơng thấy văn hóa của các cộng đồng
có ảnh hưởng to lớn đến hệ thống chính trị của các cộng đồng ấy. Ơng dùng
thuật ngữ “văn hóa chính trị” để phân tích, so sánh và đối chiếu sự khác biệt
giữa các nền chính trị khác nhau.
Thuật ngữ “văn hóa chính trị” lần đầu tiên được nhà chính trị học người
Mỹ G. Almond sử dụng vào năm 1956 khi ông dùng để phân tích các chế độ
chính trị trong bài “Các hệ thống chính trị so sánh” đăng trên tạp chí Chính trị
học (Comparative polotical system; The Journal of Politics), số tháng 8 1956. G. Almond cũng là người sáng lập ra chủ nghĩa hành động trong khoa
học chính trị ở Mỹ. Trường phái này khơng chỉ phân tích một cách trừu tượng
các vấn đề như tư tưởng chính trị, chế độ chính trị và sự vận hành chính trị vĩ
mơ mà cịn chú trọng nghiên cứu hành vi chính trị và gắn liền q trình chính
trị với hành vi của con người. Theo các nhà chính trị học của trường phái này,
hành vi chính trị là một phần của hành vi xã hội cho nên khi phân tích hành vi
chính trị phải gắn chặt với sự xem xét các nhân tố văn hóa, tâm lý. Almond
viết: “Trước hết, mỗi hệ thống chính trị đều là một hệ thống hành động, phải
dùng hành động để phán đốn hệ thống chính trị chứ không thể chỉ dựa vào
luật pháp và luân lý. Nói gọn lại, người ta xem xét hệ thống chính trị hoặc cá
nhân thơng qua sự quan sát họ đang làm gì, làm thế nào và nhân tố ảnh hưởng


9
tới họ là gì”. Từ đó, ơng chủ trương cần thay đổi trọng điểm nghiên cứu chính
trị học truyền thống: từ chỗ chỉ chú trọng nghiên cứu cơ chế chính trị vĩ mơ
sang tập trung nghiên cứu hành vi chính trị của các cá thể, quần thể; phải
phân tích xem động cơ hành động chính trị của họ là gì - và ơng gọi đó là
định hướng (orientation): “Mỗi hệ thống chính trị đều bắt rễ từ trong một loạt
định hướng xác định riêng, tôi phát hiện điều này rất hữu dụng và gọi nó là
văn hóa chính trị”.

Có thể nói bắt đầu từ những nghiên cứu của G. Almond và S.Verba,
khái niệm văn hóa chính trị thực sự trở thành thuật ngữ khoa học của ngành
chính trị học, xã hội học văn hóa. Văn hóa chính trị được nghiên cứu ở nhiều
nước Âu - Mỹ sau đó các nhà chính trị học trên khắp thế giới cũng quan tâm
đến vấn đề này, dưới những góc độ khác nhau.
Xuất phát từ những quan niệm trên, chúng ta thấy văn hóa chính trị là
một khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ giữa văn hóa với hành vi chính trị của
con người. Văn hóa gắn liền với dân tộc, phản ánh bản sắc độc đáo của dân
tộc. Mỗi dân tộc đều có một nền văn hóa riêng. Chính vì vậy, cùng với một
chế độ chính trị nhưng ở mỗi nước khác nhau thì chế độ ấy có những biểu
hiện khác nhau bởi người dân tham gia hoạt động chính trị ở từng nước chịu
ảnh hưởng sâu sắc truyền thống văn hóa dân tộc mình. Vì vậy, hoạt động
chính trị của họ có sắc thái riêng phản ánh nền văn hóa dân tộc đó.
Những năm gần đây, vấn đề văn hóa chính trị đã được đưa vào trong
chương trình nghiên cứu và giảng dạy ở Việt Nam. Các nhà nghiên cứu Việt
Nam đang cố gắng xây dựng một khái niệm đầy đủ về văn hóa chính trị,
nhưng cho đến hiện nay, đây vẫn là một vấn đề mới trong lý luận nhận thức ở
Việt Nam. Để có một quan điểm đúng đắn về văn hóa chính trị, các nhà
nghiên cứu ở Việt Nam đã vận dụng phép biện chứng giữa cái chung và cái
riêng (văn hóa và văn hóa chính trị) và nêu ra được quan niệm riêng của mình
về văn hóa chính trị.


10
Trong cuốn sách “Tập bài giảng chính trị học”, các tác giả đã xác định:
Văn hóa chính trị là tổng hợp những giá trị vật chất, tinh thần được
hình thành trong thực tiễn chính trị. Nó là cái góp phần chi phối
hoạt động của các cá nhân, của các nhà chính trị, góp phần định
hướng hoạt động của họ trong việc tham gia vào đời sống chính trị
để phục vụ lợi ích căn bản của một giai cấp nhất định. Văn hóa

