Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Bồi dưỡng tư duy chiến lược cho cán bộ lãnh đạo cấp huyện của thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.2 KB, 89 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước đang thực hiện cơng cuộc đổi mới trong điều kiện tồn cầu
hóa và hội nhập quốc tế, nhiều diễn biến phức tạp và đa dạng, thời cơ và
thách thức đan xen nhau. Do vậy, công tác đào tạo, bồi dưỡng, cán bộ lãnh
đạo, quản lý đòi hỏi phải được đổi mới toàn diện. Cán bộ đảng viên, nhất là
cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành trong khi tổ chức lãnh đạo, chỉ
đạo hoạt động thực tiễn, trong thực thi nhiệm vụ phải nhạy bén, năng động và
đặc biệt phải có tầm nhìn chiến lược để dự báo được các tình huống có thể
xảy ra. Từ đó có cơ sở để xử lý các tình huống đột xuất góp phần đưa sự
nghiệp đổi mới đi lên. Không những thế, đội ngũ ấy phải là tấm gương sáng
về lập trường chính trị và đạo đức cách mạng; có tri thức hiện đại và trình độ
lý luận cao; có năng lực hoạt động thực tiễn về lãnh đạo, quản lý.
Trong rất nhiều những đòi hỏi cần thiết ở người cán bộ lãnh đạo, quản
lý như vậy, tư duy chiến lược đóng vai trò quan trọng. Tư duy là hoạt động
đặc biệt của quá trình con người phản ánh hiện thực khách quan, là quá trình
phản ánh hiện thực khách quan dựa trên hoạt động của bộ óc người nhằm
nhận thức bản chất, quy luật vận động của hiện thực khách quan và định
hướng cho hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của con người.
Do đó, để có tư duy chiến lược đáp ứng yêu cầu lãnh đạo quản lý thì phải
được đào tạo, bồi dưỡng và rèn luyện.
Thủ đô Hà Nội - trái tim của cả nước, đầu não chính trị - hành chính
quốc gia, nơi đặt trụ sở, cơ quan Trung ương của Đảng, Nhà nước, các đoàn
thể; cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế và là nơi diễn ra các hoạt
động đối nội, đối ngoại quan trọng nhất của đất nước. Đây là trung tâm văn
hóa lớn của cả nước và bản sắc trong khu vực, đồng thời cũng là trung tâm


2
khoa học, giáo dục, đào tạo, y tế lớn của cả nước và có uy tín trong khu vực;


đi đầu trong nghiên cứu, sáng tạo, ứng dụng và chuyển giao khoa học và công
nghệ trên phạm vi cả nước; là địa bàn tập trung nhiều cơ sở đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao; nơi tạo dựng, bồi dưỡng và phát triển nhân tài cho sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô và cả nước. Hà Nội là trung tâm kinh
tế, tài chính lớn; đóng góp quan trọng vào tăng cường kinh tế cả nước, là động
lực phát triển cho vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng Đồng bằng Sông
Hồng; đi đầu trong xây dựng, phát triển kinh tế tri thức với các ngành kinh tế
tiên tiến, hiện đại, năng suất cao, hiệu quả lớn. Phát triển kinh tế Hà Nội có
tác dụng đi đầu, hỗ trợ các tỉnh trong vùng cùng phát triển. Như vậy, Thủ đô
Hà Nội giữ trọng trách là đầu tầu trong mọi lĩnh vực phát triển đất nước. Hơn
nữa, Việt Nam quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa, điều đó đặt ra yêu cầu chúng ta phải đi tắt, đón đầu,
vạch ra những hướng đi chính xác, chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Điều
này địi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung, cán bộ lãnh đạo cấp
huyện ở Hà Nội nói riêng phải có tư duy chiến lược.
Trước bối cảnh ấy, người cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp của thủ đô
cũng phải là những con người đi đầu trong mọi lĩnh vực. Việc nắm vững lý
luận, đề ra chủ trương, đường lối, chính sách với tầm nhìn chiến lược là điều
quan trọng trước hết bên cạnh năng lực hoạt động thực tiễn. Đó cũng chính là
những u cầu cần thiết bồi dưỡng tư duy chiến lược cho đội ngũ cán bộ lãnh
đạo thành phố Hà Nội. Đặc biệt cần thiết đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp
huyện sau khi Thủ đơ Hà Nội mở rộng địa giới hành chính, trước những thời
cơ và thách thức mới trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Với ý nghĩa đó, tơi chọn đề tài: “Bồi dưỡng tư duy chiến lược cho cán
bộ lãnh đạo cấp huyện của thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sỹ
triết học.


3
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Tư duy và tư duy lý luận là vấn đề đã được quan tâm nghiên cứu khá
sâu rộng. Về tư duy chiến lược ngày càng được quan tâm nghiên cứu trong
bối cảnh hiện nay trên phạm vi tồn cầu do địi hỏi sự phát triển của nhân loại.
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu được cơng bố.
- Những cơng trình nghiên cứu về tư duy, lý luận, tập trung làm rõ khái
niệm tư duy lý luận, vai trò của tư duy lý luận trong quá trình lãnh đạo của đội
ngũ cán bộ chủ chốt ở nước ta được đề cập những bình diện khác nhau. Ở đây
có thể kể đến những cơng trình của: GS.TS Nguyễn Ngọc Long: “Năng lực tư
duy lý luận trong quá trình đổi mới tư duy”, Tạp chí Cộng sản, số10-1987;
PGS Trần Đình Huỳnh: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của năng lực trí
tuệ và lý luận”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 2 - 1995; Thái Ninh: “Mấy ý kiến
về đổi mới tư duy lý luận”, Tạp chí Cộng sản, số 3-1998; TS Nguyễn Thế Kiệt
chủ biên: Ảnh hưởng của đạo đức phong kiến trong cán bộ lãnh đạo quản lý
của Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2001; TS Trần Văn
Phòng chủ biên: Học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị
Quốc gia, HN, 2001.
- Với những cơng trình nghiên cứu về tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, ngoài việc làm rõ vấn đề tư duy và tư duy lý luận còn đề cập đến
năng lực tư duy, thực trạng của tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo từ
đó đưa ra giải pháp nâng cao năng lực tư duy và tư duy lý luận cho đội ngũ
cán bộ, lãnh đạo. Ở đây có thể kể tới những cơng trình nghiên cứu của: Hồ Bá
Thâm, “Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã hiện
nay”, Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 1995; TS Trần Thành (chủ biên): Tư duy
lý luận với hoạt động của người lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn, Nxb Chính trị
Quốc gia, HN, 2003; Dương Minh Đức: “Nâng cao năng lực tư duy lý luận
của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay”,


