Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tư tưởng chính trị montesquieu trong tác phẩm tinh thần pháp luật và ý nghĩa của nó với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.06 KB, 28 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ
NHÂN VĂN

*

*

*

PHAN THỊ HIÊN

TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ MONTESQUIEU
TRONG TÁC PHẨM TINH THẦN PHÁP
LUẬT VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
Mã số: 62 22 80 01

TP. HỒ CHÍ MINH – 2015


CÁC BÀI BÁO KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN

1. Giá trị thời đại và những hạn chế về lịch sử của tư
tưởng chính trị Montesquieu, Tạp chí Triết học, số 6/2014.


2. Hiến pháp, bộ luật tối cao hiến định quyền làm chủ
của nhân dân, Tạp chí Khoa học chính trị, số 4/2014.
3. Kiểm soát quyền lực bằng tư pháp trong nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học chính trị, số
6/2014.
4. Phân quyền trong tổ chức quyền lực nhà nước –
nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị ở Việt
Nam, Tạp chí Đại học Công nghiệp Tp.HCM, số 1/2012


1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Tư tưởng chính trị của Montesquieu là một hệ thống quan trọng của
tư tưởng chính trị phương Tây cận đại. Nó có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng
và thực tiễn chính trị từ cuối thế kỷ XVIII đến suốt cả thế kỷ XIX và cho
tới ngày nay.
Cách mạng tư sản Pháp 1789 với tiền đề tư tưởng và lý luận của
Montesquieu nói riêng và của các nhà Khai sáng Pháp nói chung, đã giành
thắng lợi, đưa người lao động từ thân phận nô lệ thành người tự do. Những
tư tưởng tích cực tiến bộ của Montesquieu về quyền tự nhiên, về dân chủ,
luật pháp, về quyền lực nhà nước, về đạo đức chính trị và tinh thần khoan
dung, đặc biệt là tư tưởng phân quyền, từng bước được hiện thực hóa trở
thành các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền hiện đại.
Xây dựng nhà nước pháp quyền thay thế nhà nước tập trung, quan
liêu, bao cấp trong việc giải quyết những vấn đề về chính trị, kinh tế và xã
hội đang trở thành xu thế tất yếu khách quan của nền văn minh chính trị
ngày nay.
Đối với vấn đề nhận thức, thực thi quyền lực Nhà nước, về vai trò

của Nhà nước, chức năng, nhiệm vụ của bộ máy nhà nước ở Việt Nam cũng
không nằm ngoài sự vận động lịch sử ấy. Ở Việt Nam, trong điều kiện hiện
nay sẽ không thể có sự ổn định chính trị, sự phát triển kinh tế - xã hội bền
vững mà không có một bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động hiệu
quả.
Quá trình xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân ở Việt Nam trong suốt mấy thập kỷ qua đã đưa lại nhiều kết quả tích
cực: Từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; Hiến
pháp 1992 và nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh đã được ban hành, tạo khuôn
khổ pháp lý để nhà nước quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế,
xã hội, an ninh, quốc phòng, v.v.. Song, những kết quả đạt được là chưa
tương xứng với tiềm năng của đất nước, đặc biệt là trước yêu cầu của công
cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa với một nền kinh tế thị trường năng
động đáp ứng với nhu cầu dân chủ hóa ngày càng cao và hội nhập sâu rộng
vào nền kinh tế - chính trị thế giới.


2
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội đã được thông qua tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991)
nêu vấn đề xây dựng và hoàn thiện nhà nước như là một trong những
phương hướng cơ bản của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Tiếp đó, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã
được chính thức nêu trong Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khóa VII (1994) và Nghị quyết Hội nghị Trung ương Tám khóa
VII (1995). Những nghị quyết này xác định quan điểm và phương hướng
cơ bản cho quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước. Trên cơ sở Nghị
quyết Đại hội VII của Đảng, Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013 và nhiều bộ
luật, luật, pháp lệnh được ban hành, đã đặt cơ sở pháp lý cho việc xây dựng

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Tuy vậy, việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong
điều kiện chuyển đổi nền kinh tế vẫn là nhiệm vụ khó khăn, mới mẻ, hiểu
biết của chúng ta còn ít, có nhiều việc phải vừa làm, vừa tìm tòi và rút kinh
nghiệm. Trong lý luận và cả trong thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền
ở Việt Nam đang đặt ra nhiều vấn đề phức tạp, đòi hỏi phải tiếp tục giải
quyết. Đối với một nước đang phát triển, chưa trải qua dân chủ tư sản như
Việt Nam, muốn xây dựng thành công nhà nước pháp quyền, ngoài khát
vọng, bản lĩnh và quyết tâm chính trị cao, cần học hỏi, biết cách chọn lọc,
kế thừa, phát triển những nhân tố hợp lý của tư tưởng và kinh nghiệm tổ
chức, vận hành nhà nước của các nền dân chủ phát triển trên thế giới, của
nhà nước pháp quyền. Ở khía cạnh lý thuyết, trong những năm qua, Việt
Nam đã có những bước khởi động và tập trung nghiên cứu, tiếp cận và giải
quyết từng vấn đề, từng khía cạnh cụ thể lý luận nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa. Song, việc thiết kế mô hình cụ thể chưa thực sự hiệu quả,
không ít vấn đề còn phải được nghiên cứu, trao đổi, tranh luận để làm sáng
rõ, chẳng hạn như: lý luận về quyền lực nhà nước, về tập quyền và phân
quyền, về thống nhất quyền lực và tập trung quyền lực, về chủ quyền nhà
nước và chủ quyền nhân dân, về quyền con người, quyền công dân, v.v…
Đề tài Tư tưởng chính trị Montesquieu trong tác phẩm Tinh thần pháp luật
và ý nghĩa của nó với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam sẽ góp phần làm sáng tỏ các yêu cầu nêu trên
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng Tây Âu cận đại nói chung, tư tưởng Khai sáng Pháp thế kỷ
XVIII nói riêng, đặc biệt tư tưởng của Montesquieu về xã hội – chính trị đã
được nghiên cứu từ nhiều bình diện khác nhau thuộc các lĩnh vực khoa học


3
xã hội và nhân văn như triết học, luật học, chính trị học, tâm lý học, văn

hóa học, sử học, v.v..
Trên thế giới, ngay sau khi cuốn Tinh thần pháp luật (De L'Esprit
des lois) được Nhà xuất bản Barillot ấn hành tại Genève (1748), đã được
xuất bản và tái bản nhiều lần bằng các thứ tiếng khác nhau, thu hút sự quan
tâm đông đảo của giới học thuật cũng như của công chúng.
Từ thế kỷ XX, tư tưởng nhà nước pháp quyền ngày càng được quan
tâm nhiều ở cả góc độ lý luận và phương diện thực tiễn, đã xuất hiện một
số công trình nghiên cứu về tư tưởng chính trị Montesquieu có giá trị như:
Triết thuyết chủ nghĩa tự do của Montesquieu (Montesquieu’s Philosophy
of Liberarlism), T.Pangle (1944) xem những vấn đề về chủ nghĩa tự do, về
“nền dân chủ nhiều thành phần”, “nền chính trị tuyển cử” trong lý luận của
Montesquieu là những quy phạm của đời sống chính trị hiện đại. Trong khi
đánh giá triết học về lịch sử của Montesquieu thể hiện sự bi quan về tiến bộ
qua cách nhìn của ông về sự sụp đổ của thể chế La Mã, tác giả của
Montesquieu and making of modern world, A.Macfarlane ca ngợi
Montesquieu là người tiên phong trong phong trào chống chuyên chế tàn
bạo và nô lệ; đấu tranh vì tự do và cho các quyền tự do tự nhiên của con
người bất chấp mọi trở lực của tông pháp nhà nước và của tòa án dị giáo.
Tư tưởng tự do của Montesquieu đã trở thành nguồn cảm hứng cho hai
phong trào cách mạng tự do lớn nhất của thời đại. Những chỉ dẫn tuyệt vời
của Tinh thần pháp luật đã được liên tục trích dẫn trong suốt hai cuộc cách
mạng Pháp và Hoa Kỳ và tồn tại gần 300 năm qua, v.v..
Ở Việt Nam, trong suốt một thời gian dài, học thuyết về nhà nước và
pháp luật ở phương Tây, trong đó có tư tưởng chính trị của các nhà Khai
sáng ít được quan tâm nghiên cứu. Nhưng, bắt đầu từ những thập kỷ cuối
của thế kỷ XX, trước những biến động to lớn của tình hình quốc tế và nhu
cầu về một xã hội dân chủ, phát triển của đất nước, vấn đề nhà nước pháp
quyền đã được đặt ra đòi hỏi phải tìm hiểu nghiêm túc cả về lý luận và thực
tiễn.
Trịnh Xuân Ngạn là người tiên phong dịch tác phẩm De L'Esprit des

lois sang tiếng Việt với tên là Vạn pháp tinh lý. Dù chưa phải là bản dịch
hoàn chỉnh, nó đã đánh dấu bước chuyển tích cực về tư duy lý luận trong
lĩnh vực học thuật và trong nghiên cứu về nhà nước ở Việt Nam.
Năm 1996, Hoàng Thanh Đạm cho ra mắt bạn đọc bản dịch tác
phẩm De L'Esprit des lois với tựa đề Tinh thần pháp luật. Ngoài phần nội


