Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Vấn đề phát triển nguồn nhân lực cho đồng bào chăm ở nước ta hiện nay (qua thực tế tỉnh ninh thuận)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.8 MB, 113 trang )

1
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, để phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước,
nguồn lực con người là yếu tố quan trọng nhất và là yếu tố chủ đạo quyết định
các nguồn lực khác. Bởi vậy, việc phát triển con người, phát triển nguồn nhân
lực trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các
nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con người, đến sự phát triển toàn diện của con
người là chăm lo cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, là yếu tố
đảm bảo chắc chắn nhất cho sự phồn vinh, thịnh vượng của đất nước. Bằng
những cứ liệu lịch sử và khoa học cho thấy, con người luôn chiếm vị trí trung
tâm và là đối tượng nghiên cứu quan trọng của các ngành khoa học xã hội
như: triết học, đạo đức học, tâm lý học, sinh học, y học...
Với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, sự phát triển như vũ
bão của khoa học kỹ thuật, công nghệ và nền kinh tế tri thức và sự phát triển
nhanh của nền kinh tế thị trường... thì trình độ tư duy, nhận thức về xã hội của
con người ngày càng được nâng lên. Và con người được thừa nhận là “nguồn
lực của mọi nguồn lực” và là tài nguyên to lớn của mọi quốc gia, dân tộc.
Chính vì vậy, để phát triển nguồn nhân lực một cách hiệu quả nhất, khai thác
triệt để “tài nguyên to lớn của mọi quốc gia này” chúng ta cần phải có những
chương trình chiến lược cụ thể, chính sách đầu tư, đường lối hoạch định đúng
đắn để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao từ các nước khác nhằm đạt
được mục tiêu phát triển đất nước mình.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức rõ vị trí, vai trị và tầm quan
trọng của con người đối với sự nghiệp cách mạng và tiến trình phát triển của
lịch sử. Trải qua các kỳ đại hội khác nhau, nhưng vấn đề con người, phát huy
nhân tố con người vẫn là mối quan tâm hàng đầu của các cấp, các ngành. Đại
hội IX (2001) Đảng ta đã nêu rõ: “Đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn


2


nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Để đạt mục tiêu “đến năm 2020, nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Đến Đại hội XI (2011)
Đảng ta tiếp tục xác định một trong ba khâu đột phá để thực hiện chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 là “Phát triển nhanh nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới
căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn
nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ”[24, tr.32]
Trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, 54 dân tộc anh em, dân tộc
Chăm là dân tộc ít người (161.729 người), thuộc nhóm ngơn ngữ Mã Lai - Đa
Đảo, cư trú tập trung ở khu vực duyên hải miền Trung như Phú n, Khánh
Hịa, Ninh Thuận, Bình Thuận đến các tỉnh Nam Bộ như Bình Phước, Đồng
Nai, thành phố Hồ Chí Minh, An Giang và Tây Ninh. Trong lịch sử và hiện
tại, dân tộc Chăm đã tác tạo nên nền văn minh rực rỡ như chữ viết, nghề dệt,
gốm, là chủ nhân của văn hóa phi vật thể như đền tháp, đặc biệt là những lễ
hội với các hình thức diễn xướng phong phú, với những điệu dân ca, dân vũ
còn lưu tồn cho đến ngày nay.
Đồng thời, dân tộc Chăm cịn có đóng góp khơng nhỏ vào sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với nguồn nhân lực dồi dào, thông
minh, hiếu học. Trong số đó, dân tộc Chăm ở Ninh Thuận có dân số đông
nhất, khoảng 67.274 người, chiếm khoảng 41,6% trong tổng số người
Chăm ở Việt Nam và dân tộc Chăm ở Ninh Thuận cũng khơng nằm ngồi
cái chung với đồng bào Chăm trong cả nước đó là sự phong phú về phong
tục tập quán, lễ hội, văn hóa, sự khéo léo trong các nghề truyền thống, cần
cù, ham học hỏi. Ninh Thuận được tái lập tỉnh từ ngày 01/4/1992 từ tỉnh
Thuận Hải, là một vùng đất có nhiều tiềm năng về du lịch, thủy hải sản,
nông nghiệp tuy nhiên đến nay vẫn chưa được khai thác có hiệu quả các lợi
thế mà thiên nhiên mang lại. Vì vậy, khai thác những tiềm năng, thế mạnh



3
của Ninh Thuận để đưa đồng bào dân tộc trong tỉnh thoát khỏi nghèo nàn
lạc hậu, từng bước xây dựng đời sống văn minh, nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi
mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập kinh tế quốc tế là
nhiệm vụ vơ cùng khó khăn đặt ra trước Đảng và nhân dân mà trực tiếp là
Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh Ninh Thuận nói chung và dân
tộc Chăm nói riêng. Chính điều này đã đặt ra vấn đề về phát triển nguồn
nhân lực trên cả nước cũng như phát triển nguồn nhân lực cho đồng bào
Chăm như thế nào để đáp ứng những yêu cầu của khoa học kỹ thuật hiện
đại, đủ về số lượng, chất lượng và cơ cấu, đa dạng hóa các ngành nghề mà
những địi hỏi cấp bách do thực tiễn đặt ra. Nhưng trên thực tế thì nguồn
nhân lực đồng bào Chăm ở nước ta hiện nay cũng như nguồn nhân lực
đồng bào Chăm tỉnh Ninh Thuận vẫn còn yếu và thiếu về chất lượng, trình
độ học vấn, chun mơn, kỹ thuật nghiệp vụ cịn hạn chế, vẫn chưa tìm ra
được giải pháp cơ bản chủ yếu nhằm tháo gỡ khó khăn phát triển nguồn
nhân lực một cách hữu hiệu và đạt kết quả cao nhất, để xây dựng nước
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam trở thành một nước “… dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh…”.
Trước những nhận thức như trên và tình hình thực tế địa phương, tác
giả mạnh dạn chọn đề tài: “Vấn đề phát triển nguồn nhân lực cho đồng bào
Chăm ở nước ta hiện nay (qua thực tế tỉnh Ninh Thuận)” làm đề tài luận
văn thạc sĩ triết học với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc phát
triển nguồn nhân lực đồng bào các dân tộc cùng sinh sống trong tỉnh nói
chung và đồng bào Chăm nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đến nay đã có khơng ít tài liệu trong nhiều và ngoài nước quan tâm
nghiên cứu về vấn đề này, ở nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Các cơng
trình nghiên cứu xung quanh vấn đề phát triển nguồn nhân lực. Cụ thể:



