Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế xã hội ở khu vực nông thôn tỉnh hưng yên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.78 KB, 108 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “con người là vốn quý nhất”.
Ngay từ những ngày đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội Đảng đã luôn quan tâm
đến sự phát triển con người nhằm, đào tạo những thế hệ con người mới đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tuy nhiên,
do hạn chế về nhận thức, chủ quan duy ý chí trong mấy thập kỷ xây dựng chủ
nghĩa xã hội vừa qua nên, trong vấn đề con người vẫn chưa được Đảng ta khai
thác triệt để, để đáp ứng yêu cầu công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Đó
là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trì trệ, khủng
hoảng kinh tế - xã hội ở nước ta trước đây.
Trước xu thế phát triển hiện nay của thế giới gắn với sự phát triển nền
kinh tế tri thức, sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ thì việc phát huy vai trị nhân tố con người ngày càng trở nên quan trọng
và cần thiết đối với mỗi quốc gia. Nhận thức được điều đó, trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh ln quan tâm đến
vấn đề con người, đặt con người vào vị trí trung tâm, coi con người vừa là
mục tiêu vừa là động lực chủ yếu của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nhân tố con người được khẳng định là có giá trị lớn lao và ý nghĩa
quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung cũng như vấn đề phát huy
nhân tố con người ở nơng thơn nói riêng. Vấn đề then chốt để tạo được động
lực chính là có chủ trương, chính sách đúng đắn nhằm khơi dậy mọi khả năng
tích cực, năng động, sáng tạo của nhân tố con người, đồng thời hướng tính
tích cực, năng động và sáng tạo đi đúng quy luật, nhằm thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Hưng Yên là một tỉnh thuần nông với 87,02% (năm 2012) dân số sống
ở nông thôn, người dân quanh năm gắn với ruộng đồng, nhưng thực tế hiện
nay ở khu vực này đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết, trong đó nổi
bật là tình trạng người dân mất đất, thiếu việc làm buộc phải ly nông ra các đô



2
thị kiếm sống, khu vực này còn hiện tượng phân hóa giàu - nghèo…. thêm
vào đó là việc nhận thức về yếu tố con người và phát huy có hiệu quả nhân tố
con người trong quá trình phát triển nền kinh tế - xã hội ở khu vực này còn
nhiều bất cập. Trong thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực nơng thơn
địi hỏi cần có một đội ngũ lao động có chất lượng cao, họ có khả năng nắm
bắt và sử dụng các cơng nghệ mới vào trong q trình sản xuất, kinh doanh có
hiệu quả, song, vấn đề này hiện nay cũng còn nhiều bất cập. Cho nên, vấn đề
phát huy nhân tố con người, sử dụng hiệu quả nguồn lao động để phát triển
kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đang là vấn đề nóng bỏng và bức bách.
Để quá trình phát triển kinh tế - xã hội khu vực nông thôn đi vào chiều
sâu và tiếp tục gặt hái được nhiều thành tựu thì cùng với việc xây dựng những
chủ trương, chính sách địi hỏi tỉnh phải khơi dậy được tính tích cực, sáng tạo
của nhân tố con người, vì đây là nhân tố đóng vai trị quyết định trong phát
triển kinh tế - xã hội.
Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Phát huy nhân tố con người trong phát triển
kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn tỉnh Hưng Yên hiện nay” làm luận văn
tốt nghiệp thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Do tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề nhân tố con người trong sự phát
triển kinh tế - xã hội. Con người là chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của
cải vật chất và văn hóa của các quốc gia. Nó địi hỏi phải phân tích một cách
khoa học về giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người. Đã
có khơng ít tài liệu nghiên cứu về vấn đề này.
* Các công trình nghiên cứu của các tác giả đã được cơng bố dưới
dạng sách báo, sách chuyên khảo tiêu biểu phải kể đến các cơng trình sau:
- “Con đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn
Việt Nam”, của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Bộ Nơng nghiệp và phát

triển nơng thơn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2002. Các tác giả trình bày


3
một số quan điểm của Đảng về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp,
nơng thơn, cùng một số kinh nghiệm của các nước và vùng lãnh thổ trên thế
giới, qua đó các tác giả cũng tìm hiểu về những vấn đề đặt ra trong q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn.
- TS. Phạm Cơng Nhất (chủ biên) “Phát huy nhân tố con người trong
phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay” (sách chuyên khảo), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2007. Tác giả trình bày về vai trị của nhân tố con
người trong phát triển lực lượng sản xuất và thực trạng phát huy nhân tố con
người ở nước ta hiện nay, trong đó trình bày những thành tựu hạn chế và
nguyên nhân của những thành tựu hạn chế về vấn đề này.
TS. Phạm Ngọc Dũng (chủ biên) “Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng
nghiệp, nơng thơn từ lý luận đến thực tiễn ở Việt Nam hiện nay”, Nxb Chính
trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội – 2011, tác giả luận giải cơ sở lý luận và thực
tiễn xem xét đánh giá kinh tế - xã hội trong thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nơng thơn và thực trạng kinh tế - xã hội ở nông thôn Việt Nam trong
q trình thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, cùng một số quan điểm,
giải pháp phát triển kinh tế - xã hội nông thôn Việt Nam theo hướng cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa bền vững.
- TS. Nguyễn Thị Tố Quyên (chủ biên) “Nông nghiệp, nông dân, nông
thôn trong mơ hình tăng trưởng kinh tế mới giai đoạn 2011 - 2020”, Nxb Chính trị
quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2012. Tác giả luận giải từ cơ sở lý luận, cơ sở thực
tiễn đến một số điểm trọng tâm nổi bật về nông nghiệp, nông thôn, nông dân từ
năm 2000 đến nay và những cơ hội, thách thức mới đặt ra cho nông nghiệp, nông
thôn, nông dân trong mơ hình tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011 - 2020.
* Bên cạnh đó vấn đề phát huy nhân tố con người, chiến lược con
người, phát triển nông nghiệp và xây dựng nơng thơn… cịn được thể hiện

ở một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, luận văn tốt nghiệp như:
- Luận văn thạc sĩ “Chiến lược con người của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta từ 1975 đến nay”