4
dung tác phẩm, tác giả đã nêu khái quát tiểu sử, sự nghiệp và tác phẩm tiêu
biểu của Montesquieu. Cuốn sách đã được giới học giả và bạn đọc đánh giá
là một công trình khoa học về dịch thuật, đồng thời là tài liệu quan trọng để
nghiên cứu về tư tưởng chính trị của Montesquieu.
Năm 2006, tác giả Lê Tuấn Huy xuất bản cuốn sách Triết học
chính trị Montesquieu với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Cuốn sách này được phát triển và hoàn thiện từ luận án
tiến sỹ triết học cùng tên của tác giả. Dù mới chỉ phân tích tổng quát về mặt
triết học ở khía cạnh lý luận, cuốn sách đã gợi mở nhiều vấn đề thực tiễn
cấp bách cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện trong tiến trình xây
dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, v.v..
Chung quy lại có thể thấy, các bài viết đã đề cập đến những vấn đề
có tính chất nguyên tắc của nhà nước pháp quyền; khảo sát các tư tưởng và
thực tiễn quá trình xây dựng và phát triển nhà nước pháp quyền trên thế
giới, trong đó tư tưởng về quyền lực nhà nước và về nguyên tắc phân quyền
trong học thuyết chính trị của Montesquieu đã được các tác giả quan tâm;
lý giải về ý nghĩa, tầm quan trọng và mức độ ảnh hưởng của cách thức tổ
chức và vận hành nhà nước pháp quyền đối với đời sống con người và sự
phát triển bền vững của xã hội… Các tác giả đều khẳng định, việc tổ chức
bộ máy nhà nước theo phương thức nhà nước pháp quyền ở Việt Nam như
một lựa chọn có tính tất yếu đối với sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, trong khi thừa nhận việc chọn lựa nhà nước pháp quyền

như một giải pháp không thể thay thế của công cuộc cải cách nhà nước, đổi
mới chính trị, dân chủ hóa xã hội ở Việt Nam, tư tưởng về phân quyền và
kiểm soát quyền lực nhà nước còn ít được phân tích dưới góc độ khoa học.
Mặt khác, ngay cả khi thừa nhận vai trò của Montesquieu như là
người khởi xướng nền pháp quyền hiện đại, những tư tưởng chính trị của
Montesquieu lại không được phân tích có hệ thống, bỏ qua những yếu tố có
tính xuất phát điểm của toàn bộ học thuyết, nhân tố nền tảng góp phần làm
nên giá trị, tính vượt trội của tư tưởng pháp quyền của ông. Hầu hết, khi
nghiên cứu tư tưởng phân quyền của Montesquieu, các tác giả đều có xu
hướng nhấn mạnh đến tính chính trị và tính giai cấp, giải thích học thuyết
dưới góc độ chính trị, và thường gán cho nó cái mác là “hệ tư tưởng tư sản”
nên nhiều điểm giá trị trong học thuyết ít được đề cập thấu đáo.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án


5
Từ việc phân tích một cách hệ thống nguồn gốc, tiền đề và những
nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị Montesquieu, giá trị và ảnh hưởng
của học thuyết trong quá trình phát triển của lịch sử tư tưởng chính trị nói
chung, luận án rút ra ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Để đạt được mục đích nêu trên, luận án giải quyết những nhiệm vụ
cơ bản sau:
Thứ nhất, phân tích các điều kiện, tiền đề hình thành, phát triển tư
tưởng chính trị của Montesquieu.
Thứ hai, phân tích những nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị của
Montesquieu trong tác phẩm Tinh thần pháp luật. Trong quá trình phân
tích, luận án kết hợp so sánh những nét cơ bản của tư tưởng đã nêu với các
tư tưởng Khai sáng cùng thời để làm nổi bật nét sáng tạo trong tư tưởng
chính trị của Montesquieu; đồng thời chỉ ra những mặt tích cực và ảnh

hưởng của nó đối với nhận thức và thực tiễn chính trị nhân loại cũng như
những hạn chế của tư tưởng này.
Thứ ba, trên cơ sở phân tích tiền đề hình thành và nội dung tư tưởng
chính trị của Tinh thần pháp luật của Montesquieu, luận án rút ra ý nghĩa
và những bài học lịch sử của nó đối với công cuộc xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Tư tưởng chính trị của Montesquieu là một hệ thống các quan điểm,
quan niệm gồm lý thuyết về nhà nước, về quyền lực, pháp luật, và thuyết
địa lý, đạo đức chính trị, về phong tục, tập quán, tín ngưỡng, v.v.., phản ánh
một giai đoạn chuyển biến lịch sử và tư tưởng chính trị với phạm vi thể
hiện rất rộng. Trong khuôn khổ của luận án, vấn đề nghiên cứu chỉ được
giới hạn trong việc phân tích những vấn đề cốt lõi, nền tảng nhất của tư
tưởng chính trị Montesquieu được phản ánh tập trung trong tác phẩm Tinh
thần pháp luật .
Việc phân tích nội dung tư tưởng chính trị Montesquieu trong mối
liên hệ với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, luận án thực hiện ở các vấn đề chính yếu: quan điểm của ông về
quyền lực: quyền tự nhiên và bản chất chính trị trong mỗi con người; quyền
lực nhà nước, cách thức chế ngự quyền lực nhà nước; các nguyên tắc đảm
bảo tự do chính trị của công dân; mức độ và phạm vi ảnh hưởng của tư


6
tưởng này; tính tất yếu của việc xây dựng và thực thi các nguyên tắc pháp
quyền đối với sự nghiệp đổi mới chính trị ở Việt Nam; vấn đề nhận thức,
thực thi pháp quyền; những định hướng và giải pháp nhằm củng cố và hoàn
thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu luận án
* Cơ sở lý luận

Luận án được thực hiện trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật lịch sử, với các chuyên ngành khoa học xã hội và
pháp lý nhằm phân tích, đánh giá một cách khách quan, khoa học về tư
tưởng chính trị của Montesquieu; giá trị thời đại và những hạn chế lịch sử
của luận thuyết; tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
* Phương pháp nghiên cứu
Việc tiếp cận vấn đề nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở phương
pháp logic và lịch sử kết hợp với hệ thống và cấu trúc, phân tích và tổng
hợp, quy nạp và diễn dịch, khái quát hoá và hệ thống hoá, để thấy được tư
tưởng chính trị của Montesquieu có tính độc lập tương đối trong sự phát
triển, có logic nội tại và được hình thành, phát triển từ những điều kiện lịch
sử nhất định, có sự kế thừa, ảnh hưởng qua lại với các triết thuyết khác.
Việc thu thập và xử lí thông tin được thực hiện thông qua phương
pháp nghiên cứu tư liệu nhằm làm rõ một số khái niệm, phạm trù có liên
quan; phương pháp so sánh để thấy được nét tương đồng và dị biệt khi phân
tích diện mạo, đặc điểm và sự biến đổi của tư tưởng chính trị Montesquieu.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Thông qua việc phân tích tư tưởng chính trị của Montesquieu, luận
án nghiên cứu một cách nghiêm túc, khách quan lịch sử tư tưởng chính trị
phương Tây. Đồng thời, chỉ ra những đóng góp tích cực của tư tưởng này
đối với sự nghiệp cách mạng thế giới và công cuộc xây dựng nền pháp
quyền Việt Nam hiện đại.
Luận án được dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ quá trình nghiên
cứu, giảng dạy các môn lịch sử triết học, chính trị học, lý luận nhà nước và
pháp luật trong các trường Đại học, Cao đẳng.
7. Đóng góp mới của luận án