4
- Các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu, các ấn phẩm dưới dạng sách đã
phát hành của tác giả nước ngoài và tác giả trong nước về nguồn nhân lực như:
“Quản lý nguồn nhân lực” của Hersey; Ken Blanc Hard (tài liệu dịch),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; “Tơn trọng trí thức, tơn trọng nhân
tài, kế lớn trăm năm chấn hưng cho đất nước” do Thẩm Vinh Hoa, Ngơ Quốc
Diệu (chủ biên) (tài liệu dịch), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; TS Trần
Văn Tùng - Lê Ái Lâm, “Phát triển nguồn nhân lực - kinh nghiệm và thực
tiễn ở nước ta”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996; Cơng trình KHCN
cấp nhà nước KX - 07, “Con người Việt Nam - Mục tiêu và động lực của sự
phát triển kinh tế - xã hội”,GS. TS Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm với sự
tham gia của gần 300 nhà khoa học có uy tín thuộc nhiều chuyên ngành khác
nhau đã tiến hành nghiên cứu con người Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới
nhằm phát huy cao nhất vai trò của yếu tố con người cho sự phát triển KTXH,
1995; GS.TSKH Phạm Minh Hạc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996,
“Vấn đề con người trong sự nghiệp CNH, HĐH”; GS.TSKH Nguyễn Minh
Đường “Bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực trong điều kiện mới”,
Nxb CTQG, Hà Nội; GS.TS Lê Hữu Tầng, “Về động lực của sự phát triển xã
hội”, Nxb CTQG, Hà Nội; Thành Duy "Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp
xây dựng con người Việt Nam phát triển tồn diện", Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2001, tác giả đã phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và
việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, vận dụng tư tưởng đó
vào Việt Nam; Đồn Văn Khái, “Nguồn lực con người trong q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005;
Nguyễn Đăng Thành, “Phát triển nguồn nhân lực ở vùng dân tộc thiểu số
Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012.
- Các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ có liên quan đến vấn đề nguồn
nhân lực như:



5
Luận án Tiến sĩ Triết học “Phát triển nguồn nhân lực và vai trò của
giáo dục - đào tạo đối với phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa” của Nguyễn Thanh (2001), tác giả khẳng định vai
trò của nguồn nhân lực với sự nghiệp CNH, HĐH, vai trò của giáo dục - đào
tạo đối với phát triển nguồn nhân lực hiện nay ở Việt Nam.
Luận văn Thạc sĩ Triết học Đỗ Tài (2007) “Phát huy nguồn lực con
người trong giáo dục phổ thông tỉnh Bắc Kạn hiện nay” tác giả làm rõ vấn đề
phát huy nguồn lực con người trong giáo dục phổ thơng, bao gồm có rất nhiều đối
tượng khác nhau. Đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy nguồn nhân lực này.
Luận văn Thạc sĩ Triết học Tạ Văn Tú (2008), Phát huy nguồn nhân lực trí
thức trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Quảng Ninh hiện nay. Luận
văn đề cập và làm rõ thực trạng nguồn nhân lực trí thức và việc phát huy nguồn
nhân lực trí thức ở Quảng Ninh trong sự nghiệp CNH, HĐH hiện nay.
Luận văn Thạc sĩ Triết học "Vấn đề phát triển con người toàn diện
ở Việt Nam hiện nay" của Phùng Danh Cường (2009) tác giả khẳng định
bản chất cách mạng và khoa học trong học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển
con người, đề xuất một số giải pháp có khả năng thực hiện nhằm phát
triển con người Việt Nam hiện đại đáp ứng những đòi hỏi của công cuộc
đổi mới đất nước.
Luận án Tiến sĩ Triết học “ Vấn đề phát triển nguồn nhân lực nữ chất
lượng cao ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Thị Giáng Hương (2013), luận
án đề cập đến vai trò quan trọng của nguồn nhân lực nữ chất lượng cao trong
giai đoạn hiện nay và đưa ra một số khuyến nghị, giải pháp nhằm nâng cao
nguồn nhân lực nữ chất lượng cao hơn nữa để phục vụ đất nước.
- Về các loại báo, tạp chí:
Nguyễn Như Diệm (1989), “Tổng thuật: Nhân tố con người và tính tích

cực hịa nhân tố con người. Khái niệm và vấn đề”, Thông tin khoa học - xã


6
hội, tháng 1; Hồng Chí Bảo (1993), “Ảnh hưởng của văn hóa đối với việc
phát huy nguồn lực con người”, Tạp chí Triết học, (1), tr.20 - 24; Nguyễn
Trọng Chuẩn (1994), “Nguồn nhân lực trong cơng ngiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”, Tạp chí Triết học, (2), tr.29-35; Phạm Ngọc Anh (1995), “Nguồn lực
con người, nhân tố quyết định của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”,
Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (2); Viện thông tin khoa học xã hội (1995), Con
người và nguồn lực con người trong phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội; Đồn Văn Khái (1995); “ Nguồn lực con người - Yếu tố quyết định sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước”, Tạp chí Triết học, (4); Hồng Chí Bảo (1998),
“Lý luận và phương pháp luận nghiên cứu về con người”, Tạp chí Triết học,
(4), tr.19 - 26; Lê Khả Phiêu (1998), “Xây dựng nền tảng tinh thần, tiềm lực
văn hóa, tiếp tục thực hiện chiến lược xây dựng và phát triển nguồn lực con
người Việt Nam”, Tạp chí Phát triển giáo dục, (4); Đặng Xuân Kỳ (2002),
"Quan điểm Hồ Chí Minh về con người và bản chất con người" - Tạp chí
Triết học số 10; Nguyễn Đình Hịa (2004), “Mối quan hệ giữa phát triển
nguồn nhân lực và đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”, tạp chí Triết
học, (1); Nguyễn Thế Kiệt (2008) "Xây dựng và phát triển con người, nâng
cao chất lượng nguồn lực con người trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam
hiện nay" - Tạp chí Triết học số 6; Bùi Thị Ngọc Lan (2011), “Nguồn nhân
lực chất lượng cao Việt Nam - xu hướng và giải pháp phát triển”, Tạp chí
Lý luận chính trị, số 11; Nguyễn Văn Thanh, Lê Trọng Tuyến (2011),
“Quan điểm của Đảng về con người và phát huy nhân tố con người trong
Nghị quyết đại hội XI”, Tạp chí Triết học, số 7; Lê Thị Hương (2012), “Sự
phát triển con người trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) của
Đảng Cộng sản Việt Nam”, Tạp chí Triết học, số 11; Đặng Hữu Tồn
(2012), “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao - một “đột phá chiến

lược” trong chuyển đổi mơ hình tăng trưởng ở Việt Nam giai đoạn 2011 2020, Tạp chí Triết học, số 8.


