Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Tư tưởng tam quyền phân lập của montesquieu trong bàn về tinh thần pháp luật và ý nghĩa hiện thời của nó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.76 KB, 97 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng cuộc đổi mới của nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, khởi đầu
từ những năm 80 thế kỷ XX, được xác định là cơng cuộc đổi mới tồn diện trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng.
Trong quá trình đổi mới, việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới
kinh tế với đổi mới chính trị - hai lĩnh vực quan trọng nhất của đời sống xã
hội - có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đổi mới kinh tế càng đạt nhiều thành quả
thì càng địi hỏi tăng cường đổi mới về chính trị, phát huy dân chủ ngày càng
rộng rãi hơn. Thực tiễn sự nghiệp đổi mới cho thấy rằng, gắn liền với phát
huy dân chủ là quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền.
Việc xây dựng nhà nước pháp quyền đã được Đảng và Nhà nước ta
xác định là một trong những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong suốt thời kỳ
quá độ, nhất là trong giai đoạn tiến hành cơng cuộc đổi mới tồn diện đất
nước ta hiện nay.
Điều này được thể hiện đặc biệt rõ ràng nhất trong các Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc từ Đại hội VII đến Đại hội XI.
Qua tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Đại hội XI đã
thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Cương lĩnh xác định: Để thực hiện mục
tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta và mục tiêu đến giữa thế
kỷ XXI thì toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến cơng,
ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ,
vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng cơ bản, mà
vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được nêu rõ trong


2


phương hướng thứ 7: Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Để có thể thực hiện đường lối đúng đắn của Đảng ta về xây dựng nhà
nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, chúng ta cần
phải có một nền tảng tư tưởng lý luận, khoa học sâu sắc, kế thừa những tinh
hoa quý báu của nhân loại về vấn đề nhà nước pháp quyền, cũng như cần học
tập những kinh nghiệm lịch sử của các quốc gia trên thế giới đã có thực tế
hàng trăm năm xây dựng nhà nước pháp quyền.
Một trong những nhân vật lịch sử vĩ đại đặt nền móng cho tư tưởng,
lý luận về xã hội công dân và nhà nước pháp quyền phương Tây thời Cận đại,
đi tiên phong trong phong trào Khai sáng Pháp thế kỷ XVII chính là
Ch.S.Montesquieu (1689-1755). Ơng đã viết nhiều tác phẩm, trong đó nổi
tiếng nhất là tác phẩm "Bàn về tinh thần pháp luật" (De l'esprit des lois).
Cùng với tác phẩm "Khế ước xã hội" của Rousseau, "Bàn về tinh thần pháp
luật" của Montesquieu được coi là bộ đôi khai sáng về quan điểm pháp lý, mở
đường cho tư duy xã hội Pháp đi tới cuộc cách mạng tư sản năm 1789. Trong
tác phẩm "Bàn về tinh thần pháp luật", Montesquieu đã lập luận tinh tế và
chặt chẽ tính tất yếu của việc tách bạch các nhánh quyền lực và về sau, tư
tưởng "tam quyền phân lập" này của ông đã trở thành phương pháp, lý luận
kinh điển được các nhà nước tư sản vận dụng để xây dựng và duy trì bộ máy
nhà nước của mình.
Chính vì những giá trị có tính nhân loại trong những tác phẩm của
Montesquieu bàn về vấn đề tam quyền phân lập và nhà nước pháp quyền nên
trong điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta hiện nay, để xây dựng nhà nước
pháp quyền, cùng với việc nghiên cứu các tác phẩm của các tác giả khác bàn
về nhà nước pháp quyền, chúng ta cần phải nghiên cứu một cách thấu đáo tư
tưởng phân chia, kiểm sốt quyền lực nhà nước của ơng trong tác phẩm "Bàn
về tinh thần pháp luật".



3
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài "Tư tưởng tam quyền
phân lập của Montesquieu trong "Bàn về tinh thần pháp luật" và ý nghĩa
hiện thời của nó" làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Trước hết, phải kể đến những cơng trình nghiên cứu có liên quan đến
tư tưởng chính trị - xã hội của Montesquieu nói chung và tư tưởng của ơng về
nhà nước pháp quyền nói riêng:
+ Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô (1962), "Triết học thời kỳ tiền tư bản
chủ nghĩa" (bản dịch). Đây là bản trích dịch bộ Lịch sử triết học do Viện hàn
lâm khoa học Liên xô xuất bản năm 1957. Công trình đã trình bày tình hình kinh
tế, chính trị - xã hội phương Tây thế kỷ XVII -XVIII, phân tích, đánh giá những
tư tưởng triết học giai đoạn này, trong đó tư tưởng của Montesquieu về tam
quyền phân lập và nhà nước pháp quyền được kể đến và đánh giá cao.
+ Đinh Ngọc Vượng (chủ biên, 1991), "Thuyết tam quyền phân lập và
bộ máy tư sản hiện đại". Cơng trình nghiên cứu này đã phân tích việc tổ chức
quyền lực chính trị và quyền lực chính trị nhằm thực hiện sự lãnh đạo và quản
lý xã hội, qua đó chỉ ra sự thống trị của nhà nước đối với quyền lực công cộng.
+ Nguyễn Thế Nghĩa (chủ biên, 1999), "Đại cương lịch sử các tư
tưởng và học thuyết chính trị trên thế giới".
+ Lưu Kiếm Thanh và Phạm Hồng Thái (bản dịch, 2001), "Lịch sử
các học thuyết chính trị trên thế giới". Đây là cơng trình do nhiều học giả
Liên bang Nga biên soạn do nhà xuất bản Mátxcơva xuất bản. Cùng với cơng
trình của tác giả Nguyễn Thế Nghĩa kể trên, cơng trình này đã khái qt q
trình hình thành, phát triển của các tư tưởng và các học thuyết chính trị trên thế
giới, nêu lên những đóng góp và chỉ ra những hạn chế của các học thuyết đó
trong q trình giai cấp tư sản đấu tranh chống chế độ phong kiến. Trong cả
hai cơng trình này, vai trị của Montesquieu đối với cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ
phong kiến, thiết lập bộ máy nhà nước của giai cấp tư sản được đánh giá cao.