7

Trên cơ sở phân tích, đánh giá nội dung tư tưởng chính trị
Montesquieu, luận án luận chứng về khả năng vận dụng tư tưởng chính trị
của Montesquieu vào việc thiết lập nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Từ
đó, làm sâu sắc hơn ý nghĩa của các khuyến nghị về giải pháp hoàn thiện
nhà nước pháp quyền Việt Nam, và một cơ chế kiểm soát quyền lực nhà
nước hiệu quả.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Tài liệu tham khảo, Luận án gồm
ba chương, 9 tiết.
Chương 1
ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH,
PHÁT TRIỂN CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ MONTESQUIEU
1.1. ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH
TRỊ MONTESQUIEU

1.1.1. Điều kiện kinh tế
Ở Tây Âu, từ thế kỷ XVI, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa được định
hình và phát triển mạnh mẽ. Nguyên nhân chính dẫn đến những biến đổi
quan trọng này là nhờ sự phát triển của khoa học, kỹ thuật. Hàng loạt phát
minh khoa học đã trực tiếp được ứng dụng vào trong quá trình sản xuất,
nhiều ngành nghề mới ra đời như dệt sợi, luyện kim, khai thác, chế biến,
v.v.. Sự lớn mạnh của lực lượng sản xuất dẫn tới những biến đổi quan trọng
trong các quan hệ xã hội, nhất là trong quan hệ sản xuất. Cuộc cách mạng
tư sản bắt đầu diễn ra ở Italia sau đó đến Hà Lan vào thế kỷ XVI. Đặc biệt
là ở Anh, cách mạng tư sản nổ ra vào giữa thế kỷ XVII, lật đổ quan hệ sản
xuất phong kiến bảo thủ phản động, lập nên chế độ mới, chế độ tư bản chủ
nghĩa. Giai cấp tư sản đại diện cho phương thức sản xuất tư bản giữ vai trò
thống trị xã hội. Nhà nước quân chủ lập hiến Anh với cơ cấu bao gồm hai
bộ phận quyền lực hoạt động độc lập và phối hợp có hiệu quả, quyền làm
chủ của nhân dân được thừa nhận trên thực tế.

Nằm tại trung tâm của khu vực đang sục sôi khí thế cách mạng, song
vào đầu thế kỷ XVIII, nước Pháp vẫn còn là một quốc gia phong kiến lạc
hậu, bảo thủ và trì trệ.
1.1.2. Điều kiện chính trị


8
Bắt đầu từ cuối thế kỷ XVII, nước Pháp trở thành một quốc gia
chuyên chế tập quyền với chế độ phân biệt đẳng cấp hết sức hà khắc. Khi
lên làm vua, các vuông triều Louis đã tiến hành rất nhiều biện pháp thống
trị hà khắc. Bộ máy quan liêu được duy trì từ trung ương tới địa phương,
trở thành bộ máy khổng lồ để đàn áp nhân dân. Nhà vua tự cho mình quyền
lực tuyệt đối, đứng trên luật pháp, nắm toàn quyền trong tay. Luật pháp do
vua ban bố, bộ máy hành chính do vua đứng đầu, tư pháp do vua chi phối.
Vì vậy, vua có thể làm tất cả theo ý muốn cá nhân. Triều đình có quyền
phát hành vô tội vạ các trát bắt người và tống vào ngục mà chẳng cần xét
xử. Mâu thuẫn giữa các giai tầng trong xã hội, giữa nhân dân với nhà nước
trở nên vô cùng gay gắt…Trong bối cảnh hiện thực nước Pháp lúc ấy đã
xuất hiện những nhân vật tiên tiến lên tiếng phê bình, đả kích chế độ xã hội
hiện tồn, làm xuất hiện một trào lưu tư tưởng mới. Phong trào Khai sáng ra
đời nhằm phản kháng lại trật tự chuyên chế hiện hành, đòi hỏi một hình
thức cai trị hợp lý; đề cao trí tuệ, sự thông thái trong cách vận hành bộ máy
và kiểm soát quyền lực; khách quan hoá, pháp luật hoá nhà nước; tôn trọng,
đề cao con người cá nhân, quyền tự nhiên của con người; hướng đến tự do,
dân chủ của công dân.
1.2. TIỀN ĐỀ TƯ TƯỞNG – LÝ LUẬN HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ MONTESQUIEU
Bối cảnh hiện thực nước Pháp là điều kiện cơ bản và trực tiếp nhất
làm xuất hiện phong trào Khai sáng Pháp nói chung, trong đó có tư tưởng
chính trị Montesquieu. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, mỗi học

thuyết nhất định bao giờ cũng kế thừa những di sản của quá khứ nhằm đạt
được mục đích của mình. Theo đó, tư tưởng chính trị Montesquieu không
chỉ là sản phẩm của những điều kiện thực tiễn, mà còn là kết tinh những
tinh hoa trong lịch sử tư tưởng chính trị nhân loại.
1.2.1. Chủ nghĩa nhân văn thời kỳ Phục hưng
Khơi nguồn cho toàn bộ mạch chảy của các tư tưởng chính trị cận
đại đó là chủ nghĩa nhân văn đề cao con người và khát vọng giải phóng cá
nhân; nêu cao tinh thần tự do, công bằng, bình đẳng; hướng đến các quyền
tự nhiên thiêng liêng, các lợi ích, các giá trị trần tục của con người.
1.2.2. Phong trào cải cách tôn giáo, chống thần quyền
Phong trào cải cách tôn giáo (thế kỷ XVI) ở châu Âu cũng trực tiếp
góp phần thay đổi các quan hệ về chính trị, đó là bước khởi phát đi đến
thiết lập nhà nước thế tục phi tôn giáo.


9
1.2.3. Chủ nghĩa duy lý và khoa học thực nghiệm
Chủ nghĩa duy lý là một trong ba nguồn gốc hình thành của triết học
Khai sáng Pháp, cùng với chủ nghĩa nhân văn và phong trào cải cách tôn
giáo. Ra đời từ thế kỷ XVI, được khẳng định vào thế kỷ XVII và với sự
phát triển rực rỡ vào thế kỷ XVIII, chủ nghĩa duy lý đã đưa triết học cận đại
phương Tây lên đến đỉnh cao, tạo ra dấu ấn độc đáo và đặc sắc nhất trong
lịch sử tư tưởng – triết học Khai sáng hay triết học phê phán.
Cũng phải nói thêm rằng, nói về chủ nghĩa duy lý với tính cách là
tiền đề của triết học Khai sáng nói chung cần được hiểu đó là những tư
tưởng, những luận thuyết với nghĩa tôn vinh “con người lý trí” và “nhà
nước hợp lý tính” – một truyền thống của văn hóa châu Âu, mà không nên
tiếp cận theo lối “duy lý”, “duy nghiệm” với nghĩa là những phương pháp
nhận thức khoa học ở Tây Âu thế kỷ XVII - XVIII.
Ở góc độ nhận thức luận, khoa học thực nghiệm dựa trên nền tảng

phương pháp thực nghiệm (duy nghiệm), cảm tính trực tiếp với ý nghĩa và
tầm quan trọng của nó trở thành công cụ và phương pháp nhận thức đặc
trưng của triết học cận đại. Chủ nghĩa duy nghiệm khoa học (đề cao kinh
nghiệm cảm tính) khởi nguồn từ Bacon, sau đó được Hobbes kế thừa phát
triển và đạt đến đỉnh cao trong triết học duy cảm của Locke đã có ảnh
hưởng sâu sắc, tác động và chi phối toàn bộ hệ thống triết học chính trị thế
kỷ ở Anh và tư tưởng của các nhà Khai sáng Pháp thế hệ thứ nhất, trong đó
có Montesquieu.
1.3. MONTESQUIEU, NGƯỜI KHỞI XƯỚNG PHONG TRÀO KHAI SÁNG
PHÁP