7
- Các cơng trình nghiên cứu liên quan tới đồng bào Chăm:
Phan Xuân Biên (chủ biên) (1989), “Người Chăm ở Thuận Hải” là tập
hợp các bài viết khá đầy đủ về xã hội dân tộc Chăm ở tỉnh Thuận Hải cũ, về
lịch sử phát triển, đời sống kinh tế, văn hóa tinh thần, hơn nhân gia đình với
các ngành nghề truyền thống của dân tộc Chăm từ xưa đến nay và các hình thức
sở hữu tài sản trong cộng đồng người Chăm, những đóng góp của đồng bào
Chăm trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ xây dựng Tổ quốc.
Phan Xuân Biên, Phan Văn Dốp, Phan An (1991), “Văn hóa Chăm”
nghiên cứu tổng hợp về lịch sử văn hóa tiền Chămpa với các dạng thức văn
hóa vật chất, tinh thần, các nguyên tắc hôn nhân của dân tộc Chăm; giới thiệu
về văn hóa truyền thống của dân tộc Chăm với các nghi lễ, các lễ hội và tơn
giáo, tín ngưỡng và ảnh hưởng của nó tới đời sống xã hội dân tộc Chăm.
Inrasara (1999), “Các vấn đề văn hóa, xã hội Chăm” là tổng hợp
những bài viết của tác giả nghiên cứu những đặc điểm cơ bản của xã hội mẫu
hệ Chăm và văn hóa Chămpa, về gia đình mẫu hệ Chăm và thân phận người
chồng trong gia đình, về phân cơng lao động, phong tục tập quán, đặc biệt là
nghiên cứu về ngôn ngữ, chữ viết của dân tộc Chăm hiện nay.
Bá Trung Phụ (2001), “Gia đình và hơn nhân của người Chăm ở Việt
Nam”, tác giả đã tập trung nghiên cứu phong tục tập quán, tổ chức, lễ nghi,
lĩnh vực hôn nhân, nghiên cứu những quan niệm truyền thống và ảnh hưởng
của tôn giáo đối với hơn nhân…để từ đó có cái nhìn khách quan trong việc
phân công lao động xã hội trong gia đình đồng bào Chăm.
Đổng Văn Dinh (2002), “Cần quan tâm giải quyết việc làm cho sinh
viên người dân tộc thiểu số tốt nghiệp ra trường”, Tạp chí dân tộc và miền
núi, Ủy ban Dân tộc và miền núi Trung ương.
Đổng Văn Dinh (2003), “Công tác Dân vận trong vùng đồng bào

Chăm tỉnh Ninh Thuận”, Tạp chí Dân vận, Ban Dân vận Trung ương Đảng.
Đổng Văn Dinh (2013), Quan tâm của Đảng và Nhà nước ta trong quá
trình tạo nguồn nhân lực ở vùng đồng bào Chăm Ninh Thuận hiện nay, Tạp


8
Nghiên cứu Văn hóa Chăm số 1, Trung tâm Unesco Nghiên cứu và bảo tồn
văn hóa Chăm (Liên hiệp các Hội Unesco Việt Nam), Nhà xuất bản Tri Thức,
Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngồi ra, cịn có các cơng trình nghiên cứu là các luận án tiến sĩ, luận
văn thạc sĩ như: luận văn thạc sĩ Chính trị học của Mã Cư Điền (2006) “Năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các đảng bộ xã có đơng đồng bào Chăm ở
các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận trong giai đoạn hiện nay”; luận văn thạc sĩ
Triết học của Đổng Văn Dinh (2006) “Ảnh hưởng của tín ngưỡng, tơn giáo
đối với đời sống tinh thần người Chăm Ninh Thuận hiện nay. Thực trạng giải pháp”; Luận văn Thạc sĩ Luật học của Đinh Thị Hoa (2006) “Giáo dục
pháp luật cho đồng bào dân tộc Chăm ở tỉnh Ninh Thuận, thực trạng và giải
pháp”; Luận văn thạc sĩ Văn hóa của Đàng Thị Mỹ Hương (2007) “Vai trò
của người phụ nữ trong gia đình người dân tộc Chăm hiện nay”; Luận văn
Thạc sĩ Chính trị học của Phạm Hồng Thái (2007) “Nâng cao năng lực lãnh
đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt hệ thống chính trị cơ sở vùng đồng bào
Chăm Ninh Thuận”; Luận án tiến sĩ của Trương Tiến Hưng (2009) “Vận
dụng luật tục dân tộc Chăm trong quản lý cộng đồng người Chăm của chính
quyền cơ sở ở tỉnh Ninh Thuận”; Luận văn thạc sĩ Triết học chuyên ngành
CNXHKH của Lê Thái Trường Thi (2011) “Thực hiện chính sách dân tộc của
Đảng Cộng sản Việt Nam ở tỉnh Ninh Thuận trong giai đoạn hiện nay”; Luận
văn Thạc sĩ Triết học của Nguyễn Thị Hồng (2012) “Nâng cao trình độ LLCT
cho đội ngũ cán bộ cấp xã người Chăm tỉnh Ninh Thuận hiện nay”…
Phần lớn các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã phân tích đến vấn đề
phát huy, phát triển nhân tố con người, nguồn nhân lực dưới nhiều góc độ
khác nhau. Hay những luận án, luận văn thạc sĩ có liên quan đến đồng bào

Chăm như tìm hiểu về văn hóa, phong tục tập quán, lễ hội, ảnh hưởng của tín
ngưỡng, luật tục, giáo dục pháp luật, nâng cao trình độ LLCT... của đồng bào
Chăm. Nhưng cho đến nay vẫn chưa có tác giả nào nghiên cứu một cách có hệ


9
thống dưới góc độ triết học về vấn đề phát triển nguồn nhân lực của đồng bào
các dân tộc thiểu số trong tỉnh mà nhất là đồng bào Chăm. Vì vậy, việc chọn
nghiên cứu về vấn đề phát triển nguồn nhân lực cho đồng bào Chăm ở nước ta
hiện nay (qua thực tế tỉnh Ninh Thuận) vẫn rất cần thiết, có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn sâu sắc đối với tỉnh Ninh Thuận trong việc phát triển nguồn nhân lực
cho đồng bào Chăm trước sự nghiệp CNH, HĐH và phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh nhà trong những năm tiếp theo.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích cơ sở lý luận, thực trạng phát triển nguồn nhân lực
cho đồng bào Chăm ở tỉnh Ninh Thuận, luận văn đề xuất những giải pháp chủ
yếu nhằm phát triển hơn nữa nguồn nhân lực này.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích nói trên, luận văn tập trung làm sáng tỏ một số
nội dung chủ yếu sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về phát triển nguồn nhân lực cho đồng
bào Chăm ở nước ta hiện nay.
- Phân tích thực trạng phát triển nguồn nhân lực cho đồng bào Chăm ở
tỉnh Ninh Thuận hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển nguồn nhân lực cho
đồng bào Chăm ở tỉnh Ninh Thuận hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn chỉ nghiên cứu những cơ sở lý luận và thực tiễn của quan

niệm khoa học về nguồn nhân lực và đưa ra những giải pháp cơ bản để phát
triển nguồn nhân lực cho đồng bào Chăm ở nước ta hiện nay (qua thực tế
tỉnh Ninh Thuận) trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở Ninh Thuận
nói riêng và góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện
nay nói chung.


