Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Văn Hóa Chính Trị Và Việc Nâng Cao Văn Hóa Chính Trị Ở Nước Ta Hiện Nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.72 KB, 31 trang )

VĂN HÓA CHÍNH TRỊ VÀ VIỆC NÂNG CAO VĂN HÓA CHÍNH TRỊ Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY
ThS. Nguyễn Thị Lệ Thuỷ
1. Văn hóa – cách tiếp cận làm cơ sở cho việc nhận thức và nghiên cứu về VHCT
1.1.

Khái niệm:

Cả về lôgic nội dung lẫn lôgic hình thức, khi bàn đến văn hóa chính trị không thể không
xuất phát từ khái niệm văn hóa. Trong giới hạn của chuyên đề này, chúng tôi chỉ khái quát
những kết quả nghiên cứu về văn hóa làm tiền đề cho việc nghiên cứu văn hóa chính trị. Theo
đó có thể thấy:
Văn hoá là một khái niệm đa diện, đa nghĩa do vậy sự biện giải về văn hoá có vô vàn
những cách tiếp cận khác nhau. Nếu xét về đặc trưng văn hoá, mỗi quốc gia đều có những nét
riêng của mình. Còn về mặt địa lý, thế giớ hiện tại coi như được chia thành 2 phần Đông và Tây
với ranh giới là đường nối liền chạy chéo từ lưu vực sông Nile đến dãy Ural; theo đó văn hoá thế
giới có thể phân thành hai loại hình, văn hoá phương Đông - trọng tĩnh và văn hoá phương Tây trọng động, tương ứng với hai nguồn gốc nông nghiệp và nguồn gốc du mục. Văn hoá gốc nông
nghiệp trong ứng xử với môi trường tự nhiên có ý thức tôn trọng, sống hoà hợp với thiên nhiên,
lối tư duy tổng hợp, biện chứng, chủ quan, cảm tính và kinh nghiệm; ứng xử với môi trường xã
hội thì dung hợp trong tiếp nhận. Mền dẻo hiếu hoà trong đối phó. Văn hoá du mục luôn muốn
chnh phục và chế ngự thiên nhiên, lối nhận thức về phân tích, khách quan, lý tính và thực nghiệm,
ứng xử trong xã hội theo cách độc tôn khi tiếp nhận, cứng rắn, hiếu thắng trong đối phó. Tuy
nhiên, hiểu nội hàm của văn hoá không tách biệt rạch ròi như vậy. Có nhiều học giả gắn khái niệm
văn hoá với các nền văn minh, hoặc với thực tế về chính trị, kinh tế, tôn giáo, khoa học kỹ thuật,
đạo đức và xã hội. Nhà xã hội học MỸ Clifford Geertz quan niệm”khái niệm văn hoá chính là
những ý nghĩa được lưu truyền trong lịch sử thể hiện trong những hình thái hành vi, một hệ thống
nhận thức được truyền giữ thể hiện cách thức mà theo đó con người trao đổi, cư xử với nhau và
phát triển nhận thức của mình về cuộc sống”1 Quan niệm của Federico Mayor (nguyên Tổng
giám đốc UNESCO) “ Văn hoá bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc
khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong ttục, tập quán, lối sống
và lao động”2 và định nghĩa về văn hoá của UNESCO: “Văn hoá cần được xem như tập hợp


những đặc trưng về tinh thần, vật chất, trí tuệ và tình cảm của một xã hội hoặc một nhóm người
trong xã hội, bao gồm nghệ thuật, văn học, lối sống, phương thức sinh hoạt cộng đồng, những
uyền cơ bản của con người, hệ thống giá trị, truyền thồng tín ngưỡng… Chính văn hóa đém lại
khả năng suy xét về bản thân, chính văn hóa làm cho con người trở thành nhữngsinh vật đặc biệtnhân bản có lý tính, có óc phê phán và dấn thân có đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự
thể hiện mình, tự ý thức được bản thân, tự biết mìn là phương án chưa hoàn thiện đặt ra để xem
xét những thành tự của bản thân, tìm tòi khong biết mệt những ý nghĩ mới mẻ và sáng tạo nên
1

Clifford Geertz, The Interpretation of Cultures (sự thể hiện,(giải thích, diễn đạt) của văn hoa), Basic Books, New York,
1973, tr.89 (theo n/c quốc tế số1/ 3-2009 , tr 19)
2
Tạp chí “Người đưa tin UNESCO” 11/1989, tr5

1


những công trình vượt trội lên bản thân mình ” 3 cũng là cách hiểu tương đối khái quát toàn diện
về khái niệm văn hoá... Là người am hiếu văn hoá phương Đông và phương Tây, Chủ Tịch Hồ
Chí Minh khẳng định: “Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu
hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu đời sống và đòi hỏi
của sự sinh tồn” 4. Như vậy, dấu ấn của văn hoá xuất hiện trên mọi mặt của đời sống cộng đồng,
trong đó có lối ứng xử cả với bên trong và với bên ngoài.
1.2 Các phương diện tiếp cận về văn hóa.
Mặc dù có nhiều góc nhìn khác nhau, nhưng về đại thể, văn hoá được nhấn mạnh trên các
phương tiện chính như sau:
* Thứ nhất, Văn hoá là tổng hoà những giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người
sáng tạo nên.
- Văn hóa là sản phẩm của tổng hòa, biện chứng giữa giá trị vật chất (vanư hóa vật chất,
văn hóa vật thể) và giá trị tinh thần (văn hóa tinh thần, văn hóa phi vật thể)
- Trong hệ thống các giá rị văn hóa con người được xem là giá trị cao quí nhất – giá trị

của mọi giá trị, Vì vậy, việc hoàn thiện nhân cách con người, phát triển con người tnà diện được
coi là thành tựu cao quí nhất của văn hóa
- Hệ thống giá trị văn hóa có vai trò tác dụng quang trọng:
+ Nó điều chỉnh hành vi của con người theo quĩ đạo Chân-Thiện-Mỹ, hướng về cái đúngcái tốt - cái đẹp. Theo ý nghĩa này thì chỉ những giá trị nào tuân theo quĩ đạo, Chân-Thiện – Mỹ
(được văn hóa hóa) mới là văn hóa.
+ Nó chi phối cách ứng xử giao tiếp của từng chủ thể, tạo nên những nét đặc thù của chủ
thể trong từng giai đoạn lich sử, cũng như từng cộng đồng người cụ thể…
+ Nó đăc trưng cho nhận thức và hoạt động của chủ thể trong từng lĩnh vực (Vhkinh
doanh, văn hóa nghệ thuật, văn hóa giao thông…), từng quan hệ cụ thể (văn hóa trong quan hệ
gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, xóm giềng…)
+ Nó là chuẩn phân biệt sự khác nhau về chất giữa con người và con vật (tính người và
tính đvật)
- Giá trị văn hóa luôn gắn liền với những hệ chuẩn tương ứng, xác định. Chính những
chuẩn mực văn hóa tạo nên nền tảng, bản sắc văn hóa của mỗi cộng đồng (dân tộc) , duy trì và
tạo nên sức sống của mỗi cộng đồng. Mặt kkhác, những chuẩn mực còn qui định nghĩa vụ (có
tính bắt buộc ) của mỗi cá nhân với cộng đồng, nên chính nó cũng là cầu nối giữa nhân cách cá
nhân với yêu cầu của cộng đồng
* thứ hai, Văn hoá luôn gắn liền(là sản phẩm) với những hoạt động của con người.
Văn hóa không tự có, cũng không do lực lượng siêu tự nhiên nào đó tạo ra mà do chính
những hoạt động của con người tạo ra
Lao động chính là hoạt động văn hóa, hoạt động sáng tạo ta các giá trị văn hóa. Với ý
nghĩa đó, văn hóa bao gồm:
3
4

Tuyên ngôn phổ quát về Đa dạng văn hoá của UNESCO năm 1992 (theo n/c quốc tế số1/ 3-2009 , tr 21)
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, t3, tr431

2



- Những hoạt động sáng tạo ra các giá trị (kể cả những phương thức, công cụ…)
- Kỹ năng sử dụng các giá trị vì sự tiến bộ và phát triển
- Sự truyền thụ các giá trị từ thế hệ này sang thế hệ khác
Gắn với hoạt động của con người, nên văn hóa có mặt ở khắp các lĩnh vực của ĐSXH với
những mức độ khác nhau. Mọi hoạt động của con người cần đạt tới tính văn hóa, trở thành văn
hóa và ngày càng mang giá trị văn hóa lớn hơn.
Chỉ những hoạt động đi theo quỹ đạo CHÂN- THIỆN-MỸ mới sản sinh văn hóa. Do vậy,
trong nội dung văn hóa tự nó đã bao hàm cả tính khoa học, tính đạo đức, tính thẩm mỹ, và như
vây cũng hàm chứa tính dân chủ sâu sắc.
Từ phương diện này, nguyên Tổng thư ký UNESCO Federico Mayor đã định nghĩa văn
hóa: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt đông sáng tạo (của cá nhân và cộng đồng) trong
quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống giá trị,
các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định tính riêng của mõi dân tộc”. Tính riêng
này chính là tính bản sắc hay là tầng sâu của văn hóa.
Văn hoá là một hiện tượng xã hội, gắn liền với tiến trình xã hội nên nó bao quát không
chỉ quá khứ và hiện tại mà bao giờ cũng hướng về tương lai. Với đặc điểm và sắc thái riêng của
mình, mỗi dân tộc trong quá trình tồn tại và phát triển đã mang đến cho nhân loại những giá trị
đặc thù, đồng thời cũng chịu sự tương tác của những giá trị văn hóa các dân tộc khác có quan
hệ.
Ở nước ta hiện nay, nét độc đáo văn hoá hiện đại không thể tách khỏi Đảng cộng sản Việt
Nam, nhân dân Việt Nam với bề dày lịch sử truyền thống và hệ tư tưởng cách mạng là chủ nghĩa
Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; độc lập dân tộc gắn liền với CNXH
* Thứ ba, văn hóa luôn gắn liền với các chủ thể xác định
Con người vừa là một hiện tượng của văn hóa (giá trị) vừa là chủ thẻ của văn hóa. Nhưng
cũng chính văn hóa khẳng định tư cách chủ thể của con người
Chủ thể văn hóa có thể “qui” về hai cấp độ chính:
- Văn hóa cá nhân, là văn hóa của một người cụ thể được hình thành, tích lũy, phát triển
trong quá trình hoạt động sống và hoạt động xã hội của họ.
- Văn hóa cộng đồng, là văn hóa của một nhóm xã hội (gia đình -> nhân loại) gồm toàn bộ

những giá trị , chuẩn mực được mọi người trong cộng đồng chấp nhận và tuân thủ tự giác (những
cộng đồng: dân tộc, giai cấp, nhân loại là những chủ thể quan trọng)
II. Văn hóa chính trị
1. Lịch sử hình thành phạm trù VHCT và quan điểm, tư tưởng của Mác, Ăngghen, Lênin,
Hồ Chí Minh về VHCT
VHCT là một bộ phận, một phương diện của văn hóa trong xã hội có giai cấp (có chính trị),
nhưng điều đó không có nghĩa VHCT là phép cộng giản đơn giữa văn hóa với chính trị, mà đó là sự
thẩm thấu, xâm nhập vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau giữa văn hóa với chính trị, chính trị với văn hóa.