Khai sáng, một trào lưu triết học thế kỷ XVIII ở phương Tây. Thời
kỳ này gắn liền với cuộc cách mạng khoa học. Cả hai phong trào này đều
nhấn mạnh vào lý tính, khoa học hay sự hợp lý được khơi nguồn từ cuộc
cách mạng tri thức, trong những cuộc khám phá về con người, cá nhân, xã
hội, và nhà nước. Phong trào Khai sáng thế kỷ XVIII đã để lại dấu ấn đậm
nét trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Trong số các tên tuổi lừng danh của
thời kỳ này, Montesquieu nổi lên là một trong những nhà tư tưởng có ảnh
hưởng sâu sắc đến cuộc cách mạng tư sản Pháp nói riêng và phong trào
cách mạng thế giới nói chung. Bên cạnh các sáng tác về văn học, nghệ
thuật, cuốn Tinh thần pháp luật của Montesquieu ra đời trở thành tác phẩm
có ý nghĩa khai sáng về quan điểm pháp chế, vạch ra định hướng xây dựng
xã hội công dân, nhà nước pháp quyền, mở đường cho xã hội Pháp đi tới


10
cuộc Đại cách mạng tư sản 1789. Nhiều quan điểm trong tác phẩm này đã
trở thành nguyên tắc pháp lý chi phối sâu sắc đến sự phát triển của nhà
nước và pháp luật hiện đại.
1.3.1. Khái quát về tác giả, tác phẩm

Montesquieu tên thật là Charles Louis de Secondat (1689 - 1755),
nhà triết học Khai sáng thuộc thế hệ thứ nhất, nhà tư tưởng chính trị, nhà xã
hội học và sử học người Pháp.
Ngay từ khi còn là một cậu bé học trường trung học, Montesquieu đã
thể hiện rõ lòng ham mê văn chương, sử học và khoa học tự nhiên, và đã để
lại một số tác phẩm thu hút được sự quan tâm của nhiều độc giả.
Với tố chất thông minh thiên phú, sự ham tìm tòi và tinh thần cầu
tiến, Montesquieu hiểu biết rất nhiều lĩnh vực, đồng thời lại trực tiếp tiếp
xúc với thực tiễn chính trị - xã hội của thời đại ở một giai đoạn của cuộc
đấu tranh quyết liệt chống phong kiến và giáo hội, ông đã trở thành một
triết gia Khai sáng lỗi lạc của thời đại. Vào năm 1721, Montesquieu cho ra
đời tác phẩm đầu tiên, tác phẩm được thừa nhận là đã gây chấn động dư
luận không riêng gì ở Pháp, mà còn tạo ra tiếng vang trên toàn châu Âu, đó
là tiểu thuyết bằng thư Những bức thư Ba Tư (Lettres persanes). Bằng lối
hành văn mỉa mai, châm biếm, Montesquieu đã khiến nhiều người dân
Pháp khi đó phải suy nghĩ nghiêm túc về nền chuyên chế, về giáo hội và
giới giáo sĩ, về thân phận của con người trong sự cai trị độc đoán của chế
độ độc tài, chuyên chế.
Năm 1734, Montesquieu cho ra đời tác phẩm Nhận định về các
nguyên nhân thịnh vượng và suy vong của La Mã (Considérations sur les
causes de la grandeur des Romains et de leur décadence). Trong tác phẩm
này, Montesquieu đã phê phán nền chính thể chuyên chế và tình trạng suy
đồi ở những nước theo chính thể này.
Từ năm 1741 – 1747, Montesquieu tập trung toàn lực vào nghiên
cứu và viết cuốn sách lớn Tinh thần pháp luật. Đến tháng 10 năm 1748 ông
cho xuất bản cuốn Tinh thần pháp luật tại Genève, in thành 2 tập khoảng
1000 trang, gồm 31 quyển được chia làm 6 phần. Tác phẩm xuất hiện đúng
vào thời điểm mà tư tưởng tiến bộ bị ngăn cản, cấm đoán bởi các thế lực
phong kiến hủ bại và thần quyền đương thời. Tinh thần pháp luật đã đề cập
và lý giải hàng loạt vấn đề luật học cũng như các khoa học xã hội khác; chỉ

ra những điểm hạn chế và tích cực của từng chính thể; bàn về các yếu tố


11
liên quan đến luật với tự do chính trị, cách soạn thảo và ứng dụng luật trong
các lĩnh vực xã hội.
Trong Tinh thần pháp luật Montesquieu đã tập trung phân tích, so
sánh, đưa ra những nhận định nghiêm túc về luật lệ thống trị, chi phối sự
vận động biến đổi của xã hội loài người. Ông không nhìn các vấn đề chính
trị từ vị trí của một luật gia, mà từ vị trí của triết gia, nói khác đi ông là một
nhà triết học chính trị đúng nghĩa: tất cả các vấn đề chính trị - pháp quyền
được ông phân tích trên cơ sở phương pháp luận triết học của thời đại, đặc
biệt là phương pháp luận thực nghiệm - quy nạp, giúp ông vượt qua định
kiến để vươn đến cách tiếp cận khoa học, không chỉ trình bày các sự kiện,
mà khám phá ra nguyên nhân và bản chất của các sự kiện đó, không chỉ
làm sáng tỏ các vấn đề pháp luật, mà còn vạch ra tinh thần pháp luật, tức là
cái tinh túy, cái nguyên lý xuyên suốt hệ thống ứng xử của con người trong
mọi dân tộc và mọi thời đại với hy vọng tìm được phương pháp xây dựng
một môi trường xã hội lành mạnh giúp cho sự tự do của con người được
thăng tiến.
1.3.2. Vị trí của Tinh thần pháp luật trong phong trào Khai sáng
Cũng như các tác phẩm của các nhà Khai sáng Pháp khác, Tinh thần
pháp luật ngay sau khi ra đời đã bị kiểm soát và cấm đoán lưu hành từ phía
chính quyền nhà nước và giáo hội. Tờ tạp chí Tin Giáo hội (Nouvelles
Ecclésiastiques) viết bài công kích Montesquieu trên hai số ngày 9-10 và
16-17 năm 1749. Trước thực tế ấy, vào năm 1750, Montesquieu đã cho
xuất bản tác phẩm luận chiến Défense de L'Esprit de lois để bảo vệ những
quan điểm của mình và phê phán phương pháp luận của những người đã chỉ
trích ông. Tinh thần pháp luật tuy chính thức bị cấm lưu hành (năm 1751)
nhưng do tính cách mạng của nó, tác phẩm đã nhanh chóng được đón nhận

nồng nhiệt ở nhiều quốc gia ngay từ lần xuất bản đầu tiên. Còn tại Pháp, nó
đã giữ một vị trí quan trọng trong phong trào đấu tranh của nhân dân chống
lại ách chuyên chế và là ngọn cờ lý luận của phong trào cách mạng Pháp
1789; bản thân Montesquieu cũng giữ một vị trí đặc biệt, là người khởi
xướng phong trào Khai sáng Pháp và là người đặt nền móng cho lý luận
nhà nước và pháp luật hiện đại.
Tự do, công bằng, bình đẳng, dân chủ,… trong học thuyết chính trị
của Montesquieu, trở thành tuyên ngôn của cả một trào lưu triết học Khai
sáng. Dù mức độ và cách thể hiện khác nhau song đều xem chủ nghĩa
chuyên chế là một chế độ chính trị phi lý cần phải xóa bỏ, và khẳng định


12
tính tất yếu của trật tự chính trị mới nhằm hướng đến và tôn vinh giá trị con
người.
Chương 2
NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA MONTESQUIEU
TRONG TÁC PHẨMTINH THẦN PHÁP LUẬT
2.1. QUYỀN TỰ NHIÊN CỦA CON NGƯỜI