10
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Điều tra khảo sát tình hình thực tế nguồn nhân lực đồng bào Chăm ở
tỉnh Ninh Thuận, nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực đồng bào Chăm
thơng qua các số liệu hiện có trong báo cáo tổng kết và số liệu thống kê của
các xã, phường giai đoạn từ năm 2005 đến nay.
Về không gian, phân bố dân cư của đồng bào Chăm rải trên các huyện,
thị trong tỉnh Ninh Thuận. Song, đồng bào Chăm sống chủ yếu tập trung ở
huyện Ninh Phước và huyện Thuận Nam là đơng nhất. Với điều kiện và quy
mơ có hạn, luận văn tập trung nghiên cứu nguồn nhân lực đồng bào Chăm ở
hai huyện này để vận dụng trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Là cơng trình nghiên cứu triết học, luận văn dựa trên nền tảng thế giới
quan, phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, về phát triển nguồn nhân lực.
Luận văn vận dụng quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về
vấn đề con người, về phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ đổi mới.
Luận văn có sự kế thừa, chọn lọc những thành tựu của các cơng trình
nghiên cứu về con người và nguồn nhân lực con người trong và ngoài nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp cùng các phương pháp khác như:
phương pháp điều tra xã hội học (khảo sát thực tế) để xử lý các số liệu, trao

đổi, phỏng vấn, phân tích - tổng hợp, quy nạp - diễn dịch, lịch sử logic.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn góp phần hệ thống hóa những luận điểm nghiên cứu có ý
nghĩa lý luận và phương pháp luận về nguồn nhân lực và vấn đề phát triển
nguồn nhân lực.


11
Luận văn góp phần làm rõ thực trạng và đánh giá một cách khách quan
phát triển nguồn nhân lực đồng bào Chăm ở nước ta hiện nay nói chung và đồng
bào Chăm ở Ninh Thuận nói riêng. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp chủ
yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực cho đồng bào Chăm ở nước ta (qua thực tế
tỉnh Ninh Thuận) nhằm đáp ứng yêu cầu trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Góp phần nâng cao nhận thức về việc thực hiện phát triển nguồn nhân
lực và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đồng bào Chăm cho đất nước
trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH ở tỉnh Ninh Thuận. Đây là việc làm của
các cấp, các ngành, của mọi người, của tỉnh và cả Trung ương.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm sáng tỏ hơn những quan điểm lý luận về nguồn
nhân lực và phát triển nguồn nhân lực của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và của Đảng ta trong quá trình hội nhập quốc tế.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn góp phần làm rõ thực trạng phát triển nguồn nhân lực cho đồng
bào Chăm ở nước ta hiện nay (qua thực tế tỉnh Ninh Thuận), đồng thời đề xuất
những giải pháp có tính gợi mở nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng, có
chính sách đãi ngộ phù hợp nguồn nhân lực đồng bào Chăm. Đề tài có thể sử
dụng làm tài liệu tham khảo trong q trình giảng dạy, báo cáo viên ở trường
Chính trị tỉnh và các trung tâm bồi dưỡng chính trị. Có thể cung cấp những
luận cứ khoa học giúp cho cấp ủy, Đảng, chính quyền tỉnh Ninh Thuận tham

khảo trong việc lãnh chỉ đạo thực tiễn chính sách dân tộc của tỉnh, trong việc
xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng sử dụng nguồn nhân lực này đạt hiệu quả cao.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 02 chương, 05 tiết.


12
Chương 1
THỰC CHẤT, TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC CHO ĐỒNG BÀO CHĂM Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY
1.1. NGUỒN NHÂN LỰC VÀ THỰC CHẤT CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

1.1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực và những đặc trưng cơ bản
của nguồn nhân lực
1.1.1.1. Khái niệm về nguồn nhân lực
Hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về “nguồn nhân lực” nhưng
chủ yếu được các nhà khoa học nghiên cứu tiếp cận trên các góc độ sau:
Lý luận về lực lượng sản xuất, con người được coi là LLSX hàng đầu,
là yếu tố quan trọng nhất, quyết định sự vận động và phát triển của LLSX,
quyết định quá trình sản xuất và do đó, quyết định năng suất lao động và tiến
bộ xã hội. Trong lý luận về LLSX, con người được xem xét từ góc độ là lực
lượng lao động cơ bản của xã hội.
Lý thuyết về tăng trưởng kinh tế, con người được nhìn nhận như một
phương tiện chủ yếu, bảo đảm tốc độ tăng trưởng sản xuất và dịch vụ.
Lý luận về vốn, con người được đề cập dưới góc độ như một loại vốn
(vốn người, “tư bản người”), một thành tố cơ bản, tất yếu của quá trình sản
xuất và kinh doanh. Dưới cách tiếp cận lý luận về vốn, Ngân hàng thế giới

(WB) cho rằng, nguồn lực con người được hiểu là toàn bộ vốn người (bao
gồm thể lực, trí tuệ, kỹ năng nghề nghiệp) mà mỗi cá nhân sở hữu.
Theo đó Tổ chức Liên Hiệp quốc cũng có cách tiếp cận và nhìn nhận
tương tự khi cho rằng nguồn lực con người là tất cả những kiến thức, kỹ năng
và năng lực của con người có quan hệ tới sự phát triển của đất nước. Quan
niệm này xem xét nguồn lực con người và vai trị, sức mạnh của nó đối với sự


13
phát triển của xã hội. Như vậy, ở đây nguồn lực con người được coi như một
nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác như: vốn tiền, công nghệ, tài
nguyên thiên nhiên…
Theo Tổ chức Lao động quốc tế thì nguồn nhân lực của một quốc gia là
tồn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động.
Nguồn nhân lực được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là
nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người
cho sự phát triển. Do đó, nguồn nhân lực bao gồm tồn bộ dân cư có thể phát
triển bình thường. Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã
hội, là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm các nhóm dân cư
trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức
là toàn bộ các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu
tố về thể lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động.
Tiếp cận dưới góc độ của Kinh tế Chính trị có thể hiểu rằng: nguồn nhân
lực là tổng hồ thể lực và trí lực tồn tại trong tồn bộ lực lượng lao động xã hội
của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng
tạo của một dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất
và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.
Ở nước ta, một số nhà khoa học tham gia chương trình khoa học cơng nghệ cấp nhà nước: Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự
phát triển kinh tế - xã hội mang mã số KX - 07 do Giáo sư, Tiến sĩ khoa học
Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm, cho rằng nguồn lực con người được hiểu là

số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và
trí tuệ, năng lực và phẩm chất [26, tr.328].
Trong dịp gặp gỡ các nhà doanh nghiệp, các nhà khoa học - công nghệ
các tỉnh, thành phố phía Bắc, khi đề cập đến vấn đề tăng cường sự hợp tác
giữa các doanh nghiệp với các nhà khoa học - cơng nghệ và các cơ quan chính
phủ để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, trong lời phát