4
của Hồng Thị Hằng (1995), luận văn trình bày về mấy vấn đề nhận thức
chung và chiến lược con người trong sự phát triển xã hội và chiến lược con
người của Đảng cộng sản Việt Nam thể hiện trong thực tiễn xây dựng xã hội
nước ta từ 1975 đến nay.
- Luận văn tốt nghiệp “Những biện pháp chủ yếu phát triển nông
nghiệp và xây dựng nông thôn ở huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế theo Nghị quyết Trung ương 5” của Đặng Văn Chung (1998). Luận văn trình
bày về những lý luận và thực tiễn của vấn đề nông nghiệp và nông thôn tại
huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Luận án tiến sĩ triết học “Nhân tố con người và những biện pháp
nhằm phát huy nhân tố con người trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện
nay” của Trần Thị Thủy (2000). Luận án đã trình bày những vấn đề lý luận và
thực tiễn về vấn đề nhân tố con người ở Việt Nam hiện nay, cùng với phát huy
nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
những biện pháp chủ yếu nhằm phát huy nhân tố con người ở Việt Nam trong
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Luận án tiến sĩ “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người với việc phát
huy nhân tố con người trong cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện
nay” của Lê Quang Hoan (2001), luận án trình bày về nguồn gốc và quá trình
hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, những nội dung cơ
bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong cách mạng Việt Nam và
phát huy nhân tố con người trong cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa dưới ánh
sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Luận văn thạc sĩ “Phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế
- xã hội ở tỉnh Lng Nặm Thà cộng hịa dân chủ nhân dân Lào hiện nay” của

Buntieng Bunlapheng (2013), luận văn trình bày tầm quan trọng và những
nhân tố ảnh hưởng của phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế xã hội, luận văn cũng đề ra thực trạng và giải pháp của việc phát huy nhân tố


5
con người trong phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Lng Nặm Thà, cộng hịa
dân chủ nhân dân Lào hiện nay.
Mặc dù đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề nhân tố con người
ở khu vực nơng thơn, nhưng chưa có một cơng trình nào nghiên cứu một cách
toàn diện, đầy đủ về vấn đề nhân tố con người ở khu vực nông thôn Hưng
Yên hiện nay nhằm phát huy có hiệu quả nhân tố con người. Vì vậy, tác giả
mạnh dạn nghiên cứu vấn đề này với mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc
luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc phát huy nhân tố con người trong
phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn tỉnh Hưng Yên hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn việc phát huy nhân tố con người trong
phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn tỉnh Hưng Yên hiện nay, luận
văn đề xuất một số giải pháp phát huy nhân tố con người để đẩy mạnh phát
triển kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn tỉnh Hưng Yên hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Luận văn tập trung giải quyết các vấn đề sau:
- Một số vấn đề lý luận về phát huy nhân tố con người trong phát triển
kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn nước ta hiện nay.
- Thực trạng và giải pháp phát huy nhân tố con người trong phát triển
kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn tỉnh Hưng Yên hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn đi sâu nghiên cứu nhân tố con người trong phát triển kinh tế xã hội ở khu vực nông thôn tỉnh Hưng Yên hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu

Luận văn chủ yếu đi vào nghiên cứu việc phát huy nhân tố con người
trong phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn tỉnh Hưng Yên hiện nay.


6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, chủ trương, chính sách và đường lối của
Đảng và Nhà nước ta về nhân tố con người và phát huy nhân tố con người
trong phát triển kinh tế - xã hội.
- Phương pháp nghiên cứu: vận dụng phương pháp luận của triết học
Mác - Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử;
kết hợp các phương pháp khác: lịch sử và lơgic, so sánh, đối chiếu…
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Làm sáng tỏ nhân tố con người, vai trò của nhân tố con người trong
phát triển kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay và phát huy nhân tố con người
trong phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn nước ta hiện nay.
- Phân tích thực trạng nhân tố con người trong phát triển kinh tế - xã
hội ở khu vực nông thôn tỉnh Hưng Yên hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy nhân tố con người trong phát
triển kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn tỉnh Hưng Yên hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo trong giảng dạy ở các
trường trung cấp, cao đẳng, đại học, trường chính trị trong tỉnh Hưng Yên.
Mặt khác, luận văn với những giải pháp có thể làm cơ sở góp phần xây dựng
nông thôn Hưng Yên hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.



7
Chương 1
PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG PHÁT TRIỂN KINH
TẾ - XÃ HỘI Ở KHU VỰC NÔNG THÔN NƯỚC TA HIỆN NAY MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI - NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN

Trong tiến trình phát triển lịch sử tư tưởng nhân loại, vấn đề con người
luôn là đối tượng nghiên cứu của các lĩnh vực khoa học. Trong lịch sử triết
học đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về con người, song do những hạn
chế của điều kiện lịch sử - xã hội, của trình độ nhận thức nên các nhà triết học
trước Mác chưa đưa ra được những quan điểm khoa học về vấn đề này. Chẳng
hạn như quan điểm về con người trong triết học phương Đông.
Quan điểm về con người ở đây được hình thành rất sớm và được thể
hiện một cách có hệ thống từ thế kỷ thứ VI tr. CN trong các học thuyết triết
học, nội dung của các quan điểm này rất đa dạng, song những vấn đề mà
người phương Đông tập trung đề cập đến là những vấn đề thuộc nguồn gốc,
bản tính của con người, đạo làm người và mẫu hình con người lý tưởng.
Nhìn chung, quan điểm về con người trong các học thuyết triết học
phương Đông thể hiện rất phong phú, nhưng đều mang nặng tính duy tâm. Về
cơ bản, các học thuyết đã lấy đạo đức làm nền tảng để giải quyết những vấn
đề trong cuộc sống; song nội dung các nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức,
quan điểm về bản tính con người, đạo làm người và hình mẫu con người lại
rất đa dạng chứa đựng những tư tưởng giống nhau, khác nhau và thậm chí đối
lập nhau. Tất cả những tư tưởng này đều tồn tại lâu dài trong lịch sử và giữ
vai trò nền tảng mà trên đó các thế hệ sau tiếp tục hồn thiện để thể hiện quan
điểm của mình. Cịn ở phương Tây quan điểm về con người thể hiện rõ nét
qua thời cổ đại, thời trung cổ, thời Phục hưng và cận đại, thời hiện đại với hai
khuynh hướng duy vật và duy tâm, trong đó các nhà triết học duy vật chỉ thấy