2.1.1. Luật tự nhiên xác lập quyền tự nhiên
“Quyền tự nhiên” là một trong những nội dung cơ bản của vấn đề
con người và khái niệm “quyền con người” trong triết học chính trị phương
Tây hiện đại. Ra đời từ thế kỷ XVI – XVII trong các cuộc đấu tranh chống
lại trật tự chuyên chế và thần quyền trung cổ, “quyền tự nhiên” của con
người trở thành phạm trù trung tâm xuyên suốt của phong trào Khai sáng
Pháp thế kỷ XVIII, là nền tảng tư tưởng của học thuyết tự do chính trị của
Montesquieu.
Là nhà triết học pháp quyền tự nhiên, Montesquieu tin rằng trong
vô số các luật làm nên hệ thống chính trị của loài người thì có một điều luật

tồn tại khách quan, phổ biến, không phụ thuộc vào ý chí con người, đó là
luật tự nhiên. Ông khẳng định, không phải luật xã hội (chính trị) mà là tự
nhiên. Chính luật thiên nhiên thống trị vạn vật và tạo ra một tiêu chuẩn
công lý hướng dẫn các luật pháp của loài người. Con người – “loài thông
minh cá biệt có thể tự tạo lên quy luật cho nó, nhưng cũng phải tuân theo
quy luật không do nó tạo lên”. Luật thiên nhiên đưa vào đầu óc ta ý tưởng
về tự do và bình đẳng. Do đó, tự do, bình đẳng là quyền tự nhiên vốn có
xuất phát từ luật tự nhiên.
2.1.2. Tự do, bình đẳng là thuộc tính bản chất của con người
Trong Tinh thần pháp luật, Montesquieu cho rằng, con người sinh ra
đã có quyền tự do, nghĩa là tự do là một thuộc tính vốn có, cái làm lên sự
tồn tại của con người. Trong tất cả các quyền, theo ông, tự do cá nhân là
quyền thiêng liêng, cao quý nhất, và là cơ sở cho các quyền khác. Nhưng tự
do là gì? như ông nhận định, “Không có một từ nào lại có nhiều cách định
nghĩa theo những lối suy nghĩ khác nhau như từ tự do” 1. Và ông hiểu, tự do

1 C. Montesquieu (1996), Tinh thần pháp luật, Hoàng Thanh Đạm (dg), Nxb. Giáo dục và Trường Đại
học Khoa học XH & NV Hà Nội, tr. 93.


13
trong tình trạng tự nhiên là trạng thái mà con người vượt ra khỏi mọi vòng
cương tỏa kìm nén trong suy nghĩ cũng như trong hành động, “Tự do là
được làm những cái nên làm và không bị ép buộc làm điều không nên làm”.
Còn trong xã hội có luật pháp, tự do luôn gắn liền với bổn phận và trách
nhiệm, đó là “quyền được làm tất cả những điều mà luật cho phép” 2. Từ
điểm xuất phát này, ông đi đến quan điểm về tự do chính trị. Tự do chính
trị, theo Montesquieu, là quyền được đảm bảo về an ninh. An ninh trong
chính trị theo cách hiểu của Montesquieu, là sự đảm bảo cho mọi người
được quyền tự do trong tư tưởng và trong các hoạt động kinh tế, chính trị,

văn hóa của họ, đặc biệt là quyền được tự do sản xuất, tự do làm giàu chính
đáng và được quyền thụ hưởng thành quả của mình mà không bị sự bóc lột,
ức hiếp, phiền nhiễu, quấy rầy của các cá nhân và tổ chức nào khác.
Trong quan niệm của Montesquieu, tự do luôn gắn liền với bình
đẳng. Bình đẳng, là sự thừa nhận về nguyên tắc mỗi người xứng đáng được
hưởng những gì thuộc về họ. Nhưng cũng như tự do, theo Montesquieu,
bình đẳng là một khái niệm mang tính tương đối, bình đẳng trong mối liên
hệ với cái không bình đẳng, bình đẳng với những cái có thể bình đẳng và
không bình đẳng với những cái không thể bình đẳng. “Không thể trao cho
mọi người những công việc như nhau nhưng phải coi mọi người là ngang
nhau khi trao công việc”3.
Nhằm loại trừ khả năng lạm dụng bình đẳng, ngăn ngừa tư tưởng
bình đẳng cực đoan, Montesquieu đã chỉ ra sự khác nhau giữa bình đẳng
chân chính và bình đẳng cực đoan. “Bình đẳng chân chính” là mọi người
bình đẳng với tư cách công dân, khác với “bình đẳng cực đoan”, kiểu bình
đẳng như thể ai cũng là quan cai trị, ai cũng là thẩm phán, ai cũng làm chủ,
làm thầy. “Bình đẳng chân chính không phải là làm cho mọi người đều chỉ
huy hay không ai bị chỉ huy cả mà là chỉ huy những người bình đẳng với
mình và phục tùng con người bình đẳng với mình”4.
Coi trọng bình đẳng nhưng Montesquieu không chủ trương xóa nhòa
ranh giới giữa bình đẳng và bất bình đẳng; trong một chừng mực nhất định,
sự bất bình đẳng là cần thiết. Song “mọi sự bất bình đẳng trong chính thể
dân chủ đều phải tương đối phù hợp với bản chất của nền dân chủ” 5. Mặt
22 C. Montesquieu (1996), Tinh thần pháp luật, Sđd, tr. 99.

3 C. Montesquieu (1996), Tinh thần pháp luật, Sđd, tr. 87.
4 C. Montesquieu (1996), Tinh thần pháp luật, Sđd, tr. 66.
5

C. Montesquieu (1996), Tinh thần pháp luật, Sđd, tr. 68.

5


14
khác, ông cũng không chủ trương giảm thiểu sự bất bình đẳng bằng việc
kêu gọi lòng hảo tâm, sự bố thí của người giàu, mà bình đẳng chỉ có được
bằng sự nỗ lực phấn đấu của bản thân và bằng sức mạnh luật pháp - công
cụ điều tiết hữu hiệu của nhà nước.
Bình đẳng, tự do vừa là khát vọng mà con người hướng tới, đồng
thời là thước đo phẩm giá của con người. Tuy nhiên, không phải ở thiết chế
xã hội nào con người cũng được bình đẳng và tự do. Theo Montesquieu,
bình đẳng, tự do chỉ gắn liền với nền dân chủ.
2.2. DÂN CHỦ VÀ PHÂN QUYỀN

2.2.1. Nền dân chủ
Dân chủ theo tiếng Hi Lạp là Demomkratia, trong đó dèmos là nhân
dân và kratos là quyền lực – nghĩa là “quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân”. Thuật ngữ dân chủ được người Hi Lạp phát minh ra để chỉ một hình
thức chính trị - xã hội tiến bộ. Nhà nước Athène được thiết lập trên nguyên
tắc do nhân dân bầu lên, sự tham gia trực tiếp của công dân vào công việc
nhà nước được xem là một nguyên tắc cơ bản; mọi công dân đều có quyền
tham gia vào đời sống chính trị và được bình đẳng trước pháp luật. Tuy
nhiên, nền dân chủ Athène chỉ được coi là nền dân chủ của một thiểu số
trong toàn bộ dân cư. Phần lớn dân cư Athène không có tư cách công dân
(2/3 trong số 400 nghìn người bao gồm phụ nữ, dân nhập cư và nô lệ không
có quyền tham gia vào đời sống chính trị). Vấn đề dân chủ chỉ được các
nhà Khai sáng Pháp đặt ra và giải quyết một cách xác đáng vào thế kỷ
XVIII.
Theo Montesquieu, dân chủ là bình đẳng. Nền dân chủ mà
Montesquieu đề cập tới là cái mà ở đó “Mọi người đều bình đẳng với tư

cách công dân”, đó là kết quả của sự giao ước giữa nhà nước và các cá
nhân về các quyền, tự do tự nhiên được thể chế hóa, pháp luật hóa. Ông tin
tưởng rằng, xã hội được xây dựng trên nền tảng dân chủ trong đó mỗi cá
nhân là một công dân có ý thức, trách nhiệm và lương tâm về quyền lợi,
nghĩa vụ đối với bản thân, với cộng đồng sẽ đem lại cơ hội bình đẳng cho
mọi người trên phương diện về quyền. Vấn đề đặt ra, theo Montesquieu, là
một định chế dân chủ như thế nào để vừa đáp ứng được những đòi hỏi của
thực tiễn lại vừa tránh cho nền dân chủ bị đẩy đi quá xa đưa đến tình trạng
hỗn loạn? Vì kinh nghiệm thực tế cho thấy, không chỉ thiếu tinh thần bình
đẳng sẽ đem đến chính thể chuyên chế của một người cai trị mà ngay cả tư
tưởng bình đẳng cực đoan cũng hết sức nguy hiểm. Từ nhận định này, ông