14
biểu của mình, Thủ tướng Phan Văn Khải cũng khẳng định: “Nguồn lực con
người bao gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống của
dân tộc ta”. Điều khẳng định trên có ý nghĩa rất quan trọng, định hướng trong
việc nhận thức và phát triển tiềm năng nguồn nhân lực [33, tr.3].
Bộ Lao động và Thương binh xã hội nước ta cũng xác định: “Nguồn nhân
lực là tiềm năng về lao động trong một thời kỳ xác định trên một địa phương,
một ngành hay một vùng. Đây là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế
- xã hội” [6, tr.3].
Theo P.GS Trần Xuân Cầu “Nhân lực là sức lực con người nằm trong
mỗi con người và làm cho con người hoạt động. Sức lực đó ngày càng được
phát triển cùng với sự phát triển của cơ thể con người và đến một mức độ nào
đó, con người đủ điều kiện tham gia vào q trình lao động - con người có
sức lao động” [8, tr.12].
Hay như GS.TS Hồng Chí Bảo định nghĩa: “Nguồn lực con người là
sự kết hợp thể lực và trí lực, cho thấy khả năng sáng tạo, chất lượng, hiệu quả
hoạt động và triển vọng mới phát triển của con người” [1, tr.14-15].
Từ những vấn đề nêu trên có thể thấy rằng, nguồn lực con người được
đề cập đến như một “nguồn vốn” tổng hợp với hệ thống các yếu tố hợp thành
đó là sức lực và trí tuệ, khối lượng cùng các đặc trưng về chất lượng lao động
như trình độ văn hóa, kỹ thuật, kinh nghiệm nghề nghiệp, thái độ và phong
cách làm việc… ở đây, nhân tố con người được xem xét với một tư cách là

một yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, một nguồn lực chủ yếu để phát triển
kinh tế - xã hội.
Quan niệm về “nguồn nhân lực” trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã góp
phần to lớn vào việc đào tạo những người con ưu tú, làm thay đổi căn bản vị
thế của nước ta trên trường quốc tế. Theo Người, con người toàn diện phải
được tự do, được hạnh phúc, con người phải được giải phóng, được giáo dục đào tạo và được sống trong xã hội hịa bình ổn định. Để phát triển con người


15
toàn diện, ắt phải tiến tới chủ nghĩa xã hội. Theo Người: “Nói một cách tóm
tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động
thốt khỏi bần cùng, làm cho mọi người có cơng ăn việc làm, được ấm no và
được sống một đời hạnh phúc” [45, tr.415] và: Con người vừa là mục tiêu,
đồng thời vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng
chính bản thân con người.
Do đó, nguồn lực con người được coi là một thứ tài nguyên vô cùng
quý giá, là một nguồn lực quan trọng nhất, là “nguồn lực của mọi nguồn lực”.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII có viết:
Nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trị quyết định đặc biệt
đối với nước ta khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất cịn
hạn hẹp. Nguồn lực đó là người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề
thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp được đào tạo, bồi dưỡng và phát
huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học
công nghệ hiện đại [20, tr.9].
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI khẳng định trong Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Đảng ta coi phát triển nguồn nhân
lực là một trong ba khâu đột phá chiến lược: “Phát triển nhanh nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn
bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn
nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ” [24, tr.106].

Như vậy, xem xét dưới các góc độ khác nhau có thể có những khái
niệm khác nhau, cách tiếp cận khác nhau về nguồn nhân lực nhưng những
khái niệm này đều thống nhất ở những nội dung cơ bản như sau: nguồn nhân
lực là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội.
Theo chúng tôi, con người với tư cách là yếu tố cấu thành lực lượng sản
xuất, giữ vị trí hàng đầu, là nguồn lực cơ bản và nguồn lực vô tận của sự phát
triển thì khơng thể chỉ được xem xét đơn thuần ở góc độ số lượng hay chất


16
lượng mà là sự tổng hợp của cả số lượng và chất lượng; không chỉ là bộ phận
dân số trong độ tuổi lao động mà là các thế hệ con người với những tiềm
năng, sức mạnh trong cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội.
Do đó, dưới góc độ triết học tác giả luận văn hồn tồn nhất trí với khái
niệm: Nguồn nhân lực là tổng thể số lượng và chất lượng con người với tổng
hịa các tiêu chí về trí lực, thể lực và những phẩm chất đạo đức - tinh thần
tạo nên năng lực mà bản thân con người và xã hội đã, đang và sẽ huy động
vào quá trình lao động sáng tạo vì sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Như vậy, khi nói đến nguồn lực con người và vai trị của nó là phải xem
xét con người với tư cách là chủ thể, vừa với tư cách là khách thể của các quá
trình kinh tế - xã hội. Là chủ thể, con người khai thác, sử dụng các nguồn lực
khác hiện có, đồng thời qua đó góp phần tạo ra các nguồn lực mới, để duy trì
sự tồn tại và phát triển xã hội. Là khách thể, con người trở thành đối tượng
được khai thác cả về thể lực và trí lực cho mục tiêu phát triển xã hội. Dĩ
nhiên, hai tư cách này tồn tại khơng tách rời nhau, vì lẽ khi khai thác các
nguồn lực khác con người tất yếu phải sử dụng trí lực và thể lực của mình,
chính con người với sức lực và trí tuệ của mình quyết định mục tiêu, cách
thức, nội dung và hiệu quả khai thác các nguồn lực khác. Ngược lại, quá trình
khai thác trí lực và thể lực ở con người đều có quan hệ với các nguồn lực khác
ở các mức độ khác nhau. Do vậy, nguồn lực con người giữ vị trí trung tâm

khơng chỉ trong hệ thống các nguồn lực của sự phát triển xã hội mà cịn của
chính sự phát triển xã hội.
1.1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của nguồn nhân lực
Với khái niệm về nguồn nhân lực như trên thì có thể thấy rõ những đặc
trưng cơ bản của nguồn nhân lực như sau:
Thứ nhất: Đặc trưng về mặt sinh học
Triết học Mác - Lênin đã khẳng định rằng: lao động là hoạt động bản
chất của con người. Đó là chính là q trình con người chế tạo ra công cụ lao