chính trị góp phần định hướng mục tiêu hoạt động cho các tổ chức
chính trị, đặc biệt là Đảng và Nhà nước, cho các phong trào chính
trị trong một xã hội nhất định [24].
Nguyễn Đăng Duy trong cuốn “Phật giáo với văn hóa Việt Nam” đã
cho rằng: Khái niệm văn hóa chính trị dùng để nói lên một nội dung văn hóa,
để chỉ về tri thức chính trị (tư tưởng học thuyết chính trị) tích lũy được trong
việc điều hành quản lý một xã hội, một cộng đồng hoặc một quốc gia nào đó.
Về các quan hệ chính trị giữa các quốc gia các dân tộc, qua hoạt động ngoại
giao. Về những kinh nghiệm hoạt động chính trị thực tiễn của các cá nhân và
của các tổ chức xã hội nào đó”.
GS, TS. Nguyễn Văn Huyên cũng đã định nghĩa:
Văn hóa chính trị là một phương diện của văn hóa, ở đó kết tinh
tồn bộ giá trị, phẩm chất, trình độ, năng lực chính trị, được hình
thành trên một nền chính trị nhất định, với phương thức hoạt động
chính trị nhất định, thực hiện lợi ích giai cấp, dân tộc, cộng đồng phù
hợp với xu hướng phát triển và tiến bộ của xã hội loài người [26].
Như vậy, khái niệm văn hóa chính trị có nội hàm rất phong phú. Nhưng
nội dung cốt lõi của nó là trình độ và hiệu quả của hoạt động chính trị. Một
nền văn hóa chính trị ưu việt phải có trình độ và hiệu quả hoạt động chính trị
cao, hướng tới sự phát triển và tiến bộ xã hội. Nói cách khác, văn hóa chính
trị cũng là một hệ thống giá trị xã hội phản ánh đầy đủ các dấu hiệu Chân Thiện - Mỹ.


11
Là một phương diện của văn hóa, cho nên văn hóa chính trị cần được
xem xét trong sự vận động của lịch sử văn hóa theo lĩnh vực hoạt động chính
trị. Bản chất, tính chất, đặc trưng và kết cấu của văn hóa đều có mặt trong văn
hóa chính trị. Cái riêng của văn hóa chính trị ở đây là những bản chất, đặc
tính, yếu tố văn hóa biểu hiện trong lĩnh vực hoạt động chính trị.
Nếu như văn hóa có mặt trong mọi suy nghĩ, hành vi của con người, xã

hội, thẩm thấu trong mọi hoạt động và mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thì
văn hóa chính trị cũng có mặt khắp nơi trong đời sống chính trị, từ những giá
trị do nền chính trị tạo ra cho đến năng lực hoạt động chính trị và trình độ của
những chủ thể chính trị, từ chất lượng hoạt động chính trị cho đến lối ứng xử
văn minh, hợp lý, khoa học, hiệu quả trong đời sống chính trị.
Văn hóa chính trị, rõ ràng khơng đơn thuần, khơng phiến diện là biểu
hiện của hành vi văn hóa như quan niệm thơng thường trong hoạt động chính
trị; nó là huyết mạch, là nguồn sống, nguồn sức mạnh bên trong của chính bản
thân cơ thể chính trị; nó quy định một nền chính trị đầy sức sống, đầy tiềm
năng, đầy sức mạnh, nhưng cái đặc trưng nhất của văn hóa chính trị là sức
sống, sức mạnh của một nền chính trị vươn tới những giá trị cao đẹp, tới xã
hội nhân đạo, nhân văn [26].
GS, TS. Vũ Minh Giang cho rằng: Văn hóa chính trị xuất hiện như một
thuật ngữ trong khoa học chính trị lần đầu tiên vào khoảng giữa thế kỷ XX,
gắn với tên tuổi hai học giả Mỹ Almond và Verba. Theo hai ơng thì văn hóa
chính trị được hiểu như thái độ, cách thức ứng xử của một cộng đồng dân tộc
(bao gồm cả chính giới và nguời dân) với quyền lực chính trị.
Văn hóa chính trị là một lĩnh vực (bộ phận, thành tố) của văn hóa tổ
chức xã hội, bị quy định bởi trình độ, tính chất văn hóa của một cộng đồng
người (Bộ lạc, bộ tộc, dân tộc, quốc gia) trong việc tổ chức đời sống cộng
đồng, trong việc nắm giữ quyền lực và thực thi quyền lực của cộng đồng, thể
hiện ra như một “kiểu”, “dạng”, “nền” chính trị nhất định trong lịch sử.


12
Cần lưu ý rằng, văn hóa chính trị là một thành tố của văn hóa tổ chức
xã hội, khi người ta chia văn hóa thành các bộ phận lớn: văn hóa sản xuất và
tiêu dùng các sản phẩm vật chất (văn hóa sản xuất vật chất), văn hóa sản xuất
và tiêu dùng các sản phẩm tinh thần (văn hóa sản xuất tinh thần) và văn hóa tổ
chức xã hội (văn hóa tổ chức đời sống xã hội). Trong văn hóa tổ chức xã hội