15
đi đến thiết lập mô hình dân chủ đại diện, và xem thể chế lập hiến Anh là
mẫu mực điển hình cho tinh thần làm chủ của nhân dân. Ông tin rằng, một
nền dân chủ hạn chế được đảm bảo bởi tinh thần thượng tôn pháp luật là
phương thức hữu hiệu để giải quyết những xung đột, bất đồng về lợi ích,
điều hòa các mâu thuẫn xã hội, đem lại sự công bằng, bình đẳng, tự do cho
mọi người. Mặc dù vậy, bản thân nền dân chủ đại diện không phải không
có khiếm khuyết của nó, bởi vì theo ông, bản chất con người là vị kỷ. Do
tính vị kỷ này, người cầm quyền luôn có xu hướng lạm dụng quyền lực để
mưu lợi cá nhân, tổn hại đến quyền, tự do của người khác. Cho nên, để
ngăn chặn tình trạng độc tài, chuyên chế vốn được sinh ra bởi hợp đồng ủy
thác quyền lực, một điều luật kiên quyết đặt ra là phải phân chia và kiểm
soát quyền lực giữa các tổ chức và cơ quan nhà nước được ủy thác quyền
lực đó.
2.2.2. Phân quyền trong tổ chức quyền lực nhà nước
Phân quyền là một trong những lý thuyết chính trị – pháp lý có ý
nghĩa và tầm ảnh hưởng hết sức quan trọng cả trong tư tưởng và thực tiễn

chính trị. Sự hình thành và phát triển của lý thuyết này gắn liền với quá
trình đấu tranh cho bình đẳng, tự do và tiến bộ xã hội, hướng đến xác lập
các mối quan hệ cơ bản giữa pháp luật và quyền lực, cá nhân và cộng đồng,
công dân và nhà nước nhằm đảm bảo tính hiệu quả cao nhất của việc thực
thi quyền lực.
Tư tưởng phân quyền xuất hiện từ thời cổ đại ở phương Tây được
Montesquieu nâng lên thành lý thuyết phân quyền vào thế kỷ Khai sáng.
Theo Montesquieu, trong mỗi quốc gia có 3 thứ quyền: quyền lập pháp,
quyền thi hành những điều phù hợp với công ước quốc tế, và quyền thi
hành những điều trong luật dân sự. Để đảm bảo tự do chính trị, phải phân
tách các quyền của nhà nước và trao vào tay các cơ quan và cá nhân khác
nhau, bởi vì “khi nào quyền lập pháp và quyền hành pháp nhập lại trong tay
một người hay viện nguyên lão thì không còn gì là tự do nữa”...và “Cũng
không có gì là tự do khi quyền tư pháp không tách khỏi quyền lập pháp và
hành pháp...Quan tòa sẽ là người đặt ra luật. .. sẽ có sức mạnh của kẻ đàn
áp”6.
Trong thuyết phân quyền của Montesquieu, ông không dừng lại ở
việc phân chia quyền lực một cách đơn thuần mà còn chú trọng tới cách
thức điều phối giữa các cơ quan quyền lực, dùng quyền lực chế ngự quyền
66 C. Montesquieu (1996), Tinh thần pháp luật, Sđd, tr. 101.


16
lực. Theo đó, mỗi cơ quan quyền lực vừa là một bộ phận hoạt động độc lập,
vừa phối hợp, bổ sung, hỗ trợ và ràng buộc lẫn nhau, kiểm soát lẫn nhau để
hạn chế sự bành trướng quyền lực. Rút kinh nghiệm từ những bài học lịch
sử, Montesquieu cho rằng nguyên nhân sụp đổ của một chính thể trước hết
do sự lạm dụng quyền lực một cách thái quá. Sự tập trung vô hạn quyền lực
vào tay một người, sẽ biến mọi của cải quốc gia thành đặc quyền đặc lợi
của kẻ độc tài, hình thành các tập đoàn, các phe nhóm lợi ích, đẩy chính thể

đến chỗ tiêu vong.
2.3. ĐẠO ĐỨC CHÍNH TRỊ VÀ TINH THẦN KHOAN DUNG TRONG TƯ
TƯỞNG CỦA MONTESQUIEU

2.3.1. Đạo đức chính trị
Trong khi xem xét các yếu tố chi phối lên hệ thống chính trị - dân
quyền của quốc gia, Montesquieu đã coi xã hội – chỉnh thể các yếu tố là cơ
sở ban đầu mà nền tảng là luật pháp. Tuy nhiên, Montesquieu không coi
luật pháp là yếu tố duy nhất, không tuyệt đối hóa pháp luật. Với ông,
nguyên tắc pháp trị cũng chỉ là một nguyên tắc và không có gì bảo đảm
rằng nhà cầm quyền sẽ tự buộc mình phải thượng tôn pháp luật. Ông cũng
không quên nhắc nhở rằng, pháp luật do chính con người tạo ra, không phải
là cái bất biến, do đó, cần phải điều chỉnh cho phù hợp. Luật pháp chỉ tốt
khi nó phù hợp với nguyên tắc của từng chính thể, và với những điều kiện
hiện thực. Trong mỗi chính thể, luật pháp chỉ là hình thức bên ngoài, còn
nguyên tắc là tinh thần chủ đạo. Trong nền cộng hòa dân chủ nguyên tắc là
đạo đức, đạo đức chính trị.
Đạo đức chính trị là gì? Theo Montesquieu, đó là một thứ tình cảm
đặc biệt, là đức hạnh của con người đối với quốc gia và nền dân chủ, là việc
người dân chấp hành luật pháp bằng ý thức là làm cho mình, tự mình gánh
lấy gánh nặng về nghĩa vụ và quyền lợi, quyền lực và trách nhiệm.
Là nhà triết học thuộc trường phái thần luận tự nhiên, Montesquieu
đã cường điệu vai trò của khí hậu đối với con người và xã hội, coi tính chất
của khí hậu là yếu tố quyết định tính cách con người và ảnh hưởng cả đến
nội dung của pháp luật và đạo đức nhưng Montesquieu không hề tuyệt đối
hóa những yếu tố đó. Sự cường điệu vai trò của khí hậu, địa lí ở ông không
đồng nghĩa với sự hợp lý hóa tình trạng thực dân; trái lại, Montesquieu luôn
luôn nêu cao tinh thần tự do, bình đẳng, coi “hòa bình là luật tự nhiên đầu
tiên”. Montesquieu chống lại mọi thái độ man rợ và nô lệ hóa, coi chính
sách nô lệ chủng tộc là phi lý, trái với quy luật tự nhiên; mong muốn các



17
dân tộc cùng được chung sống hòa bình trong một thế giới còn nhiều khác
biệt. Tư tưởng này chứng tỏ tầm vóc vượt thời đại của ông không chỉ ở cái
“tài”, “trí”, “dũng”, mà hơn cả bằng một tâm hồn cao thượng và tinh thần
khoan dung tỏa sáng.
2.3.2. Tinh thần khoan dung
“Khoan dung” là một trong những đặc trưng tiêu biểu của triết học
Khai sáng Pháp, được cô đọng và thể hiện trong tất cả các khía cạnh của tư
tưởng Montesquieu. Theo ông, một xã hội muốn thực hiện tốt vai trò, chức
năng của nó cần được thống nhất không phải bằng bạo lực, đàn áp, thành
kiến mà bằng nhận thức và hành động đạo đức. Đạo đức (cụ thể là đạo đức
chính trị) đòi hỏi mỗi cá nhân trong mối quan hệ với cộng đồng phải thực
hiện những nguyên tắc về lòng khoan dung.
Trong tôn giáo, khoan dung là sự chấp nhận và không can thiệp đối
với tín ngưỡng, niềm tin của người khác. Montesquieu cực lực phản đối
việc dùng mệnh lệnh, luật pháp, bạo lực nhằm đàn áp tôn giáo. Quan điểm
của Montesquieu là tự do tôn giáo: mỗi người được tự do lựa chọn tín
ngưỡng, tôn giáo hoặc không theo một tín ngưỡng, tôn giáo nào; tất cả mọi
công dân dù có đạo hay không có đạo đều được đối xử bình đẳng với nhau
và bình đẳng trước pháp luật; trong khi được tự do bày tỏ, thể hiện, bảo vệ
niềm tin của mình, các tôn giáo cũng cần phải tôn trọng tín ngưỡng, niềm
tin của các tôn giáo khác.
Trong chính trị, khoan dung là sự thừa nhận, tôn trọng quyền sống,
quyền tự do của mỗi công dân, không áp đặt và can thiệp thô bạo dưới mọi
hình thức đối với các chính kiến, các khuynh hướng và con đường chính trị
của một cá nhân, nhóm người và rộng hơn là của một quốc gia; bởi vì, theo
ông, không có khuôn mẫu chính trị và quy tắc xã hội chung cho tất cả, mỗi
chính thể tồn tại đều có cái lý riêng của nó. Ông phản đối việc thực hiện

mục đích chính trị bằng con đường bạo lực, đàn áp, thậm chí cả đến việc lật
đổ chế độ chuyên chế được ông cho là chính đáng và cần thiết, mặc dù ông
có đề cập đến chiến tranh nhưng đó chỉ là tình thế bất khả kháng phải dùng
đến khi vì mục đích hòa bình.
Trong văn hóa, là sự tôn trọng và chấp nhận những khác biệt về các
phong tục, tập quán, truyền thống, thói quen sinh hoạt và cả đến tính đa
dạng, muôn vẻ trong diện mạo, tính cách, tinh thần, tình cảm, những khát
vọng riêng tư thầm kín trong sâu thẳm của tâm hồn con người, để phát huy
hết tiềm năng sáng tạo trong mỗi con người và đi đến giải phóng con người