3


Vì vậy,VHCT là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà tư tưởng lớn, nó đã được thể hiện trong tư tưởng
chính trị của nhiều tư tưởng gia lớn trong các thời kỳ lịch sử.
* Nếu hiểu VHCT như là những giá trị phản ánh quá trình tìm kiếm, thử nghiệm những phương
thức, con đường để nâng cao chất lượng, hiệu quả và góp phần nhân đạo hóa các quá trình chính trị thì
từ lâu nó đã là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà tư tưởng lớn thời cổ đại như: Platôn, Aristốt... (ở
phương Tây); Khổng Tử, Mạnh Tử, Mặc Tử, Hàn Phi... (ở phương Đông). Nó cũng được tiếp tục phát
triển và được thể hiện trong các tư tưởng chính trị của các nhà chính trị tư sản cận đại nổi tiếng như
Môngtetxkiơ (1689-1755), Vôn te (1694-1778), Rút xô (1712-1778). Đến đầu thế kỷ XIX xuất hiện
ba nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng với những khát vọng về một xã hội, một chế độ chính trị nhân
văn đó là Xanh Xi Mông, Phuriê, O-oen. Tư tưởng của các ông về CNXH đã trở thành những tiền đề
lý luận trực tiếp của CNXH khoa học.
* Đến những năm 1950, hai nhà chính trị học Mỹ H.Almond và H.Paul đã đưa ra định nghĩa
VHCT cho đến nay vẫn được nhiều người đồng tình: "Văn hoá chính trị là tập hợp các lập trường
và các xu hướng cá nhân của những người tham gia trong một hệ thống nào đó, là lĩnh vực chủ
quan làm cơ sở cho hành động chính trị và làm cho hoạt động chính trị có ý nghĩa. Những định
hướng cá nhân bao gồm một số thành tố; cụ thể là:
- Định hướng nhận thức: là hiểu biết đúng sai về các khách thể và các tư tưởng chính trị.
Những hiểu biết này có thể là hiểu biết trực quan về chính trị, cũng có thể là tư duy chính trị đã

được khoa học hóa.
- Định hướng tình cảm: đó là cảm giác về những mối liên hệ, sự lôi cuốn, về mâu
thuẫn...với các khách thể chính trị nào đó.
- Định hướng đánh giá: là ý kiến, nhận xét về các khách thể trên cơ sở căn cứ vào những
hệ thống giá trị và tiêu chuẩn để đánh giá” 5
* Trong lịch sử Việt Nam, ông cha ta cũng để lại nhiều tư tưởng chính trị quí giá, thể hiện
nhãn quan VHCT sâu sắc. Tư tưởng về độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia, tư tưởng "khoan
dân", "nhân nghĩa"... đã trở thành triết lý sống của người Việt Nam, cho đến nay những giá trị đó
vẫn còn nguyên ý nghĩa.
* C. Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin tuy chưa đưa ra khái niệm VHCT, nhưng trong hệ thống
học thuyết của các ông đều toát lên những tư tưởng, quan điểm cơ bản về VHCT trên mọi khía cạnh
đời sống chính trị của giai cấp vô sản và nhân dân lao động như: vấn đề đấu tranh giành quyền lực,
vấn đề cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới; vấn đề xây dựng con người XHCN; vấn đề dân chủ
XHCN...
Những nhà chính trị học mác- xít đã đưa ra nhiều định nghĩa về VHCT do sự khác nhau về
cách tiếp cận. Theo từ điển chính trị rút gọn của Liên Xô (trước đây) các tác giả cho rằng: “Văn
hoá chính trị là trình độ và tính chất của những hiểu biết chính trị, những nhận định, những
hành vi của công dân, cũng như nội dung, chất lượng của những giá trị xã hội, những chuẩn
mực xã hội và sự hoàn thiện của hệ thống tổ chức quyền lực, phù hợp với sự phát triển và tiến
bộ xã hội, góp phần điều chỉnh hành vi và quan hệ xã hội”6.
5
6

Tập thể tác giả, chính trị học đại cương, NXB TP Hồ Chí Minh, 1999 , Tr.216
Phân viện báo chí và tuyên truyền, chính trị học đại cương, NXBCTQG, Tr. 288

4


* Các nhà nghiên cứu lý luận Việt Nam cũng đang trong quá trình cùng nhau xây dựng

một quan niệm đầy đủ về VHCT trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Những quan điểm của Chủ Tịch Hồ Chí minh thực sự có ý nghĩa xuất phát điểm cho quá
trình tìm tòi, nghiên cứu vừa mới mẻ, vừa phức tạp này.
Hồ Chí Minh quan tâm giáo dục các mục tiêu của VHCT theo cả mô thức dân tộc - khoa
học - đại chúng trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đồng thời Người xác lập
quan hệ văn hoá - chính trị trên nền tảng dân tộc với nội dung XHCN trong giai đoạn cách mạng
XHCN. VHCT được tạo lập trong các quan hệ chính trị mới, mà trong những quan hệ đó đánh
dấu sự trưởng thành về nhân cách chính trị của nhân dân, làm gia tăng các khả năng sáng tạo của
quần chúng nhân dân.
Quan điểm nổi bật nhất và đặc sắc nhất trong tư tưởng VHCT của Hồ Chí Minh là xã hội
mới phải có con người mới đại diện cho nó:"Muốn XHCN, phải có: người XHCN. Muốn có
người XHCN, phải có tư tưởng XHCN" 7 . Đối với Hồ Chí Minh, xây dựng thành công con
người mới XHCN là xác lập cơ sở bền vững của VHCT mới.
Sự lựa chọn con đường kết hợp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp vô sản là sự lựa
chọn mang tính VHCT sâu sắc. Quan điểm về một xã hội mới phải là một xã hội không có áp bức
dân tộc, áp bức giai cấp, áp bức con người....Hồ Chí Minh đã đặt cơ sở cho việc hình thành một tư
duy chính trị mới. Với địa vị chính trị mới trong xã hội, giai cấp vô sản và nhân dân lao động thiết
lập nên các quan hệ VHCT mới - đó là khối liên minh công - nông - trí thức như nền tảng chính trị
của CNXH. Trong quan hệ đó, giai cấp công nhân và đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản
Việt Nam giữ vai trò lãnh đạo chính trị, nhưng đội ngũ cán bộ của nó trong quan hệ quyền lực chỉ
là những “đầy tớ” trung thành của nhân dân, nhân dân là người làm chủ QLCT thực sự. VHCT
trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ mang nội dung giai cấp công nhân, mà còn là tổng hợp các
giá trị văn hoá người Việt. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chấp nhận một kiểu VHCT dựa trên cơ
sở tăng trưởng kinh tế nhưng lại kéo theo sự nô dịch con người hoặc tạo ra các phản giá trị về
nhân cách con người. VHCT cũng là loại hình văn hóa hướng con người làm việc thiện, gắn với
các lợi ích kinh tế, chính trị, nhưng nó phải là sự hài hòa, sự liên hiệp giữa cộng đồng và cá nhân,
giữa truyền thống với hiện đại, giữa kinh tế và văn hóa, giữa giá trị vật chất và phi vật chất, giữa
bản sắc văn hóa dân tộc với tiếp biến văn hóa quốc tế... trên nền tảng giá trị chân- thiện - mỹ.\
2. Khái niệm văn hóa chính trị
2.1. Định nghĩa:

Trên cơ sở quan điểm mang tính định hướng của tư tưởng Hồ Chí Minh, các nhà nghiên cứu
lý luận Việt Nam đã đưa ra nhiều cách diễn đạt về khái niệm VHCT. PGS.TS Hoàng Chí Bảo quan
niệm: “VHCT là chất lượng tổng hòa của tri thức, tình cảm, niềm tin chính trị, tạo thành ý thức
chính trị công dân, thúc đẩy họ tới những hành động chính trị tích cực phù hợp với lý tưởng chính
trị của xã hội, là thói quen và nhu cầu tham gia một cách tự giác chủ động vào các quan hệ chính
trị xã hội, trở thành giá trị xã hội của công dân, góp phần hướng dẫn họ trong cuộc đấu tranh vì lợi
ích chung của xã hội vì tiến bộ và phát triển”8
7

Tập thể tác giả, chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị, NXBCTQG, Tr. 228

8

Viện Mac-Lênin, “một số vấn đề về khoa học chính trị”, Hà Nội 4/1994

5


Khoa chính trị học Học viện Báo chí tuyên truyền - Hà Nội định nghĩa: “Văn hoá chính trị là
một lĩnh vực biểu hiện đặc biệt của văn hóa của loài người trong xã hội có giai cấp được hiểu là
trình độ phát triển của con người được thể hiện ở trình độ hiểu biết về chính trị, trình độ tổ chức hệ
thống quyền lực theo một chuẩn giá trị xã hội nhất định nhằm điều hòa các quan hệ lợi ích của giai
cấp cầm quyền, phù hợp với xu thế phát triển và tiến bộ xã hội”9
Từ cách tiếp cận xem chính trị là lĩnh vực hoạt động gắn liền với những quan hệ giữa các
giai cấp, các dân tộc, các tập đoàn xã hội khác nhau mà hạt nhân là vấn đề giành, giữ và thực thi
QLNN, sự tham gia vào công việc nhà nước, sự qui định các hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt
động của nhà nước được xem như là cái quan trọng nhất của chính trị, các nhà khoa học của Viện
Khoa học chính trị đã xem xét VHCT từ góc độ rộng hơn của khoa học chính trị, “Văn hoá chính
trị là một phương diện của văn hóa trong xã hội có giai cấp, nói lên tri thức, năng lực sáng tạo
trong hoạt động chính trị dựa trên nhận thức sâu sắc các quan hệ chính trị hiện thực cùng những

thiết chế chính trị tiến bộ được lập ra để thực hiện lợi ích chính trị cơ bản của giai cấp hay của
nhân dân, phù hợp với sự phát triển của lịch sử. VHCT nói lên phẩm chất và hình thức hoạt động
chính trị của con người cùng những thiết chế chính trị mà họ lập ra để thực hiện lợi ích giai cấp
cơ bản của chủ thể tương ứng”10.
2.2. Các phương diện tiếp cận VHCT
Để tiếp cận VHCT toàn diện về bản chất của VHCT thì không chỉ dừng ở việc đưa ra một
định nghĩa “duy danh luận” cho VHCT, mà chủ yếu phải xác định được nội hàm của VHCT trên
quan điểm của chính trị học mác-xít theo phương pháp hệ thống, cấu trúc. Theo cách này VHCT
được xác định trên các phương diện cơ bản sau:
*Thứ nhất: VHCT là một bộ phận, một phương diện của văn hóa trong xã hội có giai
cấp, là văn hóa trong lĩnh vực đời sống chính trị, trong các quan hệ chính trị, trong ý thức và
hành vi chính trị của các chủ thể, trong đường lối, chính sách của đảng cầm quyền.VHCT là sự
thâm nhập của văn hoá vào cương lĩnh chính trị và hoạt động chính trị của các tổ chức chính
trị, vào tư cách, nhân cách chính trị của con người chính trị (một công dân, một cán bộ, một
thủ lĩnh)...
*Thứ hai: VHCT là trình độ phát triển văn hóa trong mối quan hệ tất yếu của văn hóa với
chính trị, chính trị với văn hóa, từ đó nảy sinh vấn đề chính trị trong văn hóa, chính trị với văn
hóa và văn hóa trong chính trị, văn hóa với chính trị. Tư tưởng Hồ Chí Minh cho thấy rất rõ vấn
đề này, Người đưa ra khẩu hiệu: “Kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến”, điều đó
có nghĩa VHCT là quá trình đưa văn hóa vào chính trị (văn hóa mang dấu ấn chính trị), nâng
chính trị lên tầm văn hóa. VHCT là sự “thẩm thấu” của văn hóa vào chính trị, trong đó văn hóa
đóng vai trò quan trọng, giữ cho chính trị khỏi bị “tha hóa”, đồng thời tạo cho chính trị một nền
tảng giá trị văn hóa để thực hiện được các lý tưởng, mục đích chính trị vì con người. Chính trị
có văn hóa là chính trị vì dân, chính trị giải phóng con người, giải phóng các năng lực xã hội để
cho cộng đồng, con người được sống và sống ngày càng tốt hơn; chính trị không có văn hóa là
chính trị tàn bạo, dã man, phi nhân tính. Vì vậy, một đòi hỏi tất yếu phải đưa văn hóa tác động
9

Phân viện báo chí và tuyên truyền, “chính trị học đại cương”, NXBCTQG, Tr.229
Viện Khoa học chính trị, học viện CTQG Hồ Chí Minh, Tập bài giảng chính trị học, NXBCTQG, H.1999, Tr.279


10

6


vào chính trị, trong đó đặc biệt phải chú trọng vấn đề giáo dục, truyền thụ các giá trị văn hóa,
bản thân chính trị cũng phải trở thành giá trị văn hóa đích thực. Các nhà chính trị, các công dân
sẽ không có được trình độ giác ngộ khoa học về chính trị cũng như tính tích cực và kỹ năng, kỹ
xảo trong hoạt động chính trị, thực tiễn nếu thiếu hoặc không có một trình độ học vấn, một khả
năng hoạt động thực tiễn đến độ nhất định. Mặt khác, bản thân văn hóa, nhất là văn hóa tinh
thần luôn gắn với thế giới quan, hệ tư tưởng, quan điểm chính trị, luôn cần đến sự dẫn dắt, định
hướng của chính trị trong hoạt động và phát triển. Và như vậy, chính trị (Đảng, Nhà nước) phải
lãnh đạo văn hóa và quản lý văn hóa, phải đề cao và tôn trọng văn hóa, coi văn hóa “vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của mọi sự phát triển”, là nền tảng cho sự phát triển bền vững. VHCT bao
trùm mối quan hệ văn hóa với chính trị, chính trị với văn hóa. Vấn đề đặt ra là phải giải quyết
mối quan hệ này thực sự dân chủ để làm sao chính trị khai thác văn hóa được một cách tối đa
phục vụ cho chính trị, góp phần thúc đẩy sự phát triển ổn định, bền vững của xã hội.
* Thứ ba: VHCT luôn mang bản chất giai cấp, nó là phương thức quan trọng để giai cấp
cầm quyền thực thi QLCT của mình. Bất cứ giai cấp nào lên cầm quyền đều nắm lấy VHCT, xây
dựng VHCT của giai cấp mình để củng cố, tăng cường QLCT, thực thi những lợi ích của giai
cấp mình để quản lý và điều hành xã hội.
*Thứ tư: VHCT bao giờ cũng chịu sự chế định của hàng loạt các nhân tố như:
- Tính chất và trình độ phát triển của nền kinh tế.
- Trạnh thái của người cầm quyền.
- Trình độ học vấn, trình độ văn hóa của toàn xã hội.
- Trình độ thông tin và mức độ dân chủ hóa thông tin.
- Sự mở rộng giao lưu quốc tế...
Vì vậy, không nên cực đoan cho rằng chỉ có giai cấp công nhân và đảng tiên phong của nó
mới có VHCT, mới là hiện thân của VHCT. Thực chất, mỗi thời đại, mỗi giai cấp đều có VHCT