17
động và dùng nó để tác động vào giới tự nhiên, tạo ra sản phẩm để phục vụ
cho cuộc sống đồng thời qua đó làm biến đổi giới tự nhiên sáng tạo ra thế giới
của mình. Con người khơng chỉ sống trong mơi trường tự nhiên, mà cịn sống
trong mơi trường xã hội, nên tự nhiên và xã hội trong mỗi con người có sự
gắn bó khăng khít với nhau. Yếu tố sinh học trong mỗi con người không chỉ
tồn tại bên cạnh yếu tố xã hội mà chúng còn hòa quyện vào nhau và tồn tại
trong yếu tố xã hội. Bản chất tự nhiên của con người được chuyển vào bản
tính xã hội của con người và được cải biến đi ở trong đó.
Con người là một tổng thể tồn tại bao gồm cả hai mặt tự nhiên và xã
hội. Con người chính là “động vật xã hội”, động vật biết chế tạo và sử dụng
công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên làm biến đổi giới tự nhiên phục
vụ cho cuộc sống của bản thân mình, một động vật tự nhận thức được mình
và thế giới xung quanh và tự cải tạo chính bản thân mình. Con người vừa là
chủ thể của nhận thức, vừa là khách thể của nhận thức. Con người là “con
người hiện thực”, con người hiện hữu trong thế giới khách quan này, theo các
nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác, được thể hiện thông qua hoạt động thực tiễn
hết sức phong phú và đa dạng của nó. Bằng những hoạt động thực tiễn, con
người đã hình thành nên những phẩm chất đặc thù của nó, mà những phẩm
chất này khơng một lồi động vật nào có được đó là - phẩm chất xã hội. Từ

đó, các ơng cho rằng bản chất đặc thù của con người không phải là ở thân xác
trừu tượng, máu thịt của nó hay ở yếu tố sinh vật (mặt sinh học) mà chính là ở
phẩm chất xã hội (mặt xã hội).
Ph. Ăngghen đã viết: Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ
đời sống loài người và như thế đến mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta
phải nói: Lao động đã sáng tạo ra bản thân con người. Với quan niệm này,
trong: “Vai trị của lao động trong q trình vượn biến thành người”. Con người
tồn tại gắn liền với lao động, bởi nhờ có lao động mà con người thỏa mãn
những nhu cầu của cuộc sống. Vì thế, lao động khơng chỉ trở thành thuộc tính


18
chung của con người, lao động còn được xã hội hóa [42, tr.641].
Đó là những nhu cầu khách quan, thiết yếu để duy trì cuộc sống như ăn,
mặc, ở, đi lại… Mác lần đầu tiên “đã phát hiện ra quy luật phát triển của lịch
sử lồi người, nghĩa là tìm ra cái sự thật giản đơn… là: trước hết con người
cần phải ăn, uống, ở và mặc, trước khi có thể lo đến chuyện làm chính trị,
khoa học, nghệ thuật, tôn giáo, …v…v” [39, tr.198].
Vậy, để thỏa mãn được những nhu cầu này thì con người cần phải hành
động thơng qua lao động. Tuy vậy, những hành động trong cuộc sống của con
người không phải chỉ là những hoạt động mang tính bản năng, sinh vật đơn
thuần như sinh đẻ con cái - đây là một hoạt động bản năng để duy trì nịi
giống, mà ngay ở đó con người cũng biết điều tiết sao cho sự sinh sản, duy trì
nịi giống này phù hợp với điều kiện sản xuất và phù hợp với nhu cầu của xã
hội. Trong công trình hợp tác: “Con người - những ý kiến về một đề tài cũ”,
các tác giả Liên Xô và Cộng hịa dân chủ Đức đều cho rằng thơng qua bản
tính xã hội, bản tính tự nhiên của con người được biến đổi về chất và thường
gắn liền với quá trình biến đổi của con người về tự nhiên. Các Mác đã chỉ rõ,
cho dù tồn tại với hình thức nào đi chăng nữa, thì nó vẫn cứ là sản phẩm của
sự tác động qua lại giữa con người với con người.

Thứ hai: Đặc trưng về mặt số lượng
Đặc trưng về mặt số lượng được xác định dựa trên quy mô, cơ cấu tuổi,
giới tính và sự phân bố theo khu vực và vùng lãnh thổ của dân cư.
Ở nước ta, theo ghi nhận tại điểm 1 điều 3 Luật lao động (Luật lao động
số 10/2012/QH 13, có hiệu lực từ ngày 1/3/2013) thì số lượng nguồn nhân lực
được xác định là bao gồm tổng số người trong độ tuổi lao động được tính từ
đủ 15 tuổi. Trong khi đó tuổi nghỉ hưu được xác định như sau:
Người lao động bảo đảm điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội
theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội được hưởng lương hưu khi
nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi.
Người lao động có trình độ chun mơn kỹ thuật cao, người lao động
làm công tác quản lý và một số trường hợp đặc biệt khác có thể nghỉ hưu ở


19
tuổi cao hơn nhưng không quá 05 năm so với quy định tại khoản 1.
Như vậy, độ tuổi lao động là 15 - 60 tuổi đối với nam và 15 - 55 tuổi đối
với nữ. Trường hợp người lao động làm công tác quản lý và một số trường hợp
đặc biệt khác có thể nghỉ hưu ở tuổi cao hơn nhưng không quá 05 năm.
Những quy định trên cũng là một biện pháp đảm bảo quyền bình đẳng
và phát triển vì sự tiến bộ của phụ nữ nói riêng và phát triển nguồn nhân lực
nói chung. Sự gia tăng dân số là cơ sở để hình thành và gia tăng nguồn nhân
lực. Chính vì điều này, quan điểm chỉ đạo chung của Đảng về xây dựng con
người được khẳng định trong Văn kiện Đại hội lần thứ XI là “chăm lo xây
dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm
cơng dân; có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa tình; có
tinh thần quốc tế chân chính” [24, tr.76 - 77]. Đây là vấn đề trọng tâm của sự
phát triển đất nước và cũng là chiến lược lâu dài xây dựng con người mới ở
Việt Nam. Là tạo ra được những con người vừa có đức, vừa có tài (tức phẩm
chất và năng lực) dựa trên các chuẩn mực phổ biến là dân tộc - quốc tế, truyền

thống - hiện đại, cá nhân - cộng đồng. Đó là con người có tinh thần yêu nước,
yêu chủ nghĩa xã hội, trung thành vô hạn với Tổ Quốc, nhân dân với Đảng; có
đạo đức trong sáng, lành mạnh; có lịng nhân ái bao dung, hiếu thảo, khiêm tốn,
trung thực giản dị; đồn kết cộng đồng, dễ thích nghi; dũng cảm, mưu trí, sáng
tạo, u lao động, có ý thức tổ chức kỷ luật; ham học hỏi; cầu tiến bộ, có năng
lực chun mơn tốt; có tri thức hiện đại; có đời sống văn hóa - tư tưởng lành
mạnh, phong phú…
Thứ ba: Đặc trưng về mặt chất lượng
Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện ở chỗ là nguồn nhân lực có
chuyên mơn cao, kỹ năng lao động giỏi, có phẩm chất tốt đủ sức đáp ứng một
cách tối ưu đòi hỏi ngày càng cao của quá trình sản xuất, tạo ra năng suất,
chất lượng và hiệu quả cao nhằm đạt tới sự phát triển nhanh và bền vững. Tại
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng ta đã nhấn mạnh: “phát triển