8
sự tồn tại hiện thực của con người trong mối quan hệ với tự nhiên mà không
thấy được mối quan hệ chi phối tác động qua lại trong cuộc sống của họ,
không thấy hoặc coi thường hoạt động thực tiễn của con người trong cải tạo
tự nhiên, xã hội và hồn thiện chính bản thân họ. Ngay cả Phoiơbắc một trong
những nhà duy vật lớn nhất của triết học trước Mác cũng không hiểu được
hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình nhận thức và cải tạo thế
giới. Ông coi thực tiễn là hoạt động tầm thường, có tính chất con bn. Tất cả
những điều đó lý giải tại sao trước C. Mác chưa có một lý luận khoa học soi
đường cho việc nghiên cứu vấn đề này.
Trên cơ sở kế thừa biện chứng các quan điểm trước đây, nhất là các
quan điểm triết học duy vật trước Mác, quan điểm triết học Mác - Lênin về
con người đã được hình thành, từ đó đề xuất các quan điểm khoa học và toàn
diện về nguồn gốc và bản chất con người.
1.1.1. Quan điểm con người là thực thể thống nhất giữa mặt sinh
vật - xã hội
Triết học Mác khẳng định con người vừa là sản phẩm phát triển lâu dài
của giới tự nhiên, vừa là sản phẩm hoạt động của chính bản thân con người.
Con người là thực thể thống nhất giữa các yếu tố sinh vật và các yếu tố xã hội
- là thực thể sinh vật - xã hội. Theo Mác, xã hội suy cho cùng là sản phẩm của
sự tác động qua lại giữa những con người [45, tr.657]. Con người tạo ra xã
hội, là thành viên của xã hội. Mọi biểu hiện sinh hoạt của con người là biểu
hiện và là khẳng định của xã hội [46, tr.171]. Như vậy, con người không phải
là một động vật thuần túy mà là một “động vật xã hội” - một thực thể sinh vật
- xã hội; con người “bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã hội” [42, tr.200]; nền
tảng của sự thống nhất giữa cái sinh vật và cái xã hội chính là hoạt động thực
tiễn của con người mà trước hết là hoạt động lao động sản xuất. Chính nhờ
lao động mà con người khơng những thích nghi với tự nhiên mà cịn cải tạo tự
nhiên, tạo ra những sản phẩm khơng có trong tự nhiên để phục vụ con người.



9
Quá trình cải tạo tự nhiên là quá trình con người hồn thiện chính bản thân
mình, điều này được C. Mác khẳng định: Lao động là điều kiện cơ bản đầu
tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến một mức độ mà trên một
ý nghĩa nào đó chúng ta phải nói: Lao động đã sáng tạo ra bản thân con
người. Thông qua cải tạo thế giới khách quan, con người cũng tự khẳng định
mình như một thực thể xã hội thoát khỏi trạng thái tự nhiên thuần túy và hình
thành các mối quan hệ xã hội. Trong Luận cương về Phoiơbắc, C. Mác đã
khẳng định: Bản chất con người khơng phải là cái gì trừu tượng cố hữu của cá
nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hịa
các quan hệ xã hội. Chính yếu tố xã hội đã tạo nên mặt xã hội trong bản chất
của con người. Do đó, khi xem xét bản chất con người cần phải thấy sự tác
động qua lại giữa hai yếu tố tự nhiên và xã hội để tạo nên bản chất của con
người nói chung, trong đó yếu tố quyết định nhất vẫn là yếu tố xã hội.
Trong luận điểm của mình, những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác còn cho
thấy, con người không chỉ tồn tại trong mối quan hệ con người - tự nhiên - xã
hội, mà con người còn là chủ thể của lịch sử, con người sáng tạo ra lịch sử của
chính mình.
1.1.2. Con người là chủ thể của lịch sử
Con người không chỉ là sản phẩm của lịch sử với tư cách là sản phẩm
quá trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên, mà con người cịn là chủ thể của lịch
sử. Con người làm ra lịch sử, song không phải làm theo ý muốn tùy tiện của
mình, trong những điều kiện mình có quyền tự lựa chọn mà trong những điều
kiện có sẵn do quá khứ để lại. Với những điều kiện ấy, mỗi người, mỗi thế hệ
một mặt tiếp tục các hoạt động cũ của thế hệ trước trong những hoàn cảnh
mới; một mặt tiếp tục các hoạt động mới của mình để biến đổi hoàn cảnh cũ.
Xét mối quan hệ giữa các thế hệ và hồn cảnh sống của con người thì bản
thân xã hội sản xuất ra con người như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội

như thế.


10
Như vậy, trong quá trình phát triển của thế giới nói chung và q trình
phát triển của con người nói riêng, thì từ khi con người ra đời cho đến lúc nào
con người cịn tồn tại, con người vẫn ln vừa là sản phẩm của lịch sử, vừa là
chủ thể của lịch sử.
Như vậy, triết học Mác đã nhận thức và giải quyết đúng đắn vấn đề con
người, đặt nó vào vị trí trung tâm của tiến trình lịch sử. C. Mác chỉ ra nhiệm
vụ cao nhất của triết học là phải góp phần thực hiện mục tiêu giải phóng con
người, giải phóng nhân loại khỏi mọi áp bức bất công. Quan điểm của triết
học Mác - Lênin về bản chất con người là cơ sở lý luận chung cho nội dung
và phương pháp tiếp cận nhân tố con người.
Khái niệm nhân tố con người là sự tiếp tục triển khai quan điểm của
triết học Mác - Lênin về con người với tư cách vừa là sản phẩm, vừa là chủ
thể sáng tạo ra lịch sử, cũng như chính bản thân con người.
“Nhân tố” trong tiếng Việt có nghĩa là những “yếu tố cần thiết gây ra,
tạo ra cái gì đó” [56, tr.739].
Các nhà kinh điển đã cho rằng: “trong lịch sử xã hội, nhân tố hoạt động
hoàn toàn chỉ là những con người có ý thức, hành động có suy nghĩ hay có
nhiệt tình và theo đuổi những mục đích nhất định, thì khơng có gì xảy ra mà
lại khơng có ý định tự giác, khơng có mục đích mong muốn” [43, tr.11], đó
chính là những tư tưởng chủ yếu về nhân tố con người, những chủ thể tích
cực, sáng tạo lịch sử, chủ thể mọi giá trị, mọi nền văn minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cơ sở kế thừa tư tưởng của chủ nghĩa Mác Lênin về vấn đề con người và nhân tố con người, Người cho rằng: nhân tố
con người khơng chỉ là vai trị tích cực, chủ động sáng tạo của mỗi cá nhân,
cá thể, mà còn là vai trò của các giai cấp, các tầng lớp người trong xã hội. Nói
đến nhân tố con người trong điều kiện cuộc cách mạng vô sản, xét đến cùng là
sức mạnh của mỗi cá nhân phải dựa vào sức mạnh tập thể. Khi khẳng định vai