riêng của nó, có hệ giá trị, chuẩn mực, lý tưởng chính trị riêng để phục vụ cho mục đích chính trị
của giai cấp đó. Tuy nhiên, ý nghĩa nhân văn, nhân đạo cao cả ; tính chân-thiện, mỹ là tiêu chí cơ
bản nhất để đánh giá, định chuẩn, định hướng... cho VHCT.
* Thứ năm: VHCT luôn gắn liền với các chủ thể chính trị (cá nhân chính trị, nhóm xã hội,
giai cấp...), nhưng dù là cấp độ chủ thể nào, VHCT cũng đều chứa đựng hệ thống các giá trị, các
chuẩn mực chính trị, nó có thể là tiêu chí chính trị được các chủ thể sử dụng trong cuộc đấu
tranh giành và thực thi QLNN, hoặc để thực hiện các mối quan hệ xã hội nào đó. Nó cũng có thể
là phương thức để các chủ thể hoạt động đạt đến các mục tiêu khác. Với lôgic đó, văn hóa chính
trị của các chủ thể ở nước ta đều là những phương diện thành tựu của VHCT nói chung, văn hóa
cầm quyền của Đảng ta nói riêng.
Từ khía cạnh ảnh hưởng của VHCT đến chất lượng của các chủ thể chính trị, người ta
thường nhấn mạnh đến khía cạnh giá trị của VHCT, trên phương diện đó Viện Khoa học chính
trị đã định nghĩa VHCT như sau: “Văn hoá chính trị là tổng hợp những giá trị vật chất và tinh
thần được hình thành trong thực tiễn chính trị, nó góp phần chi phối hoạt động của các cá
nhân, các nhà chính trị, góp phần định hướng hoạt động của họ trong việc tham gia vào đời
7


sống chính trị để phục vụ lợi ích căn bản của một giai cấp nhất định. Rộng hơn, nó là một trong
những cơ sở định hình và định hướng cho các phong trào chính trị, cho từng nền chính trị khác
nhau trong lịch sử chính trị”11 .
Giá trị văn hóa là yếu tố cơ bản nhất ảnh hưởng đến việc hình thành và phát triển nhân cách
văn hóa của con người. Như vậy, giá trị VHCT có ý nghĩa to lớn đối với việc nâng cao chất lượng
và phát huy vai trò của VHCT của các chủ thể chính trị trong đời sống chính trị ở nước ta hiện
nay. Có thể xem VHCT là biểu hiện của những phương thức trong hoạt động chính trị của các chủ
thể trong khả năng vận dụng các giá trị xã hội trong việc giành, giữ và thực thi QLCT. Với ý
nghĩa đó, VHCT được hiểu là tổng hoà những giá trị, những khuynh hướng, những quá trình
chính trị của các chủ thể, mà những giá trị, những khuynh hướng, những quá trình chính trị ấy
phản ánh trình độ trưởng thành nhân cách chính trị của các chủ thể trong đời sống xã hội. VHCT
còn là khả năng vận dụng và thúc đẩy các điều kiện xã hội trong quá trình tạo lập và thực thi các

giá trị chính trị của các chủ thể nhằm thực hiện lợi ích giai cấp phù hợp với tiến bộ xã hôị.
Để có cơ sở lý luận sâu sắc hơn trong việc xác định vai trò động lực của VHCT với việc
nâng cao chất lượng và phát huy vai trò của các chủ thể chính trị chugngs ta cần làm sáng tỏ cấu
trúc, đặc điểm và chức năng của VHCT.
3. Cấu trúc, đặc điểm và chức năng của VHCT.
3.1 Cấu trúc của văn hoá chính trị.
Xác định cấu trúc của VHCT phải gắn liền với những khía cạnh khác nhau của nó, có hai
phương diện cơ bản:
a. VHCT với tư cách là hệ thống các giá trị.

Những giá trị chính trị là lí do, là định hướng và lí giải hành động của chủ thể chính
trị, thể hiện trạng thái, nhu cầu và triển vọng phát triển của xã hội cũng như của các thành
viên, các nhóm trong xã hội. Với ý nghĩa đó, VHCT là kết quả tổng hợp của các giá trị sau.
* Tri thức và sự hiểu biết chính trị.
Đây là giá trị nền tảng của VHCT, được định lượng một cách phổ biến bởi tri thức
chính trị. Tri thức chính trị là trình độ học vấn và sự hiểu biết của con người về chính trị.
VHCT luôn cần và cần phải có học vấn chính trị. Tuy học vấn và văn hóa là hai khái niệm không
đồng nhất với nhau nhưng chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trình độ học vấn giúp cho các
chủ thể hiểu biết và nhận thức rõ hơn về các giá trị văn hóa, từ đó xác định các nguyên tắc, lý tưởng
sống cho bản thân mình, lúc đó trình độ học vấn đã trở thành một khía cạnh của nhân cách văn hóa.
Ngược lại, văn hóa lại khẳng định những giá trị xã hội của học vấn, chủ thể nào có trình độ học vấn
mà không cống hiến cho xã hội, thậm chí phá hoại xã hội thì học vấn đó đứng ngoài văn hóa. Có
trình độ học vấn, quần chúng nhân dân tự giác và nâng cao ý thức trách nhiệm, tham gia tích cực và
có hiệu quả trong thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Nói về vai trò của học vấn đối với chính trị, V.I. Lênin có một nhận xét nổi tiếng: “Người
không biết chữ là người đứng ngoài chính trị”12. Chính trị là trí tuệ, không có tri thức chính trị khó có
thể đạt tới trình độ tự giác, tích cực. Những biểu hiện phiêu lưu, manh động, tính tự phát vô chính phủ
11

Viện Khoa học chính trị, học viện CTQG Hồ Chí Minh, Tập bài giảng chính trị học, NXBCTQG, H.1999, Tr.279


12

Tập thể tác giả, chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị, NXBCTQG, Hà Nội 1999, Tr.17

8


trong các hành vi chính trị phần lớn đều xuất phát từ việc thiếu hiểu biết, thiếu sự dẫn dắt của lí trí
sáng suốt, tỉnh táo tức là thiếu lý luận khoa học; “Thực tiễn không có lý luận dẫn đường là thực tiễn
mù quáng”. Kinh nghiệm hoạt động chính trị thực tiễn cho thấy, nhiệt tình không dựa trên cơ sở hiểu
biết nhiều khi dẫn tới hành vi phá hoại, cản trở xu thế phát triển nói chung.
Sự hiểu biết chính trị không chỉ biểu hiện ở trình độ học vấn chính trị mà còn ở trình độ kinh
nghiệm, sự khôn ngoan, sự từng trải, sự nhạy bén, mẫn cảm... về chính trị được tích lũy qua thực
tiễn chính trị của chủ thể. Ở đó trình độ học vấn được thẩm thấu vào hành vi nhận thức, suy nghĩ,
tình cảm của con người, trở thành những giá trị ứng xử của con người dưới dạng nguyên tắc sống
hướng tới chân, thiện, mỹ, giúp chủ thể khắc phục căn bệnh chủ quan, duy ý chí.
Trình độ học vấn cũng như trình độ kinh nghiệm thực tiễn chính trị cùng đi tìm một “mẫu số
chung” đó là:
- Nâng cao nhận thức chính trị cho chủ thể.
- Nâng cao khả năng đánh giá của chủ thể.
- Nâng cao khả năng ứng xử nhạy bén của chủ thể.
Về lý thuyết, giữa học vấn chính trị và kinh nghiệm chính trị thì học vấn chính trị có vị trí
chi phối, nhưng trong thực tiễn khó khẳng định được cái nào quan trọng hơn cái nào. Do vậy, tri
thức chính trị và sự hiểu biết chính trị với tư cách là nhân tố cấu thành VHCT phải là sự thống
nhất giữa tri thức lý luận và tri thức kinh nghiệm, trong đó tri thức lý luận càng đạt tới tính khách
quan, khoa học bao nhiêu càng có vai trò to lớn, mở đường cho hành động đúng bấy nhiêu; nó
giúp cho các chủ thể nhận thức rõ bản chất các quá trình chính trị, các qui luật chính trị, các lợi ích
chính trị. Tri thức kinh nghiệm sẽ là những giá trị tăng thêm sức mạnh cho tri thức lý luận, nhưng
nó chỉ trở thành giá trị VHCT khi nó kết hợp với tri thức, lý tưởng và niềm tin chính trị. Tuyệt đối

hóa kinh nghiệm là sai lầm, “bệnh kinh nghiệm” sẽ trói cột con người, không dám thừa nhận cái
mới, áp dụng kinh nghiệm một cách máy móc, chủ quan trong giải quyết các vấn đề chính trị.
VHCT sẽ là “vòng kim cô” tốt nhất để điều khiển và phát huy tốt những giá trị quí báu của kinh
nghiệm chính trị. Vì vậy, tuyệt đối hóa hoặc phủ nhận vai trò của yếu tố nào cũng đều hạ thấp giá
trị và trình độ VHCT. Nếu văn hóa là thước đo trình độ hiểu biết thì VHCT phải được xem là trình
độ giác ngộ khoa học về chính trị. Sự hiểu biết đúng đắn, khoa học về chính trị cùng với sự hỗ trợ
quan trọng của kinh nghiệm chính trị, kinh nghiệm sống của các chủ thể chính trị giúp họ nâng
cao tính tự giác trong hoạt động thực tiễn.
Trong đời sống chính trị hiện đại, sự đa dạng, phức tạp về chủ thể chính trị, sự phát triển như
vũ bão của khoa học công nghệ và trình độ dân trí ngày càng cao, nền kinh tế phát triển theo xu
hướng xã hội hóa và toàn cầu hóa, cùng với sự phát triển của nhân loại lấy mục đích nhân đạo, nhân
văn, dân chủ làm định hướng lý tưởng mà nội dung cơ bản là giải phóng mọi năng lực sáng tạo của
con người ở cấp độ cá nhân lẫn xã hội đã tạo ra những phương thức, những công cụ để giành, giữ và
thực thi QLCT phong phú hơn, trí tuệ hơn và nhân đạo hơn. Do vậy, làm chính trị và hoạt động
chính trị hiện đại không thể chỉ là bạo lực, không thể chỉ bằng khát vọng mãnh liệt và sự quyết đoán
mà còn phải có sự hiểu biết sâu sắc về chính trị, nhất là về QLCT. Trên cơ sở đó xác định bản lĩnh
chính trị vững vàng, có cơ sở khoa học, tự tin trong mọi quyết định chính trị, nhạy bén, sáng suốt,
tinh tế trước các tình huống phức tạp của hoạt động chính trị thực tiễn. Đó là đòi hỏi cần thiết đối
9


với mọi chủ thể trong hoạt động chính trị hiện đại. “Thái độ thành thực về chính trị là kết quả của
sức mạnh, thái độ giả dối về chính trị là kết quả của sự hèn yếu” 13. Với ý nghĩa đó, VHCT là tổng
hợp các giá trị như: tri thức, kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, tình cảm, niềm tin chính trị... được
hình thành trong thực tiễn chính trị, tạo thành ý thức chính trị của các chủ thể, chi phối hành vi của
các chủ thể trong quá trình hiện thực hóa lợi ích chính trị căn bản của giai cấp mình, phù hợp với xu
thế phát triển của lịch sử, của tiến bộ xã hội.
Với ý nghĩa đó, trong dự thảo nghị quyết về “văn hoá vô sản”, nhân dịp Đại hội I toàn Nga
của nhóm văn hoá vô sản họp ở Mátxcơva từ ngày 5 đến ngày 12 tháng 10 năm 1920, V.I.Lê nin
mạnh rằng: chỉ có thể phát triển nền văn hoá thực sự vô sản khi biết nắm vững được tất cả những