18
cá nhân.
2.4. GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ MONTESQUIEU

2.4.1. Giá trị của tư tưởng chính trị Montesquieu
Là người khởi xướng phong trào giải phóng tư tưởng, Montesquieu
đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử một cách xuất sắc trong cuộc đấu tranh
chống lại chế độ chuyên chế, lộng quyền chính trị và nền chuyên chính tinh
thần giáo hội, đặt nền tảng lý luận cho toàn bộ trào lưu Khai sáng Pháp.
Sau Montesquieu, nhiều tư tưởng tiến bộ theo khuynh hướng dân chủ tư
sản ra đời như Voltaire, Rousseau, Diderot, Holbach (1723 – 1789), v.v..,
đều lên tiếng đả kích trật tự hiện hành, phê phán nền chính trị của nhà nước
quân chủ chuyên chế Pháp, đòi hạn chế quyền lực nhà nước và mở rộng các
quyền tự do công dân, tạo điều kiện cho phong trào cách mạng tư sản Pháp
diễn ra vào cuối thế kỷ XVIII.
Cách mạng tư sản Pháp 1789 được coi là cuộc cách mạng vĩ đại
nhất trong lịch sử cách mạng tư sản, mở ra một kỷ nguyên mới: nước Pháp
tư sản thay thế nước Pháp quý tộc, quyền lực nhà nước bị hạn chế, các
quyền công dân được xác nhận thông qua Hiến pháp 1791, chế độ đại diện

thông qua bầu cử, nguyên tắc phân quyền của Montesquieu cũng được ghi
nhận. Dù trong quá trình phát triển, cách mạng Pháp nhiều lần rơi vào thoái
trào, tinh thần của Đại cách mạng Pháp trước sự cổ vũ tích cực bởi tư tưởng
tiến bộ của các nhà Khai sáng, đã ảnh hưởng đến một phạm vi rộng lớn trên
khắp các châu lục.
Mặc dù còn những hạn chế nhất định về mặt thế giới quan cũng
như lập trường giai cấp, tư tưởng chính trị của Montesquieu đã trở thành
nguồn cổ vũ tinh thần của hàng triệu con người trên khắp các châu lục đứng
lên đâu tranh chống lại trật tự chuyên chế, cho các quyền bình đẳng, tự do,
dân chủ. Cùng với tư tưởng của các nhà Khai sáng khác, tư tưởng về quyền
tự nhiên, về dân chủ, phân quyền, về đạo đức chính trị và tinh thần khoan
dung của Montesquieu trở thành nội dung của hai bản hiến pháp nổi tiếng
nhất của nhân loại, là tinh thần chủ đạo của tuyên ngôn quốc tế về quyền
con người. Kể từ khi ra đời, tư tưởng chính trị của Montesquieu trong đó có
tư tưởng phân quyền được áp dụng rộng rãi trở thành nền tảng của nhà
nước pháp quyền.
2.4.2. Hạn chế của tư tưởng chính trị Montesquieu


19
Kể từ khi ra đời, tư tưởng chính trị của Montesquieu trong đó có tư
tưởng về nhà nước pháp quyền đã nhanh chóng được áp dụng rộng rãi, trở
thành hình thức sinh hoạt chính trị phổ biến trong thế giới hiện đại. Tuy
nhiên, đứng trên phương diện thế giới quan của chủ nghĩa duy vật lịch sử
để nhận định, đánh giá, ta thấy bên cạnh những mặt tích cực tiến bộ không
thể phủ nhận, tư tưởng chính trị của Montesquieu cũng bộc lộ những hạn
chế, thiếu sót nhất định.
Hạn chế của Montesquieu cũng như hầu hết các nhà tư tưởng trước
Marx, là quan niệm duy tâm về lịch sử., thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, đó là cách đặt vấn đề về nguồn gốc nhà nước và luật

pháp, các nhà triết học thường đi tìm nguyên nhân từ tự nhiên, động lực
tinh thần, từ ý muốn chủ quan, hay từ những cá nhân kiệt xuất…;
Thứ hai, chưa luận giải đúng ở góc độ khoa học về con người, và các
quyền của con người;
Thứ ba, chưa thấy được vị trí và vai trò lịch sử của con người.
Chương 3
Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ MONTESQUIEU VỚI
VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
3.1. ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ MONTESQUIEU ĐẾN
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

3.1.1. Yếu tố pháp quyền của Montesquieu trong lý luận nhà
nước kiểu mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Thất bại của các phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX và ngọn cờ dân chủ, tự do, bình đẳng, bác ái, trong các cuộc
cách mạng dân tộc, dân chủ ở châu Âu, đã thôi thúc người thanh niên trẻ
tuổi Nguyễn Tất Thành (1890 – 1969), ra đi tìm đường cứu nước. Trải qua
nhiều năm bôn ba trên khắp các châu lục từ Á, Âu, Phi đến châu Mỹ La
tinh, Người đã nhận ra một thực tế phũ phàng rằng các dân tộc trên khắp
thế giới, ở đâu đâu quần chúng lao động cũng bị áp bức và bóc lột, chính
quyền vẫn tập trung trong tay một số ít người. Trong Tuyên ngôn độc lập
khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
trích Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm
1789, qua đó Người muốn khẳng định với nhân dân yêu chuộng hòa bình


20
và công lý trên toàn thế giới rằng chính dân tộc Việt Nam, với Cách mạng

tháng Tám đã khôi phục lý tưởng về tự do, bình đẳng, dân chủ và nhân
quyền của các nhà Khai sáng và của Cách mạng Pháp, lý tưởng thiêng liêng
ấy từng bị thực dân Pháp xuyên tạc nhân danh “khai hóa” trong suốt 80
năm đô hộ nước ta, đồng thời để chứng minh cuộc chiến tranh xâm lược
dân tộc và áp bức đồng bào Việt Nam của Pháp là hoàn toàn vô nhân đạo
và phi nghĩa.
Hồ Chí Minh ý thức được rằng, việc bảo đảm quyền con người
trong mọi xã hội tùy thuộc một phần quan trọng vào hệ thống pháp luật và
hệ thống tư pháp. Vì vậy, trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi
Hội nghị Versailles năm 1919, Hồ Chí Minh đòi hỏi chính phủ Pháp và các
nước đồng minh phải tiến hành “cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng
cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt
pháp luật như người Âu châu...
Trong nhà nước dân chủ, theo Hồ Chí Minh, hiến pháp là sự thể hiện
tập trung nhất, đầy đủ nhất ý chí và sự lựa chọn chính trị cao nhất của nhân
dân. Hiến pháp có khả năng tạo ra sự an toàn pháp lý cao nhất cho công
dân và xã hội cũng như cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước...
Hiến pháp năm 1946, bản hiến pháp dân chủ đầu tiên được soạn thảo và
ban hành dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự vận
dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản về phân công quyền lực ở khía cạnh
kỹ thuật tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, trong đó bao hàm cả cơ chế
“kiềm chế quyền lực” được Montesquieu thể hiện sâu sắc trong lý thuyết
phân quyền.
Như vậy, ngay từ những ngày đầu giành được chính quyền, Hồ Chí
Minh đã xúc tiến xây dựng bộ máy nhà nước Việt Nam theo mô hình một
nhà nước hiện đại, trên cơ sở kế thừa được những giá trị truyền thống dân
tộc và tiếp biến những thành tựu tổ chức nhà nước của các nước tiên tiến.
Nhà nước đó do nhân dân lập ra, để phục vụ lợi ích của đa số nhân dân lao
động, cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động thích hợp với điều kiện lịch sử
cách mạng Việt Nam, mang tính khoa học, tính thời đại và tính nhân văn

sâu sắc.
3.1.2. Sự kế thừa có chọn lọc gíá trị của tư tưởng chính trị
Montesquieu trong quá trình hình thành lý luận về nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Trước thực tiễn của đất nước và những biến động của tình hình thế