4
luận án tiến sỹ, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2006; PGS.TS Trần

Văn Phịng: “Năng lực tư duy lý luận với hoạt động của đội ngũ cán bộ quản
lý, lãnh đạo cấp huyện người dân tộc thiểu số”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, số
10-2011; PGS.TS Trần Văn Phòng: “Bồi dưỡng tư duy chiến lược cho cán bộ
lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 1-2012.
Qua khảo sát tình hình nghiên cứu cho thấy đã có rất nhiều cơng trình
nghiên cứu về tư duy, tư duy lý luận và cũng đã có cơng trình đề cập đến vấn
đề bồi dưỡng tư duy chiến lược cho cán bộ lãnh đạo quản lý ở nước ta hiện
nay. Tư duy chiến lược là rất cần thiết cho phát triển xã hội trong thời đại
ngày nay. Việc bồi dưỡng tư duy chiến lược là quan trọng, thiết thực, đặc biệt
với đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp. Tuy nhiên chưa có cơng trình nào tập
trung đi sâu nghiên cứu về vấn đề: Bồi dưỡng tư duy chiến lược cho cán bộ
lãnh đạo cấp huyện nói chung và cấp huyện ở thành phố Hà Nội nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích thực trạng bồi dưỡng tư duy chiến lược cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo cấp huyện ở thành phố Hà Nội hiện nay, luận văn đề xuất
một số giải pháp chủ yếu nhằm bồi dưỡng tư duy chiến lược cho đội ngũ cán
bộ này đáp ứng những yêu cầu nhiệm vụ của họ trong thời kỳ mới.
3.2. Nhiệm vụ
- Tìm hiểu và góp phần làm rõ khái niệm tư duy chiến lược.
- Phân tích, chỉ rõ tầm quan trọng của tư duy chiến lược đối với đội ngũ
cán bộ lãnh đạo cấp huyện ở thành phố Hà Nội hiện nay.
- Phân tích thực trạng bồi dưỡng tư duy chiến lược cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo cấp huyện ở thành phố Hà Nội hiện nay.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm bồi dưỡng có hiệu quả
tư duy chiến lược cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp huyện ở thành phố Hà Nội
hiện nay.


5

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu về việc bồi dưỡng tư duy chiến lược đội ngũ cán
bộ lãnh đạo cấp huyện ở thành phố Hà Nội hiện nay. Sau khi Hà Nội mở rộng
địa giới hành chính, đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp huyện của Hà Nội, nhất là
các huyện thuộc Hà Tây (cũ) cần được nâng tầm tư duy chiến lược. Do vậy,
luận văn tập trung đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp huyện của Hà Nội. Bồi dưỡng
có nhiều hình thức, luận văn tập trung tìm hiểu cơng tác bồi dưỡng tại trường
Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong là chủ yếu.
Luận văn nghiên cứu tư duy dưới góc độ nhận thức luận theo lập
trường của chủ nghĩa duy vật mácxít.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời, dựa trên quan điểm,
tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh; các văn kiện, nghị quyết của Đảng và
Nhà nước cũng như Nghị quyết của Đảng bộ thành phố Hà Nội.
Luận văn sử dụng một số phương pháp chủ yếu: lơgíc và lịch sử, cụ thể
và trừu tượng, quy nạp và diễn dịch, phân tích và tổng hợp…
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn chỉ ra thực trạng công tác bồi dưỡng tư duy chiến lược cho
đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp huyện ở thành phố Hà Nội hiện nay.
- Luận văn chỉ ra những mặt mạnh và hạn chế cơ bản của công tác bồi
dưỡng tư duy chiến lược cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp huyện ở thành phố Hà
Nội hiện nay, đề xuất những giải pháp nhằm bồi dưỡng có hiệu quả tư duy
chiến lược cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp huyện ở thành phố Hà Nội.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ thực trạng cơng tác bồi dưỡng tư duy
chiến lược cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp huyện của thành phố Hà Nội hiện nay.


6

- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm bồi dưỡng có hiệu quả tư duy
chiến lược cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp huyện của thành phố Hà Nội
nhằm đáp ứng công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế.
- Luận văn có thể được sử dụng tham khảo cho công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ của thành phố Hà Nội.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.


7
Chương 1
BỒI DƯỠNG TƯ DUY CHIẾN LƯỢC VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ
ĐỐI VỚI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO CẤP HUYỆN
1.1. TƯ DUY VÀ TƯ DUY CHIẾN LƯỢC

1.1.1. Khái niệm tư duy
Tư duy là vấn đề phức tạp, được đề cập đến với nhiều lát cắt khác nhau.
“Tư duy - sản phẩm cao nhất của cái vật chất được tổ chức một cách
đặc biệt là bộ não, q trình phản ánh tích cực thế giới khách quan trong các
khái niệm, phán đoán, lý luận…” [49, tr.634].
“Tư duy là sản phẩm cao nhất của vật chất được tổ chức một cách đặc
biệt - Bộ não, q trình phản ánh tích cực hiện thực khách quan dưới dạng các
khái niệm, phán đoán, lý luận, v.v…” [48, tr.701].
“Tư duy là nhận thức bản chất và phát hiện ra tính quy luật của sự vật bằng
những hình thức như biểu tượng, khái niệm, phán đốn, suy lý” [13, tr.1756].
Qua trên cho thấy, tư duy là yếu tố chỉ có ở con người, là sự phản ánh ở
cấp độ cao nhất trong thế giới vật chất. Tư duy là đối tượng nghiên cứu của
nhiều ngành khoa học khác nhau. Triết học xem xét tư duy dưới lát cắt lý luận
phản ánh.