tri thức mà nhân loại đã tạo ra.
Đối với chính trị của Đảng Cộng sản, chính trị Việt Nam theo định hướng XHCN là chính trị
tự giác, trong đó lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động được coi là hướng tập trung
những giá trị nền tảng, chủ đạo. Là người lãnh đạo toàn diện, tác động đến mọi chủ thể chính trị,
Đảng Cộng sản Việt Nam phải trang bị hiểu biết cho tất cả các chủ thể về mọi mặt, đặc biệt là
những hiểu biết về chính trị, về lý luận chính trị, trực tiếp là lý luận về QLCT, QLNN - giá trị nền
tảng, “căn cước chính trị” của giai cấp cầm quyền, đồng thời là công cụ không thể thiếu được để xử
lý đúng đắn các mối quan hệ quyền lực, các tình huống chính trị, tránh bị quyền lực làm “tha hóa”.
* Niềm tin và tình cảm chính trị.
Niềm tin và tình cảm chính trị được hình thành bằng những con đường khác nhau, ở mỗi đối
tượng cụ thể trong một không gian và thời gian chính trị nhất định. Niềm tin và tình cảm chính trị là
sự bộc lộ những phẩm chất, sắc thái cá nhân đối với lý tưởng, chế độ chính trị, nhà nước, chính
đảng, đối với các cơ quan lãnh đạo, các nhà lãnh đạo... Nếu là kết quả của nhận thức đúng đắn, sâu
sắc về lý tưởng chính trị đã lựa chọn, không chịu bất cứ sự áp đặt, cưỡng bức nào thì niềm tin chính
trị sẽ mang tính ổn định và bền vững, cả khi đời sống chính trị thuận lợi, cả trong những lúc biến
động nhiều trắc trở, khó khăn. Thực tiễn cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam là ví dụ sinh động về điều này. Với niềm tin trên cơ sở khoa học và cách mạng, nhiều cán
bộ cách mạng và quần chúng nhân dân đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng thể hiện rõ nét
tính cách anh dũng, kiên cường, bất khuất... trong chiến đấu, lao động, học tập, trong những tình
huống nguy hiểm, thậm chí “ngàn cân treo sợi tóc”, đe dọa tính mạng; trong những lúc khủng
hoảng, khó khăn nhất... nhưng vẫn giữ niềm tin vào lý tưởng cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân
dân đã lựa chọn - độc lập dân tộc và CNXH. Nhưng ngược lại, niềm tin chính trị dựa trên nhận thức
cảm tính, giản đơn dễ bi quan dao động, thậm chí phản bội lại lý tưởng chính trị khi tình thế chính
trị khó khăn, phức tạp. Cuộc khủng hoảng và sụp đổ của Đông Âu và Liên Xô đã minh chứng điều
đó, sự thật là “mất niềm tin thì mất tất cả”.
Trên ý nghĩa đó, niềm tin chính là mẫu số chung của sự ổn định chính trị. Nhưng trong thực
tế không có sự ổn định chính trị tuyệt đối, vì chính trị là cuộc đấu tranh cho những lợi ích khác
nhau, là sự phản ánh một cơ cấu lợi ích không thuần nhất, thậm chí đối kháng. Vì vậy, trong sự ổn
định không thể tránh khỏi những mâu thuẫn, bất đồng, thậm chí xung đột ở nơi nào đó, lúc nào đó.
Để giữ vững ổn định chính trị cần phải giải quyết thỏa đáng những mối quan hệ lợi ích, điều chỉnh

13

Trích theo: tập thể tác giả, chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị, NXBCTQG, Hà Nội 1999, Tr.154

10


các quan hệ lợi ích trong giới hạn nhất định, nếu vượt quá chính trị sẽ "đổi màu". Nói cách khác, ổn
định chính trị nào cũng có cái bất biến và cái khả biến. Đối với sự ổn định chính trị của nước ta, cái
bất biến là giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động làm chủ xã hội, có cuộc sống ấm
no, hạnh phúc. Sự ổn định chính trị nào suy cho cùng đều là sự ổn định của cơ cấu nhà nước và do
uy tín của nhà nước quyết định, vì cái căn bản của chính trị là vấn đề chính quyền. Niềm tin vào chế
độ của nhân dân là chỗ dựa vững chắc nhất cho sự ổn định chính trị. Nhưng để có được niềm tin đó,
thì nhà nước phải tạo ra những thay đổi, phát triển trên mọi phương diện của đời sống xã hội, đó là
tiêu chuẩn thực tiễn của chân lý - cái tạo cơ sở vững chắc nhất cho niềm tin.
Muốn xây dựng VHCT tiến tiến, cách mạng - VHCT XHCN thì phải xây dựng được
niềm tin trên cơ sở khoa học, chính nghĩa, tiến bộ, phù hợp với xu thế phát triển của nhân loại.
Chính vì vậy, việc nâng cao trình độ học vấn, đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng
cho các chủ thể chín trị, đặc biệt là cho quần chúng nhân dân; nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho quần chúng; cán bộ thật sự là những tấm gương sáng vì nhân dân... chính là những cơ
sở cho niềm tin của quần chúng vào Đảng, Nhà nước, vào chế độ XHCN
* Các truyền thống chính trị.
Cơ sở lịch sử xã hội của VHCT được hình thành từ những nhân tố như: truyền thống, các giá
trị chính trị đã được các thế hệ trước tạo ra trong quá trình lịch sử, địa chính trị, đạo đức, thẩm mỹ,
tôn giáo... Tất cả những nhân tố này bổ sung cho nhau, quan hệ với nhau một cách biện chứng, hỗ
trợ cho việc hình thành VHCT của một dân tộc, một quốc gia. Đối với mỗi quốc gia, mỗi dân tộc
trong lịch sử hình thành và phát triển đều tạo nên những giá trị nhất định (tập tục, truyền thống, thói
quen) được cả cộng đồng thừa nhận.
Văn hóa nói chung,VHCT nói riêng trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định bao giờ cũng là sự
kế thừa và phát triển những giá trị chính trị truyền thống phù hợp với yêu cầu, điều kiện cụ thể. Các

giá trị VHCT truyền thống không chỉ là những “chất liệu” tạo nên VHCT mà còn tạo nên bản sắc
dân tộc cho VHCT. Bản sắc văn hóa dân tộc bao giờ cũng gắn liền với ý thức tự khẳng định mình
của mỗi dân tộc, coi đó là niềm tin truyền thống và tâm hồn dân tộc. Vì vậy, truyền thống là nhân tố
không thể thiếu trong hệ giá trị văn hoá của dân tộc. Tính dân tộc được thể hiện qua ý thức dân tộc,
nó là cái cốt lõi để giữ gìn bản sắc dân tộc.
Trong thời đại ngày nay, khi mà sự giao lưu giữa các nền văn hóa trở nên cần thiết và mạnh
mẽ thì những giá trị truyền thống là căn cứ để phân biệt những giá trị đích thực của nền văn hóa dân
tộc với các nền văn hoá khác. Khi đó tính dân tộc trong VHCT càng phải đề cao hơn bao giờ hết.
Giá trị truyền thống của dân tộc ta trong hàng ngàn năm văn hiến đã tạo thành nền tảng tinh
thần xã hội, tạo thành sức sống, sức sáng tạo và bản lĩnh dân tộc Việt Nam. Vì vậy, ở Việt Nam việc
giữ gìn và phát huy những giá trị chính trị truyền thống có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần tạo
dựng nhân cách con người Việt Nam mới.
* Những lý tưởng cao đẹp mà con người phấn đấu đạt tới trong chính trị.
Những lý tưởng cao đẹp vừa đóng vai trò là động lực kích thích họat động chính trị vừa đóng
vai trò là xung lực nội tại để hoàn thiện tư chất của chủ thể chính trị vươn tới những giá trị chân,
thiện, mỹ trong hoạt động chính trị.
11


Lý tưởng chính trị phụ thuộc phần lớn vào trí tuệ và đạo đức của chủ thể. Lý tưởng chính
trị cao cả, tột bậc của Chủ tịch Hồ Chí Minh “là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập,
dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” 14.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn thể cán bộ, đảng viện và quần chúng nhân dân đang phấn đấu
thực hiện lý tưởng “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Để thực hiện lý tưởng chính trị của mình, chủ thể chính trị phải biết lựa chọn những
phương thức, phương tiện hoạt động chính trị phù hợp. Cuộc cách mạng XHCN nhằm thực hiện
mục tiêu, lý tưởng giải phóng triệt để con người thì những phương tiện mà chủ thể (giai cấp
công nhân và nhân dân lao động) sử dụng phải đáp ứng được những nhu cầu, khát vọng giải
phóng đó. Sự nhạy bén, tính sáng tạo trong việc hoạch định những chính sách chính trị đúng đắn
để thực hiện lý tưởng chính trị đã xác định là một nhân tố hết sức quan trọng trong văn hóa cầm

quyền của Đảng ta, mà năng lực đó không chỉ phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ mà còn phụ thuộc
vào tính tích cực tự giác trong phát huy quyền làm chủ của quần chúng nhân dân.
* Quá trình biến những giá trị chính trị đã được thiết lập thành lý tưởng, niềm tin, động cơ, nhu
cầu, thói quen chính trị... trong hoạt động chính trị của chủ thể.
Đây chính là quá trình thực hành VHCT trong hoạt động của chủ thể. Chỉ trên cơ sở này mới
tạo cho VHCT sự ổn định vững chắc trong đời sống chính trị. Vì vậy, đây cũng là tiêu chí để đánh
giá trình độ trưởng thành về VHCT của chủ thể.
Quá trình biến những giá trị chính trị đã được thiết lập thành lý tưởng, niềm tin, động cơ, nhu
cầu, thói quen chính trị... trong hoạt động chính trị của chủ thể đóng vai trò quan trọng, nó làm cho
VHCT hiện diện được trong đời sống xã hội. Đó là quá trình hiện thực hóa các giá trị VHCT, biến
các giá trị VHCT thành lợi ích chính trị, thành động lực chính trị.
* Những phương tiện chính trị, những chuẩn mực, những phương thức tổ chức và hoạt động
của QLCT được sử dụng để đạt đến mục tiêu chính trị.
Liên quan đến vấn đề này, trước hết phải nói đến hình thức tổ chức QLNN và HTCT nói
chung. Đó là những yếu tố cấu thành VHCT dưới dạng thực thể vật chất và tinh thần tiêu biểu
của nó. Do vậy, sự hoàn thiện của các thể chế chính trị khẳng định sức mạnh, tính hiệu lực, tính
pháp lý... của các giá trị, chuẩn mực chính trị trong việc điều chỉnh những hành vi, những quan
hệ xã hội - chính trị phù hợp với những mục tiêu chính trị. Đồng thời nó biểu hiện sự kiện toàn
và sức mạnh của hệ thống tổ chức quyền lực trong tổ chức xã hội, trong phối hợp hành động,
trong sử dụng các thế mạnh kinh tế, chính trị, xã hội để thực hiện các mục tiêu chính trị.
Những yêu cầu chính trị thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử sẽ có hình thức tổ chức QLCT,
QLNN, cơ chế vận hành tương ứng. Trong đời sống chính trị hiện đại, muốn đáp ứng yêu cầu
VHCT cao thì chúng ta phải đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống quyền lực
của nước ta, trong đó việc đổi mới cơ chế để phát huy quyền làm chủ của nhân dân có ý nghĩa quan
trọng. Việc triển khai thực hiện Qui chế dân chủ ở cơ sở hiện nay cũng hàm chứa những giá trị trên.
* Hệ tư tưởng chính trị.

14

Tập thể tác giả, “”chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị” , NXBCTQG, Hà Nội 1999 Tr.219


12


Với tư cách là nhân tố phản ánh khái quát lợi ích của giai cấp cũng như phương thức, con
đường để thực hiện lợi ích cơ bản của giai cấp, liên minh giai cấp hoặc của nhân dân lao động nói
chung (trong điều kiện của CNXH), "hệ tư tưởng là yếu tố cốt lõi nhất, là định hướng cơ bản cho
đời sống tinh thần xã hội"15, đóng vai trò hạt nhân của VHCT, giữ vị trí trung tâm, có tác dụng
chi phối các nhân tố khác trong VHCT, cũng như trong toàn bộ nền VHCT nói chung của một
thể chế chính trị. Nó qui định tính chất, nội dung, khuynh hướng phát triển và tính tích cực của
VHCT trong một xã hội nhất định. Hệ tư tưởng chính trị của một thời đại là hệ tư tưởng của giai cấp
thống trị.
Ngoài ra còn có nhiều yếu tố khác tham gia vào sự hình thành VHCT, đóng góp vào cấu
trúc của VHCT như: bầu không khí tâm lý - đạo đức, tôn giáo; bối cảnh yêu cầu của thời đại...
Như vậy, VHCT của bất cứ chủ thể nào cũng là một hệ thống cấu trúc của nhiều nhân tố, có
lôgic vận động nội tại. Lôgic này phản ánh mối liên hệ, tác động, chuyển hóa lẫn nhau giữa các
nhân tố cấu thành VHCT. Tri thức chính trị, qua thực tiễn chính trị biến thành niềm tin, lý tưởng của
chủ thể. Từ niềm tin, lý tưởng đó biến thành hành động chính trị thực tiễn, qua đó hình thành những
chuẩn mực chính trị, thành nếp sống, thói quen hành vi trong ứng xử chính trị. Chỉ đến khi những
chuẩn mực giá trị và sự ứng xử chính trị đó thẩm thấu vào tư chất của chủ thể hoạt động chính trị,
làm cho chúng có mặt thường trực trong hành vi xử lý các tình huống chính trị, trong đời sống chính
trị hàng ngày thì lúc đó VHCT mới thực sự được xác lập ổn định trong chủ thể tương ứng.
Với tư cách là hệ thống các giá trị, VHCT không tồn tại thuần túy mà luôn gắn liền với các
chủ thể chính trị xác định. Do vậy, những yếu tố cấu thành VHCT cũng như phương thức vận
động của VHCT của các chủ thể tuy thống nhất nhưng cũng có sự khác biệt nhất định.
b. VHCT với tư cách là sản phẩm hoạt động chính trị của các chủ thể chính trị: cá
nhân và tổ chức
VHCT là do con người trong quan hệ với chính trị sáng tạo nên. Các giá trị chính trị thể hiện
bản chất của các hoạt động chính trị của các chủ thể trong quá trình thực hiện lợi ích giai cấp. Chính
trong thực tiễn chính trị, các chủ thể tạo cho mình hệ thống các giá trị VHCT, tạo nên đặc trưng, bản

chất VHCT cho mình
* VHCT cá nhân.
VHCT cá nhân thường được nhìn nhận, đánh giá qua những yếu tố như: trình độ hiểu biết và
sự giác ngộ chính trị của mỗi cá nhân trong tư cách con người chính trị của nó (công dân, một người
cán bộ, một thủ lĩnh). Trình độ đó được biểu hiện ở ý thức chính trị, thái độ, lập trường quan điểm
chính trị; mức độ nhận thức, đánh giá các sự kiện, các diễn biến chính trị; sự lựa chọn tham gia của
cá nhân vào các hoạt động chính trị thực tiễn; thái độ và mức độ phản ứng hay hưởng ứng trước một
tình huống chính trị nào đó trong đời sống xã hội. VHCT cá nhân vừa góp phần tạo lập các giá trị,
vừa góp phần hình thành dư luận xã hội tích cực đấu tranh chống những hành vi gây tổn hại tới lợi
ích chung của xã hội.
VHCT cá nhân còn là tình cảm và niềm tin chính trị được bộc lộ qua những phẩm chất, sắc
thái cá nhân đối với lý tưởng, chế độ chính trị, với Đảng, Nhà nước, với các cá nhân lãnh đạo... Nó
được xác định bởi cách thức và sự biểu hiện tính văn hóa trong giao tiếp, ứng xử, trong giải quyết
15