trò của cá nhân, coi mỗi người là một bộ phận của tập thể, giữ vị trí nhất định


11
và đóng góp một phần cơng lao trong xã hội, Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng:
sự nghiệp cách mạng là công việc của hàng triệu người chứ không phải chỉ
bằng một vài việc của một số cá nhân anh hùng.
Khi xét nhân tố con người với tư cách là chủ thể hoạt động, Hồ Chí
Minh coi trọng hoạt động tự giác của con người, có tổ chức, có lãnh đạo của
Đảng cộng sản thông qua các phong trào thi đua của quần chúng. Đây là một
dạng thức hoạt động đặc biệt của con người trong cách mạng vơ sản. Nó
khơng còn là những hoạt động của cá nhân riêng biệt, tự phát mà là hoạt động
có tính chất xã hội rộng rãi, lay chuyển cả một tầng lớp người, một dân tộc, để
giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao vai trị của phẩm chất chính trị - tinh thần.
Người coi đó như điều kiện tiên quyết, được ưu tiên hơn so với các đặc trưng
khác trong cấu thành nhân cách con người. Hồ Chí Minh coi trọng cơng tác
giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức để xác lập lý tưởng, niềm tin, các nhu
cầu, động cơ, qua đó nâng cao các năng lực hoạt động của con người. Nhân tố
con người là những tiêu chí về nhân cách, một kiểu mẫu con người mới với
những đặc trưng về phẩm chất, năng lực được hình thành trong hoạt động
thực tiễn. Do đó, theo Hồ Chí Minh nhân tố con người khơng chỉ là chủ thể
của hoạt động mà còn là khách thể của q trình đó, hiểu theo nghĩa là những
u cầu xã hội đối với con người, sự cần thiết phải giáo dục - đào tạo để hình
thành nên các phẩm chất, năng lực, sự hưởng thụ các giá trị vật chất - tinh
thần trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người không dùng từ “nhân
tố con người”, nhưng từ những quan điểm trên có thể khái quát: Nhân tố con
người là hệ thống các thuộc tính, đặc trưng quy định vai trò chủ thể (cá nhân,
tập thể, cộng đồng) tích cực, chủ động, sáng tạo của con người, bao gồm một
chỉnh thể thống nhất giữa mặt hoạt động với tổng hòa các đặc trưng về phẩm

chất, năng lực của con người mới xã hội chủ nghĩa trong quá trình cách mạng
Việt Nam.


12
Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ tịch Hồ
Chí Minh là cơ sở lý luận quan trọng định hướng nhận thức cho quá trình xây
dựng, phát triển con người và nhân tố con người ở nước ta hiện nay. Đảng ta,
Đảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa và phát huy cao nhất truyền thống
nhân ái của dân tộc Việt Nam, đã rất coi trọng vai trò của nhân tố con người.
Con người Việt Nam trong lịch sử nghìn năm đấu tranh kiên cường cải tạo
thiên nhiên và chiến thắng những kẻ thù xâm lược đã làm nên những anh
hùng ca bất hủ, làm nên triết lý nhân nghĩa Việt Nam. Khi Đảng kêu gọi nhân
dân đứng lên lật đổ ách thống trị thực dân phong kiến, chống Pháp rồi chống
Mỹ, nhân tố con người Việt Nam càng được phát huy mạnh mẽ, càng tỏ rõ là
nhân tố quyết định thắng lợi, quyết định mọi sự biến đổi của xã hội ta. Ngay
từ Đại hội Đảng lần thứ III của Đảng ta (1960) cũng đã khẳng định: Con
người là vốn quý nhất. Đại hội lần thứ IV (1976) đã đưa ra luận điểm: Con
người mới - con người làm chủ tập thể. Đại hội lần thứ V (1982) phát triển
luận điểm “con người mới”, nhấn mạnh lòng nhân ái là truyền thống đậm đà
của dân tộc ta. Đại hội lần thứ VI (1986) khẳng định vai trị của “Nhân tố
người” trong tồn bộ sự phát triển kinh tế -xã hội. Vấn đề con người được đề
cập đầu tiên tại Đại hội lần thứ VI của Đảng, nhưng vấn đề đó được đề cập cụ
thể và trực tiếp trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, thông qua tại Đại hội VII, (năm 1991) Cương lĩnh nêu rõ:
Phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo cơng bằng, bình
đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân, kết hợp tốt tăng trưởng
kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh
thần, giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu
dài, giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội [18, tr.12-13].

Quan điểm này của Đảng khẳng định việc phát huy nhân tố con người gắn
với kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, nhằm đảm bảo sự phát
triển hài hịa trong xã hội, trong đó con người được đặt vào vị trí trung tâm.


13
Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6 - 1991), vấn đề con
người, phát huy nhân tố con người đã được đặc biệt nhấn mạnh. Chiến lược
con người trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực chủ yếu trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên đất nước ta.
Đảng và nhà nước ta đã khẳng định: Nguồn lực lớn nhất, quý báu nhất
của chúng ta là tiềm lực con người Việt Nam, trong đó có tiềm lực trí tuệ. Mọi
chính sách, mọi giải pháp phải nhằm giải phóng và phát huy mọi tiềm năng
từng người, tập thể lao động, cả cộng đồng, tồn dân tộc - giải phóng lực
lượng sản xuất. Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 4 (khố VII),
Đồng chí Tổng bí thư Đỗ Mười đã nói: “Chúng ta cần hiểu sâu sắc những giá
trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng
tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá, mọi nền văn minh của các quốc
gia” [20, tr.5].
Quan điểm này đúng trong mọi thời đại, cho đến ngày nay vai trò quyết
định của nhân tố con người ngày càng khẳng định là chủ thể của mọi sáng tạo
của mỗi quốc gia trên thế giới.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng là Đại hội công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, mở ra bước ngoặt lịch sử đưa đất nước lên một thời kỳ phát triển hoàn
toàn mới. Trong các quan điểm về cơng nghiệp hố, hiện đại hố có một quan
điểm hết sức quan trọng: Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố
cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Đây đúng là chiến lược của con
người, do con người và vì con người. Phát triển con người là điều kiện cơ bản
để phát triển xã hội. Đảng ta coi trọng sự phát triển con người, làm cho sức

sáng tạo của con người được phát huy, giải phóng sức sản xuất, tạo nên sự
phát triển xã hội lành mạnh, một nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững,
để xây dựng một đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng văn minh, con người
và gia đình ấm no, hạnh phúc.