4
+ Lê Tuấn Huy (2006), "Triết học chính trị của Montesquieu với việc
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Việt Nam", Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh. Đây là cuốn sách chuyên khảo tập trung phân tích nội dung
triết học chính trị của Montesquieu, đánh giá những giá trị và hạn chế của tư
tưởng này và nêu ra ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tác giả cũng có đề cập tới tư tưởng tam
quyền phân lập của Montesquieu, phân tích dưới giác độ triết học chính trị và
coi đây là một trong những thành tựu vĩ đại của tư tưởng nhân loại.
+ Nguyễn Minh Tuấn (biên soạn, 2007), "Tập bài giảng Lịch sử nhà
nước và pháp luật thế giới". Trong tập bài giảng này, soạn giả đã trình bày
quá trình hình thành, phát triển và suy vong của các nhà nước trong lịch sử,
qua đó đánh giá ưu và nhược điểm của các thể chế nhà nước đó.
Ngồi ra cịn phải kể đến một số bài viết liên quan đến đề tài của một
số tác giả đã được đăng tải trên các tạp chí như:
+ Đinh Ngọc Thạch (2007), Một số tư tưởng triết học chính trị của
G.Lốccơ, thực chất và ý nghĩa lịch sử, Tạp chí Triết học số 1-2007.
+ Phạm Văn Đức (2008), G.Lốccơ - Nhà triết học lớn của phong trào
khai sáng, Tạp chí Triết học, số 2-2008.
+ Lê Cơng Sự (2008), Quan niệm của G.Lốccơ về sự hình thành
và bản chất quyền lực nhà nước, Tạp chí Thơng tin Chính trị học, số 9-2008.
+ Hoàng Thị Hạnh (2008), Tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong
lịch sử triết học trước Mác, Tạp chí Thơng tin Khoa học xã hội, số 11-2008.
Những cơng trình nghiên cứu về nhà nước pháp quyền nói chung như sau:
+ Đào Trí Úc (chủ biên) (1992), "Tìm hiểu về nhà nước pháp quyền",
đây là cơng trình tổng thuật nghiên cứu về nhà nước pháp quyền ở các nước
Pháp, Đức, Mỹ v.v...



5
+ Viện Nghiên cứu nhà nước và pháp luật (1995), "Những lý luận cơ
bản về nhà nước và pháp luật". Đây là một trong những cơng trình có ý nghĩa
trong việc bàn về nhà nước dưới góc độ pháp lý.
+ Nguyễn Xuân Tùng (2010), Về khái niệm nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa. Bài viết đã nêu lên quá trình hình thành và phát triển các học
thuyết pháp quyền trong lịch sử, cách tiếp cận về pháp quyền ở một số nước,
trong đó có Việt Nam. Tác giả đã nêu lên những ý kiến khác nhau về nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam, qua đó đề xuất xây dựng một khái niệm thống
nhất về nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
+ Mai Thị Thanh (2010), Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức
thực hiện quyền lực nhà nước với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam. Tác giả đã phân tích mối quan hệ giữa nội dung (quyền
lực nhà nước) và hình thức (những tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước), chỉ
ra tầm quan trọng của hình thức nhà nước đối với việc tăng cường hiệu quả
hoạt động của bộ máy nhà nước.
+ Phạm Thế Lực (2011), Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước. Trong
cơng trình này tác giả đã chỉ ra nguyên nhân và xu thế dẫn đến lạm quyền,
chuyên quyền của những người nắm giữ, thực thi quyền lực nhà nước, trên cơ
sở đó chỉ ra tính tất yếu phải kiểm soát quyền lực nhà nước.
+ Phạm Đào Thịnh (2011), Tư tưởng pháp quyền trong lịch sử và
quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Trong cơng trình này, tác giả đã nêu lên những tư tưởng nhà
nước pháp quyền trong lịch sử, trong đó có tư tưởng của Montesquieu, quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa.
Những cuốn sách nêu dưới đây, chứa đựng những nội dung rất giá trị
liên quan đến nhà nước và pháp luật, tư tưởng về nhà nước pháp quyền về



6
khoa học chính trị, cũng là nguồn tư liệu phong phú cho việc tìm hiểu, nghiên
cứu về nhà nước, pháp quyền, về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
+ Phạm Xn Đề (1994), "Nhập mơn triết học chính trị", Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh;
+ Trần Ngọc Đường (chủ biên, 1999), "Lý luận chung về nhà nước và
pháp luật", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
+ Trần Ngọc Đường (2007), "Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
+ Trần Ngọc Đường, (2011), "Một số vấn đề về phân cơng, phối hợp
và kiểm sốt quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
+ Trần Văn Phòng (chủ biên, 2003), "Lịch sử Triết học phương Tây
trước Mác", Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
Những luận văn, luận án nghiên cứu vấn đề nhà nước pháp quyền,
trong đó có đề cập đến tư tưởng về nhà nước pháp quyền của Montesquieu:
+ Nguyễn Thị Thu Hương (2006), Quan niệm của Montesquieu
về xã hội công dân và nhà nước pháp quyền, luận văn thạc sĩ. Tác giả luận
văn đã hệ thống hóa tư tưởng triết học của Montesquieu về xã hội công dân và
nhà nước pháp quyền, về những đóng góp của Montesquieu đối với sự phát
triển của xã hội.
+ Nguyễn Thị Châu Loan, (2007), Tư tưởng triết học chính trị Rousseau
trong tác phẩm "Bàn về khế ước xã hội", luận văn thạc sĩ, phân tích một cách
chi tiết và khái quát những tư tưởng chính trị nổi bật của J.J. Rousseau, được
trình bày trong tác phẩm "Bàn về khế ước xã hội".
+ Trần Hương Giang (2008), Quan niệm về tự do và bình đẳng trong
triết học của S.L.Montesquieu và J.J.Rousseau, luận văn thạc sĩ, giúp ta hiểu


7

sâu sắc hơn tư tưởng về tự do và bình đẳng cả hai nhà tư tưởng lớn thời
kỳ cận đại: S.L.Montesquieu và J.J.Rousseau.
+ Nguyễn Thị Hoàn (2009), Quan niệm về nhà nước pháp quyền của
Montesquieu trong "Bàn về tinh thần pháp luật" và ý nghĩa của nó đối với
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, luận văn
thạc sĩ.
+ Nguyễn Thị Dịu (2010), Quan niệm chính trị - xã hội của G.Lốccơ,
phân tích tư tưởng về nhà nước pháp quyền của G.Lốccơ, thông qua phân
tích tác phẩm "Khảo luận thứ hai về chính quyền", luận văn thạc sĩ. Tác giả
tập trung phân tích tư tưởng của G.Lốccơ về nhà nước pháp quyền trong tác
phẩm này và có liên hệ tới những giá trị mà chúng ta có thể kế thừa trong sự
nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
+ Nguyễn Thị Phương Quỳnh (2010), Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, luận văn thạc sĩ. Tác giả luận văn đã trình bày
khái quát những tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong lịch sử, trong đó
có tư tưởng của S.L. Montesquieu; đồng thời chỉ ra những thành quả trong
công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phân
tích những mặt chưa làm được, nêu những giải pháp xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
+ Đặng Thị Hải (2011), Tư tưởng của J.J.Rousseau về nhà nước
và quyền lực nhà nước trong "Bàn về khế ước xã hội", giá trị và hạn chế của
nó. Luận văn đã nêu lên những nội dung cơ bản về nhà nước và quyền lực nhà
nước theo quan niệm của Rousseau, chỉ ra những giá trị, hạn chế của quan
niệm đó. Qua đó, tác giả nêu lên những yếu tố kế thừa và những đề xuất trong
quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
+ Nguyễn Thị Tươi (2013), Tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong
triết học Tây Âu thế kỷ XVII - XVIII, luận văn thạc sĩ. Tác giả đã khảo cứu tư