Đều thuộc lĩnh vật tinh thần, “tư duy”, “ý thức”, “nhận thức” có mối
liên hệ mật thiết với nhau. Tuy tư duy, ý thức, nhận thức đều xuất hiện, tồn tại
và diễn ra trong não người nhưng chúng có những đặc điểm riêng khác biệt.
Tư duy xuất hiện trong quá trình lao động sản xuất xã hội của con
người. Trong q trình đó, con người so sánh các thông tin, dữ liệu thu được
từ nhận thức cảm tính hoặc các ý nghĩ với nhau. Trải qua các q trình khái
qt hóa, trừu tượng hóa, phân tích, tổng hợp để rút ra các khái niệm, phán
đoán, giả thuyết, lý luận. Kết quả của quá trình tư duy bao giờ cũng là sự phản


8
ánh thực tại một cách gián tiếp, sự phản ánh khái quát các thuộc tính, các mối
liên hệ cơ bản, phổ biến, các quy luật không chỉ ở một sự vật riêng lẻ mà cịn
ở một nhóm sự vật nhất định, phát hiện những mối liên hệ hợp quy luật của
thực tại. Vì vậy, tư duy bao giờ cũng là sự giải quyết vấn đề thông qua những
tri thức đã nắm được từ trước.
Các cơ chế sinh lý học vật chất của tư duy được nghiên cứu trong sinh
lý học của hoạt động thần kinh cao cấp. Tư duy không thể tách rời bộ não
nhưng khơng thể giải thích hồn toàn bởi hoạt động của bộ máy sinh học. Tư
duy gắn liền khơng chỉ với sự tiến hóa sinh học mà cả với sự phát triển xã hội.
Nó là một sản phẩm xã hội cả về những đặc điểm của sự xuất hiện, cả về
phương thức hoạt động, cả về các kết quả của nó. Tư duy bắt nguồn từ hoạt
động tâm lý, hoạt động này gắn liền với hoạt động sinh lý của hệ thần kinh
cao cấp chỉ diễn ra ở các động vật cấp cao. Nhưng tư duy với tư cách là hoạt
động tâm lý bậc cao nhất thì chỉ có ở con người và là kết quả của quá trình lao
động, sáng tạo của con người.
Sở dĩ như thế là vì tư duy chỉ tồn tại trong một mối liên hệ không thể
tách rời khỏi hoạt động lao động và ngôn ngữ, là hoạt động chỉ tiêu biểu cho
xã hội loài người. Bởi thế, tư duy của con người được thực hiện trong mối
liên hệ chặt chẽ với ngôn ngữ và những kết quả của tư duy được ghi nhận

trong ngôn ngữ. Tiêu biểu cho tư duy là những q trình trừu tượng hóa, phân
tích và tổng hợp, việc nêu lên những vấn đề nhất định và tìm cách giải quyết
chúng, việc đề xuất những giả thiết, những ý niệm… Kết quả của quá trình tư
duy bao giờ cũng là một ý nghĩ nào đó. Khả năng phản ánh thực tại một cách
khái quát của tư duy được biểu hiện ở khả năng của con người có thể xây
dựng những khái niệm chung. Việc xây dựng những khái niệm khoa học gắn
liền với sự trình bày những quy luật tương ứng. Khả năng phản ánh thực tại
một cách gián tiếp của tư duy được biểu hiện ở khả năng suy lý, kết luận


9
lơgíc, chứng minh của con người. Khả năng này mở rộng khả năng nhận thức
của con người. Xuất phát từ chỗ phân tích những sự kiện có thể tri giác được
một cách trực tiếp, nó cho phép nhận thức được những gì khơng thể tri giác
được nhờ các giác quan.
Tư duy gắn liền với ngôn ngữ, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy,
tư duy phải được biểu đạt thành ngơn ngữ, nhờ đó mà con người có thể sáng
tạo ra những khái niệm và những phạm trù khoa học, nêu lên những quy luật
của các khoa học và do đó hiểu sâu sắc hơn bản chất của các sự vật. Nếu
khơng có ngơn ngữ sẽ khơng có phương tiện để tư duy và tư tưởng của loài
người lưu giữ, kế thừa và phát triển. Nhu cầu giao tiếp của con người là điều
kiện cần để phát sinh ngôn ngữ. Kết quả của tư duy được ghi lại bởi ngôn
ngữ, ngay từ khi xuất hiện tư duy đã gắn liền với ngôn ngữ và được thực hiện
thông qua ngơn ngữ. Thời kỳ sơ khai, tư duy được hình thành thông qua hoạt
động vật chất của con người và từng bước được ghi lại bằng các ký hiệu từ
đơn giản đến phức tạp, từ cụ thể cảm tính đến trừu tượng. Hệ thống các ký
hiệu đó thơng qua q trình xã hội hóa và dần trở thành ngơn ngữ. Sự ra đời
của ngôn ngữ đánh dấu bước nhảy vọt của tư duy và tư duy cũng bắt đầu phụ
thuộc vào ngôn ngữ.
Triết học Mác - Lênin cho rằng nhận thức là quá trình phản ánh hiện

thực khách quan vào bộ óc người, tri giác và biểu tượng của chúng ta là hình
ảnh của các sự vật đó; cảm giác của chúng ta, ý thức của chúng ta chỉ là hình
ảnh của thế giới bên ngồi và dĩ nhiên là nếu khơng có cái bị phản ánh thì
khơng thể có cái phản ánh, nhưng cái bị phản ánh tồn tại độc lập với cái phản
ánh. Bản chất của nhận thức là sự phản ánh tích cực, sáng tạo thế giới vật chất
vào bộ óc con người. Đây là một quá trình phức tạp, quá trình nảy sinh và giải
quyết mâu thuẫn chứ khơng phải q trình phản ánh máy móc giản đơn, thụ
động và nhất thời: "Nhận thức là sự tiến gần mãi mãi và vô tận của tư duy đến