14
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, thứ X của Đảng tiếp tục khẳng
định: Chiến lược con người phải nằm ở vị trí trung tâm của chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ. Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 khẳng định những vấn đề về phát triển giáo
dục và đào tạo, khoa học và cơng nghệ, trong đó có nhấn mạnh đến phát huy
nhân tố con người
Khoa học xã hội và nhân văn đặt trọng tâm vào tổng kết thực tiễn,
đi sâu nghiên cứu những vấn đề lớn của đất nước, khu vực và toàn
cầu, giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, cung cấp luận cứ cho việc hoạch
định đường lối, chiến lược, chính sách phát triển kinh tế - xã hội,
phát huy nhân tố con người và văn hóa Việt Nam [26, tr.205].
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, trong văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI được xác định là Chiến lược tiếp tục đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nhanh, bền vững; phát
huy sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, để thực hiện được tư tưởng chỉ
đạo đó, Chiến lược đã đề ra 5 quan điểm phát triển, quan điểm thứ 3 nhấn
mạnh đến vấn đề con người: “Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con
người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự
phát triển” [28, tr.30].
Khái niệm nhân tố con người được các tác giả đề cập ở nhiều khía cạnh

khác nhau.
Tác giả Nguyễn Thị Phi Yến trong tìm hiểu vai trị quản lý nhà nước
đối với việc phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế, tác giả nêu:
“nhân tố con người” là tổng hợp tất cả những phẩm chất, tri thức, khả năng và
năng lực của con người cùng mọi hoạt động sáng tạo của họ đã, đang và sẽ


15
được xã hội sử dụng vì lợi ích của sự phát triển con người cũng như hoàn
thiện các điều kiện sống, điều kiện lao động, điều kiện làm việc của con
người. Quan niệm này tiếp cận “nhân tố con người” như một đối tượng cần
khai thác, sử dụng, nhấn mạnh mặt khách thể cần tác động biến đổi cho nó và
vì nó. Để phát huy nhân tố con người, đương nhiên cần phải có lãnh đạo, quản
lý nhất định. Nhưng nếu nhấn mạnh mặt quản lý thì sẽ khơng thấy được đầy
đủ mặt chủ động, tự giác của nhân tố con người trong hoạt động sáng tạo ra
toàn bộ đời sống hiện thực.
Ở trong nước cũng cịn nhiều cơng trình nghiên cứu, tiêu biểu như của
TS. Phạm Công Nhất về phát huy nhân tố con người trong phát triển lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay, tác giả nêu ra một số hướng tiếp cận cơ
bản như trong quan hệ với nhân tố sinh học, nhân tố tự nhiên, trong mối quan
hệ với hệ thống kỹ thuật - người máy, trong phương diện hoạt động - giá trị,
tiếp cận dưới góc độ nhân cách và về phức hợp - hệ thống đối với nhân tố con
người, từ đó tác giả nêu ra: “nhân tố con người là tổng thể các yếu tố có liên
quan đến con người, là sự thống nhất biện chứng giữa các mặt chủ quan và
khách quan để tạo nên năng lực, phẩm chất và trí tuệ của con người được hình
thành và phát huy tác dụng vào trong thực tiễn sản xuất vật chất hay quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi cộng đồng, quốc gia trong những giai đoạn
lịch sử nhất định”.
Khái niệm nhân tố con người trên đây có thể bao quát được những mặt,
những khía cạnh, phương diện khác nhau của nhân tố con người, khắc phục

được những hạn chế trong nhận thức về nhân tố con người trước đây, như
chưa chỉ ra được mối quan hệ giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần
trong nhân tố con người cũng như mối quan hệ giữa cái chủ thể và cái khách
thể trong các biểu hiện hoạt động của nhân tố con người, v. v…
Ngồi ra, cịn nhiều quan niệm khác nhau về nhân tố con người, có thể
quy về hai loại quan niệm chính sau đây:


16
Quan niệm thứ nhất nhấn mạnh mặt hoạt động của nhân tố con người,
sự thể hiện các phẩm chất và đặc trưng bản chất của con người trong hoạt
động được định hướng nhằm biến đổi các quá trình xã hội.
Quan niệm thứ hai coi nhân tố con người là tổng hịa các phẩm chất và
năng lực với tính cách là tiềm năng chung được biểu hiện trong các dạng hoạt
động khác nhau của con người, là đặc trưng nhân cách được thể hiện trong
các dạng hoạt động có định hướng tích cực và nhân đạo.
Cả hai quan niệm đều coi phẩm chất xã hội quy định vai trò chủ thể
lịch sử của con người. Tuy nhiên, quan niệm thứ nhất lấy hoạt động làm hạt
nhân, còn phẩm chất và năng lực được thể hiện trong hoạt động. Còn quan
niệm thứ hai chỉ giới hạn nhân tố con người trong lĩnh vực tinh thần, còn hoạt
động chỉ là sự thể hiện những phẩm chất tinh thần của con người.
Từ những cách tiếp cận nhân tố con người trên đây có thể thấy rằng:
nhân tố con người là một khái niệm có nội hàm được phản ánh đa dạng, chính
vì vậy có nhiều cách tiếp cận khác nhau về nhân tố con người. Kế thừa và
phát huy những quan điểm tiến bộ, đồng thời khắc phục những hạn chế trong
các quan điểm trên, nhận thấy khi nghiên cứu về vấn đề nhân tố con người
cần phải khái quát được những phẩm chất xã hội căn bản nhất - những “tố
chất người” quy định vai trò chủ thể của con người trong một quá trình biến
đổi, phát triển xã hội, đồng thời phản ánh được tính hệ thống, tính lịch sử - cụ
thể và phát triển của nhân tố con người. Mối quan hệ biện chứng giữa hoạt

động với phẩm chất và năng lực chính là động lực bên trong thúc đẩy sự phát
triển tính tích cực, tự giác, sáng tạo của con người. Tác giả hồn tồn nhất trí
với khái niệm nhân tố con người dưới đây - khái niệm được rất nhiều tác giả
đề cập đến trong các nghiên cứu của mình.
Nhân tố con người là hệ thống các yếu tố, các đặc trưng quy định
vai trị chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo của con người, bao gồm một
chỉnh thể thống nhất giữa mặt hoạt động với tổng hòa các đặc trưng về