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 BCHTƯ khóa VIII, NXB CTQG, Hà Nội 1998

13


các mối quan hệ giữa cá nhân với tổ chức, cá nhân với cá nhân, cá nhân với xã hội (và ngược lại)
trên các vấn đề chính trị - xã hội mà các chủ thể cùng quan tâm. Hình thức biểu hiện trực tiếp của
VHCT trên phương diện này chính là văn hoá đối thoại, văn hóa tranh luận, ở đó những nét tinh tế
của VHCT được bộc lộ rõ nét. Vì vậy, VHCT có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong hoạt động chính trị
của mỗi con người.
Để đạt đến sự thành công trong quá trình giao tiếp và đối thoại, sự nhạy cảm và hiểu biết
tâm lý đối tượng giao tiếp là rất cần thiết. Muốn đạt đến trình độ văn hóa trong đối thoại, tranh
luận, mỗi người rất cần đến những hiểu biết về dân chủ và thực hành văn hóa dân chủ. Chính
với nghĩa này, sự phát triển đầy đủ và toàn diện VHCT cá nhân cũng là sự phản ánh trình độ
chín muồi của chế độ dân chủ.

Trong quá trình dân chủ hóa các mặt của đời sống xã hội hiện nay, chúng ta đã và đang hình
thành những cơ chế phát huy ngày càng nhiều giá trị dân chủ, thu hút ngày càng nhiều sức mạnh
của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Mặt khác, quá trình
dân chủ hóa cũng là quá trình giải phóng những ràng buộc do hậu quả của cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp. Nó thúc đẩy quá trình hình thành trong mỗi người tính chủ động, tự giác, nâng cao ý
thức về vị thế chính trị và khả năng hoạt động chính trị của mình trong công cuộc đổi mới hiện nay.
VHCT cá nhân không dừng lại ở những vấn đề trên, điều quan trọng hơn cả là trình độ hiểu
biết, niềm tin, tình cảm ấy phải được chuyển thành nhu cầu, thành định hướng giá trị, thành các giá trị
thuộc về phẩm chất cá nhân, phản ánh trình độ phát triển, trình độ trưởng thành về mặt xã hội của mỗi
cá nhân, hướng dẫn chi phối cá nhân trong lối sống hàng ngày, để đạt đến sự thống nhất giữa lời nói
và việc làm, động cơ và hiệu quả. Chỉ như thế, VHCT cá nhân mới đạt đến sự hoàn thiện của nó.
Như vậy, VHCT cá nhân là chất lượng tổng hòa của nhiều giá trị và sự thực thi các giá trị thông
qua hoạt động của cá nhân mà trực tiếp và quan trọng nhất là quá trình tiếp thu nền giáo dục của xã hội
và sự rèn luyện trong thực tiễn lao động và đấu tranh cách mạng. Với tư cách cá nhân, mỗi chủ thể dù ở
cấp độ nào (là cá nhân lãnh đạo hay là người dân...) không thể không chịu sự chi phối của những tất yếu
này, mà cụ thể và trực tiếp hơn là họ chịu sự chi phối bởi những giá trị cần hình thành ở mỗi con người
Việt Nam mới ở trình độ phổ biến, đó là:
"- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và CNXH, có ý chí
vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp
đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ
cương phép nước, qui ước cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất lao động cao vì
lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực."16
Để đảm bảo cho mọi hành động của mỗi cá nhân đều được dẫn dắt của VHCT, VHCT phải
được thâm nhập vào mọi khía cạnh của cuộc sống (từ ý thức, tinh thần đến hoạt động thực tiễn, các
16


Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 BCH TƯ VIII, NXB CTQG, H.1998, Tr.58-59

14


sinh hoạt cộng đồng...) của mỗi cá nhân, làm cho VHCT trở thành phương diện trong nhân cách, lối
sống của họ. Tuy nhiên, VHCT của mỗi cá nhân chỉ thực hiện được khi nó gắn với VHCT của tổ
chức, mà điều đó chỉ có được khi mỗi cá nhân tham gia vào hoạt động của tổ chức với nhiều cấp độ
khác nhau.
* VHCT của tổ chức (văn hóa tổ chức).
- VHCT của tổ chức do VHCT của cá nhân hợp thành. Nhưng để tạo nên sự thống nhất
giữa VHCT của các cá nhân trong tổ chức thì VH tổ chức phải là sự đoàn kết, sự phối hợp, sự
thống nhất trong mục tiêu, lý tưởng và trong hành động chính trị. Do vậy, để duy trì, phát triển
VH tổ chức thì phải thực hiện và giữ vững các nguyên tắc chính trị với ý nghĩa là những chuẩn giá
trị VHCT .Những giá trị VH tổ chức ngoài việc được mọi thành viên trong cộng đồng chấp nhận
và tự nguyện phục tùng (được đảm bảo về mặt xã hội) còn phải được đảm bảo về mặt pháp lý.
VH tổ chức gồm 2 phần: phần vô hình và hữu hình
Phần vô hình gồm niềm tin và các giá trị - được thừa nhận và thực hành bởi số đông các
thành viên trong tổ chức. Và vì vậy, bất kỳ cá nhân nào cũng vừa hội tụ những giá trị qui định
phẩm chất cá nhân, vừa mang một phần, một khía cạnh, một yếu tố trong VH tổ chức. Nhưng dù ở
cấp độ chủ thể nào VHCT cũng đều chứa đựng hệ thống các chuẩn giá trị được hình thành qua các
hoạt động chính trị, được chủ thể sử dụng trong cuộc đấu tranh giành và thực thi quyền lực, hoặc để
thực hiện các mối quan hệ xã hội nào đó, hoặc dùng làm phương thức để đạt đến các mục tiêu khác.
Không hiển diện hiện hữu, nhưng các giá trị, niềm tin luôn tồn tại và hiện thân trong các yếu tố hữu
hình của tổ chức – đó là các chuẩn mực ứng xử
Chuẩn mực ứng xử được thể hiện ở:
(1) Tầm nhìn và sứ mệnh của tổ chức
Các
chuẩn mực
có thể là

động
lực,
nguồn lực
phát
triển
của VH tổ
chức khi nó
tích cực và
thành
trở
lực đối với

(2) Các khẩu hiệu và phương châm hành động
(3) Biểu tượng (logo) của tổ chức, kiến trúc, cách bài trí nơi làm việc.
(4) Hệ thống qui trình, thủ tục làm việc: cách thức ra quyết định, quản trị thực thi, cách thức phân phối
nguồn lực và lợi ích, các quy định và thực hiện trách nhiệm, cách ghi nhận công trạng và trừng phạt vi
phạm, kỷ luật lao động

(5) cách thức giao tiếp trong nội bộ và với bên ngoài. Đối với bên trong như: quan hệ nhân sự (đặc
biệt là giữa lãnh đạo với nhau và với cấp dưới), cách ứng xử với những yếu tố, những người mới, cách đối
mặt với thất bại của tổ chức và cá nhân; thái đọ đối với rủi ro, số lượng, độ phức tạp và tần suất của các tin
đồn trong đời sống làm việc; đối với bên ngoài: sự nhận diện và nêu vấn đề, sự xác định vai trò các bên
liên quan…

(6) Các nghi thức, nghi lễ
Cấu trúc VH tổ chức không đơn thuần là một kết cấu vật lý cứng nhắc, mà là một cơ chế sinh
thái với một đời sống tinh thần đầy đủ, tương thích với cấu trúc vật chất của nó; và điều đó tạo nên
sự hiển diện nhiều VH tổ chức khác nhau.
- VH tổ chức được xem là:
(i) một thuộc tính của tổ chức, tạo nên một “kiểu” khác biệt, một dấu hiệu nhận dạng riêng/

để phân biệt so với nhiều tổ chức tương tự/ cùng kiểu/cùng hệ thống.
15


(ii) Có tính định hướng, chỉ dẫn cách hành xử của các thành viên; là nền tảng, niềm tin; là
một cơ chế tác động trực tiếp, bền bỉ, “thầm lặng” đến các thành viên làm cho họ gắn kết, phụ thuộc
vào tổ chức không chỉ để tạo sức mạnh/sức đề kháng của mình mà còn có thể “phản biện” với bên
ngoài.
(iii) Vì vậy, VHTC tạo nên tình chính danh, chính thức, lâu dài/ổn định của tổ chức
=> - Mục tiêu của xây dựng VH tổ chức: chủ động xây dựng lối sống có tính tích cực, tác
động tốt cho việc đạt mục tiêu của tổ chức, biến tổ chức thành “cái nôi”/môi trường nuôi dưỡng sự
phát triển cho cá nhân và tổ chức, tạo sự cộng lực/ cộng hưởng đồng lòng sáng tạo và cống hiến của
các thành viên, tạo được bản sắc, dấu ấn tích cực của tổ chức trong hệ thống chính trị/tổ chức cũng
như trong cuộc sống.
- Trách nhiệm và bản lĩnh của lãnh đạo trong xây dựng VH tổ chức
VHTC là quyền lực “mềm”/thông minh với sức ảnh hưởng lâu dài, bền bỉ; là công cụ
“mềm”/thông minh của lãnh đạo.
Vậy làm thế nào để có được VH tổ chức tích cực? – một câu hỏi then chốt liên quan đến vai
trò và trách nhiệm của các nhà lãnh đạo đối với VHTC!!!
Tuy mỗi nhà lãnh đạo có cách nhìn nhận VHTC khác nhau, những nhìn chung họ đều phải
tạo dựng một VHTC tích cực và một số trách nhiệm cơ bản sau:
+ Một là, nhận thức đầy đủ và sâu sắc về vai trò và ảnh hưởng của VHTC đối với cá nhân
các nhà lãnh đạo và các thành viên khác trong tổ chức và với toàn tổ chức.
+ Hai là, tuyên bố và chia sẻ tầm nhìn/ sứ mệnh, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức (tầm nhìn
của tổ chức bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như: khả năng định vị bản thân, sự tự tin vào bản thân và của đội ngũ, lịch
sử /vị thế của tổ chức và mức độ phụ thuộc của nó đối với các cơ quan chủ quản hay quyết định nguồn lực…)

Năng lực chia sẻ tầm nhìn cũng sẽ quyết định kết quả của việc hiện thực hóa tầm nhìn. Vì
chia sẻ tầm nhìn được tiến hành theo cách gắn được tầm nhìn của tổ chức với ước mơ và hình dung
về tương lai của các cá nhân/ nhóm trong tổ chức

+ Ba là , xây dựng năng lực theo đuổi tầm nhìn
Phải xác định đây là quá trình nghiêm túc chứ không phải “đánh trống, bỏ dùi” hay ngẫu
hứng
Nó đòi hỏi những năng lực thực sự, thậm chí năng lực đặc biệt của lãnh đạo
Nó đòi hỏi tất cả việc thiết lập các quy trình, thủ tục làm việc, sự phân chia thẩm quyền và
trách nhiệm, cung cấp các nguồn lực… đều phải được thực hiện dưới ánh sáng của tầm nhìn.
Tuy tầm nhìn có thế được xuất phát/ được thiết lập từ cá nhân các lãnh đạo, nhưng theo đuổi
tầm nhìn chỉ của các nhà lãnh đạo mà không phải là năng lực của tổ chức thì đó là dấu hiệu của sự
thất bại.
+ Bốn là, cung cấp những “khuôn mẫu” cho hành động- về cách thức tư duy, hành vi, giao
tiếp/quan hệ (nói-làm)… nhằm tạo nên lối sống trách nhiệm, bản lĩnh, hài hòa giữa “cái tôi” với cái
“chúng ta” trong tổ chức.
+ Năm là, tạo dựng giá trị và niềm tin
16