8

tưởng nhà nước pháp quyền của giai đoạn này thông qua những đại biểu nổi
tiếng của nó như: Th.Hobbes, J.Locke, S.L.Montesquieu và J.J. Rousseau…
và bước đầu đưa ra những đánh giá về giá trị và hạn chế của những tư tưởng ấy.
+ Lê Tuấn Huy (2005), Triết học chính trị của Montesquieu với việc
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, luận án Tiến
sĩ. Tác giả luận án đã đề cập, làm rõ những vấn đề triết học chính trị trong
quan niệm của Montesquieu về đặc trưng của nhà nước pháp quyền. Từ đó,
tác giả luận án nêu lên ý nghĩa thời đại những tư tưởng của Montesquieu, việc
kế thừa những tư tưởng đó trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
Qua những bài báo, cùng với những cơng trình nghiên cứu nêu ở phần
trên, có thể nhận thấy, trong các lý thuyết xã hội vấn đề nhà nước, có vấn đề
tam quyền phân lập nói riêng và nhà nước pháp quyền nói chung đã được
nhiều nhà nghiên cứu, nhiều nhà triết học quan tâm bàn thảo và đưa ra những
luận giải, quan điểm khác nhau.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích
Mục đích của luận văn là phân tích và làm rõ quan niệm cơ bản của
Montesquieu về tam quyền phân lập trong tác phẩm "Bàn về tinh thần pháp
luật", từ đó nêu lên những giá trị, hạn chế của tác phẩm và ý nghĩa của nó đối
với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích nêu trên, nhiệm vụ của luận văn phải hồn
thành là:
+ Phân tích những điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội và những tiền
đề lý luận để Motesquieu hình thành quan niệm tam quyền phân lập; trình bày


9
một cách khái quát về cuộc đời, sự nghiệp của Montesquieu và tác phẩm

"Bàn về tinh thần pháp luật".
+ Trình bày, phân tích những nội dung cơ bản trong quan niệm của
Montesquieu về nhà nước, quyền lực nhà nước và sự phân chia, kiểm soát
quyền lực nhà nước trong tác phẩm "Bàn về tinh thần pháp luật".
+ Khẳng định những giá trị, ý nghĩa quan niệm của Montesquieu về
nhà nước và tư tưởng tam quyền phân lập đối với việc xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, đồng thời chỉ ra những hạn
chế của tư tưởng ấy.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tư tưởng của Montesquieu về
tam quyền phân lập được trình bày trong tác phẩm "Bàn về tinh thần pháp luật".
- Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những quan niệm cơ bản của
Montesquieu về nhà nước và tư tưởng tam quyền phân lập trong tác phẩm
"Bàn về tinh thần pháp luật", cũng như ý nghĩa của tư tưởng này đối với việc
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận
Luận văn được hoàn thành dựa trên cơ sở lý luận chung của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm, chủ trương, đường
lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước.
- Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, có kết hợp với các phương pháp như: lịch sử và


10
lơgíc, phương pháp so sánh, trừu tượng hóa, hệ thống hóa, phương pháp phân
tích và tổng hợp v.v...

6. Đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn nghiên cứu chuyên sâu tư tưởng của Montesquieu trong tác
phẩm "Bàn về tinh thần pháp luật", qua đó góp phần khẳng định những giá trị
tư tưởng triết học của Montesquieu trong lịch sử tư tưởng nhân loại về nhà
nước, quyền lực nhà nước và sự phân chia kiểm soát quyền lực nhà nước.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa về mặt lý luận
Luận văn góp phần làm rõ những nội dung cơ bản, giá trị, cũng như
những hạn chế trong quan niệm của Montesquieu về nhà nước và tư tưởng
tam quyền phân lập. Từ đó chỉ ra những yếu tố cần kế thừa trong quá trình xây
dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
- Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên
cứu, giảng dạy về tư tưởng của Montesquieu trong lịch sử triết học phương
Tây nói chung và về nhà nước pháp quyền nói riêng ở các trường Đại học
và Cao đẳng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.


11
Chương 1
NHỮNG ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CHO SỰ RA ĐỜI
TƯ TƯỞNG TAM QUYỀN PHÂN LẬP CỦA MONTESQUIEU
TRONG "BÀN VỀ TINH THẦN PHÁP LUẬT"

1.1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ, CHÍNH TRỊ VÀ XÃ HỘI CHO SỰ RA
ĐỜI TƯ TƯỞNG TAM QUYỀN PHÂN LẬP CỦA MONTESQUIEU


1.1.1. Điều kiện kinh tế
Tư tưởng tam quyền phân lập của Montesquieu được hình thành vào
thế kỷ XVIII tại Pháp, nó phản ánh trước hết những điều kiện kinh tế, xã hội
Pháp lúc bấy giờ. Đó là thời kỳ có những biến động mạnh mẽ về kinh tế, chính
trị, văn hóa ở Tây Âu. Vào nửa đầu thế kỷ XVIII, Pháp vẫn là một nước có nền
kinh tế kém phát triển, điều này thể hiện rõ trên một số lĩnh vực cơ bản như:
Về nông nghiệp, lúc này nước Pháp vẫn cịn là một nước nơng nghiệp
lạc hậu: gần chín mươi phần trăm dân số sống bằng nghề nơng với cơng cụ
lao động cịn thơ sơ, năng suất lao động rất thấp, khoảng một phần ba đất đai
bị bỏ hoang. Đó là hệ quả cai trị của chế độ phong kiến giờ đang ngày càng
trở nên trì trệ, lỗi thời và phản động.
Về công nghiệp, vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVIII, nước Pháp bước
đầu hình thành các công trường thủ công, nhiều ngành hàng bắt đầu phát triển
như: sản xuất rượu, vải sợi, tơ lụa, khai mỏ, luyện kim… Máy móc cũng dần
dần được sử dụng trong sản xuất như máy dệt, máy kéo sợi, máy hơi nước. Tuy
nhiên, sự phát triển công nghiệp vẫn chỉ dừng lại ở giai đoạn sơ khai, manh
mún, thô sơ và bị cản trở, kém phát triển bởi phương thức sản xuất phong kiến.
Thương nghiệp cũng gặp nhiều khó khăn như cơng nghiệp, đặc biệt là
nội thương. Có thể thấy, đó là những khó khăn về vận chuyển hàng hóa, cùng
với công cụ đo lường và hệ thống tiền tệ không thống nhất, bị cản trở bởi