17
phẩm chất, năng lực của con người trong một quá trình biến đổi và phát
triển xã hội nhất định.
Nội dung của khái niệm nhân tố con người ở trên bao gồm những đặc
trưng của con người với tư cách là chủ thể hoạt động, chủ thể mang phẩm
chất và năng lực, chủ thể mang giá trị xã hội. Những nội dung này nằm trong
một thể thống nhất thể hiện những đặc trưng bản chất người và vai trò con
người trong sự phát triển xã hội, như vậy, thực chất quan niệm nhân tố con
người được đề cập ở đây chính là tổng hòa các đặc trưng xã hội quy định vai
trị chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo của con người trong một quá trình lịch
sử - xã hội.
Khái niệm này phân chia cấu trúc của nhân tố con người thành hai
phương diện cơ bản, thứ nhất là chỉ hoạt động của con người, bao gồm hoạt
động thực tiễn và hoạt động lý luận; hoạt động vật chất và hoạt động tinh
thần. Thứ hai chỉ tổng hòa những đặc trưng về phẩm chất và năng lực của con
người. Hai phương diện của nhân tố con người quan hệ biện chứng với nhau,
tạo thành một chỉnh thể thống nhất, thường xuyên biến đổi và phát triển, trong
đó nhân tố hoạt động giữ vị trí “tính thứ nhất”, phẩm chất, năng lực là “tính
thứ hai”. Chính trong mối quan hệ vừa làm tiền đề, điều kiện cho nhau, tạo
nên động lực bên trong của sự phát triển nhân tố con người mà bản chất, chức
năng xã hội và vai trò chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo của con người được

thể hiện, trở thành động lực thúc đẩy tiến bộ xã hội.
1.1.3. Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội
Tại Đại hội Đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ, khố VII Đảng ta
khẳng định: Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước về các lĩnh vực văn hố, xã hội là chăm sóc, bồi dưỡng
và phát huy nhân tố con người, với tư cách vừa là động lực, vừa là mục tiêu
của cách mạng.


18
Con người là chủ thể của lịch sử cho nên sự phát triển của xã hội phải
là vì con người, thỏa mãn những nhu cầu vật chất, tinh thần của con người.
Ngay từ thời cịn mơng muội vừa thốt khỏi thế giới động vật, lồi người đã
ln cháy bỏng hồi bão được sống tự do, hạnh phúc và luôn đấu tranh để
hồi bão đó trở thành hiện thực.
Khi xã hội phân chia thành giai cấp thì sự phát triển xã hội lại dẫn tới
áp bức, bất cơng, mất bình đẳng; tự do của một số ít người đã hạn chế, tước
đoạt tự do, hạnh phúc của số đông người trong xã hội. Cho nên, lồi người
khơng ngừng đấu tranh để chống lại sự áp bức, bất cơng đó. Thực tế là, khi xã
hội ngày càng văn minh, nhưng trong mỗi bước tiến của nền văn minh vẫn
chứa đựng những yếu tố, những khuynh hướng đi ngược lại lợi ích chung của
loài người, nhiều thành tựu khoa học - kĩ thuật bị lợi dụng, gây hại cho con
người như môi trường bị ơ nhiễm, nạn thất nghiệp, khủng bố, chiến
tranh….Vì vậy, nhân loại phải đấu tranh để mọi thành tựu của khoa học - kỹ
thuật không chống lại con người, để văn minh gắn với nhân đạo, trở thành
điều kiện nâng cao hơn nữa hạnh phúc của con người, đem lại sự phồn vinh
cho mọi quốc gia, dân tộc. Con người là chủ thể của lịch sử nên con người
cần phải được tơn trọng, cần phải đảm bảo các quyền chính đáng của mình,
phải là mục tiêu phát triển của xã hội.

Xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc
sống tự do, hạnh phúc, mọi người có điều kiện phát triển tồn diện là mục tiêu
cao cả của chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Tơi chỉ có
một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc
lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành” [51, tr.517]. Quan điểm này nhấn mạnh con người ln
là mục tiêu của xã hội lồi người.
Chủ nghĩa xã hội đã phải trải qua bước phát triển quanh co, đầy thử
thách của lịch sử, nhưng đang vững bước đi lên và đạt nhiều kết quả trong


19
mục tiêu vì sự phát triển tồn diện con người. Nước ta là một nước nghèo
đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tuy vậy, Đảng và Nhà nước ta
luôn coi trọng con người, coi con người là mục tiêu phát triển của xã hội. Vì vậy,
mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đều vì sự phát triển tồn
diện của con người. Con người khơng chỉ là mục tiêu mà cịn là động lực của sự
phát triển xã hội nói chung và phát triển kinh tế - xã hội nói riêng.
Động lực, theo nghĩa chung nhất, là năng lượng làm cho sự vật vận
động, trong đó có sự biến đổi của bản thân sự vật, có sự chuyển đổi và thúc
đẩy sự vật khác vận động. Có nghĩa, động lực vừa là bản thân sự vận động,
vừa là nguồn gốc của sự vận động, hay còn là cái tác động đến một sự vật
khác, tạo ra sự vận động của sự vật khác đó.
Khái niệm “động lực của sự phát triển” rộng hơn khái niệm “nguồn gốc
của sự phát triển”. Động lực của sự phát triển bao hàm cả nguồn gốc với tính
cách là hạt nhân lẫn các yếu tố khác mà thông qua đó tác dụng của nguồn gốc
được tăng cường thêm. Nói cách khác, nếu nguồn gốc là cái gây nên sự phát
triển thì động lực là cái thúc đẩy, là cái làm gia tăng sự phát triển ấy. Vì vậy,
tìm động lực của sự phát triển là tìm cái thúc đẩy sự phát triển khi bản thân sự
phát triển đó đã có, đã nảy sinh.

Nhân tố con người là động lực thúc đẩy các quá trình kinh tế - xã hội,
mà kết quả cuối cùng đạt được là đem lại điều kiện thực tế cho việc giải
phóng con người khỏi mọi sự tha hóa.
Hoạt động của nhân tố con người là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Vấn đề là ở chỗ, làm thế nào, trong điều kiện nào để phát huy được
động lực của nhân tố con người; làm cho tính tự giác, tích cực, năng động,
sáng tạo của nhân tố con người được hiện thực hóa trong q trình cải biến
cách mạng xã hội.
Thơng qua các mối quan hệ xã hội gắn với phương thức sản xuất nhất
định mà trong đó người ta sống và hoạt động mới biết được vai trò, địa vị của