10
khách thể. Phản ánh của thế giới tự nhiên trong tư tưởng con người phải được
hiểu không phải một cách “chết cứng”, "trừu tượng", không phải không vận
động, không mâu thuẫn, mà là trong quá trình vĩnh viễn của vận động, của sự
nảy sinh mâu thuẫn và sự giải quyết những mâu thuẫn đó" [25, tr.38].
Nhận thức là một quá trình biện chứng có vận động và phát triển, là q
trình đi từ chưa biết đến biết, từ biết ít tới biết nhiều hơn, từ biết chưa đầy đủ
đến đầy đủ hơn. Đây là một q trình, khơng phải nhận thức một lần là xong,
mà có phát triển, có bổ sung và hoàn thiện, đi từ hiểu biết chưa đầy đủ và
chính xác trở thành đầy đủ hơn và chính xác hơn. Nhận thức là quá trình tác
động biện chứng giữa chủ thể và khách thể thông qua hoạt động thực tiễn của
con người. Hoạt động thực tiễn của con người là cơ sở, động lực, mục đích
của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Các nhà kinh điển chủ
nghĩa Mác đã khẳng định vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể
đạt tới tính chân lý khách quan khơng, hồn tồn khơng phải là một vấn đề lý
luận mà là một vấn đề thực tiễn.
Từ trên chúng ta có thể thấy, nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực
khách quan một cách tích cực, chủ động, sáng tạo bởi con người trên cơ sở
thực tiễn mang tính lịch sử cụ thể. Nhận thức là quá trình phản ánh và tái tạo
hiện thực ở trong tư duy của con người, được quyết định bởi những quy luật

phát triển xã hội và không thể tách rời với hoạt động thực tiễn. Nhận thức là
quá trình phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ óc của con người trên cơ sở
hoạt động thực tiễn. Q trình phản ánh đó khơng phải là một hành động nhất
thời, máy móc, giản đơn, thụ động mà là một q trình phức tạp của hàng loạt
hoạt động trí tuệ tích cực, sáng tạo. Bởi lẽ con người khơng chỉ phản ánh thế
giới khách quan mà còn tạo ra thế giới khách quan, tạo ra thiên nhiên thứ hai
cho mình thơng qua và bằng hoạt động thực tiễn. Con người, với hoạt động
thực tiễn của mình chủ động tác động vào sự vật, hiện tượng làm cho chúng


11
bộc lộ thuộc tính, trên cơ sở đó, con người hiểu biết về sự vật, hiện tượng.
Nhận thức là một quá trình biện chứng gồm hai giai đoạn là nhận thức cảm
tính và nhận thức lý tính thống nhất hữu cơ đem lại cho con người sự hiểu
biết ngày càng đầy đủ hơn, toàn diện hơn về các sự vật, hiện tượng và các q
trình trong thế giới.
Mục đích của nhận thức là đạt tới chân lý khách quan. Trong quá trình
nhận thức, con người thu nhận được những kiến thức, những khái niệm về
những hiện tượng thực tế nhằm hiểu rõ thế giới xung quanh. Những kiến thức
đó được sử dụng trong hoạt động thực tiễn nhằm mục đích cải tạo thế giới, bắt
thế giới phải phục vụ những nhu cầu của con người. Nhận thức và cải tạo giới
tự nhiên và xã hội là hai mặt quy định lẫn nhau và xâm nhập lẫn nhau của một
quá trình lịch sử thống nhất.
Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất, riêng có ở con người. Ý thức là
tồn bộ các q trình tâm lý tích cực tham gia vào sự hiểu biết của con người
đối với thế giới khách quan và sự tồn tại thực sự của nó. Ý thức xuất hiện
trong quá trình lao động, hoạt động sản xuất xã hội của con người và gắn liền
với ngôn ngữ. Ngay từ khi sinh ra, con người đã nằm trong thế giới những sự
vật do bàn tay của các thế hệ trước đó sáng tạo ra và con người chỉ trở thành
Người đúng nghĩa trong quá trình học cách sử dụng những vật đó một cách có

mục đích. Con người quan hệ với khách thể thông qua hoạt động thực tiễn
bằng sự hiểu biết, tri thức. Khơng có sự hiểu biết, khơng có tri thức là những
cái mà hoạt động vật chất mang tính lịch sử - xã hội và tiếng nói của con
người đem lại thì cũng khơng có ý thức. Mọi hình ảnh chủ quan về sự vật,
mọi cảm giác hoặc biểu tượng khi có một ý nghĩa nhất định trong hệ thống
những kiến thức thu nhận được thì thơng qua hoạt động xã hội, chúng là bộ
phận của ý thức. Những hiểu biết do con người tích lũy được trong lịch sử,
những tư tưởng chính trị và pháp lý, những thành tựu nghệ thuật, đạo đức, tôn