lại được chia ra các tiểu hệ: văn hóa chính trị, văn hóa pháp luật, văn hóa đạo
đức, văn hóa truyền thơng…
1.1.2. Cấu trúc của văn hóa chính trị
Theo Đại từ điển bách khoa Việt Nam, cấu trúc của một sự vật là
Phương thức, cách thức tổ chức tương đối bền vững của một hệ
thống. Nếu như khái niệm hệ thống bao quát các mặt hết sức khác
nhau của một khách thể, một chỉnh thể phức tạp nào đó (như cơ
cấu, thành phần, phương thức tồn tại, hình thức phát triển) thì
khái niệm cấu trúc trước hết vạch ra những nhân tố như tính bền
vững, tính ổn định của khách thể hay đối tượng mà nhờ đó, nó
duy trì được chất của nó khi mà các điều kiện bên ngoài hay bên
trong biến đổi. Khi cấu trúc bị phá vỡ hay biến đổi thì hệ thống
khơng tránh khỏi bị phá vỡ hay biến đổi. Nếu hệ thống là sự liên
kết các yếu tố có mối liên hệ qua lại và quy định lẫn nhau thì cấu
trúc là thành phần cấu tạo, là tổ chức bên trong một chỉnh thể
thống nhất [18, tr.496].
Như vậy, nghiên cứu cấu trúc của một sự vật, hiện tượng để chúng ta
hiểu đúng hơn về sự vật, hiện tượng đó (bao gồm những yếu tố và quan hệ
nào bên trong của nó). Nghiên cứu cấu trúc của văn hóa chính trị cũng như
vậy, giúp chúng ta hiểu biết đầy đủ về văn hóa chính trị. Hơn nữa, giúp chúng
ta phân biệt được các quan niệm khác nhau từ những góc nhìn khác nhau về
văn hóa chính trị và cũng nhận biết quan niệm nào về văn hóa chính trị được
xem là khái niệm khoa học hay chỉ là một cách nói thơng dụng mà thôi.


13
Nghiên cứu cấu trúc của văn hóa chính trị cịn có ý nghĩa thực tiễn là
tạo ra cách thức thao tác khi người ta muốn biến đổi hoặc xây dựng một nền
văn hóa chính trị thì cần phải bắt đầu từ đâu, tác động vào đâu trong đời sống
chính trị của một cộng đồng, của một thời đại.

Có thể nói gắn liền mỗi quan niệm về văn hóa chính trị là mỗi cách
quan niệm khác nhau về cấu trúc của văn hóa chính trị. Sau đây, chúng tơi xin
giới thiệu một số quan niệm về cấu trúc của văn hóa chính trị của một số tác
giả Việt Nam đã đề cập ở phần trên (1.1.1).
- Tác giả tập Bài giảng về chính trị học cho rằng: “Văn hóa chính trị có
một cấu trúc phức tạp, được tạo thành trong sự thống nhất và tác động qua lại
của những nhân tố cơ bản sau đây:
+ Tri thức, sự hiểu biết về chính trị:
Tri thức, sự hiểu biết về chính trị biểu hiện bằng trình độ học vấn về
chính trị; trình độ kinh nghiệm, sự khơn ngoan, sự từng trải được tích lũy qua
thực tiễn chính trị. Trong hai nhân tố biểu hiện của tri thức chính trị nêu trên,
người ta khó khẳng định nhân tố nào là quan trọng hơn và mang tính chất
quyết định. Bởi vì thực tiễn chính trị cho thấy, khơng phải ai có trình độ học
vấn chính trị cao cũng là người có sự mẫn cảm, tinh tế, nhạy bén trong việc
xử lý đúng đắn và kịp thời những vấn đề chính trị - thực tiễn bức xúc. Mặt
khác, cũng khơng phải bất kì ai có bề dày kinh nghiệm được tích lũy qua một
q trình hoạt động chính trị lâu dài cũng đều là người có năng lực trí tuệ giải
quyết một cách có hiệu quả những tình huống chính trị phức tạp của ngày
hơm nay.
Song, xét trong tính bản chất và tính khuynh hướng thì trình độ học vấn
chính trị có vị trí chi phối. Nó có vai trị khái qt kinh nghiệm chính trị thực
tiễn để nâng lên tầm của cái phổ biến. Nó vạch ra được nhân tố mang tính bản
chất và quy luật ẩn dấu đằng sau những tri thức kinh nghiệm chính trị đã được
tích lũy.


14
Mặc dù với tất cả sự lưu ý tới tính phức tạp đó, người ta vẫn thấy rằng,
tri thức chính trị, sự hiểu biết về chính trị với tính cách là một nhân tố cấu
thành của văn hóa chính trị phải là sự thống nhất hữu cơ giữa tri thức lý luận

với tri thức kinh nghiệm về chính trị. Đương nhiên, tri thức lý luận càng đạt
tới tính khách quan, khoa học bao nhiêu sẽ càng có vai trị to lớn bấy nhiêu.
Nó giúp cho mỗi người, mỗi giai cấp nhận thức rõ hơn bản chất của các q
trình chính trị và của quyền lực chính trị. Đồng thời nó sẽ chỉ rõ đằng sau các
cuộc đấu tranh chính trị triền miên và các biến cố chính trị ồn ào là sự thể
hiện lợi ích chính trị của chủ thể nào trong xã hội. Vai trò ấy còn được nâng
cao với sự trợ giúp của tri thức kinh nghiệm. Nội dung của tri thức kinh
nghiệm được xem là một thành tố khơng thể thiếu của văn hóa chính trị khi
khơng chỉ là những kinh nghiệm chính trị gián tiếp được kế thừa trong truyền
thống lịch sử của giai cấp, dân tộc và của cả cộng đồng. Vì thế, tuyệt đối hóa
vai trị của một loại tri thức nào đó sẽ dẫn đến đơn điệu hóa, hạ thấp các giá
trị và trình độ của văn hóa chính trị nói chung.
+ Niềm tin, sự thuyết phục về chính trị:
Niềm tin, sự thuyết phục về chính trị có thể được hình thành một cách
tự phát. Nhưng nó cũng có thể là kết quả của một nhận thức đúng đắn, sâu sắc
về lý tưởng chính trị đã lựa chọn. Niềm tin và sự thuyết phục chính trị mang
tính khoa học, hồn tồn xa lạ với sự áp đặt và cưỡng bức. Bởi vì, một khi
nhận thức và tình cảm của chủ thể khơng thể chấp nhận một xu hướng chính
trị nào đó thì sự thuyết phục và niềm tin đó chỉ là hình thức mà thơi.
Niềm tin và sự thuyết phục về chính trị được hình thành từ con đường
khoa học tự giác sẽ mang tính ổn định và vững chắc ngay cả khi tình huống
chính trị khơng thật thuận chiều. Cũng vì vậy mà ở mỗi người khi đã khẳng
định được sự trung thành với lý tưởng và sự định hướng chính trị thì từ đó sẽ
dẫn dắt người ta đến hành động nhằm đạt được sự chiến thắng của các phong
trào chính trị mà bản thân mình là một thành viên. Ngược lại, niềm tin và sự