12
hang rào thuế quan phiền phức và những đạo luật bảo vệ đặc quyền, đặc lợi
cho tầng lớp quý tộc phong kiến và giới tăng lữ nhà thờ, trong khi cuộc sống
của người dân vơ cùng đói khổ, cùng cực.
Tuy nhiên, biến động lớn nhất tại Tây Âu bắt nguồn từ cuộc cách
mạng công nghiệp. Cách mạng công nghiệp là cuộc cách mạng trong lĩnh vực
sản xuất; là sự thay đổi cơ bản các điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa và kỹ
thuật, xuất phát từ nước Anh sau đó lan tỏa ra tồn thế giới, mà giai đoạn đầu

cuộc cách mạng này diễn ra vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX.
Cuộc cách mạng bắt đầu với sự phát triển sản xuất hàng hóa của
ngành cơng nghiệp dệt. Sau đó, với nhu cầu cung cấp máy móc và năng lượng
cho cơng nghiệp dệt, các kỹ thuật gia công sắt thép được cải thiện và than đá
sử dụng với khối lượng lớn. Thương mại mở rộng tạo điều kiện cho sự ra đời
của kênh đào giao thông và đường sắt. Bên cạnh đó, đường giao thơng được
nâng cấp lớn cho hoạt động giao thương nhộn nhịp. Động cơ hơi nước sử
dụng nhiên liệu than và máy móc vận động bằng cơ khí đã đưa đến gia tăng
năng suất lao động đột biến. Sự phát triển các máy công cụ trong hai thập kỷ
đầu của thế kỷ XIX tạo thuận lợi cho lĩnh vực chế tạo máy, phục vụ những
ngành sản xuất khác.
Trong thế kỷ XVIII, chịu ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp,
công thương nghiệp Pháp phát triển khá mạnh và tạo nên sự phồn vinh cho
nước Pháp. Ðại diện cho ngành công nghiệp ở Pháp lúc bấy giờ là những
công trường thủ công phân tán và tập trung. Những công trường thủ công nổi
tiếng ở Pháp là: công trường sản xuất thảm hoa, len dạ, tơ lụa, xà phịng, thủy
tinh... Trong cơng nghiệp, Pháp đã sử dụng máy móc như máy dệt, máy quay
tơ, máy bơm hơi nước. Ðã có những xí nghiệp tập trung hàng ngàn cơng nhân
như nhà máy cơ khí Le Creusot, cơng ty khai khống Anzin.
Tuy nhiên, chế độ phường hội vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong
cơng nghiệp Pháp, nhất là trong ngành thủ công nghiệp. Những quy định ngặt


13
nghèo của chế độ phường hội phong kiến đã ảnh hưởng nhiều đến sản xuất
cơng nghiệp ở Pháp, nó kìm hãm sự tự do kinh doanh và cải tiến sản xuất.
Thương nghiệp cũng có những tiến bộ nổi bật, nhất là ngoại thương.
Ngoại thương đã đem lại sự phồn vinh cho các hải cảng của Pháp. Paris và
Lyon là những trung tâm của hội chợ quốc tế lúc bấy giờ. Pháp xuất cảng: lúa
mì, len, gia súc, rượu vang, hàng xa xỉ phẩm... Pháp nhập khẩu: thuốc lá, cà

phê. Việc bn nơ lệ chiếm một vị trí quan trọng trong thương nghiệp ở Pháp.
Tuy nhiên, nội thương không phát triển lắm vì chế độ thuế quan theo từng
lãnh địa phong kiến rất nặng nề, nghiêm ngặt.
Tóm lại, cuối thế kỷ XVIII, công thương nghiệp Pháp phát triển mạnh
mẽ, những yếu tố tư bản chủ nghĩa xuất hiện và ngày càng phát triển, nhưng
chế độ phong kiến đã ngăn cản sự phát triển đó. Tổ chức nơng nghiệp phong
kiến, chế độ phường hội ngặt nghèo, thuế quan nội địa nhiều tầng, hệ thống đo
lường không thống nhất là những trở ngại, kìm hãm nghiêm trọng lực lượng
sản xuất tư bản chủ nghĩa tại Pháp phát triển. Chính tình trạng này đã tạo ra
mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản xuất mới, tư bản chủ nghĩa, tiến bộ, với
quan hệ sản xuất phong kiến, bảo thủ, trì trệ. Mâu thuẫn này tất yếu dẫn tới
phong trào đấu tranh địi xóa bỏ quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu cùng với
những đặc quyền của quý tộc phong kiến và nhà thờ, địi quyền tự do, bình đẳng
trong xã hội, tiến tới thiết lập một phương thức sản xuất mới, tiến bộ hơn - đó
chính là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đây cũng là một trong điều
kiện hết sức quan trọng dẫn tới sự ra đời của những tư tưởng tiến bộ, chống
lại chế độ phong kiến đương thời, trong đó có tư tưởng của Mongtesquieu.
1.1.2. Điều kiện chính trị và xã hội
1.1.2.1. Nền quân chủ chuyên chế của Louis XVI
Louis XVI (23 tháng 8, 1754 - 21 tháng 1, 1793) là quân vương nhà
Bourbon, cai trị nước Pháp từ năm 1774 đến 1792, rồi bị xử tử hình năm 1793.


14
Kế vị ông nội, Louis XV bị người dân căm ghét, Louis XVI rất quan
tâm đến sự bất bình đang dâng cao của người dân Pháp chống lại nền quân
chủ chuyên chế. Ngay từ đầu, nhà vua nỗ lực cải cách vương quốc theo các
chuẩn mực của phong trào Khai sáng. Dù vậy, do không đủ quyền lực để áp
đặt ý chí chính trị của mình, những cải cách của nhà vua đã sụp đổ trước thái
độ thù địch của giới quý tộc. Nỗ lực hiện đại hóa vương triều nước Pháp bị

thất bại.
Về sau, Louis XVI là người đại diện cho chế độ quân chủ chuyên chế
ở Pháp. Ông nắm mọi quyền hành, khơng chịu một sự kiểm sốt nào. Sự
chuyên chế của nhà vua thể hiện ở việc tập trung cao độ quyền hành chính:
vua quyết định mọi việc đối nội, đối ngoại, bổ nhiệm và cách chức các bộ
trưởng, các nhân viên nhà nước, hủy bỏ các đạo luật, độc quyền trừng phạt và
ân xá thể hiện qua "giấy có ấn vua". Vua có quyền bắt giam vô cớ những dân
nghèo vô tội, giam giữ bao lâu tùy ý, không cần xét xử.
Vua là người điều hành tối cao công việc trong nước. Giúp việc vua là
các vị đại thần. Vua cử ra những quan thân cận mình để làm tổng quản ở các
địa phương, những người này rất độc đoán và khắc nghiệt. Sự quan liêu, tham
nhũng và bất công của các viên quan này là một gánh nặng đối với đời sống
nhân dân địa phương.
Ngày 21 tháng 9 năm 1792, nền Cộng hòa Pháp được chính thức cơng
bố, chấm dứt nền qn chủ kéo dài liên tục một ngàn năm tại nước Pháp.
Louis XVI là quân vương duy nhất của nước Pháp bị xử tử hình
1.1.2.2. Chế độ ba đẳng cấp
Xã hội phong kiến Pháp thời kỳ này chia làm ba đẳng cấp, trong đó
hai đẳng cấp có đặc quyền là Tăng lữ (đẳng cấp I) và Quý tộc (đẳng cấp II).
Đẳng cấp thứ III gồm: tư sản, nơng dân, bình dân thành thị.
+ Giai cấp tư sản: đại diện cho phương thức sản xuất mới, là giai cấp
tiến bộ nhất trong Ðẳng cấp Thứ Ba. Giai cấp tư sản gồm những tầng lớp sau:


15
đại tư sản tài chính, tư sản cơng thương nghiệp và tiểu tư sản. Giai cấp tư sản
nhanh chóng trở thành người đại diện cho phương thức sản xuất mới, tiến bộ.
Để có thể thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển cần phải xóa bỏ những trở
ngại do chế độ phong kiến đã lỗi thời gây ra.
+ Giai cấp nông dân: là giai cấp đông đảo nhất trong đẳng cấp Thứ Ba

cũng như trong xã hội Pháp. Nông dân Pháp bị ba tầng áp bức: nhà nước, nhà
thờ, lãnh chúa. Ngồi thuế 1/10 nộp cho nhà thờ, nơng dân cịn phải đóng
nhiều loại thuế cho lãnh chúa, và nộp những khoản phụ thu khác như khi chở
lúa qua cầu hoặc sử dụng nhà máy xay lúa của lãnh chúa. Ngồi việc thu tơ
bằng tiền hay hiện vật, lãnh chúa cịn bắt nơng dân phải thực hiện những
nghĩa vụ lao dịch nặng nề. Nạn đói thường xuyên đe dọa nông dân, kể cả
những năm được mùa. Căm thù lãnh chúa, nông dân sẵn sàng đi theo giai cấp
tư sản, và trở thành động lực chủ yếu của cách mạng.
+ Bình dân thành thị: gồm những tầng lớp có thu nhập thấp trong xã
hội. Họ gồm những người làm nghề tự do, thợ thủ công, những người bán
hàng rong... Trong tầng lớp bình dân thành thị, cơng nhân và thợ thủ cơng là
những tầng lớp tích cực cách mạng, họ đã đi theo giai cấp tư sản trong cuộc
đấu tranh chống phong kiến.
1.1.2.3. Chế độ phong kiến lâm vào khủng hoảng
Giữa thế kỷ XVIII, nền quân chủ chuyên chế Pháp lâm vào tình trạng
khủng hoảng nghiêm trọng. Sự khủng hoảng bắt nguồn từ lĩnh vực tài chính.
Louis XVI thừa hưởng một ngân khố trống rỗng do những cuộc chiến tranh
của Pháp với các nước châu Âu thời Louis XV. Bên cạnh đó, sự hoang phí vơ
độ của triều đình làm cho ngân sách ngày càng kiệt quệ. Số nợ của nhà nước
ngày càng tăng, trong khi đó các chủ nợ không chịu cho vay thêm.
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1787-1788 nổ ra do sự mất mùa làm cho
vấn đề khủng hoảng tài chính càng thêm nghiêm trọng. Cuộc khủng hoảng


16
trong lĩnh vực công thương nghiệp cũng làm ngưng trệ những hoạt động kinh
doanh, nạn thất nghiệp lan tràn, nông dân bị thất thu, đói kém.
Ðể giải quyết nạn khủng hoảng tài chính, nhà vua cho triệu tập hội
nghị Ba Ðẳng cấp mà từ lâu nhà vua đã đóng cửa. Tại hội nghị, đã diễn ra sự
đấu tranh quyết liệt giữa ba đẳng cấp trong vấn đề bỏ phiếu. Với thế mạnh của

mình, Ðẳng cấp Thứ Ba tự tuyên bố đại diện cho dân tộc Pháp và thành lập
Hội nghị Quốc dân (National Assembly). Sau đó Hội nghị Quốc dân đổi thành
Quốc Hội Lập hiến. Chế độ phong kiến đứng trên bờ vực thẳm của sự sụp đổ.
Như vậy, cuộc khủng hoảng trong lĩnh vực tài chính đã đưa chế độ phong kiến
đến chỗ suy sụp nhanh chóng.
Trước hành động cách mạng của toàn thể đẳng cấp Thứ Ba, Louis
XVI tìm mọi cách chống đối. Vua đã điều 20.000 quân từ Versailles về Paris
với mưu toan bóp chết cách mạng. Trước tình hình đó, giai cấp tư sản tỏ ra
bối rối, nhưng quần chúng nhân dân đã đứng lên cứu nguy cho cách mạng. Từ
ngày 12. 7 đến 13.7. 1789, họ đã xuống đường cướp vũ khí. Ngày 14.7, họ
kéo đến ngục Bastille. Sau vài giờ chiến đấu, ngục Bastille bị hạ. Biểu trưng
của chế độ chuyên chế bị lật đổ. Lợi dụng công lao của quần chúng nhân dân,
tư sản tài chính lên nắm chính quyền, tuyên bố chế độ Quân chủ lập hiến.
Dưới ảnh hưởng ngày 14.7 ở Paris, phong trào cách mạng nổ ra ở
nông thôn. Nhân dân tự vũ trang bằng cuốc, xẻng, súng săn... kéo về lâu đài
của lãnh chúa, đốt những văn bản ghi các nghĩa vụ phong kiến của nông dân.
Ở những nơi lãnh chúa tỏ ra ngoan cố thì nơng dân thiêu hủy lâu đài, và đơi
khi họ cịn treo cổ lãnh chúa. Ðây là sự phản kháng mãnh liệt của nông dân ở
nông thôn.
Những cuộc khởi nghĩa của nông dân đã dẫn đến đêm lịch sử 4.8.
1789. Thông qua đề nghị của tư sản và một số quý tộc tự do, Quốc Hội Lập
hiến đã tuyên bố sắc lệnh "Bãi bỏ chế độ phong kiến": những đặc quyền, đặc
lợi của đẳng cấp I và II được thay bằng sự bình đẳng về pháp lý. Trên thực tế,


17
những nghĩa vụ phong kiến cá nhân được xóa bỏ, nơng dân được giải phóng
khỏi những ràng buộc phi lý của chế độ phong kiến, nhưng vẫn chưa được
quyền sở hữu về đất đai.
Sau khi giải quyết vấn đề ruộng đất của nông dân, giai cấp tư sản nghĩ

đến việc xây dựng nền tảng cho chế độ mới. Ngày 26.8.1789, Quốc hội Lập
hiến thơng qua một văn kiện có tính chất cương lĩnh đã đi vào lịch sử, đó là
bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền nổi tiếng.
Tuyên ngôn gồm 17 điều khoản, được mở đầu với điều I như sau: Mọi
người sinh ra đều tự do và bình đẳng. Bản Tuyên ngôn đã nêu lên khẩu hiệu
nổi tiếng của cách mạng Pháp Tự do - Bình đẳng - Bác ái. Trong 17 điều
khoản của Tuyên ngôn, ta thấy tốt lên hai vấn đề chính: cơng nhận, khẳng
định quyền tự nhiên của con người, tuyên bố những nguyên lý tổ chức chính
trị nhằm bảo đảm quyền con người và quyền cơng dân.
Trong khi chế độ phong kiến cịn thống trị hầu hết châu Âu, bản
Tuyên ngôn đã mạnh dạn tun bố ngun tắc bình đẳng đối với mọi người.
Ðó là văn bản khai tử chế độ cũ và là cương lĩnh của chế độ mới.
Đại Cách mạng tư sản Pháp 1789 là tiếng chuông cáo chung báo hiệu
chế độ phong kiến đã kết thúc và nhường vũ đài lịch sử cho giai cấp tư sản.
Các nhà Khai sáng trong đó có Montesquieu đã cống hiến những cơ sở
lý luận mở đường cho cuộc cách mạng này.
1.2. NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN CHO SỰ RA ĐỜI TƯ TƯỞNG TAM
QUYỀN PHÂN LẬP CỦA MONTESQUIEU