20
nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” [24, tr.106].
Do đó, chất lượng nguồn nhân lực là tổng thể những nét đặc trưng, phản
ánh bản chất, tính đặc thù có liên quan trực tiếp tới hoạt động sản xuất vật chất
và phát triển của con người. Bao gồm: trạng thái thể lực, trí lực, năng lực, phẩm
chất, phong cách, đạo đức, lối sống, trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề, cơ
cấu nghề nghiệp, thành phần xã hội… trong đó, trí lực (là tồn bộ năng lực của
trí tuệ, tinh thần, quyết định phần lớn khả năng lao động sáng tạo của con
người). Trí tuệ được xem là yếu tố quan trọng hàng đầu của nguồn lực con người
bởi “tất cả những gì con người hành động tất nhiên phải thơng qua đầu óc của
họ” [41, tr.409] vì nó khơng chỉ là cơ sở để quyết định những kỹ năng nghề
nghiệp, tiếp thu có hiệu quả những ứng dụng cơng nghệ tiến tiến mà cịn là cơ sở
để hình thành nên nhân cách, phẩm chất và lối sống của mỗi con người.
Không những thế, chất lượng nguồn nhân lực còn liên quan đến rất
nhiều những lĩnh vực khác nhau như: vấn đề đảm bảo chất dinh dưỡng, chăm

sóc sức khỏe cho cộng đồng, quan tâm tới giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng, lao
động và tạo cơ hội có việc làm cho lực lượng lao động gắn với những tiến bộ
của khoa học kỹ thuật, trả công lao động, cách đối xử với người lao động và
các mối quan hệ xã hội khác. Chất lượng nguồn nhân lực ngày càng phát triển
cao cả về yếu tố sinh học và yếu tố xã hội thì sẽ có tác động rất mạnh mẽ tới
tăng năng suất lao động mà trên hết đó chính là sự đón nhận vững vàng những
tiến bộ vượt bậc của kỹ thuật, khoa học và công nghệ, những thiết bị tiên tiến,
cơ sở vật chất trong và ngồi nước để hịa nhập với nhịp độ phát triển như vũ
bão của nhân loại cả về kinh tế - xã hội lẫn văn hóa - giáo dục, y tế.
Vì vậy, để thực hiện thành cơng CNH, HĐH cũng như những các văn
kiện, nghị quyết của Đảng đã ban hành về chiến lược xây dựng phát triển đất
nước đến năm 2020 thì hơn lúc nào hết chúng ta cần phải nhanh chóng nâng cao
năng lực trí tuệ, vốn văn hóa, kỹ năng và trình độ chun mơn nghề nghiệp cho
người lao động, đồng thời phải quan tâm đặc biệt đến đội ngũ lao động chất


21
xám, khai thác tốt nhất tiềm năng và sức mạnh trí tuệ của cả dân tộc và thời đại.
1.1.2. Phát triển nguồn nhân lực và thực chất của việc phát triển
nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay
1.1.2.1. Phát triển nguồn nhân lực
Với bất cứ một quốc gia nào thì vấn đề con người và nguồn lực con
người luôn giữ vị trí quan trọng. Đây là nhân tố có tính chất quyết định đến sự
thành công hay thất bại trong sự phát triển của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc.
Quan điểm của Đảng ta về phát triển nguồn nhân lực có bước phát triển
qua từng kỳ đại hội và ngày càng trở nên hoàn thiện hơn, sâu sắc hơn. Trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ năm 1991, Đảng ta đã chỉ rõ con
người chính là nguồn lực quan trọng nhất, là nguồn lực của mọi nguồn lực, quyết
định sự hưng thịnh của đất nước. Kể từ đó, Đại hội VIII, IX, X, XI Đảng ta tiếp
tục đưa ra chiến lược phát triển con người và khẳng định sự cần thiết phải phát

triển nguồn nhân lực, đáp ứng những yêu cầu mới của sự phát triển đất nước.
Trong thời đại ngày nay, con người và sự phát triển toàn diện của con
người đã được coi là một ''tài nguyên đặc biệt'', một nguồn nội lực của sự phát
triển kinh tế - xã hội. Bởi vậy, việc phát triển con người, phát triển nguồn
nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các
nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con người, đến sự phát triển toàn diện của con
người là yếu tố bảo đảm chắc chắn nhất cho sự phồn vinh, thịnh vượng của
mọi quốc gia. Do đó, đầu tư cho con người là đầu tư có tính chiến lược, là đầu
tư có hiệu quả nhất để khai thác và sử dụng nội lực cho phát triển đây chính là
cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển kinh tế - xã hội khơng chỉ ngày một
nhanh mà cịn bền vững, hiệu quả.
Cho đến nay, do xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau, nên vẫn có
nhiều cách hiểu khác nhau khi bàn về phát triển nguồn nhân lực. Theo quan
niệm của Liên hiệp quốc, phát triển nguồn nhân lực bao gồm giáo dục, đào
tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội


22
và nâng cao chất lượng cuộc sống [84].
Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên hiệp quốc (UNIDO): phát triển
con người một cách hệ thống vừa là mục tiêu, vừa là đối tượng của sự phát
triển của một quốc gia. Nó bao gồm mọi khía cạnh kinh tế và khía cạnh xã
hội. Như nâng cao khả năng cá nhân, tăng năng lực sản xuất và khả năng sáng
tạo, bồi dưỡng chức năng chỉ đạo thông qua giáo dục, đào tạo nghiên cứu và
hoạt động thực tiễn.
Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hiệp quốc (FAO): Sự phát
triển nguồn nhân lực như một quá trình mở rộng các khả năng tham gia hiệu
quả vào phát triển nông thôn, bao gồm cả tăng năng lực sản xuất.
Quan niệm của tổ chức Lao động quốc tế (ILO): Phát triển nguồn nhân
lực bao hàm một phạm vi rộng lớn hơn chứ khơng có sự chiếm lĩnh ngành

nghề hoặc ngay cả việc đào tạo nói chung. Quan niệm này dựa trên cơ sở
nhận thức rằng, con người có nhu cầu sử dụng năng lực của mình để tiến tới
có được việc làm hiệu quả, cũng như những thỏa mãn về nghề nghiệp và cuộc
sống cá nhân. Sự lành nghề được hoàn thiện nhờ bổ sung nâng cao kiến thức
trong quá trình sống, làm việc, nhằm đáp ứng kỳ vọng của con người [84].
Theo GS. Phạm Minh Hạc, phải qua ba khái niệm: cá thể, cá nhân và
nhân cách để định nghĩa con người: con người với tư cách là tột đỉnh tiến
hóa của thế giới sinh vật và tiếp tục phát triển con người là đại diện của
loài, gọi là cá thể. Với tư cách là thành viên của xã hội, gọi là cá nhân như
là một thực thể độc lập và khi nó có đủ khả năng để trở thành chủ thể của
hoạt động học tập, lao động, vui chơi thì con người trở thành có nhân cách.
Nhân cách con người là hệ thống các thái độ của mỗi người thể hiện ở mức
độ phù hợp giữa thang giá trị và thước đo giá trị của người ấy với thang giá
trị và thước đo giá trị của cộng đồng và xã hội, độ phù hợp càng cao thì
nhân cách càng lớn, có tính độc lập càng cao. Phát triển nhân cách là phát
triển những phẩm chất chính trị, đạo đức, tác phong, lối sống lành mạnh,