Đây là trách nhiệm có tính tổng hợp, nó phản ánh vai trò kiến trúc sư/ nhà thiết kế và người
xây dựng/thi công của người lãnh đạo
Vì vậy, nó đòi hỏi ở người lãnh đạo tính chuyên nghiệp, chân thực, biện chứng/không
ngừng đổi mới, sự trải nghiệm/ chiêm nghiệm/suy ngẫm, cách tư duy/hành vi và dẫn dắt tư
duy/hành vi…hay nói cách khác, người lãnh đạo phải đóng vai trò làm gương, là biểu tượng của tổ
chức.
Văn hóa tổ chức còn được xây dựng và thực thi bởi nhiều phía liên quan khác (các cá nhân
khác trong tổ chức, các yếu tố bên ngoài)
Tóm lại, Nghiên cứu cấu trúc VHCT trên nhiều phương diện tạo cơ sở giúp chúng ta xác
định rõ chủ thể VHCT, từ đó định hướng những chuẩn giá trị tương ứng qui định phẩm chất, trình
độ và năng lực VHCT của chủ thể.
3.2 Đặc điểm của văn hoá chính trị.
* VHCT bao giờ cũng mang tính giai cấp.
VHCT hình thành trong thực tiễn đấu tranh giai cấp, do đó nó luôn bị chi phối bởi thế giới

quan, hệ tư tưởng, những quan điểm chính trị của giai cấp nhất định và nó phục vụ lợi ích của mỗi
giai cấp. Không bao giờ có những giá trị chính trị chung chung. Chính trị và công việc nhà nước đều
là phạm vi hoạt động gắn với những quan hệ quyền lực. Do vậy, bất cứ hành vi nào của chủ thể
chính trị khi đã chịu sự điều chỉnh của các chuẩn giá trị VHCT cũng là hành vi hướng tới thực hiện
lợi ích giai cấp và bảo vệ lợi ích của giai cấp ấy một cách nhân văn.
Tuy rất quan trọng, nhưng tính giai cấp không phải là thuộc tính duy nhất của VHCT. Tính
dân tộc và tính nhân loại luôn tồn tại trong VHCT của từng giai cấp. Đặc biệt trong bối cảnh của thế
giới hiện đại mối quan hệ giữa tính giai cấp, tính dân tộc và tính nhân loại càng gắn bó chặt chẽ hữu
cơ hơn bao giờ hết.Văn hóa trước hết là vấn đề tồn tại và phát triển của một cộng đồng người nhất
định, cộng đồng trở nên bền vững khi nó trở thành dân tộc - đó là yếu tố quyết định của một nền văn
hóa. Tính dân tộc luôn gắn liền với tính nhân loại và tính giai cấp, trong mối quan hệ này thì quan
hệ dân tộc - nhân loại là trường cửu, giai cấp dù tồn tại lâu thì cũng chỉ là phạm trù lịch sử. Như
vậy, giá trị VHCT chỉ thống nhất với giá trị văn hóa khi mà giai cấp - chủ thể chính trị của nó đại
diện cho phương thức sản xuất mới, cho xu thế vận động và phát triển phù hợp với tiến bộ xã hội.
Do đó tác động của giai cấp và đấu tranh giai cấp vào văn hóa của một dân tộc tùy thuộc vào từng
biến động của lịch sử, tác động tới bước đi của nền văn hóa chứ không quyết định bản chất của nền
văn hóa. Hệ tư tưởng của giai cấp thống trị tất yếu có dấu ấn mạnh tới nền văn hóa dân tộc khi
quyền lợi của giai cấp đó nhất trí với quyền lợi của dân tộc.
Để phát triển bền vững theo hướng duy trì bản sắc văn hóa dân tộc, vừa không đi ngược
giá trị nhân loại (nhân văn-tính người) cần phải kết hợp nhuần nhuyễn tính giai cấp, tính dân tộc
và tính nhân loại trong văn hóa nói chung và VHCT nói riêng. Việc phát huy văn hóa dân tộc
chung chung, thoát ly khỏi định hướng giai cấp trong lĩnh vực văn hóa là một sai lầm. Sự mất
cảnh giác đối với chiến lược "diễn biến hoà bình" về văn hoá cũng chính là "tự diễn biến hoà
bình" trong chính chúng ta. Mặt khác, trong khi khẳng định tính giai cấp của VHCT không được
đối lập giữa giai cấp - cộng đồng - nhân loại, nếu không sẽ rơi vào quan điểm giai cấp cực đoan.
Để đạt đến VHCT thì vừa phải sử dụng những giá trị giai cấp, vừa phải sử dụng những giá trị
17


cộng đồng và nhân loại; điều đó cũng lý giải vấn đề vì sao nước ta với nhiều nước trên thế giới

khác nhau về chế độ chính trị nhưng vẫn quan hệ, giao lưu và hợp tác; vì sao bên cạnh Qui chế
dân chủ ở cơ sở, các cộng đồng cư dân vẫn có những hương ước, tộc ước...
* VHCT mang tính lịch sử - cụ thể.
VHCT bị qui định bởi những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Hai loại nhân tố
này có nội dung, tính chất và phương thức qui định khác nhau trong các thời kỳ lịch sử khác nhau,
điều đó qui định tính lịch sử của VHCT.
+ VHCT không chỉ là kết quả của sự phát triển của nhận thức chính trị và hoạt động chính trị
sáng tạo của nhiều chủ thể VHCT ở các nước khác nhau và các dân tộc khác nhau mà còn gắn liền
với các nền chính trị khác nhau. Có VHCT của giai cấp nắm QLNN đặc trưng cho mỗi nền chính
trị, nhưng bản thân sự tồn tại của mỗi nền chính trị lại không vĩnh viễn mà luôn có sự thay thế kế
tiếp nhau trong lịch sử, nên VHCT cũng thay đổi theo.
+ Hơn nữa,VHCT không phải là một hiện tượng biệt lập, sự xuất hiện và phát triển của nó
nằm trong mối liên hệ mật thiết, biện chứng với các yếu tố lịch sử, nó chịu sự chi phối của những
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội. Khi các yếu tố này có sự thay đổi thì VHCT cũng chịu ảnh
hưởng của sự thay đổi đó.
Sự truyền dẫn VHCT từ thế hệ này sang thế hệ khác cũng được thực hiện theo khuôn mẫu
và định hướng nhất định, thích hợp với nhận thức và nhu cầu của mỗi cá nhân và toàn xã hội trong
đời sống chính trị ở mỗi giai đoạn lịch sử. Do vậy, VHCT còn phụ thuộc vào khả năng tạo lập, kế
thừa và sử dụng các giá trị VHCT của mỗi chủ thể nào đó trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
+ VHCT còn gắn với hiện tượng tâm lý xã hội của chủ thể (nhất là phương diện cá nhân).
Cùng tiếp cận giá trị nhưng tính khí và khí chất khác nhau sẽ tạo nên những quyết định hành vi,
quyết định hoạt động chính trị của các chủ thể khác nhau. Tính cụ thể của VHCT không chỉ dựa trên
cơ sở lý tưởng chính trị, lập trường và hành vi... mà có khi cả trên cơ sở của yếu tố tâm lý xã hội.
Tính lịch sử, cụ thể của VHCT thể hiện cả ở chỗ: trong các điều kiện lịch sử khác nhau, tính
chất, nội dung, mức độ phát triển của VHCT không giống nhau. Mặt khác cũng cho thấy, giá trị VHCT
không phải là cái gì bất biến mà luôn có sự vận động và phát triển. Điều đó ảnh hưởng lớn đến những
thay đổi trong nhân cách xã hội của con người.
* VHCT mang tính kế thừa.
Tính lịch sử, cụ thể không thể tạo nên sự gián đoạn hay cô lập tuyệt đối của VHCT của một giai
cấp nào đó trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Sự ra đời của một nền VHCT bao giờ cũng là kết quả

phủ định biện chứng đối với nền VHCT trước nó. Đó là sự giữ lại và nâng lên một trình độ mới những
nhân tố có giá trị chung mang tính tích cực của nền VHCT bị phủ định.
Tính kế thừa của VHCT trong sự phát triển được kết tinh từ những thành tựu văn hóa, những
di sản tinh thần của thời đại, của truyền thống, kết hợp với kinh nghiệm thực tiễn, từ đó làm cho
VHCT không ngừng được nâng lên. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã có hơn nghìn năm Bắc thuộc, kẻ
thù muốn Hán hoá dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, người Việt Nam đã không chịu sự đồng hóa của
người Hán, nhưng vẫn khôn khéo tiếp thu, học tập văn hóa Hán, biến nó thành giá trị, thành phương
thức để phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc mình.
18


Trong VHCT truyền thống, ông cha ta cũng đã để lại cho đời sống chính trị hiện tại của
chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm quí báu. Trong quá trình vận động và phát triển, các giá trị
truyền thống không biến mất, mà nó hóa thân vào các giá trị của thời sau theo qui luật kế thừa
và tái tạo. Các giá trị trước trở thành truyền thống khi được các thế hệ sau lựa chọn, tiếp nhận và
phát triển, đó chính là quan hệ giữa truyền thống và hiện tại. Sự thích nghi của những giá trị cũ
đối với sự thay đổi của thời đại là biểu hiện tính liên tục của văn hóa. Bởi vậy, trong chính trị
cũng phải luôn có sự kế thừa về mặt giá trị, quay lưng với những giá trị truyền thống cũng có
nghĩa quay lưng lại với lịch sử dân tộc. Điều đó vừa là sự sa sút về bản lĩnh văn hóa vừa trái với
qui luật vận động và phát triển của văn hóa, và như thế ắt có sự trả giá.
* VHCT luôn mang tính đa dạng.
Hệ tư tưởng là nhân tố cốt lõi nhất của VHCT, mà trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội
nhất định kết cấu giai cấp cũng phức tạp không thuần nhất, cho nên hệ tư tưởng của các giai cấp
không đồng nhất. Trong mỗi nền chính trị, VHCT không thuần nhất. Do đối lập về lợi ích nên
các giai cấp thường có hệ tư tưởng đối lập chi phối văn hóa của các giai cấp tương ứng, tạo nên
bức tranh đa dạng của VHCT. Bên cạnh VHCT của giai cấp nắm QLNN còn có VHCT của các
giai cấp và giai tầng khác trong xã hội. Ngay trong CNXH, tuy lợi ích của các giai tầng thống
nhất với hệ tư tưởng vô sản, chi phối những định hướng cơ bản của VHCT; song mỗi giai cấp có
tính độc lập tương đối, tạo nên bản sắc VHCT riêng. VHCT XHCN cũng là sự thống nhất trong
đa dạng. Đảng ta cũng đã khẳng định: “nền văn hóa mà nhân dân ta xây dựng là nền văn hóa

thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam...” 17.
Hơn nữa, sự xuất hiện và phát triển của VHCT nằm trong mối liên hệ mật thiết với các yếu tố
lịch sử, nó là “một tiểu hệ thống” trong lĩnh vực văn hóa nói chung, do đó có mối liên hệ chặt chẽ với
các thành tố khác của nền văn hóa nói chung như: kinh tế, đạo đức, pháp quyền, thẩm mỹ, tôn giáo...
Trong CNXH, VHCT XHCN vừa là nội dung, là động lực, vừa là biểu hiện chất lượng của nền
dân chủ (văn hóa dân chủ). Là nhân tố thúc đẩy cho việc đạt mục tiêu của CNXH: dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đồng thời VHCT XHCN là phương thức để nhân dân lao động trở
thành chủ thể thực sự của QLCT, QLNN.
3.3 Chức năng của văn hoá chính trị.
VHCT có những chức năng rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng của chủ thể chính trị.
Ý nghĩa động lực của VHCT biểu hiện qua các chức năng của nó, đó là:
* VHCT góp phần điều chỉnh, định hướng cho hành vi và các quan hệ xã hội, nâng cao
nhận thức, giáo dục cho các chủ thể chính trị.
VHCT có vai trò to lớn trong việc điều chỉnh các quan hệ con người với con người, con người
với xã hội trong đời sống chính trị. Trong quá trình điều chỉnh, một mặt nó dựa vào những chuẩn mực
giá trị, mô hình chính trị để điều chỉnh hành vi, hành động của chủ thể phù hợp với “cái tốt, cái đúng”.
Mặt khác, nó tăng cường khả năng tự điều chỉnh của các chủ thể phù hợp, hài hoà với lợi ích của các
chủ thể khác, với lợi ích xã hội .