1.2.1. Những tiền đề lý luận thời Cổ đại
Thời Cổ đại, Hy Lạp không phải là một nước thống nhất như ngày nay
mà gồm nhiều thành phố được tổ chức như những quốc gia gọi là thành bang;
mỗi thành bang độc lập với nhau và có cách tổ chức chính trị khác nhau. Các


18
thành bang nổi tiếng gồm có Athens, Thebes, và Sparta. Tuy cùng một chủng
tộc nhưng dân thành bang này lại coi dân thành bang khác như thù địch và
chém giết lẫn nhau. Sparta và Athens là hai thái cực. Dân Sparta được huấn
luyện để sống khắc kỷ từ nhỏ, một đời sống giản dị và cực kỳ trọng võ. Trái

lại, dân Athens sống xa hoa, tiện nghi và yêu chuộng thương mại. Về chính trị
các thành bang Hy Lạp đều theo quân chủ. Sau khi vua Alcmaeon băng hà
vào năm 753 trước Thiên Chúa giáng sinh (TCN), Athens được tổ chức theo
dân chủ nghị viện: công dân được quyền bầu nghị viện, nhưng chức vụ thẩm
phán vẫn dành cho quý tộc. Đến thế kỷ thứ 5 (TCN), Athens hoàn toàn theo
thể chế dân chủ trực tiếp. Mọi công dân đều trực tiếp tham gia việc nước: nghị
luận, bàn cãi, bầu bán, biểu quyết, v.v... Do đó, Athens được coi là nơi có chế độ
dân chủ đầu tiên, nơi mà mọi người dân đều được tham gia chính sự.
Nhờ tính chất tự do tư tưởng mà Athens trở thành một môi trường
thuận lợi cho các triết gia như Socrates và sau đó, học trị ơng là Platon đã
phát triển học thuật đủ mọi ngành, trong đó có chính trị học. Có thể nói, trong
thời cổ đại, Athens trở thành trung tâm tư tưởng và học thuật của cả bán đảo
Hy Lạp; sau này, chính là cái nơi văn hóa và tư tưởng của phương Tây.
Các nhà tư tưởng Hy Lạp thời cổ đại đã bàn nhiều về nhà nước và dân
chủ. Chẳng hạn, một trong những nhà cải cách đầu tiên ở Hy Lạp cổ đại đưa
ra những tư tưởng về nhà nước và dân chủ là Solon (640 - 558 TCN.), nhà
hoạt động nhà nước trong quốc gia thành bang Aten thời Hy Lạp cổ đại và là
người khởi xướng các cải cách chính trị, kinh tế, xã hội nhằm từng bước thủ
tiêu các tàn dư của chế độ thị tộc, xây dựng thể chế dân chủ chủ nô công
thương, tạo điều kiện cho kinh tế công thương nghiệp của Aten phát triển
mạnh mẽ. Ông cho rằng, để đạt tới tự do và cơng bằng thì quyền lực nhà nước
phải đặt ngang hàng với pháp luật: "chỉ có pháp luật mới thiết lập được trật tự
và tạo nên sự thống nhất" [Dẫn theo 54, tr.21]. Tư tưởng của Solon về nhà
nước và pháp luật lúc bấy giờ đã đặt nền móng cho những tư tưởng của các


19
nhà hoạt động xã hội sau này. Đương thời, người Hy Lạp đã xem các cải cách
của Solon có tác động rất lớn trong việc xóa bỏ các tàn dư lạc hậu nhằm xây
dựng Aten trở thành một thành bang phát triển nhất trong các thành bang Hy

Lạp cổ đại.
Socrates (470-399 TCN), một trong những nhà hiền triết vĩ đại của
triết học Hy Lạp cổ đại, đồng thời cũng là một trong những nhân vật nổi tiếng
nhất của lịch sử tư tưởng nhân loại. Ơng khơng để lại một tác phẩm nào vì chỉ
thể hiện tư tưởng của mình qua đối thoại, diễn thuyết. Tuy vậy, di sản tư
tưởng của Socrates để lại cho nhân loại thật là to lớn, trong đó có những tư
tưởng về đạo đức, về nhà nước và pháp luật. Về vấn đề nhà nước, Socrates
được đánh giá là "người đầu tiên trong lịch sử tư tưởng chính trị châu Âu đã
hình thành quan điểm về quan hệ khế ước giữa nhà nước và công dân của
mình" [33, tr.33].
Platon (427-347 TCN), là một nhà triết học cổ đại Hy Lạp được xem
là thiên tài trên nhiều lĩnh vực, có nhiều người coi ơng là triết gia vĩ đại nhất
mọi thời đại, cùng với Socrates là thầy ông. Các tư tưởng chính trị - triết học
của ông được trình bày trong ba tác phẩm: Chính khách (Statesman), Luật
pháp (Law), và Nền Cộng hòa (Republic). Trong tác phẩm Nền Cộng hòa,
Platon đã đưa ra một đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền, luật pháp
thượng tôn, khi khẳng định, nhà cầm quyền phải gạt ý chí, quyền lợi cá nhân
sang một bên để tuân thủ ý chí của pháp luật. Nhà nước phải xây dựng một
đạo luật chính trị cơng bằng, xác định vị thế ngang nhau giữa các thành viên
trong xã hội. Và trên hết tất cả, trong một xã hội có nhà nước, lợi ích xã hội
phải cao hơn lợi ích cá nhân…
Platon cho rằng, nhà nước xuất hiện là do các nhu cầu của con người.
Vì nhu cầu, con người cần đến nhau và tập trung lại với nhau trong một cộng
đồng dân cư được đặt tên là "nhà nước". Quyền lực nhà nước được thiết lập
nhằm duy trì bình đẳng và cơng lý, thực hiện lợi ích của các cá nhân cũng như


20
tạo nên sự thịnh vượng chung của xã hội. Đương nhiên, quyền lực nhà nước
phải nằm trong tay các nhà thơng thái.