15
thuyết phục về chính trị hình thành tự phát, mang nặng cảm tính nếu khơng
được củng cố, bổ sung sẽ dễ bị dao động, thậm chí phản bội lại lý tưởng một

khi tình thế chính trị rơi vào trạng thái khó khăn, phức tạp. Do đó, niềm tin
khoa học khơng thể thiếu được trong cấu trúc của văn hóa chính trị.
+ Các truyền thống chính trị được thiết lập trong lịch sử dân tộc:
Văn hóa chính trị ở một giai đoạn lịch sử nhất định không chỉ là kết
tinh những giá trị vật chất và tinh thần trong hoạt động chính trị của giai đoạn
lịch sử đó mà cịn bao chứa trong mình các truyền thống chính trị, các giá trị
chính trị đã được các thế hệ trước đó tạo ra.
+ Những lý tưởng mà con người cố gắng đạt tới trong chính trị:
Lý tưởng khơng chỉ là động lực kích thích hoạt động chính trị mà cịn
đóng vai trị quan trọng trong việc lựa chọn phương thức, phương tiện hoạt
động chính trị - những nhân tố cấu thành của văn hóa chính trị. Ở nước ta,
trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc, vì lý tưởng “khơng có gì q
hơn độc lập tự do”, nhiều đồng bào, chiến sĩ đã dũng cảm hy sinh cả bản thân
mình, nhiều cán bộ và đảng viên đã tìm ra những phương thức đấu tranh có
hiệu quả nhất trong cuộc chiến đấu với quân thù. Sự nhạy bén, tính sáng tạo
trong việc tìm ra những phương hướng, những phương tiện để hiện thực hóa lý
tưởng đã được lựa chọn là một nhân tố rất quan trọng trong văn hóa chính trị.
+ Những phương tiện chính trị, những phương thức tổ chức và hoạt
động của quyền lực chính trị cũng là những nhân tố cấu thành của văn hố
chính trị.
Trong ý nghĩa này, hình thức tổ chức quyền lực nhà nước, cơ chế vận
hành của nó thích ứng với u cầu chính trị thực tiễn là nhân tố không thể
thiếu được của một nền văn hố chính trị cao trong xã hội tương ứng.
+ Trong văn hố chính trị, hệ tư tưởng chính trị, đường lối, chính sách
là bộ phận cốt lõi nhất.
Hệ tư tưởng chính trị phản ánh khái quát lợi ích của giai cấp cũng
như phương thức, con đường để thực hiện lợi ích căn bản của giai cấp, của


16

liên minh giai cấp hoặc của nhân dân nói chung (trong điều kiện của chủ
nghĩa xã hội).
Từ những nhân tố nêu trên, văn hố chính trị của một giai cấp hoặc của
chế độ xã hội nói chung sẽ được hình thành thông qua một logic vận động sau
đây: Tri thức chính trị đã được tích luỹ biến thành niềm tin, thành lý tưởng của
giai cấp; từ niềm tin chính trị biến thành hành động chính trị thực tiễn mà kết quả
của những hành động đó là tạo thành những chuẩn mực chính trị, thành truyền
thống, thành nếp sống, thành thói quen trong việc ứng xử trước tình huống chính
trị khác nhau. Chỉ đến đó, văn hố chính trị mới thực sự ra đời.
Quan niệm về cấu trúc của văn hoá chính trị của tác giả Nguyễn Văn
Huyên trong sách “Bước đầu tìm hiểu những giá trị văn hố chính trị truyền thống
Việt Nam” thì văn hố chính trị bao gồm một kết cấu phong phú và đa dạng:
1. Tri thức chính trị
2. Lý tưởng chính trị
3. Niềm tin chính trị
4. Hệ tư tưởng: là hạt nhân của văn hố chính trị.
Văn hố chính trị cũng như văn hố nói chung đều là những hiện tượng
xã hội mang tính chỉnh thể, mang tính hệ thống và có mối liên hệ mật thiết
với nhau. Nghĩa là văn hố chính trị vừa là một thành tố của văn hố nói
chung, cũng là một bộ phận cấu thành văn hoá tổ chức xã hội, vừa là một tiểu
hệ thống khi tách riêng khỏi hệ thống lớn: văn hố nói chung, văn hố tổ chức
xã hội nói riêng (xem sơ đồ 1, trang sau):


17
Sơ đồ 1.1: Văn hố nói chung và văn hố tổ chức xã hội nói riêng
- Văn hố tổ chức xã hội, có
người gọi là văn hố quản lý xã
hội, có người gọi là văn hố quy
phạm (Vũ Minh Giang).