12
giáo và tâm lý xã hội v.v… đều là ý thức xã hội. Nhưng không thể đồng nhất
ý thức chỉ với sự hiểu biết, với tư duy logic.
Theo C.Mác, ý thức chỉ là vật chất được di chuyển vào trong bộ óc con
người và được cải biến đi ở trong đó. Cịn V.I.Lênin thì cho rằng ý thức là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Có nghĩa là sự phản ánh thế giới
bởi bộ óc của con người gắn liền với hoạt động khái quát hóa, trừu tượng hóa,
có định hướng, có lựa chọn, nhằm tạo ra những hình ảnh tồn diện và sâu sắc
hơn về thế giới khách quan. Tuy là hình ảnh chủ quan, nhưng thế giới khách
quan chính là tiền đề của ý thức, nội dung phản ánh của ý thức là cái khách
quan. Điều này khơng có nghĩa chỉ cần thế giới xung quanh tác động lên bộ
óc con người là có được ý thức bởi ý thức là một sản phẩm xã hội, gắn liền
với sự tồn tại của con người, mang tính xã hội.
Như vậy, qua những tìm hiểu, phân tích về tư duy, ý thức và nhận thức
có thể thấy chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau, đều phản ánh hiện thực
khách quan thơng qua bộ óc trên cơ sở hoạt động thực tiễn, cũng bị chi phối
bởi những quy luật sinh học và xã hội, trong đó các quy luật xã hội giữ vai trò
quyết định. Tuy vậy, chúng không phải là những khái niệm đồng nhất. Ý thức
là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người, là phạm trù đối lập với
phạm trù vật chất. Nhận thức là q trình phản ánh đó. Tư duy là kết quả của

nhận thức đồng thời là sự phát triển ở cấp độ cao của nhận thức. Như vậy, tư
duy là trình độ cao của quá trình nhận thức nảy sinh trên cơ sở hoạt động thực
tiễn của con người. Đó là q trình khái qt hóa, trừu tượng hóa, mang tính
tích cực, sáng tạo, hướng sâu vào nhận thức bản chất, quy luật vận động và
phát triển của sự vật, hiện tượng bởi chủ thể nhận thức trên cơ sở hoạt động
thực tiễn. Tư duy của con người, theo Ph.Ănghen vừa tối cao, vừa không tối
cao. Xét theo sự thực hiện cá biệt - chủ thể cụ thể của tư duy thì nó khơng tối
cao và có hạn. Xét theo bản tính và khả năng thì tư duy của con người là tối


13
cao và vô hạn. Xuất phát điểm của nhận thức là những cảm giác, tri giác và
biểu tượng được phản ánh từ thực tiễn khách quan với những thông tin về
hình dạng, hiện tượng bên ngồi được phản ánh một cách riêng lẻ. Ở giai
đoạn sau, với sự hỗ trợ của ngôn ngữ, hoạt động tư duy tiến hành các thao tác
so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp, khu biệt, quy nạp những thông tin đơn
lẻ, gắn chúng vào mối quan hệ phổ biến, lọc bỏ những cái ngẫu nhiên, khơng
căn bản của sự việc để tìm ra nội dung và bản chất của sự vật, hiện tượng,
khái quát thành những khái niệm, phạm trù, quy luật. Đây chính là quá trình
tư duy trừu tượng. Như vậy, cả nhận thức và tư duy đều là những quá trình
hoạt động để mang lại những tri thức mới về sự vật, hiện tượng, đối tượng
nghiên cứu.
Bản chất của tư duy luôn là tìm tới chân lý khách quan, phát hiện ra bản
chất của sự vật, hiện tượng. Bởi thế, mặc dù tư duy, ý thức là phạm trù của
triết học nhưng ngày nay nó cịn là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học
cụ thể khác với mục đích là bồi dưỡng, phát triển nhằm kích hoạt, tăng cường
khả năng sáng tạo tư duy của con người hay một tập thể cộng đồng người,
giúp cá nhân hay tập thể đó tìm ra các phương án, lời giải từ một phần đến
toàn bộ cho các vấn đề nan giải trong xã hội.
Tư duy hồn tồn khơng tồn tại ngồi hoạt động sống. Nếu con người

chỉ tạo ra hết hoạt động logic này đến hoạt động logic khác mà trên thực tế lại
không nhận thấy, không cảm thấy, không thể nghiệm sự đối chiếu thường
xuyên ý nghĩa của các khái niệm của mình với những hoạt động tích cực và
những cảm biết về hiện thực thì sẽ khơng hiểu được và khơng nhận thức được
hiện thực và không hiểu được ngay bản thân mình, tức là sẽ khơng có ý thức.
Tư duy của con người ln mang tính sáng tạo, hoạt động của tư duy
luôn vươn tới những nhận thức mới thông qua hoạt động thực tiễn và nhận
thức. Hoạt động thực tiễn là cơ sở, động lực của tư duy. Do vậy, khi hoạt động


14
thực tiễn cịn ở trình độ thấp thì tương ứng với nó là cấp độ tư duy ở trình độ
thấp. Khi hoạt động thực tiễn đạt đến trình độ cao hơn thì trình độ tư duy cũng
được nâng lên.
Tùy thuộc vào việc xem xét, nhìn nhận mà có thể chia ra những kiểu tư
duy khác nhau. Nếu xét theo trình độ, có thể chia thành tư duy kinh nghiệm
và tư duy lý luận; xét theo tầm nhìn, có thể chia thành tư duy sách lược và tư
duy chiến lược…
Tư duy kinh nghiệm là một trình độ tư duy của con người, cũng đã thể
hiện năng lực trừu tượng hóa nhưng cịn ở trình độ thấp. Với tư duy kinh
nghiệm, người ta cũng có thể rút ra những kết luận tương đối chính xác về sự
vật, hiện tượng, nhưng đó chỉ là sự vật, hiện tượng riêng lẻ mà chưa khái quát
lên được mối liên hệ bản chất, tất yếu của các sự vật, hiện tượng. Ở tư duy
kinh nghiệm, các phương pháp và thao tác lơgíc được hình thành một cách tự
phát, dựa trên những nếp nghĩ quen thuộc, dựa trên những tri thức kinh
nghiệm. Do tính khoa học của tư duy kinh nghiệm còn ở mức độ thấp nên nó
phản ánh bản chất sự vật, hiện tượng ở cấp độ chưa thực sự sâu sắc nên việc
chỉ ra những quy luật cũng chỉ mang tính kinh nghiệm, yếu tố dự báo với độ
tin cậy chưa cao.
Tư duy lý luận, xét về trình độ phản ánh thì nó phản ánh sâu sắc hơn