Tuy các nhà tư tưởng kể trên có bàn nhiều về nhà nước, nhưng chúng
ta chưa thấy những tư tưởng nào về phân quyền trong bộ máy nhà nước được
trình bày trong những tác phẩm, trong những quan điểm về nhà nước của họ.
Có thể nói, Aristotle là nhà tư tưởng Hy Lạp thời cổ đại đầu tiên có ý
tưởng phân chia quyền lực trong bộ máy nhà nước và phát hiện ra sự chia sẻ
quyền lực giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội thành bang lúc bấy giờ.
Aristotle đã quan niệm rằng trong bất kỳ nhà nước nào cũng cần phải có
những yếu tố bắt buộc: cơ quan làm ra luật có trách nhiệm trơng coi việc
nước, các cơ quan thực thi pháp luật và các tịa án. Theo ơng, để đảm bảo sự
cơng bằng trong dân chúng thì nhà nước phải được tổ chức có quy củ, đó là
nhà nước phải được phân tách thành ba bộ phận: cơ quan tư vấn pháp lý cho
hoạt động nhà nước, tịa thị chính và cơ quan xét xử.
Tùy thuộc vào các loại công việc trên do lực lượng nào nắm giữ thì sẽ
hình thành nên các mơ hình tổ chức thực thi quyền lực khác nhau. Chẳng hạn,
ở chính thể qn chủ, ba loại cơng việc này đều tập trung vào tay nhà vua.
Vua vừa lập pháp, vừa hành pháp và đồng thời nắm luôn cả quyền xét xử. Tuy
nhiên, theo Aristotle, nhà nước lý tưởng là nhà nước hỗn hợp có các giai cấp
chia sẻ các loại quyền lực này và có sự kiềm chế lẫn nhau ở mức độ nào đó.
Tư tưởng này đã được hiện thực hóa trong thực tế ở một số nhà nước cổ đại
phương Tây mà điển hình là nhà nước Athens và Cộng hòa La Mã. Tuy nhiên,
tư tưởng của Aristotle mới chỉ dừng lại ở việc phân biệt các lĩnh vực hoạt
động của nhà nước chứ chưa chỉ rõ phương thức vận hành cũng như mối quan
hệ bên trong giữa các thành tố đó. Sau này, tư tưởng về "ba bộ phận" này của
Aristotle được kế thừa và phát triển trong ba cơ quan: lập pháp, hành pháp và
tư pháp trong lý thuyết phân quyền của Montesquieu.


21
Ở thời kỳ Cổ đại, sự tập trung và phân chia quyền lực chủ yếu là dựa
vào tương quan lực lượng giữa các giai cấp trong xã hội. Thời kỳ này, quyền

lực tập trung, thống nhất trong tay một ông vua thường được đề cao nhằm
tránh những rối loạn và khủng hoảng xã hội khi quyền lực được phân chia vào
tay các tầng lớp khác nhau. Việc phân chia quyền lực thời kỳ này chủ yếu là
sự chia cắt quyền lực và mỗi một bộ phận nắm giữ quyền lực thường có xu
hướng ngăn cản, chống đối nhau hơn là hợp tác, thống nhất với nhau. Nhân
dân khơng có quyền lực mà chỉ là đối tượng quyền lực của vua, hoàng đế (trừ
các nhà nước dân chủ ở Hy Lạp và La Mã). Vì vậy, nhân dân khơng có quyền
mà chỉ có nghĩa vụ tn thủ. Họ khơng được tham gia các q trình của đời
sống chính trị.
1.2.2. Những tiền đề lý luận thời Trung cổ
Thời Trung cổ, đa số các nhà nghiên cứu cho rằng thời kì này khơng
có mầm mống tư tưởng về nhà nước pháp quyền vì sự thống trị của thần
quyền. Tuy nhiên, cũng có người cho rằng vẫn có những mầm mống về nhà
nước pháp quyền trong chính các nhà thần học. Từ những học thuyết chính trị
thần quyền, tư tưởng pháp quyền thời Trung cổ đã dẫn đến những tư tưởng về
quyền tự nhiên, về chủ quyền nhân dân, về nhà nước và pháp luật của các nhà
triết học - chính trị sau này.
Tư tưởng về nhà nước pháp quyền là tư tưởng tiến bộ hướng đến bình
đẳng, cơng bằng, dân chủ. Đó là nguyện vọng, khát khao của con người, dù
trong hoàn cảnh nào, trong xã hội nào, các thế lực thống trị có làm gì đi chăng
nữa thì những tư tưởng đó vẫn tồn tại dưới hình thức này, hình thức khác.
Tư tưởng pháp quyền Trung cổ gắn liền với hai nhà tư tưởng Saint
Augustin (357 - 430) và Saint Thomas D’Aquin (1225 - 1247).
Thời Trung cổ, nhà thờ Thiên chúa giáo đóng vai trị chủ đạo trong đời
sống xã hội. Một trong những nhiệm vụ chính của nhà thờ là đặt cơ sở lý luận


22
cho quan điểm khẳng định quyền lực của nhà thờ phải cao hơn quyền lực của
chính quyền thế tục. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, phân quyền là đặc điểm

chính của thời kỳ này. Giới q tộc có vị thế mạnh trong cơ cấu quyền lực
nhà nước nhờ giữ vai trò chiến lược trong bộ máy luật pháp và trong việc tập
hợp, dự trữ quân đội, của cải xã hội. Kết quả là trong cuộc đấu tranh giữa vua
và quý tộc - cuộc xung đột chủ yếu của nền chính trị thời Trung cổ, các nhóm
phân quyền thường mạnh hơn tổ chức đại diện cho chế độ tập quyền trung
ương và đối với chính phủ trung ương. Vua mặc dù chiếm địa vị quan trọng
nhất, tuyệt nhiên khơng có quyền tuyệt đối. Sự có mặt của nhà thờ thời Trung
cổ với tư cách là một nhà nước trong một nhà nước đã đặt ra một trở lực khác
với nền quân chủ.
Saint Augustin để lại một kho tàng tác phẩm quý giá, ngay cả khi
vương quốc La Mã suy tàn, các tác phẩm của ơng vẫn có giá trị và được đánh
giá là những tác phẩm bất hủ, sống mãi với thời gian, là nguồn tư liệu quý giá
đối với triết học, chính trị học và tơn giáo học phương Tây. Trong số những
tác phẩm đó, tác phẩm "Thành đơ của Thượng đế" được coi là một tác phẩm
chứa đựng nhiều tư tưởng sâu sắc về nhà nước và các vấn đề lịch sử xã hội.
Về vấn đề nhà nước, Saint Thomas D’Aquin đã lồng những khái
niệm thần học vào học thuyết của Aristotle, dẫn đến chỗ tư tưởng về phân
quyền trở thành vũ khí chính của nhà thờ Thiên chúa giáo trong cuộc đấu
tranh giành quyền lực với nhà nước thế tục. Thomas D’Aquin cho rằng
quyền lực nhà nước phải được thực hiện như một thứ quyền lực phục vụ, là
cơng cụ để thực hiện tình u và sự cơng bằng. Tuy nhiên, về thực chất, đó
là sự phục vụ cho quyền lực thần quyền. Mầu sắc tôn giáo thể hiện rõ rệt
trong học thuyết về nhà nước của ông, đã dùng vỏ bọc tôn giáo để che đậy ý
đồ bảo vệ sự vĩnh cửu của chế độ bóc lột nô lệ, khi ông khẳng định rằng, sở
hữu cá nhân, bất công xã hội, sự phân chia xã hội thành kẻ giàu, người
nghèo là do "ý Chúa".