VHSXTT

VHTCXH

VHSXTT

VHSXTT
VHSXTT

VHSXTT

- Văn hố quản lý xã hội mới
chỉ nói lên hoạt động “trị”, “sửa”
xã hội, chưa nói đến hoạt động
xây dựng xã hội như văn hoá tổ

VHSXVC

chức xã hội.
- Văn hoá quy phạm gần với
văn hố pháp luật hơn, ngồi ra
văn hoá quy phạm lại bao gồm cả
văn hoá đạo đức (các chuẩn mực,

khuôn mẫu đạo đức) nữa.
Nếu chúng ta chấp nhận quan niệm văn hố chính trị là những “kiểu”,
“dạng”, “nền” chính trị khác nhau như cách quan niệm về các nền văn hố
(văn hóa số nhiều) thì, chúng chỉ khác nhau ở tính chất, trình độ, đặc trưng
dân tộc và thời đại còn cấu trúc cơ bản đều giống nhau với các thành tố sau:
- Tư tưởng chính trị - Hệ thống định hướng: bao gồm các triết lý, ý

tưởng, quan điểm triết học, tôn giáo, đạo đức… lý giải nguồn gốc, bản chất
chính trị (quan hệ, quyền lực, mục tiêu chính trị…) từ đâu mà ra, vì mục đích
gì? Trong tư tưởng chính trị cịn có các quan điểm, học thuyết về chính trị của
mỗi cộng đồng, mỗi thời đại khác nhau.
- Thể chế - thiết chế chính trị - Hệ thống công cụ hành động:
+ Thể chế chính trị: bao gồm các quan điểm, đường lối chính trị và các
quy phạm pháp luật, các quy định có tính pháp lý cụ thể.
+ Thiết chế chính trị: bao gồm bộ máy quyền lực, các cơ quan quyền
lực, các tổ chức chính trị - xã hội, đồn thể chính trị.


18
- Nhân cách, hành vi của chủ thể chính trị: bao gồm nhân cách, hành vi
của chủ thể nắm quyền lực chính trị, thực thi quyền lực chính trị và người
chịu sự tác động của quyền lực chính trị (người dân, công dân)
- Yếu tố ngoại hiện: bao gồm các hình thức, cách thức, biểu tượng, biểu
hiệu qua đó tư tưởng chính trị, thể chế, thiết chế, nhân cách chủ thể chính trị
được biểu hiện ra một cách cụ thể, sinh động.
Sơ đồ 1.2: Văn hố chính trị - một tiểu hệ thống với các vi hệ của nó
Tư tưởng
chính trị
Thiết chế
chính trị
Nhân cách hành vi của
chủ thể chính trị
Yếu tố ngoại hiện

Như vậy, bất cứ nền văn hố chính trị nào cũng có cấu trúc bao gồm 5
yếu tố (4 vi hệ) như trên, chúng gắn bó và tác động lẫn nhau.
Dựa vào cách chia cấu trúc của văn hố chính trị trên đây (mà chúng tơi

quan niệm là cấu trúc văn hố chính trị dưới góc nhìn văn hố học) người ta
có thể nhìn thấy cái chung của các nền văn hố chính trị và cả sự khác nhau
của chúng khi chỉ ra tính chất, trình độ và đặc trưng của mỗi yếu tố trong mỗi
nền văn hoá chính trị khi so sánh với nhau.
1.1.3. Tính chất, chức năng của văn hố chính trị
Cũng như quan niệm về cấu trúc của văn hố chính trị, quan niệm về
tính chất, chức năng của văn hố chính trị rất khác nhau. Ở đây, chúng tôi
cũng chỉ giới thiệu các quan niệm về tính chất, chức năng của văn hố chính
trị của một số tác giả Việt Nam.


19
1.1.3.1. Về tính chất của văn hóa chính trị
- Quan niệm của tác giả Tập Bài giảng về chính trị học - Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh:
+ Văn hố chính trị mang đậm tính giai cấp: nó bị chi phối bởi thế giới quan,
bởi hệ tư tưởng và bởi những quan điểm chính trị của mỗi giai cấp nhất định.
Trong khi khẳng định tính giai cấp, chúng ta cần nhấn mạnh thêm rằng,
văn hoá chính trị cũng có cái chung, cái phổ biến của tồn dân tộc, nhân loại.
Đối với giai cấp cơng nhân, việc phát hiện và kế thừa những giá trị chung
trong văn hoá là điều kiện quan trọng để phát triển văn hố và văn hố chính
trị vơ sản. Về điều đó, Lênin từng lưu ý rằng, người cộng sản chỉ có thể làm
giàu tri thức của mình bằng việc tiếp thu tất cả những giá trị văn hoá của nhân
loại. Và Ph.Ăngghen cũng nhấn mạnh rằng, chỉ giai cấp công nhân mới là
người kế thừa thật sự những giá trị phổ biến về văn hố.
+ Văn hóa chính trị bao giờ cũng mang tính lịch sử:
Ở các nền chính trị khác nhau, văn hóa chính trị của giai cấp nắm
quyền lực nhà nước bao giờ cũng là đặc trưng của nền chính trị đó. Bản thân
sự tồn tại của mỗi nền chính trị nhất định ln ln biến đổi, thay thế nối tiếp
nhau trong lịch sử. Sự thay thế nhau đó dẫn đến sự thay đổi các loại hình văn

hóa chính trị cũng như về trình độ của nó. Với ý nghĩa đó, lịch sử chính trị
của lồi người đã và đang trải qua các loại hình văn hóa chính trị của giai cấp
chủ nô quý tộc, của giai cấp địa chủ phong kiến, của giai cấp tư sản và của
giai cấp vơ sản.
+ Trong xã hội có giai cấp khác nhau, văn hóa chính trị ln có tính đa
dạng. Trong cấu trúc của văn hóa chính trị có nhân tố cốt lõi là hệ tư tưởng.
Hệ tư tưởng của các giai cấp không đồng nhất với nhau nên văn hóa chính trị
của mỗi giai cấp bị chi phối bởi các góc độ khác nhau tạo thành tính đặc thù
sâu sắc. Từ đó, trong mỗi nền chính trị nhất định, văn hóa chính trị cũng
khơng thuần nhất mà có sự đa dạng, phong phú của các loại hình văn hóa