20
họ, cũng như sứ mệnh lịch sử của các giai cấp, tập đồn xã hội có cịn giữ vai
trị tiên phong thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội hay đang là một trở lực
của q trình đó. Cũng chính vì vậy mà lần đầu tiên trong lịch sử, chủ nghĩa
Mác đã phát hiện ra quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch
sử, khẳng định sức mạnh to lớn của tính cộng đồng, tính tập thể của con
người với tư cách là chủ thể của lịch sử. Quần chúng nhân dân là chủ thể của
mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và tinh thần cho xã hội.
Trong lịch sử, mỗi khi lợi ích của quần chúng bị đe dọa, bị tước đoạt thì
sớm hay muộn họ cũng đứng lên đấu tranh chống lại sự tước đoạt đó, và được
kết thúc bằng một cuộc cách mạng xã hội lật đổ mọi ách thống trị, thúc đẩy sự
tiến bộ vượt bậc của xã hội.
Từ đó cho thấy, chỉ thơng qua các mối quan hệ xã hội gắn với phương
thức sản xuất nhất định mới biết được yếu tố nào, mối liên hệ nào gây nên,
kích thích, thúc đẩy hoạt động của nhân tố con người trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội. Qua đó mới có thể tạo điều kiện khách quan nhằm phát
huy mạnh mẽ vai trò nhân tố con người (nhân tố chủ quan) với tư cách là chủ
thể của mọi sáng tạo các giá trị xã hội. Đặc biệt là phát huy sức mạnh tổng
hợp của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Điều đó cũng xuất phát từ quy luật và bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội,
con người không chỉ là động lực mà còn là mục tiêu của các quá trình kinh tế
- xã hội, tất cả từ con người, do con người và vì con người, vì hạnh phúc của
nhân dân.
Khi xem xét con người là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội thì
khơng thể tách con người khỏi các mối quan hệ xã hội trong đó họ thực hiện
hoạt động cải biến các quá trình kinh tế - xã hội, mà phải xem xét con người như
một nhân tố trung tâm của quá trình đó. Trước hết, phải xem xét con người trong
hai mặt của mối "quan hệ song trùng" thống nhất biện chứng với nhau, đó là mối
quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.


21
Trong kết cấu của lực lượng sản xuất, con người giữ vai trị quyết định
nhất, q trình hoạt động sản xuất của con người không ngừng tạo ra những
công cụ lao động mới ngày càng tinh xảo hơn, hiện đại hơn, trở thành phương
tiện nâng cao sức sản xuất của họ. Đồng thời sự hiểu biết, trí thơng minh, kinh
nghiệm sản xuất... của con người cũng được phát triển nâng cao. Nói cách
khác, thơng qua hoạt động sản xuất mà con người ngày càng phát hiện ra
những quy luật của giới tự nhiên và vận dụng nó một cách có hiệu quả hơn.
Do đó, q trình giải quyết mâu thuẫn trên đây là động lực thúc đẩy sự phát
triển của lực lượng sản xuất và cũng là nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi, phát
triển mọi mặt của đời sống xã hội.
Để làm rõ vai trò động lực của nhân tố con người trong sự phát triển
kinh tế - xã hội phải xem xét nó trong sự thống nhất biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Những quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế được hình thành một cách
khách quan khơng phụ thuộc vào ý thức xã hội của con người, nhưng không
tồn tại bên ngoài mà ngược lại gắn liền với hoạt động của con người với tư
cách là nhân tố cấu thành lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất biểu hiện về

mặt xã hội là quan hệ lợi ích giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã
hội. Do đó, nó trở thành cái chi phối mạnh mẽ nhất, xét đến cùng là cái quyết
định động cơ, mục đích và phương thức hoạt động của con người. Bởi vậy,
hoạt động có tính chất "tự do" theo đuổi mục đích của con người lại bị chi
phối, quy định, ràng buộc, giới hạn bởi tính tất yếu khách quan của những
quan hệ lợi ích giữa các cá nhân với nhau, giữa cá nhân với xã hội và điều đó
tạo nên khuynh hướng vận động của lịch sử.
Quá trình vận động của lịch sử diễn ra không phải là thẳng tắp mà
ngược lại, rất phức tạp thể hiện ở tính đứt đoạn trong vận động liên tục, tính
quanh co khúc khuỷu có những bước nhảy vọt lớn nhưng không loại trừ
những bước thụt lùi tạm thời. Quá trình giải quyết mâu thuẫn giữa cá nhân với


22
cá nhân, giữa cá nhân với xã hội thực chất là giải quyết mối quan hệ lợi ích
giữa chúng, và tạo thành động lực thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động tự giác sáng
tạo của con người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Mối quan hệ lợi ích này, "mặc dù có thể bị những quan hệ khác - những
quan hệ chính trị tư tưởng - ảnh hưởng đến đâu chăng nữa", nhưng xét đến
cùng vẫn là cái quyết định nhất đối với hành động của con người. Với tư cách
là chủ thể hoạt động sáng tạo, khả năng phát huy tính tự giác, tích cực, năng
động, sáng tạo của con người được quy định trước hết bởi việc giải quyết mối
quan hệ lợi ích chứ khơng phải bằng sự cưỡng chế đối với họ. Việc giải quyết
tốt mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân và xã hội là
động lực to lớn nhất làm cho người lao động, phát huy năng lực thể chất và
năng lực tinh thần trong quá trình cải biến kinh tế - xã hội.
Nhu cầu lợi ích của con người là vô cùng phong phú, đa dạng, không
thể cùng một lúc đáp ứng đầy đủ, bởi nhu cầu lợi ích ln ln nảy sinh. Cho
nên, việc đáp ứng nhu cầu lợi ích ngày càng tăng của người lao động chỉ được
thực hiện thông qua việc giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân với

cá nhân, giữa cá nhân với xã hội. Chính việc giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích
này trở thành động lực thúc đẩy hoạt động của con người vì lợi ích chính đáng
của họ được bảo đảm tương ứng với sức sản xuất của họ.
Quan hệ sản xuất mang tính ổn định hơn so với sự biến đổi của lực
lượng sản xuất. Tính ổn định của quan hệ sản xuất cịn được bảo vệ, duy trì,
củng cố bởi hệ thống các chính sách, bản thân các chính sách này trước hết là
sản phẩm chủ quan của các chính đảng đang cầm quyền lãnh đạo với tư cách
là chủ thể định hướng đối với các quan hệ kinh tế - xã hội, nhân tố con người
với tư cách là chủ thể hoạt động cải biến các quá trình kinh tế - xã hội, đồng
thời vừa là khách thể, đối tượng của chính sách, của sự quản lý, tính đúng đắn
của cơ chế chính sách trước hết là phản ánh đúng đắn các quan hệ kinh tế trở
thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động tích cực, năng động, sáng tạo của
nhân tố con người trong quá trình cải biến xã hội.