17

Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 BCH TƯ VIII, NXB CTQG, H.1998 Tr.57

19


Với tầm cao của VHCT, giới cầm quyền có thể kịp thời phát hiện ra những điểm nóng chính
trị - xã hội, nhằm đưa ra những biện pháp hữu hiệu để chủ động"tháo ngòi nổ”,làm dịu đi các xung
đột xã hội, giữ vững ổn định chính trị. Trong những tình huống chính trị, VHCT có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng, thiếu nó người ta có thể làm cho những quan hệ xã hội vốn bình thường hoặc ít gay cấn

lại trở nên căng thẳng, gay gắt, nóng bỏng, thậm chí đối đầu.
Vai trò điều chỉnh của VHCT chủ yếu thực hiện thông qua các chuẩn giá trị của nó với nhiều
thang bậc và phạm vi khác nhau. Có những chuẩn giá trị mà ý nghĩa và việc áp dụng điều chỉnh của
nó chỉ mang tính nhất thời, đặc biệt là những chuẩn giá trị củng cố quan hệ giữa các đảng phái chính
trị, giữa các nhóm xã hội lớn khác nhau thường do sự cân nhắc về mặt chiến lược hoặc chiến thuật,
do lợi ích của hoàn cảnh và thời cơ qui định. Nhưng cũng có bộ phận các chuẩn giá trị chính trị mà
thường gọi là các nguyên tắc chính trị mang tính bền vững, bởi những nguyên tắc này thường quyết
định vận mệnh chính trị của một chủ thể nào đó. Xa rời, từ bỏ nguyên tắc ấy cũng có nghĩa là đời
sống chính trị, QLCT của chủ thể đó cũng không còn nữa. Đảng cộng sản Việt Nam là đảng cầm
quyền, lãnh đạo HTCT, luôn giữ vững các nguyên tắc chính trị của mình. Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động; Đảng là
một tổ chức chặt chẽ trên nguyên tắc tập trung dân chủ; Đảng là đại biểu trung thành với lợi ích
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc; Nhà nước Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Đảng là Nhà nước của dân, do dân, vì dân... là những nguyên tắc chính trị cho mọi hoạt
động của Đảng ta. Đảng ta không bao giờ xa rời những nguyên tắc này. Sự sụp đổ của chế độ
chính trị XHCN, Đảng cộng sản mất vai trò lãnh đạo... ở Liên Xô và Đông Âu cũng bắt đầu từ
sự xa rời các nguyên tắc chính trị như: phủ nhận vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng cộng sản, từ
bỏ nguyên tắc dân chủ XHCN với chủ trương đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập...Từ đó cho
thấy, chủ thể nào muốn khẳng định và giữ vững vị thế chính trị của mình đều phải luôn khẳng
định, thừa nhận và thực hiện những chuẩn giá trị mang tính nguyên tắc sống còn của mình.
Ý nghĩa điều chỉnh hành vi và các quan hệ chính trị của các chuẩn giá trị VHCT cũng
không thuần nhất, có những chuẩn giá trị có tính bắt buộc, qui định rõ quyền lợi và nghĩa vụ,
cống hiến và hưởng thụ...cho các chủ thể chính trị; có những chuẩn giá trị không mang tính bắt
buộc. Nếu các chủ thể khi tham gia vào đời sống chính trị, thực thi các chuẩn mực bởi sự nhận
thức được cái tất yếu, cái bắt buộc (tức tự do chính trị) thì sẽ tạo cho đời sống chính trị một sự
ổn định, có điều kiện phát triển. Phạm vi và chiều sâu của các chuẩn giá trị VHCT cũng ngày
càng phát triển theo trình độ phát triển của xã hội. Sự ổn định chính trị cũng phụ thuộc vào tính
bền vững, tính tích cực, tính hiện thực của các chuẩn giá trị VHCT trong đời sống chính trị mà
điều đó lại phụ thuộc vào tính tự giác trong nhận thức và hoạt động chính trị thực tiễn của các
chủ thể trong đời sống xã hội.
Các nhu cầu chính trị lành mạnh luôn tạo cho VHCT một sự phát triển lâu bền, ổn định, mà

“trục xoay” của nó chính là giá trị con người, đó là “quả tim đích thực của văn hóa” và là định hướng
chính trị chủ đạo cho các chuẩn giá trị VHCT. Chính vì vậy, văn hóa nói chung, VHCT nói riêng là hệ
thống điều chỉnh làm cân bằng sự phát triển, khắc phục sự xuất hiện của các phản giá trị văn hoá.
Thông qua hoạt động của các chủ thể, các chuẩn giá trị VHCT lan tỏa, đan xen vào mọi quan hệ xã hội,
trên cơ sở đó các chuẩn giá trị mới cũng hình thành và ngày càng phát triển. VHCT là trình độ giác ngộ
của các chủ thể chính trị trong các quan hệ chính trị - xã hội. Khi VHCT ở trình độ cao thì khả năng tự
20


điều chỉnh hành vi của mỗi chủ thể phù hợp với lợi ích xã hội tốt hơn, các chủ thể có thể nhanh chóng
phát hiện ra những lệch lạc trong hành động không còn phù hợp với mục đích và nhanh chóng điều
chỉnh chúng. Đối với giới cầm quyền, tầm cao VHCT không chỉ giúp họ trong xử lý các tình huống
chính trị, giữ vững ổn định chính trị, mà còn góp phần khắc phục tệ quan liêu, cửa quyền trong hệ thống
chính trị. Còn đối với quần chúng nhân dân, trình độ VHCT giúp họ tham gia tự giác vào các quá trình
chính trị thực tiễn dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, chủ động xử lý các mối quan hệ
chính trị... góp phần xây dựng và thực thi VHCT của Đảng ta.
* Chức năng tổ chức và quản lý xã hội.
VHCT là kết quả của hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình hiện thực hóa mục
tiêu, lý tưởng chính trị trong những điều kiện kinh tế chính trị xã hội. Nhưng đến lượt nó, VHCT lại
đóng vai trò quan trọng trong tổ chức và quản lý xã hội.
+ VHCT đối với việc xây dựng và phát triển kinh tế.
Ngày nay, sự phát triển kinh tế - xã hội không chỉ bắt nguồn từ sức mạnh kinh tế mà còn phụ
thuộc vào sức mạnh của văn hóa nói chung,VHCT nói riêng. Hiệu quả của nền kinh tế phụ thuộc ngày
càng nhiều vào trình độ phát triển của khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo; vào các giá trị tinh
thần của xã hội, các thể chế chính trị; vào trình độ, năng lực, phẩm chất của những con người chính trị .
Văn hóa là nhân tố quan trọng của kinh tế, một nhân tố qui định bên trong của hoạt động sản xuất. Kinh
tế không tự mình phát triển nếu thiếu nền tảng văn hóa, VHCT trong nó và tác động vào nó.
UNESCO đã nhấn mạnh: khi các mục tiêu tăng trưởng kinh tế được đặt ra mà tách rời môi
trường văn hóa thì kết quả thu được rất khập khiễng, mất cân đối cả về kinh tế và văn hóa, đồng thời
tiềm năng của mỗi dân tộc sẽ bị suy yếu đi rất nhiều. Thế giới cũng đã bàn rất nhiều đến vấn đề văn

hóa, đạo đức trong kinh doanh, nhiều nước (điển hình là Nhật và NICs ) đã tìm thấy sức mạnh của
yếu tố nội sinh cực kỳ quan trọng - đó là văn hóa và VHCT.
Hiện nay, không ai có thể phủ nhận một điều là: hàm lượng trí tuệ kết tinh trong sản phẩm
ngày càng cao; điều đó cho thấy sự tăng trưởng kinh tế ngoài tác động điều tiết và quản lý của Nhà
nước, còn chịu sự chi phối mạnh của khoa học, giáo dục, đào tạo, những sách lược, chiến lược chính
trị cho sự phát triển kinh tế... đó chính là văn hóa và VHCT trong sản xuất kinh doanh. Vai trò của
văn hóa, VHCT đối với sự phát triển kinh tế còn ở những giá trị đạo đức, tinh thần; nhờ những giá
trị đó mà văn hóa và VHCT góp phần hạn chế những mặt trái của kinh tế thị trường như: nguy cơ
“tha hóa” con người trong lối sống thực dụng, vị kỷ, chủ nghĩa cá nhân...
Có thể thấy rằng, công nghệ tiên tiến dù có hiện đại đến đâu cũng chỉ là “ phần cứng”, chính
văn hóa sẽ đóng vai trò “phần mềm” trong việc tiếp thu và vận dụng công nghệ hiện đại vào điều
kiện cụ thể trong kinh tế - xã hội nhằm đạt kết quả tối ưu cho quá trình CNH, HĐH đất nước. Với ý
nghĩa đó, việc xem nhẹ vai trò VHCT đối với sự phát triển kinh tế sẽ dẫn đến sai lầm trong thực tiễn
và ắt sẽ có sự trả giá.
+ VHCT đối với việc giải quyết các vấn đề chính trị
Ý thức chính trị, các thiết chế QLCT, hoạt động chính trị thực tiễn, đều liên quan đến VHCT,
đều thể hiện trình độ VHCT của một lực lượng xã hội, một giai cấp, một tổ chức hay một cá nhân
nào đó. Bản thân đời sống chính trị là một hệ thống các giá trị VHCT. Vì vậy, vấn đề chỉ ở chỗ, các
21


chủ thể chính trị sử dụng các giá trị VHCT đó như thế nào, có phát huy được vai trò của các giá trị
VHCT trong việc giữ vững nền chính trị và sự ổn định chính trị của mình hay không.
Sức mạnh kinh tế, sức mạnh quân sự là những yếu tố cơ bản quan trọng để giữ vững nền
chính trị, bởi kinh tế quyết định chính trị, “chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế” 18. Điều
khẳng định đó đúng nhưng chưa đủ, đời sống xã hội không chỉ có kinh tế với chính trị mà còn có
văn hóa. Kinh tế và văn hoá là hai nền tảng vật chất và tinh thần của xã hội. Nhiều quốc gia siêu
cường về kinh tế, quân sự nhưng không có sự ổn định chính trị, xã hội rối loạn, một trong những
nguyên nhân là do VHCT không được phát huy tác dụng. Vậy VHCT tác động như thế nào?
Trước hết nói về đường lối chính trị - định hướng chính trị cơ bản của giai cấp cầm quyền

trong quá trình thực thi QLCT, thực hiện lợi ích của giai cấp mình. Một đường lối chính trị đúng,
có tính khả thi phải phù hợp với qui luật khách quan, với lợi ích của quảng đại quần chúng, đó sẽ
là cơ sở tạo niềm tin chính trị, động cơ và hành động chính trị đúng đắn và có hiệu quả.
Nhân cách chính trị của nhà cầm quyền cũng có ảnh hưởng lớn tới việc xây dựng và tổ chức
thực hiện đường lối chính trị. Tri thức và niềm tin chính trị của quần chúng góp phần tạo tính hiệu
quả thực tiễn của đường lối chính trị. Nếu thiếu những điều đó thì xã hội cũng không có sự ổn định
chính trị. Sự sụp đổ của CNXH ở Liên xô và Đông Âu càng cho thấy rõ bài học này; bắt đầu từ sự
sai lầm về đường lối chính trị với sự thỏa hiệp vô nguyên tắc, xa rời hệ tư tưởng chủ đạo; dần đến là
sự thoái hóa về bản lĩnh chính trị của ban lãnh đạo chính trị Đảng và Nhà nước Xô viết. Liên xô đã
trở thành nạn nhân của sự phản bội của một số kẻ lãnh đạo cao nhất trong Đảng cộng sản Liên xô,
của những phần tử ly khai câu kết chặt chẽ với các lực lượng đế quốc hiếu chiến hòng tiêu diệt
CNXH. Cải tổ không theo lôgic khách quan cùng với sự phản bội đã tạo nên cuộc phản cách mạng
trên “thảm nhung”.
Khi những mối quan hệ nội tại của Đảng không được duy trì, bộ máy của Đảng rệu rã, không
có khả năng độc lập tự quản, nhân tố tự hủy hoại xuất hiện như một bệnh hiểm nghèo trong cơ thể
của Đảng tạo nên nguy cơ “tha hóa quyền lực”, làm đảo lộn các giá trị, trật tự thì Đảng cũng không
thể thực hiện được mối quan hệ với đời sống xã hội (quần chúng xa rời Đảng), chức năng lãnh đạo
của Đảng (thông qua đường lối và uy tín người lãnh đạo) mất hiệu lực, không đảm bảo lợi ích căn
bản của giai cấp mình và xã hội; bệnh quan liêu, hành chính hóa là biểu hiện của nguy cơ xa rời
máu thịt với quần chúng.
Platon từ lâu đã cảnh tỉnh: quyền lực chứa đựng tiềm ẩn làm hư hỏng con người. Đối với
các đảng chính trị, thực tiễn không chỉ là môi trường kiểm nghiệm tính đúng đắn của đường lối
chính trị, mà còn là môi trường thi tuyển khắt khe đối với khả năng sáng tạo và trình độ hoạt
động của Đảng. Nếu mỗi đảng chính trị không thể hiện được tầm vóc VHCT của mình thì nhất
định không đảm đương nổi trọng trách lãnh đạo chính trị trong xã hội hiện đại.
VHCT truyền thống cũng là điểm tựa vững chắc cho ổn định chính trị. Một trong những sai
lầm và phải trả giá đắt của Liên Xô là thái độ đối với truyền thống. Hiện tại thì khủng hoảng, quá
khứ bị lôi ra phán xét nhằm bôi đen lịch sử làm cho niềm tin không còn điểm tựa, do vậy chính trị
càng mất ổn định. Việt Nam lại khác hẳn, tuy chấp nhận kinh tế thị trường, nhưng vẫn đứng vững
trước những sóng gió, những biến động... Điều đó, một phần nhờ Đảng có đường lối chính trị