20
chính trị tương ứng với từng giai cấp, giai tầng xã hội khác nhau. Nói cách
khác, bên cạnh văn hóa chính trị của giai cấp nắm quyền lực nhà nước cịn có
văn hóa chính trị của các giai cấp, giai tầng khác nữa.
Văn hóa chính trị trong chủ nghĩa xã hội, ngồi các đặc điểm trên cịn
bao hàm một số đặc điểm khác. Đó là, nó vừa là nội dung, là động lực và vừa
là biểu hiện chất lượng của nền dân chủ; là nhân tố thúc đẩy cho việc đạt mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội và là phương thức làm cho nhân dân lao động trở
thành chủ thể của quyền lực chính trị.
Theo quan niệm về tính chất của văn hóa chính trị như đã trình bày ở
trên, chúng ta thấy ngồi sự nhấn mạnh tính giai cấp, các tác giả đã chú ý tới
tính đa dạng “trong mỗi nền chính trị nhất định, văn hóa chính trị cũng khơng
thống nhất mà có sự đa dạng, phong phú của các loại hình văn hóa chính trị
tương ứng với từng giai cấp, giai tầng xã hội khác nhau. Nói cách khác, bên
cạnh văn hóa chính trị của giai cấp nắm quyền lực nhà nước cịn có văn hóa
chính trị của các giai cấp, giai tầng khác nữa”. Tuy nhiên, quan niệm như vậy
thì chỉ có văn hóa chính trị riêng của mỗi giai cấp, giai tầng xã hội khác nhau
mà chưa đề cập đến tính thống nhất của nền văn hóa chính trị chung trong

một cộng đồng xã hội được gọi là dân tộc, quốc gia.
- Quan điểm của tác giả Nguyễn Văn Huyên [26]: Tính chất và đặc
điểm của văn hóa chính trị:
+ Tính giai cấp;
+ Tính dân tộc;
+ Tính nhân loại;
+ Tính lịch sử.
Văn hóa chính trị được khẳng định bởi một số đặc điểm sau:
- Dân chủ: chính trị phải là sự nghiệp của nhân dân; quyền lực (chính
trị và nhà nước) thuộc nhân dân, của dân, do dân, vì dân.
- Khoa học: văn hóa chính trị phải là một chính trị khoa học; chính trị
phải được xây dựng trên nền của cái đúng, cái chân lý.


21
- Pháp lý: để quyền lực không bị tập quyền, chun quyền, lộng quyền,
khơng bị tha hóa thì chính trị phải thực hiện trên cơ sở một nền pháp luật.
- Đạo lý: văn hóa chính trị khơng chỉ thể hiện ở tính pháp lý, mà cịn
biểu hiện ở sự hợp đạo lý: mục tiêu chính trị vì con người, một nền chính trị
khoan dung nhưng đặc điểm nổi bật ở đây là hợp với lẽ phải.
Ở đây thể hiện một nền chính trị thống nhất bản chất khoa học - cách
mạng - nhân văn. Chính trị thực thi quyền lực nhà nước, quyền lực nhân dân
trên cơ sở khoa học, đồng thời luôn tạo ra các bước đổi mới, cách mạng để đi
từng bước tới mục tiêu nhân văn - vì sự phát triển và tiến bộ của xã hội, của
con người. Để chính trị trở thành văn hóa chính trị, chủ thể cầm quyền phải
thực hiện một cách uyển chuyển các mối quan hệ: chính trị - khoa học, quyền
lực, chân lý, pháp luật - đạo đức.
Chính trị là thực thi quyền lực nhân dân, tập trung ở quyền lực nhà
nước, trên cơ sở khoa học; luôn tạo các bước đổi mới, cách mạng để tiến tới
mục tiêu nhân văn, vì sự phát triển và tiến bộ của xã hội và con người.

1.1.3.2. Chức năng của văn hóa chính trị
Với bản chất và những nội dung của mình, văn hóa chính trị có nhiều
chức năng chính trị - xã hội quan trọng:
Thứ nhất, văn hóa chính trị là nền tảng khoa học cho các chủ thể chính
trị lựa chọn một cách đúng đắn, phù hợp lý tưởng, mục tiêu chính trị, từ đó
mà xác định một cách đúng đắn và khoa học đường lối chính trị.
Thứ hai, văn hóa chính trị cũng là cơ sở khoa học cho sự xác định tính
chất và nội dung của đường lối chính trị. Bản chất nhân văn, tính chất khoa
học, tính pháp lý và đạo lý của văn hóa chính trị khơng cho phép các chủ thể
chính trị thực hiện những nội dung chính trị phi đạo lý, phản văn hóa; nó phải
thự hiện đường lối, chiến lược và sách lược chính trị bảo đảm lợi ích giai cấp,
dân tộc, phù hợp quy luật vận động và xu thế phát triển của xã hội lồi người.
Thứ ba, văn hóa chính trị điều chỉnh các quan hệ chính trị - xã hội. Với
bản chất nhân đạo và nhân văn, với tính chất và nội dung khoa học, pháp lý và