bản chất của sự vật, hiện tượng. Nó đi sâu phản ánh các thuộc tính, mối liên
hệ có tính bản chất, tất yếu, tính quy luật của đối tượng. Tư duy lý luận có khả
năng phê phán sâu sắc và triệt để, có khả năng dự báo khoa học về xu hướng
vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Ở tư duy lý luận, các phương
pháp được hình thành dựa trên những tri thức lý luận, được chủ thể nhận thức,
sử dụng một cách chủ động, tự giác.
Sách lược là những kế sách, chiến thuật nhằm đạt đến mục tiêu tối hậu theo
lập trường đã định. Sách lược có thể “co dãn”, “mềm mỏng”, “linh hoạt”, “uyển


15
chuyển” tùy từng hoàn cảnh cụ thể nhằm đạt mục tiêu đã xây dựng, là phương
thức, cách thức và thời điểm để hoàn thành chiến lược. Như vậy tư duy sách lược
có nghĩa là tư duy về những quyết định cụ thể cho những hành động trong mục
tiêu trước mắt, mục tiêu gần, thực hiện những mắt khâu trong chiến lược.
Tư duy chiến lược là một bước phát triển quan trọng trong quá trình tư
duy của con người. Ngày nay, trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, để có sự phát triển tối ưu đều cần tư duy ở tầm chiến lược. Đặc biệt
đối với nước ta đang cần những bước đi dài, đi tắt, đón đầu để bắt kịp sự phát
triển của thế giới lại càng địi hỏi phải có tư duy chiến lược.
1.1.2. Tư duy chiến lược
Chiến lược và sách lược là hai thuật ngữ xuất phát từ nghệ thuật quân
sự. Chiến lược là phương cách để chiến thắng một cuộc chiến tranh. Ngày nay
đó là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong các lĩnh vực khác nhau. Đối với
lĩnh vực qn sự, nếu khơng có chiến lược sẽ khơng thể chiến thắng. Điều
khác biệt giữa việc có chiến lược hay khơng có chiến lược nằm ở chỗ:
Người khơng có chiến lược đánh trận nào chỉ biết trận đó. Anh ta có thể
chiến thắng trong nhiều trận đánh lớn, nhưng khơng có ý niệm về diễn biến và
chiều hướng của cuộc chiến, phản ứng một cách thụ động trước các diễn biến
của cuộc chiến. Anh ta có thể rất mạnh lúc đầu, nhưng phung phí các cơ hội
và thường khơng phải là người chiến thắng cuối cùng.

Người có chiến lược biết thắng những trận cần phải thắng. Anh ta chú
tâm vào diễn biến và chiều hướng của cuộc chiến. Anh ta biết tích lũy và phát
triển lực lượng, huy động các nguồn lực, chiếm lĩnh và bảo vệ những vị trí
trọng yếu. Người chiến thắng cuối cùng thường là một trong số những người
có chiến lược tốt nhất.
Phạm vi rộng, hẹp không phải một đặc điểm chủ yếu của chiến lược.
Không có một cái ngưỡng về phạm vi phải đạt tới thì mới được coi là chiến


16
lược. Có thể có chiến lược tồn cầu, chiến lược quốc gia, cũng có thể có chiến
lược gia đình, chiến lược cá nhân từng người.
Bản chất của chiến lược là cực kỳ quan trọng, nó quyết định cả mục
đích, phương châm và biện pháp để đạt mục tiêu, song bản chất các chiến
lược rất khác nhau, phải xét từng trường hợp. Chiến lược cần thiết khơng chỉ
với những người có tham vọng là người chiến thắng cuối cùng, hay là những
ai mạnh, mà cần thiết với bất cứ ai. Đặc biệt, đối với những người giữ vai trò
lãnh đạo, quản lý, để đưa đến sự phát triển, lớn mạnh thì không thể thiếu một
chiến lược.
Chiến lược là một kế hoạch dài hạn, tuy nhiên, chiến lược không phải
là một kế hoạch đến từng chi tiết, nó mang tính định hướng nhiều hơn.
Hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về chiến lược, nguyên nhân cơ
bản có sự khác nhau này là do có các hệ thống quan niệm khác nhau về tổ
chức nói chung và các phương pháp tiếp cận khác nhau về chiến lược của tổ
chức nói riêng. Các định nghĩa đó đều giải thích theo nghĩa chiến lược quân
sự hay chiến lược kinh doanh, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến
lược ngành, chiến lược địa phương, chiến lược cá nhân...
Theo Từ điển Tiếng Việt định nghĩa như sau:
“Chiến lược cách mạng là phương châm và kế hoạch có tính chất tồn
cục, xác định mục tiêu chủ yếu và sự sắp xếp lực lượng trong suốt một thời kỳ

của cuộc đấu tranh xã hội, chính trị” [50, tr.157].
Theo một học giả người Đức, Chandle: Chiến lược là việc xác định
mục tiêu, mục đích cơ bản dài hạn của doanh nghiệp và việc áp dụng một
chuỗi các hành động cũng như sự phân bổ các nguồn lực cần thiết để thực
hiện mục tiêu này.
Một học giả khác người Mỹ, Quinn định nghĩa: Chiến lược là mô thức
hay kế hoạch tích hợp các mục tiêu chính.