23
tích cực hoạt động, tinh thần trách nhiệm cơng dân. Tất cả những phương
diện như trên có mối quan hệ mật thiết với nhau khơng thể tách rời trong
q trình phát triển nguồn nhân lực.
Phát triển nguồn nhân lực được hiểu về cơ bản là gia tăng giá trị cho
con người trên các mặt như đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, tâm hồn, thể
lực… làm cho con người trở thành những người lao động có những
năng lực phẩm chất mới và cao, đáp ứng được những yêu cầu to lớn
của sự phát triển kinh tế - xã hội, của sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước [26, tr.285].
Với PGS. TS Nguyễn Đăng Thành thì việc phát triển nguồn nhân lực
được xác định là phát triển “vốn người”. Đây là khái niệm dùng để chỉ các

năng lực có ích của các thành viên trong xã hội. “Đó là các kỹ năng tay nghề,
khả năng phán đốn, kể cả cơng nghệ, phần mềm máy tính… được dùng vào
q trình sản xuất, gọi chung là tri thức…” [68, tr.26]. Từ những quan niệm
về vốn người, về nguồn nhân lực thì vấn đề phát triển nguồn nhân lực được đề
xuất như sau: 1- Nguồn nhân lực là nguồn lao động, tổng số nhân khẩu có khả
năng lao động, bao gồm nhân khẩu ở độ tuổi lao động và nhân khẩu ngồi độ
tuổi lao động có thể tham gia lao động. 2- Nguồn nhân lực là nguồn lao động
được chuẩn bị sẵn sàng tham gia lao động. Vốn người khi được sử dụng,
thành nguồn lực - yếu tố quan trọng trong nội lực đất nước. 3- Đội ngũ lao
động là nguồn nhân lực đang được sử dụng vào lao động. 4- Lao động trở
thành hàng hóa được đem ra trao đổi theo quy luật giá trị, quy luật cung - cầu,
quy luật cạnh tranh. Hàng hóa lao động chính là các kỹ năng, trí tuệ, sức lao
động, chứ không phải là con người lao động. 5- Trong nguồn nhân lực cịn có
vấn đề nhân tài, bao gồm những nghệ nhân, công nhân bậc cao, người sản
xuất giỏi, cán bộ cơng nghệ - kỹ thuật, khoa học có trình độ cao, các nhà quản
lý giỏi. Những người xuất chúng, đạt hiệu quả sản xuất và công tác cao gọi là
nhân tài. Nhân tài có liên quan mật thiết với tiến bộ xã hội, thành tựu khoa


24
học, công nghệ, kinh tế. Nhân tài là một trong những động lực thúc đẩy tiến
hóa nhân loại, dân tộc, cộng đồng. Như nhà kinh tế học Mỹ Garibiko, giải
thưởng Noben kinh tế năm 1992, đã kết luận rằng: Không có đầu tư nào mang
lại nguồn lợi lớn như đầu tư vào nguồn nhân lực.
TS Nguyễn Hữu Dũng cho rằng: phát triển nguồn nhân lực được coi là
quá trình làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực ngày
càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội [13, tr.13]. Quá
trình này theo tác giả bao gồm sự phát triển về thể lực, trí lực, khả năng nhận
thức và tiếp thu kiến thức, tay nghề, tính năng động xã hội và sức sáng tạo của
con người. Trong đó nền văn hóa, truyền thống lịch sử dân tộc góp phần quan

trọng trong việc hun đúc nên bản lĩnh, ý chí của mỗi con người.
Như vậy, có thể hiểu rằng: Phát triển nguồn nhân lực là quá trình nâng cao
năng lực của mỗi con người về mọi mặt: thể lực, trí lực, tâm lực, đồng thời phân
bổ, sử dụng, khai thác và phát huy hiệu quả nhất nguồn nhân lực thông qua hệ
thống phân công lao động và giải quyết việc làm để phát triển kinh tế - xã hội.
Do đó, dưới góc độ triết học tác giả luận văn hồn tồn nhất trí với
khái niệm: Phát triển nguồn nhân lực là tổng thể các hình thức, phương pháp
chính sách và biện pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng các sức lao
động xã hội (trí tuệ, thể chất và phẩm chất đạo đức - tinh thần) nhằm đáp ứng
đòi hỏi về nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai
đoạn phát triển [27, tr.23].
Vậy, phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia: chính là sự biến đổi
về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trên các mặt thể lực, trí lực, kỹ
năng, kiến thức và tinh thần cùng với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ
về cơ cấu nguồn nhân lực. Nói một cách khái quát nhất, phát triển nguồn nhân
lực chính là q trình tạo lập và sử dụng năng lực tồn diện con người vì sự
tiến bộ kinh tế - xã hội và sự hoàn thiện bản thân mỗi con người.
Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn


25
nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết
định đẩy mạnh phát triển ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại
nền kinh tế, chuyển đổi mơ hình tăng trưởng và lợi thế cạnh tranh
quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền
vững [24, tr.130].
1.1.2.2. Thực chất của việc phát triển nguồn nhân lực
cho đồng bào Chăm ở nước ta hiện nay
Thực chất phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay cần nhìn nhận
ở ba khía cạnh cơ bản:

Thứ nhất: Chủ trương, chính sách, biện pháp về giáo dục, đào tạo,
bồi dưỡng nhằm gia tăng chất lượng nguồn nhân lực cho đồng bào Chăm
ở nước ta hiện nay
Trong nhiều thập niên qua, nền giáo dục Việt Nam có nhiều bất cập và
yếu kém cùng với nhiều tiêu cực nảy sinh như hệ thống cơ sở đào tạo phát
triển tràn lan, nạn văn bằng giả, bệnh thành tích… đang làm nhức nhối xã hội,
ảnh hưởng xấu đến chất lượng của nguồn nhân lực. Do vậy, “chấn hưng nền
giáo dục Việt Nam”, đổi mới cơ chế quản lý trong giáo dục - đào tạo nhằm
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và đặc biệt là phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao là nhiệm vụ bức thiết phải được tiến hành ngay. Đồng thời
phải tạo ra một sự chuyển đổi mạnh mẽ và căn bản về mơ hình giáo dục: thay
thế mơ hình giáo dục khép kín, giáo dục một lần (đối với mỗi cá nhân) với
phương pháp thụ động bằng mơ hình giáo dục mở, hiện đại, năng động, tạo ra
một xã hội học tập, học suốt đời và đào tạo liên tục.
Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo
đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ thuật thực hành. Xây dựng môi trường
giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội;
tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời. Đồng thời,
đẩy mạnh cơng tác xã hội hóa, huy động toàn xã hội chăm lo phát triển giáo


×