23
Saint Thomas D’Aquin cho rằng trật tự pháp lý đem đến cho con

người cái thuộc về họ và làm cho họ có thể đạt đến sự dồi dào về vật chất,
tinh thần; xã hội công dân sẽ thay thế xã hội thần dân. Ông chia ra bốn loại
pháp luật: luật vĩnh cửu, luật tự nhiên, nhân luật và thần luật.
Vào cuối thế kỷ XIX, trong thơng cáo của Giáo hồng, hệ thống triết học
của Saint Thomas D’Aquin được thừa nhận là học thuyết chính thống của Vaticăng.
Saint Thomas D’Aquin thừa nhận hai loại chân lý - chân lý của lý
tính, tức là sự hiểu biết về bản chất của thế giới trần tục như nó được trình bày
trong siêu hình học của Aristotle và chân lý của niềm tin, cái được phản ánh
trong hệ giáo lý Cơ Đốc giáo.
Tuy lý luận về nhà nước của Saint Thomas D’Aquin chủ yếu nhằm
phục vụ cho sự thống trị của Giáo hội, nhưng chúng ta cũng thấy những điểm
tích cực trong quan điểm của ông khi cho rằng luật thành văn không được trái
với luật của tự nhiên. Theo quan điểm này, nhà cầm quyền không được cấm
thần dân quyền sống, quyền hôn nhân, quyền sinh đẻ, chúa phong kiến không
được giết nông nô v.v…
Những tư tưởng về nhà nước của Saint Thomas D’Aquin, cũng như
của Saint Augustin khơng thể thốt ra khỏi khuôn khổ giáo lý tôn giáo, nhưng
khi gạt bỏ những yếu tố duy tâm tơn giáo sang một bên thì những tư tưởng về
nhà nước của các nhà tư tưởng thời Trung cổ có những điểm tích cực có thể
làm cơ sở, tiền đề lý luận cho sự ra đời những tư tưởng tiến bộ về nhà nước
sau này, trong số đó có tư tưởng của Montesquieu.
1.2.3. Những tiền đề lý luận thời Phục hưng và Cận đại
Phục hưng là một phong trào văn hóa ảnh hưởng sâu rộng tới đời sống
trí thức châu Âu ở đầu thời kỳ hiện đại. Bắt đầu ở Ý, và lan ra phía bắc và
phía tây trong một cuộc mở rộng văn hóa kéo dài khoảng hai thế kỷ rưỡi, có
ảnh hưởng sâu sắc trên mọi lĩnh vực: văn học, triết học, nghệ thuật, chính trị,
khoa học, lịch sử, tơn giáo, và các mặt khác của đời sống trí tuệ.


24

Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời Phục hưng và Cận đại đã phát
triển mạnh mẽ với các đại biểu xuất sắc như: Niccolò di Bernardo dei
Machiavelli, Thomas Hobbes, John Locke, v.v…
Niccolò di Bernardo dei Machiavelli (3 tháng 5, 1469 - 21 tháng 6,
1527) là một nhà ngoại giao, nhà triết học chính trị, nhạc gia, nhà thơ, nhà
soạn kịch. Ông được xem là một trong những ông tổ sáng lập nền khoa học
chính trị hiện đại. Ơng là một nhân vật của thời Phục hưng Italia và là nhân
vật trung tâm của bộ máy chính trị nước Ý thời Phục hưng. Ông được biết đến
với các luận thuyết về chủ nghĩa hiện thực chính trị (tác phẩm "Quân Vương Il Principe") và chủ nghĩa cộng hòa (tác phẩm Discourses on Livy - "Luận về
sách lịch sử La Mã của Livy"). Hai cuốn sách này - cùng với cuốn History of
Florence ("Lịch sử Florence") được sự ủy quyền của nhà Medici - đã được
xuất bản vào năm 1531 sau khi ông mất.
Tác phẩm "Quân vương" đã thể hiện rõ nhất tư tưởng về nhà nước của
Machiavelli. Trong tác phẩm này, Machiavelli đã vạch ra sự độc lập tương đối
giữa đạo đức và chính trị trước thực trạng nhà nước bị Cơ đốc hóa. Đồng thời,
Machiavelli cũng đã đưa ra những quan điểm về quyền lực nhà nước, về các tiêu
chí phân loại quyền lực, những quan điểm này đóng vai trò làm cơ sở, tiền đề
cho tư tưởng phân chia, kiểm soát quyền lực nhà nước của Montesquieu sau này.
Theo Machiavelli, việc xác định hành vi của con người là cơ sở cho
việc phân loại quyền lực chính trị. Ơng cho rằng, hai động cơ chủ yếu của hành
vi con người là tình u và nỗi sợ hãi. Ngồi ra, yếu tố dục vọng và khuyết tật
của con người cũng là những nhân tố ảnh hưởng đến quyền lực. Machiavelli
viết: "Những người giàu có sợ hãi đánh mất những gì họ đã tích lũy được, cịn
những người nghèo lại cháy bỏng khát vọng về những gì mà người giàu đang
có. Cả hai đều khát vọng về quyền lực, mà đằng sau đó là khát vọng phá hủy,
đều nguy hiểm như nhau" [Dẫn theo 33, tr.312]. Machiavelli còn chú ý đến
yếu tố quyền lợi vật chất khi phân loại các quyền lực chính trị. Đây là quan


25

điểm tiến bộ vượt thời đại của ông, đã bước đầu nhìn thấy nguyên nhân kinh
tế là nguyên nhân cơ bản của mâu thuẫn giai cấp trong xã hội.
Ông cho rằng, quyền lực nhà nước là tối quan trọng đối với một cộng
đồng để duy trì trật tự, hịa bình và giữ được chủ quyền quốc gia. Tất cả các
loại quyền lực khác trong xã hội đều bị phụ thuộc và chi phối bởi quyền lực
chính nó. Muốn vậy, quyền lực nhà nước phải được tập trung mạnh mẽ trong
tay một người để chiến thắng sự kháng cự và tiêu diệt các thế lực thù địch của
chế độ. Nhà vua phải nắm trọn quyền và thi hành chính sách. Theo quan niệm
của Machiavelli, giá trị của từng cá nhân không phải là điều mà nhà nước cần
bận tâm.
Những quan điểm của Machiavelli về nhà nước, đặc biệt là những tư
tưởng về phân chia quyền lực có ảnh hưởng rất lớn đến những quan điểm của
các nhà Khai sáng và các nhà tư tưởng Cận đại trong đó có tư tưởng của
Montesquieu về nhà nước và phân chia, kiểm soát quyền lực nhà nước.
Thomas Hobbes (1588-1679) là một nhà triết học người Anh nổi tiếng
với các tác phẩm về triết học chính trị. Những tác phẩm chính của ơng bao gồm:
"Những yếu tố của luật tự nhiên và chính trị" (1640), "Những cơ sở của triết học"
("Về thân thể", "Về con người", "Về công dân") (1642), "Leviathan" (1651).
Cuốn sách "Leviathan" viết năm 1651 của ông đã thiết lập nền tảng
cho nền triết học chính trị phương Tây theo quan điểm lý thuyết về khế ước
xã hội. Hobbes là người ủng hộ chính thể chun chế, nhưng ơng cũng phát
triển các ngun tắc cơ bản của tư tưởng tự do châu Âu: quyền được bầu cử
của các cá nhân; quyền bình đẳng tự nhiên của tất cả mọi người; tính nhân
đạo của địa vị chính trị (điều dẫn đến sự khác nhau sau này giữa xã hội và nhà
nước); quan điểm tất cả quyền lực chính trị hợp pháp phải mang tính "đại
diện" và dựa trên sự đồng thuận của nhân dân, và sự diễn giải luật khá phóng
khống cho phép mọi người được làm bất kỳ điều gì mà pháp luật không cấm.



×