18

Tập thể tác giả,”chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị” , NXBCTQG, Hà Nội 1999 Tr 56

22


đúng; Nhà nước và các đoàn thể quần chúng luôn được đổi mới, hoàn thiện. Những giá trị bản sắc
của VHCT Việt Nam vẫn được giữ vững và phát huy, điều đó tạo nên sự bền vững của chế độ
chính trị, góp phần ổn định chính trị, từng bước đưa nước ta thoát khỏi cuộc khủng hoảng và phát
triển tương đối nhanh. Với ý nghĩa đó, việc giáo dục, truyền thụ các giá trị VHCT truyền thống
cho các thế hệ sau là điều rất cần thiết quan trọng; quên hoặc thờ ơ, xem nhẹ việc này sẽ tạo nên
sự hẫng hụt, những “khoảng trống” về VHCT.
Như vậy, phải làm sao cho các giá trị VHCT in dấu trong chế độ chính trị, muốn làm được điều đó
trong quá trình đổi mới HTCT và giữ vững ổn định chính trị phải thường xuyên gắn với các giá trị VHCT,
phải nâng cao trình độ VHCT cho các chủ thể chính trị.
+ VHCT đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội.
Mục đích của mọi quá trình xây dựng và phát triển là thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”; giá trị văn hóa góp phần ngăn ngừa, hạn chế cái ác, cái xấu, cái sai,
hướng con người vươn đến tính nhân văn trong giải quyết các mối quan hệ xã hội nhằm thực hiện
mục đích trên.
Tầm cao VHCT là điều kiện tốt để giải quyết các vấn đề xã hội. Thực hiện sự công bằng xã
hội luôn phải lấy giá trị văn hóa làm mục tiêu. Không có sự công bằng nào tách rời các giá trị văn
hóa. Từ trong nó, công bằng xã hội đầy đủ nhất cũng dựa trên nền tảng chân, thiện, mỹ. Nếu đối lập
giá trị văn hóa với công bằng xã hội, tách văn hóa khỏi công bằng xã hội đều dẫn đến bất công.
Giàu có chưa phải là cái tối ưu của công bằng nếu thiếu tính nhân văn. Nước ta, tuy còn nghèo, kinh
tế phát triển chưa cao, nhưng với phương châm: toàn cầu hóa phải mang một gương mặt và trái tim
con người, con người là trọng tâm của phát triển, đã cố gắng tham gia nhiều chương trình giải quyết
các vấn đề xã hội, thực hiện những cam kết Cô-pen-ha-ghen (tháng 3/1995) như: xóa đói giảm
nghèo, giải quyết việc làm, chăm sóc sức khỏe cho người già, trẻ em, phụ nữ... Mặc dù chưa đạt ở

mức độ cao, nhưng những việc làm đó đã góp phần thực hiện các chỉ tiêu phát triển xã hội, đặc biệt
càng khẳng định sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với sự phát triển xã hội.
VHCT có ý nghĩa to lớn trong tổ chức và quản lý xã hội. Vì vậy, cần phải phát huy vai trò
của nó trong xây dựng và phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị và giải quyết tốt các vấn đề
xã hội. Đó cũng là một đòi hỏi khách quan.
* VHCT góp phần đẩy mạnh quá trình XH hóa chính trị mọi hoạt động của các chủ thể.
Chức năng này thể hiện kết quả tổng hợp của quá trình vận động của các nhân tố cấu thành
VHCT trong từng cá nhân, tập thể và cộng đồng. Sự xâm nhập của VHCT vào từng chủ thể sẽ làm
nảy sinh trong họ nhu cầu và khả năng tham gia một cách tích cực, chủ động và tự giác vào các quá
trình chính trị. Trên qui mô xã hội, VHCT có vai trò to lớn trong việc hình thành và hoàn thiện các
cơ chế thu hút quần chúng nhân dân tích cực tham gia họat động chính trị, làm cho cuộc sống phát
triển tích cực, tốt đẹp hơn.
Tính tự giác là cơ sở cho sự hình thành thói quen và nếp sống chính trị tốt. Điều đó chỉ có
được khi các chủ thể nhận thức và hiểu biết sâu sắc về các giá trị, từ đó dần dần vận dụng chúng vào
mọi hoạt động xã hội. Với ý nghĩa đó, có thể coi quá trình xã hội hóa về chính trị là sự thể hiện từng
bước bản chất dân chủ của một chế độ xã hội.
23


Giá trị VHCT là một phương diện giá trị xã hội, là mục tiêu phấn đấu của một cộng đồng; do
đó, chúng tạo thành bản chất của một chế độ xã hội và qui định các ứng xử phù hợp với mục tiêu
của xã hội. Nó biến các giá trị cá nhân thành giá trị xã hội; nhờ đó, mọi ý thức, hành vi chính trị trở
thành nếp sống, thói quen, thành nhu cầu không thể thiếu được trong cuộc sống hàng ngày của chủ
thể, không chịu sự áp đặt, cưỡng bức nào. Trong xã hội có trình độ chính trị cao mỗi cá nhân công
dân ý thức được vị trí của mình trong hệ thống QLCT của xã hội, đồng thời xã hội cũng hình thành
và hoàn thiện cơ chế để mỗi cá nhân công dân tham gia một cách tích cực, tự giác vào công việc nhà
nước và xã hội, nhờ đó hoạt động chính trị trở thành công việc hàng ngày của mỗi người.
* VHCT góp phần nâng cao tính chủ động, nhạy bén, sáng tạo của các chủ thể, góp phần
hoàn thiện các qui tắc ứng xử chính trị mang tính nhân văn.
Môi trường VHCT vừa ảnh hưởng đến mỗi người trong xã hội, vừa đặt ra những yêu cầu về

trình độ phát triển nhân cách với chất lượng tương ứng. Với trình độ VHCT cao, chủ thể chính trị sẽ
không chịu sự chi phối hay áp đặt, cưỡng bức của những thế lực bên ngoài, họ có thể thích ứng với
tình huống, vững vàng trước những biến động phức tạp, khó khăn, có sáng kiến, có khả năng nhạy
bén, chủ động, năng động trong các tình huống hay các quá trình chính trị. Sự toàn diện, uyển
chuyển và linh hoạt có ý nghĩa rất quan trọng, con người sẽ ngày càng vươn tới một lối sống cân
đối, hài hòa và tốt đẹp hơn.
Việc cá nhân hướng suy nghĩ và hành động của mình vào những giá trị này hay những giá trị
khác sẽ tạo nên định hướng giá trị của họ. Cùng một lúc con người theo đuổi nhiều giá trị liên quan
đến bản thân, gia đình, công việc....Việc định hướng giá trị có ý nghĩa rất quan trọng trong khẳng
định vị trí của cá nhân trong hệ thống các quan hệ xã hội. Do vậy, mỗi cá nhân phải tự điều chỉnh
mình cho phù hợp với các quan hệ xã hội. Chính VHCT giúp cho chủ thể trong việc khẳng định xu
hướng chính trị (nhu cầu chính trị, lý tưởng chính trị, động cơ chính trị...). Mặt khác, hệ thống các
chuẩn mực giá trị VHCT cũng chính là hệ thống các qui tắc, dựa vào đó các chủ thể tổ chức các hệ
thống hành động, xử lý các quan hệ xã hội theo quĩ đạo chân, thiện, mỹ.
* Chức năng đánh giá và dự báo chính trị:
Chức năng đánh giá của VHCT thể hiện qua thái độ của các chủ thể VHCT đối với một hiện
tượng, một sự kiện, một quá trình chính trị nào đó. Trên cơ sở nhận thức, chủ thể đánh giá các hiện
tượng trong đời sống chính trị và lựa chọn cho mình những hành vi theo đánh giá ấy. Như vậy,
VHCT kết hợp với khả năng chủ quan của mỗi chủ thể là cơ sở cho các đánh giá chính trị.
Nhờ vào khả năng đánh giá các hiện tượng và các quá trình chính trị, trên cơ sở những tri
thức và định hướng chính trị, các chủ thể có thể dự báo được sự phát triển của chúng trong tương
lai. Khả năng dự báo này là một phần rất quan trọng trong nhận thức VHCT của mỗi chủ thể, nếu
dự báo chính xác thì hành vi của họ có ý nghĩa to lớn trong việc hướng tới mục tiêu đề ra.
Tính khoa học và cách mạng của hệ tư tưởng, sự mẫn cảm chính trị, khả năng nắm bắt
những qui luật của đời sống chính trị là cơ sở chủ yếu của tiên đoán và dự báo chính trị. Muốn được
như vậy, chủ thể phải luôn bám sát thực tiễn, phải lăn mình vào cuộc sống hiện thực, khắc phục tệ
quan liêu, thờ ơ lãnh đạm chính trị.
Tóm lại, nhận thức về bản chất của VHCT, cấu trúc, đặc điểm và chức năng của VHCT là cơ
sở lý luận, quan điểm nền tảng rất cần thiết cho việc nhận thức về chất lượng VHCT của các chủ thể
24



chính ở nước ta nói chung và cho mỗi chủ thể cụ thể nói riêng, từ đó có căn cứ để xác định những giải
pháp thích hợp nhằm phát huy tốt vai trò của VHCT trong việc nâng cao VHCT cho mỗi chủ thể.
III. Nâng cao văn hoá chính trị ở nước ta hiện nay.
Có thể nói VHCT Việt Nam hiện đại không thể không nói đến “diện mạo” VHCT của các
chủ thể chính trị ở nước ta hiện nay. Tuy vậy, cùng với quá trình đổi thay của đất nước, cácc hủ thể
chính trị đã có nhiều khẳng định chất mới về VHCT trên mọi phương diện; nhưng vẫn còn không ít
những nét tiêu cực phi văn hoá. Một mặt, do ảnh hưởng của những tập quán truyền thống của nền sản
xuất nhỏ, của chế độ phong kiến, của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, một bộ phận trong các chủ thể
vẫn còn thói quen tùy tiện, vô chính phủ; sống thụ động, trông chờ ỷ lại, cam chịu; mặt khác, do ảnh
hưởng của mặt trái của nền kinh tế thị trường một bộ phận người trong xã hội đã hình thành quan điểm,
lối sống thực dụng, ích kỷ, vị kỷ; xem lợi ích vật chất - kinh tế là tất cả, định hướng chính trị không là gì,
điều đó chính là sự xa rời định hướng XHCN của hoạt động kinh tế; cùng với đó là tình trạng xuống cấp
về đạo đức nói chung, đạo đức chính trị nói riêng ở một bộ phận xã hội. Chính những hạn chế trên đã
ảnh hưởng không tốt đến việc hình thành và phát huy văn hóa tranh luận trong chính trị, văn hóa dân
chủ, văn hóa pháp quyền - những bộ phận có quan hệ chặt chẽ với VHCT nói chung; ảnh hưởng đến
việc hình thành nền tảng vững chắc cho cơ chế dân chủ trong đời sống xã hội nói chung, trong HTCT
nói riêng.
Khắc phục những hạn chế, nhằm tiếp tục nâng cao VHCT trong xã hội đã và đang trở
thành một vấn đề chính trị thực tiễn cấp bách đối với mọi chủ thể chính trị ở nước ta hiện nay.
Điều đó không chỉ đòi hỏi việc nâng cao chất lượng các chuẩn giá trị VHCT ở mỗi chủ thể, mà
còn phải tác động tích cực vào các nhân tố chế định trình độ VHCT ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay.
1. Phương hướng giáo dục và nâng cao văn hóa chính trị ở nươc ta hiện nay.
* Thứ nhất, hình thành và phát triển những cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng cho
VHCT hiện đại.

- Về cơ sở kinh tế, VHCT hiện đại phải dựa trên cơ sở kinh tế XHCN, đó là nền kinh tế
phát triển dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là chủ yếu

để đảm bảo định hướng XHCN cho sự phát triển kinh tế; đồng thời đảm bảo về mặt kinh tế cho
việc hình thành và phát triển VHCT hiện nay.

- Về cơ sở chính trị, VHCT phải dựa trên một HTCT mà Nhà nước của dân, do dân, vì
dân là trụ cột dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm từng bước hình thành nền dân chủ XHCN, bảo
đảm toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân. Do vậy, phải không ngừng củng cố và hoàn thiện
HTCT, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với HTCT

- Về cơ sở xã hội, VHCT mới phải được hình thành và phát triển trên cơ sở củng cố
khối liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lờp trí thức dưới
sự lãnh đạo của Đảng; hình thành quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc; khắc phục sự bất bình đẳng,
sự bất công; xây dựng nền giáo dục mới hướng vào mục đích toàn xã hội mà trực tiếp là nâng
cao dân chủ.

25


×