23
Tính đúng đắn của cơ chế, chính sách sẽ làm cho quần chúng nhân dân
ý thức rõ được sự cần thiết phải đoàn kết với nhau trong cộng đồng xã hội,
qua đó, làm cho quần chúng nhân dân càng ý thức rõ hơn về quyền và nghĩa
vụ của mình đối với nhau và đối với xã hội, tạo thành động cơ tư tưởng thúc
đẩy họ hoạt động sáng tạo trong quá trình cải biến xã hội.
Giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích kinh tế là nền tảng cho việc
giải quyết tối quan hệ giữa lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, giữa lợi ích
chung và lợi ích riêng, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Đây là cơ sở
lý luận để hiểu thực chất vai trò động lực của nhân tố con người trong phát
triển kinh tế - xã hội.
1.1.4. Thực chất của việc phát huy nhân tố con người trong phát
triển kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn nước ta hiện nay
Phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn là một trong những
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Nhận

thức được điều đó, trước hết chúng ta cần phải quan tâm đến vấn đề phát huy
nhân tố con người trong phát triển kinh tế - xã hội của khu vực này, bởi nhân
tố con người là nhân tố quan trọng hàng đầu. Thực tế cho thấy, nếu khơng
được sử dụng hợp lý, thì nhân tố con người cũng không thể phát huy tác dụng,
mặt khác nhân tố con người tự nó khơng thể tạo ra được sức mạnh to lớn nếu
không được phát huy hiệu quả. Tư tưởng về vấn đề phát huy nhân tố con
người đã trải qua những giai đoạn phát triển lâu dài trong lịch sử, song, chỉ
đến khi chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời mới trở thành một hệ thống lý luận hồn
chỉnh và thực sự mang tính khoa học và cách mạng. Kế thừa những tư tưởng,
những quan điểm của Mác - Lênin về vấn đề này ở nước ta những năm gần
đây xuất hiện những cơng trình đề cập đến vấn đề nâng cao vai trò của nhân
tố con người trong quá trình đổi mới, coi phát huy nhân tố con người là:
Huy động nguồn lực lao động to lớn của con người, là khơi dậy sức
mạnh của các cộng đồng dân tộc, cộng đồng giai cấp, là phát huy


24
được tài năng, trí sáng tạo của mỗi cá nhân con người. Xét đến
cùng, điều đó chính là phát huy những năng lực bản chất của con
người, tính tích cực xã hội của con người [29, tr.7].
Phát huy nhân tố con người là một tổ hợp thống nhất các quan điểm,
phương hướng, phương pháp, biện pháp về kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo
dục, quản lý…nhằm tạo ra tiền đề vật chất và tinh thần thuận lợi cho việc hình
thành, phát triển, hiện thực hóa và sử dụng đúng đắn vai trị chủ thể tích cực,
tự giác, sáng tạo của con người hướng vào mục đích phát triển xã hội, phát
triển con người.
Từ những quan niệm trên đây cho thấy, vấn đề phát huy nhân tố con
người là một vấn đề rộng lớn, trong thực tế có rất nhiều đối tượng có khả
năng phát huy trong tất cả lĩnh vực tự nhiên, xã hội, tư duy, cho dù ở đối
tượng nào thì chủ thể phát huy vẫn là con người, từ đó có thể coi phát huy

nhân tố con người là một hình thức phát huy đặc biệt. Dưới góc độ triết học,
phát huy nhân tố con người được hiểu là quá trình đào tạo, bồi dưỡng và làm
tăng nguồn lực con người về thể lực, trí lực, phẩm chất đạo đức; là q trình
khai thác có hiệu quả những yếu tố đó trong lao động, học tập, chiến đấu và
bảo vệ Tổ quốc.
Việc phát huy nhân tố con người không chỉ là khơi dậy, khai thác, sử
dụng tiềm năng sáng tạo của con người một cách tối đa, tạo ra động lực phát
triển kinh tế - xã hội, mà đồng thời cịn là q trình đào tạo, bồi dưỡng, kích
thích phát triển và nâng cao khơng ngừng vai trị chủ thể tích cực, tự giác,
sáng tạo của con người với tư cách như là mục tiêu của sự phát triển xã hội.
Từ đó có thể khẳng định: Việc phát huy nhân tố con người chính là tạo
cơ hội, điều kiện để sử dụng, bồi dưỡng, chăm lo đời sống vật chất và tinh
thần cần thiết để mỗi người, mỗi nhóm hay cộng đồng người thể hiện tối đa
năng lực của mình trong lao động và sáng tạo nhằm đẩy mạnh sự phát triển
kinh tế - xã hội vì cuộc sống, vì hạnh phúc của mỗi người.


25
Thực chất phát huy nhân tố con người nói chung (theo nghĩa rộng)
thường đề cập đến việc sử dụng con người, chiến lược giáo dục, bồi dưỡng
nguồn nhân lực và các chính sách nhằm tạo động lực kích thích người lao
động phát huy hết tiềm năng như chủ động, tích cực, sáng tạo trong q trình
sản xuất, cịn theo nghĩa hẹp thường tập trung vào việc tạo động lực kích thích
để các tiềm năng được phát huy.
Như vậy, xem xét phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế xã hội ở khu vực nông thôn là xem xét việc sử dụng con người hay sử dụng
nguồn nhân lực tại chỗ, đồng thời đề ra nhiều chủ trương, chính sách với mơi
trường, điều kiện lao động sản xuất thuận lợi nhằm kích thích người lao động
tạo ra năng suất, chất lượng cao, thúc đẩy nền kinh tế phát triển và kết hợp với
đào tạo, bồi dưỡng người lao động có trình độ và kỹ năng.
Tóm lại, thực chất việc phát huy nhân tố con người trong phát triển

kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn là làm sao tạo được môi trường sống và
làm việc tốt để người lao động tự giác phát huy tính tích cực, năng lực lao
động của từng cá nhân, cộng đồng trong việc phát triển kinh tế - xã hội nhằm
mang lại hiệu quả cao.
1.2. PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ
HỘI Ở KHU VỰC NÔNG THÔN NƯỚC TA HIỆN NAY - MỘT SỐ YÊU CẦU CƠ BẢN

1.2.1. Đặc điểm khu vực nông thôn và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội ở khu vực nông thôn nước ta hiện nay
Nông thôn là vùng đất đai rộng với một cộng đồng dân cư chủ yếu làm
nông nghiệp (nông, lâm, ngư nghiệp), cơ sở hạ tầng kém phát triển, có trình
độ văn hóa, khoa học - kỹ thuật, trình độ sản xuất hàng hóa thấp và thu nhập,
mức sống của dân cư thấp hơn đô thị.
Về dân cư: Nông thôn là vùng sinh sống và làm việc của một cộng
đồng dân cư bao gồm chủ yếu là nông dân, là vùng sản xuất nông nghiệp
(theo nghĩa rộng) là chủ yếu. Các hoạt động sản xuất và dịch vụ phục vụ chủ
yếu cho nông nghiệp và cho cộng đồng nông thôn.


×