17
Giữa chiến lược và sách lược có mối liên hệ với nhau, chúng đều
được hành động với sự chính xác để giành được mục tiêu cụ thể. Tuy
nhiên, chúng có những điểm khác nhau căn bản. Về mặt quy mô, chiến
lược đặt ra mục tiêu to lớn, còn sách lược thì có giới hạn; về phạm vi hoạt
động, chiến lược ở mức rộng lớn và tổng thể còn sách lược có điểm tập
trung cụ thể; chiến lược tuy cũng cần phải linh hoạt nhưng khơng thay đổi
q nhanh cịn sách lược thì linh hoạt và nhanh chóng. Với nhiệm vụ chiến
lược, một kế hoạch được bắt đầu với việc đưa ra viễn cảnh tương lai nhưng
phải đưa ra được những bước đi chính xác tới mục tiêu, do đó nó phải được
thiết lập một cách cẩn thận bởi trong thời gian dài, mọi thứ đều có thể có
rất nhiều biến đổi.
Như trên đã nêu, có rất nhiều định nghĩa về chiến lược, nhưng có thể
khái quát lại rằng: chiến lược là định hướng cơ bản về mục tiêu, nội dung,
bước đi và phương thức để hoạch định, sắp xếp, quy tụ lực lượng, đề ra giải
pháp đạt được mục tiêu nhất định bằng con đường hiệu quả nhất, tạo ra
trạng thái phát triển mới của một lĩnh vực, toàn thể xã hội trong thời kỳ nhất
định. Cần chú ý đó là những mục tiêu dài hạn nhằm thực hiện một hoặc một
loạt các hoạt động cho sự phát triển.
Vậy tư duy chiến lược là gì? Tính chiến lược của tư duy thể hiện ở tầm
nhìn xa trơng rộng về những đối tượng mà nó phản ánh. Xa và rộng ở đây bao

hàm cả không gian và thời gian vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng
trong thực tế tồn tại của nó. Tư duy chiến lược là q trình nhận thức lý tính
về tồn cục của đối tượng tác động, đi sâu vào bản chất, tìm ra quy luật vận
động của nó để có sự tác động đạt kết quả tốt nhất. Tư duy chiến lược là một
sức nhìn, tầm nhìn, nhưng khơng phải là cái nhìn của mắt, mà là cái “nhìn”
của tư duy, trí tuệ. Có được tư duy chiến lược tức là hiểu sát tình hình, xác
định đúng mục đích và hiệu quả mong muốn, có tính sáng tạo cao, phát hiện


18
sớm những tín hiệu báo trước sự thay đổi hay những mầm mống của cái mới,
đạt đến mục tiêu với hiệu quả cao.
Tư duy chiến lược được thể hiện ở tầm nhìn sâu về lịch sử, nhìn đúng về
hiện tại, nhìn rõ về tương lai; đồng thời tư duy chiến lược mang tính bao quát
về từng mặt, từng ngành, từng miền, từng địa phương mà có cái nhìn hệ
thống, tổng thể. Từ đó lựa chọn chính xác điểm mấu chốt, cơ bản, đề ra được
các biện pháp thực hiện mục đích một cách tối ưu.
Tư duy chiến lược là tư duy mang tính sáng tạo, sớm phát hiện được các
tín hiệu của sự thay đổi, của cái mới, của bước ngoặt. Kịp thời phát hiện cái
mới đúng đắn, chống giáo điều cũ, phòng và chống giáo điều mới. Tư duy
chiến lược định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của
con người, giúp con người có tầm nhìn xa, trơng rộng trong hoạt động của
mình; dự báo được các tình huống có thể xảy ra; trên cơ sở đó chủ động đề ra
các phương án dự phịng. Do vậy, tư duy chiến lược giúp con người chủ động,
tự giác trong hoạt động. Đặc trưng quan trọng của tư duy chiến lược là xác
định được xu thế vận động của thực tiễn, của đối tượng mà nó phản ánh.
1.2. TƯ DUY CHIẾN LƯỢC VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO
CẤP HUYỆN

1.2.1. Cán bộ lãnh đạo cấp huyện

Cán bộ lãnh đạo nhìn chung là chỉ những người đứng đầu, phụ trách
một tổ chức, đơn vị, phong trào nào đó do bầu cử hoặc chỉ định. Cán bộ lãnh
đạo có trách nhiệm đề ra những phương hướng, chủ trương, quyết định có
tính chiến lược về đơn vị mình phụ trách. Cán bộ lãnh đạo còn là người dẫn
dắt, tổ chức đơn vị, phong trào theo hướng đi cụ thể, điều chỉnh những quyết
định phù hợp với sự thay đổi của điều kiện khách quan.
Hoạt động lãnh đạo là hoạt động mang tính chất định hướng của chủ
thể lãnh đạo đến đối tượng lãnh đạo bằng nhiều phương pháp (giáo dục,


19
thuyết phục, động viên,…) nhằm đạt mục đích nhất định. Như vậy, hoạt động
lãnh đạo có bản chất là sự tác động định hướng, điều chỉnh hoạt động của con
người đạt tới mục đích nhất định. Tính định hướng địi hỏi người lãnh đạo
đứng đầu các cơ quan, đoàn thể, tổ chức nói chung, cấp huyện nói riêng phải
có trình độ nhất định về tư duy chiến lược. Bởi lẽ tư duy chiến lược có vai trị
rất quan trọng trong định hướng hoạt động lãnh đạo.
Hoạt động của người cán bộ lãnh đạo nói chung, cán bộ lãnh đạo cấp
huyện nói riêng là q trình tác động, điều khiển giữa chủ thể lãnh đạo quản
lý với khách thể. Khách thể ở đây là những người dưới quyền và quần chúng
nhân dân nhằm đạt được mục tiêu cao nhất trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Hoạt động lãnh đạo có nhiều khâu, nhiều bước, có thể diễn đạt
thành: Nắm bắt và xử lý thông tin, ra quyết định, tổ chức lực lượng thực hiện
quyết định, tổ chức kiểm tra việc thực hiện quyết định… Tất cả những bước
này đều cần tư duy chiến lược.
Trong hệ thống hành chính bốn cấp của nước ta hiện nay (Cấp Trung
ương; cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; cấp quận, huyện; cấp xã,
phường, thị trấn thì cấp quận (huyện) có vai trò quan trọng trên nhiều
phương diện của đời sống xã hội. Cấp quận (huyện) là mắt khâu quan trọng
nối giữa cấp tỉnh (thành phố) với cơ sở địa phương. Đây vừa là nơi phản