22
đạo lý… văn hóa chính trị là nơi quy tụ tất cả các khuynh hướng chính trị, các
tư tưởng chính trị khác nhau, thậm chí đối kháng nhau trong một nền chính
trị, thậm chí của nhiều quốc gia trên thế giới để cùng nhau giải quyết những
vấn đề chính trị - xã hội nói chung, liên quan đến lợi ích của các cộng đồng,
các quốc gia.
Thứ tư, văn hóa chính trị như là điểm hẹn của mọi xu hướng, tư tưởng,
thành phần chính trị - xã hội vì mục tiêu tiến bộ xã hội, phát triển con người,
đặc biệt với bản chất và mục tiêu dân chủ, nó huy động tồn bộ lực lượng
chính trị - xã hội thực hiện mục tiêu chính trị, phát huy cao độ năng lực và tiềm
năng sáng tạo của các chủ thể chính trị - xã hội, thực hiện tốt nhất các nhiệm vụ
chính trị; đồng thời, nó hướng năng lực và phẩm chất con người vào những hoạt
động tích cực, sáng tạo để thực hiện các giá trị lý tưởng đã lựa chọn.
Thứ năm, thông qua sự giáo dục, tuyên truyền, quảng bá xã hội, thông

qua rèn luyện và thực hành cá nhân, tập thể, cộng đồng, văn hóa chính trị góp
phần thúc đẩy tính tích cực chính trị của cơng dân, ý thức và thái độ quan tâm
tới đời sống chính trị, nâng cao trách nhiệm của công dân, của các tổ chức
trong tồn hệ thống chính trị.
Thứ sáu, văn hóa chính trị góp phần phát huy dân chủ, chống tha hóa
quyền lực, đấu tranh chống quan liêu tham nhũng và mọi biểu hiện thối hóa
chính trị, đào tạo và rèn luyện nhân cách chính trị, tài năng chính trị, góp phần
quan trọng vào việc phát triển một nền chính trị văn hóa cao.
Theo chúng tơi, văn hố chính trị có 5 chức năng sau đây:
Thứ nhất, chức năng nhận thức: chức năng nhận thức của văn hố chính
trị thể hiện ở chỗ nó đem lại cho các chủ thể chính trị các tri thức cần thiết để
tham gia vào đời sống chính trị đạt được mục đích mong muốn. Đó là những
tri thức về những quy luật chính trị - xã hội, các nguyên tắc tổ chức đời sống
xã hội (luật pháp, quy định); các phương thức, phương pháp vận hành đời
sống chính trị, quản lý xã hội, thu hút cơng dân tham gia hoạt động chính trị;


23
cách thức điều chỉnh các quan hệ: xã hội - giai cấp, dân tộc - quốc gia - tộc
người, dân tộc, tôn giáo, nhà nước - công dân…
Chức năng nhận thức của văn hố chính trị thể hiện ở việc khơng chỉ
giúp cho các chủ thể chính trị nắm vững tồn bộ kiến thức chính trị do xã hội
và lồi người đã tích luỹ được mà cịn biểu thị trong sự sáng tạo ra những giá
trị mới, trong việc vận dụng các kiến thức vào thực tiễn hoạt động chính trị.
Thứ hai, chức năng giáo dục: Văn hố chính trị giúp cho các chủ thể
chính trị tiếp cận với hệ thống giá trị chính trị chung (giá trị chủ đạo) trong
một nền chính trị. Đồng thời nó quy định các hành vi của chủ thể hành xử
theo những chuẩn mực, khn mẫu chính trị mà cả cộng đồng đã lựa chọn,
thừa nhận, chấp nhận. Từ đó, dần dần hình thành nên những yếu tố cốt lõi của
nhân cách công dân, nhân cách nhà chính trị.

Ngồi ra, văn hố chính trị cũng sản sinh ra các tổ chức chính trị - xã
hội, tập hợp các thành viên xã hội vào tổ chức đó (đảng phái, đồn thể, hội
đồn…). Các tổ chức này xây dựng các chuẩn mực, khuôn mẫu chung về
hành vi chính trị giải thích các tư tưởng chính trị qua cương lĩnh, điều lệ,
chính sách của tổ chức để giáo dục các thành viên tham gia tích cực vào đời
sống chính trị của xã hội.
Thứ ba, chức năng tổ chức (có người gọi là chức năng thống hợp).
Chức năng tổ chức của văn hố chính trị biểu hiện ở việc động viên, tập hợp
các cá nhân, các nhóm, các giai tầng hướng tới mục tiêu chung hay là các giá
trị định hướng của xã hội. Nếu các giá trị đó được phần lớn cơng dân tán
thành thì nó trở thành mục đích chung, thành nghĩa vụ mà xã hội và các thành
viên trong xã hội phải thực hiện. Từ đó, việc liên kết xã hội, tổ chức xã hội sẽ
diễn ra thuận lợi, tạo nên sự đoàn kết, thống nhất xã hội. Tuy nhiên, trong xã
hội có nhiều lợi ích khác nhau (nhóm lợi ích khác nhau) nên văn hố chính trị
khơng thể giữ chức năng tổ chức xã hội một cách triệt để.
Trong văn hố chính trị, các thang bậc giá trị của nó cũng có sự tác
động khác nhau đối với việc tổ chức xã hội:


24
- Các giá trị chung nhất: tổ chức toàn xã hội;
- Các giá trị hàng đầu: tập hợp bộ phận lãnh đạo;
- Các giá trị của đa số: tập hợp các giai cấp cầm quyền.
Thứ tư, chức năng điều chỉnh - điều tiết xã hội: Chức năng điều chỉnh điều tiết xã hội của văn hố chính trị gắn bó với các chức năng đã nêu ở trên.
Chức năng này đã sáng tạo và thừa nhận các chuẩn mực, thừa nhận các thiết
chế chính trị; khẳng định nguyên tắc vận hành của hệ thống chính trị, các mối
quan hệ của con người trong khn khổ của một nền văn hố chính trị. Các
giá trị văn hố chính trị là yếu tố quan trọng, đóng vai trị nền tảng của trật tự
xã hội. Văn hố chính trị và văn hố đạo đức là hai trụ đỡ cho đời sống xã hội
và cá nhân. Chức năng điều chỉnh - điều tiết của văn hố chính trị có ảnh

hưởng đến sự ổn định của hệ thống chính trị, duy trì hệ thống chính trị trong
trạng thái cân bằng.
Thứ năm, chức năng bảo đảm sự kế thừa, tính liên tục lịch sử: Giống
như chức năng của văn hố nói chung, văn hố chính trị có vai trị liên kết các
thế hệ cơng dân (đã, đang và sẽ đến trong lịch sử) bằng cách trao truyền cho
nhau những giá trị, chuẩn mực, khn mẫu chính trị. Đặc biệt là sự trao
truyền những kinh nghiệm chính trị, lý tưởng chính trị tốt đẹp (nhân bản, nhân
văn) giúp cho các thế hệ sau tiếp tục duy trì và phát triển đời sống cộng đồng
hướng tới mục đích an sinh, hạnh phúc, tồn tại lâu dài và bền vững.
Tóm lại, văn hố chính trị có vai trị to lớn trong đời sống xã hội, góp
phần bảo đảm sự tồn tại và phát triển của hệ thống chính trị, phát triển xã hội
và con người.
1.2. QUAN NIỆM VỀ VĂN HĨA CHÍNH TRỊ CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO,
QUẢN LÝ

Với tư cách là chủ thể, phản ánh trình độ và kết quả của con người
trong nhận thức và hoạt động chính trị, văn hóa chính trị là sự thống nhất và
tác động qua lại của văn hóa chính trị cá nhân và văn hóa chính trị tổ chức
(cộng đồng).


25
VHCT của cán bộ lãnh đạo, quản lý chính là VHCT cá nhân (văn hóa
cơng dân). Cán bộ lãnh đạo, quản lý đó là con người tồn tại với tư cách là một
cá thể trong xã hội. Cá nhân liên hệ với xã hội chính trong đời sống cộng
đồng mà nó đạt được sự hình thành nhân cách. Trong Luận cương thứ 6 về
Phoi-ơ-bắc, C.Mác khẳng định: "Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hịa những quan hệ xã hội". Cá nhân đóng vai trị chủ động,
quan trọng trong xã hội. Xã hội vừa là tổng thể những điều kiện phát triển vừa
là kết quả tổng hịa của các cá nhân và tập thể. Do đó mỗi cá nhân - mỗi cán

bộ lãnh đạo, quản lý - đóng góp phần của mình vào đời sống cả toàn xã hội,
đồng thời xã hội cũng coi trọng và phát huy tác dụng vai trò của cá nhân.
Khi con người thực hiện một hoạt động nhất định có mục đích, có ý
nghĩa nhằm nhận thức hay cải biến hiện thực khách quan thì nó được coi là
chủ thể. Khi mỗi con người với tư cách là thành viên của xã hội, vừa là chủ
thể các quan hệ xã hội vừa là chủ thể của hoạt động có ý thức, chính là nói tới
nhân cách của con người đó. Nhân cách chính là bộ mặt tâm lý xã hội của cá
nhân, là những con người để được xã hội đánh giá và thừa nhận. Và khi tham
gia vào đời sống chính trị, nhân cách chính là nội dung bên trong của VHCT.
Sự thâm nhập của VHCT vào từng cá nhân sẽ làm nảy sinh trong họ nhu cầu
và khả năng tham gia một cách tích cực, chủ động và tự giác vào các q trình
trình chính trị - xã hội.
VHCT của cán bộ lãnh đạo, quản lý được thể hiện trên ba mặt chủ yếu.
- Trình độ nhận thức, hiểu biết về chính trị
- Khả năng, năng lực của cá nhân tham gia vào các q trình chính trị thực
tiễn, vào việc xây dựng và hoàn thiện các thiết chế của quyền lực chính trị.
- Mức độ hồn thiện nhân cách.
VHCT của cán bộ lãnh đạo, quản lý được thể hiện qua sự ứng xử, giao
tiếp tranh luận qua đó bộc lộ thái độ, lịng trung thành, trình độ giác ngộ chính
trị, năng lực trí tuệ, đạo đức tác phong cũng như một động cơ chính trị hướng
về một lợi ích chính trị, một mục tiêu lý tưởng nhất quán, cơ bản và lâu dài.


×