21
giới vào những năm cuối của thế kỷ XX, trên tinh thần nhìn thẳng vào sự
thật, đánh giá đúng sự thật, Đại hội VI của Đảng đã chỉ ra nhiều yếu kém,
bất cập của bộ máy nhà nước và cho rằng: “… cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp là nguyên nhân trực tiếp làm cho bộ máy nặng nề, nhiều tầng,
nhiều nấc. Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức và chức năng, tiêu chuẩn cán
bộ chưa được xác định rõ ràng” 7. Xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
là cơ sở để đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước. Trong Đại hội
này, mặc dù khái niệm nhà nước chuyên chính vô sản vẫn được sử dụng
nhưng về chức năng của nó đã được nhấn mạnh đến việc xây dựng pháp
luật, quản lí xã hội bằng pháp luật; quyền hạn, nghĩa vụ của nhân dân phải
được pháp luật thể chế hóa.
Tiếp tục quan điểm của Đảng về Nhà nước, trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được thông qua
tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991), đã nhấn mạnh đến những
vấn đề có tính nền tảng đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
trong một chế độ dân chủ – pháp quyền: có đủ quyền lực và đủ khả năng
định ra luật pháp, quản lý xã hội bằng pháp luật; thống nhất quyền lực
(thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp) với sự phối hợp giữa
ba quyền đó. Tuy chưa đề cập trực tiếp đến phạm trù nhà nước pháp quyền
nhưng dấu ấn về sự phân quyền ở khía cạnh kỹ thuật của Montesquieu
trong tổ chức nhà nước ở tầm cương lĩnh chính trị cho thấy quyết tâm chính
trị của Đảng ta trong đổi mới tổ chức và hoạt động của nhà nước theo các

yêu cầu, đòi hỏi của nhà nước pháp quyền trong bối cảnh cụ thể ở nước ta.
Đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (1994), lần
đầu tiên Đảng ta chính thức sử dụng thuật ngữ “nhà nước pháp quyền” và
nêu khá cụ thể, toàn diện những quan điểm, nguyên tắc, nội dung xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam.
Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở
rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với nông
dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng ta lãnh đạo.
Tại Đại hội X (năm 2006), lần đầu tiên dù không thừa nhận có sự
đối trọng quyền lực trong các cơ quan quyền lực nhưng vấn đề kiểm soát
quyền lực nhà nước của Montesquieu đã được nêu ra thông qua việc khẳng
định: “Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp

7 Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX). Nxb. CTQG, H, 2006, tr.125.


22
pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền” 8 như
một giải pháp xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Như vậy, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dựa trên
nền tảng hiến pháp dân chủ và quyền lực thống nhất có sự phân công, phối
hợp giữa ba nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, đã được quán triệt trong suốt gần 30 năm của công cuộc đổi mới và
qua các kỳ Đại hội (từ Đại hội VI đến Đại hội XI) là sự thể hiện sinh động
quy luật kế thừa và phát triển tư tưởng pháp quyền nhân loại trong điều
kiện thực tế ở Việt Nam, đánh dấu bước chuyển quan trọng về mặt chính trị
cũng như sự trưởng thành trong nhận thức của Đảng và Nhà nước về nhà
nước pháp quyền.Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà
nước do nhân dân lao động làm chủ, dưới sự lãnh đạo cả Đảng cộng sản –

là nhà nước của dân, do dân, và vì dân.
3.2. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM, TIẾP CẬN TỪ TÍNH PHỔ BIẾN CỦA CÁC NGUYÊN TẮC PHÁP QUYỀN

Tư tưởng về nhà nước pháp quyền của Hồ Chí Minh đã được Đảng
ta tiếp tục kế thừa và hoàn thiện trong suốt các chặng đường xây dựng, phát
triển đất nước trong thời kỳ đổi mới. Và cho đến nay, chúng ta đã xây dựng
được khái niệm riêng về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mang nét
đặc thù của điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội ở Việt Nam.
Tuy nhiên, những kết quả đạt được là chưa tương xứng với tiềm
năng của đất nước, đặc biệt là trước yêu cầu của công cuộc công nghiệp
hóa – hiện đại hóa với một nền kinh tế thị trường năng động đáp ứng với
nhu cầu dân chủ hóa ngày càng cao và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế chính trị thế giới. Thực tế cho thấy công tác xây dựng và cải cách bộ máy
nhà nước, cải tiến pháp chế,… ở Việt Nam trong những năm qua dù đạt
được một số thành tựu đáng kể nhưng nhìn chung còn nhiều hạn chế, bất
cập và bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Tổ chức bộ máy nhà nước còn nặng nề,
sự phân công và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp còn có những điểm chưa rõ về chức
năng, nhiệm vụ, làm phát sinh trong thực tiễn đổi mới, đặc biệt là những

8 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 126.


23
vấn đề nổi nên ngày càng bức xúc như tình trạng quan liêu, lãng phí, tham
nhũng, thiếu trách nhiệm trong bộ máy nhà nước. Thực trạng vi phạm
quyền dân chủ và quyền – lợi ích hợp pháp của nhân dân vẫn chưa được
đẩy lùi; thậm chí, có những nơi, có những lúc còn trầm trọng hơn, gây bất
bình cho dư luận, làm giảm niềm tin của nhân dân vào thể chế. Bên cạnh
đó, những chủ trương, định hướng phát triển hệ thống pháp luật còn chưa

hệ thống và toàn diện. Vị trí, vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội
chưa thực sự được coi trọng đúng mức. Nguyên nhân của những bất cập đó
thì có nhiều, nhưng trước hết là do hoàn cảnh thực tế và hơn nữa, do trình
độ quản lý nhà nước còn có hạn. Những ảnh hưởng, tàn dư của tư tưởng cũ,
phong cách điều hành gia trưởng, chỉ đạo của thời chiến vẫn còn in dấu nét
trong đời sống xã hội, trong cách nghĩ, cách làm của một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Năng lực của đội ngũ cán bộ
ít nhiều còn hạn chế về trình độ chuyên môn, về kiến thức quản lý, kiến
thức pháp luật, phong cách điều hành, tác phong công tác, và nhất là đạo
đức nghề nghiệp. Nhiều cán bộ còn quen điều hành theo mệnh lệnh, bằng
uy quyền; ít quan tâm đến pháp luật. Trong khi không ít người dân còn có
thói quen phục tùng và trông chờ vào sự ban phát từ trên xuống mà chưa
sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm làm chủ. Thêm vào đó, việc xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện chuyển đổi nền kinh tế
vẫn còn là nhiệm vụ khó khăn, mới mẻ, hiểu biết của chúng ta còn hạn chế,
có nhiều việc phải vừa làm, vừa tìm tòi và rút kinh nghiệm.
Để thực hiện thành công nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa đúng như mong đợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là một nhà
nước lấy nhân dân làm gốc; nhân dân là đối tượng của mọi mục tiêu, mọi
chính sách; bao nhiêu lợi ích là vì dân, bao nhiêu việc làm đều hướng đến
nhân dân, bên cạnh việc quán triệt những nguyên lý của chủ nghĩa Marx –
Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải vận dụng linh hoạt những nguyên
tắc phổ biến của nhà nước pháp quyền để vừa học hỏi, kế thừa những kinh
nghiệm xây dựng nhà nước pháp quyền của các quốc gia tiên tiến trên thế
giới, vừa để học hỏi, nghiên cứu tư tưởng về nhà nước pháp quyền của
nhân loại, mà Montesquieu là một đại diện tiêu biểu, để hoàn thiện nhà
nước và làm phong phú hơn lý luận nhà nước và pháp luật ở nước ta.
Nghiên cứu tư tưởng chính trị Montesquieu trong mối liên hệ với
việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
cần đảm bảo những nguyên tắc pháp quyền nền tảng.



×