ánh, truyển tải chủ trương, đường lối chính sách của cơ quan cấp trên,
nhưng đồng thời địi hỏi sự xử lý thơng tin linh hoạt phù hợp với thực tiễn
cụ thể trên địa bàn quận (huyện). Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước, của Thành phố có triển khai được ở cấp cơ sở, tới người
dân được hay không tùy thuộc nhiều vào sự lãnh đạo của đội ngũ này.
Đồng thời, đây cũng là nơi bao quát tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội,
văn hóa, an ninh…trên địa bàn huyện.
Người cán bộ lãnh đạo cấp huyện là những người có chức vụ quan
trọng trong cấp ủy, chính quyền và các cơ quan chuyên trách ở cấp huyện


20
(Bao gồm các chức danh Bí thư, Phó bí thư, Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân; Trưởng, Phó phịng ban, ngành, đồn thể và
tương đương của cấp huyện). Người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện đóng
vai trị là khâu trung gian, là cầu nối trong quá trình lãnh đạo, quản lý từ cấp
tỉnh xuống cấp cơ sở. Với vị trí, vai trò như vậy hoạt động lãnh đạo, quản lý
của người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện vừa mang tính chất định hướng
chung ở địa bàn cấp huyện vừa mang tính chỉ đạo thực tiễn cụ thể ở địa bàn
cấp xã, phường, thị trấn thuộc huyện.
Chúng ta đều rõ sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước được
thể hiện qua chủ trương đường lối, chính sách, pháp luật và các biện pháp lớn.
Những chủ trương, đường lối, chính sách ấy tác động đến tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Những chủ trương, đường lối, chính sách đó chỉ trở
thành hiện thực khi gắn nó với phong trào cách mạng của quần chúng nhân
dân ở cơ sở. Để hiểu rõ bản chất của đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước và ý thức thực hiện của các địa phương ở cơ sở thì khơng thể thiếu được
vai trị của cấp tỉnh. Nếu như cấp tỉnh là khâu trung gian giữa cấp Trung ương
và cấp huyện, hoạt động của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh chủ yếu mang
tính chất định hướng trên địa bàn tỉnh thì cấp huyện như chúng ta đã rõ là cấp

trên trực tiếp của cấp cơ sở. Vì thế, cấp huyện là cấp vừa phải lĩnh hội, triển
khai đường lối, chủ trương định hướng từ cấp trên còn phải trực tiếp chỉ đạo,
điều hành, quản lý cấp cơ sở thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước cũng như chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh ủy
và Ủy ban nhân dân tỉnh.
Trong thời kỳ đổi mới hiện nay đối với người cán bộ lãnh đạo cấp
huyện cũng có những yêu cầu cao hơn so với giai đoạn trước. Bên cạnh
những yêu cầu cơ bản của người cán bộ lãnh đạo cịn có những yêu mới, cụ
thể đối với người cán bộ lãnh đạo cấp huyện.


21
Trước hết, yêu cầu chung cho đội ngũ cán bộ nước ta là kiên trì chủ
nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chủ
trương của Đảng về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; có đạo đức
cách mạng trong sáng, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng của
Đảng vì lợi ích giai cấp, lợi ích nhân dân và lợi ích dân tộc; biết vận dụng
sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng vào lĩnh vực lãnh đạo, quản lý
do mình đảm nhiệm và tổ chức thực hiện chúng thật tốt; thực hiện có hiệu
quả các nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao phó; biết tơn trọng dân, lấy
dân làm gốc và lắng nghe ý kiến dân trong khi thực hiện nhiệm vụ lãnh
đạo, quản lý của mình để tránh những sai lầm có thể xảy ra. Những cán bộ
lãnh đạo của huyện phải là những người tiêu biểu cho sự thực hiện công
bằng, sự chấp hành luật pháp; học và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh,v.v...
Cán bộ lãnh đạo cấp huyện phải có trình độ chun mơn từ đại học và
trình độ lý luận chính trị từ cao cấp trở lên. Đây là tiền đề quan trọng để người
lãnh đạo nhận thức được các quy luật khách quan, tiếp thu đúng đắn các chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước đề ra cho công tác lãnh

đạo và quản lý ở cấp huyện trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Người cán bộ
lãnh đạo cấp huyện cần có trình độ tri thức khoa học nhất định để tiếp thu và
tìm ra phương thức tổ chức, biện pháp hữu hiệu thực hiện đạt kết quả. Đồng
thời phải có phong cách làm việc khoa học, chính xác, mau lẹ, sâu sát, nhất là
trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ. Họ
cũng cần có năng lực lãnh đạo và quản lý, có kiến thức sâu rộng, tồn diện và
tư duy chính trị nhạy cảm. Điều này giúp cho người cán bội lãnh đạo cấp
huyện định ra chủ trương, phương pháp công tác khoa học đúng với thực tế
địa phương mình và mỗi khi làm việc gì đều biết tính tốn, lựa chọn phương


22
án tối ưu để thực hiện; dám nghĩ, dám làm và luôn nắm quyền chủ động với
mọi công việc.
Bên cạnh đó, cán bộ lãnh đạo cấp huyện cũng cần phải am hiểu về khoa
học sản xuất kinh doanh của một số lĩnh vực như: nông nghiệp, thủ công nghiệp,
dịch vụ... trên địa bàn mình lãnh đạo, quản lý. Kiến thức này khơng nhất thiết
phải ở trình độ chun gia, nhưng phải hiểu biết những vấn đề cơ bản nhất để
khi thực hiện sự lãnh đạo và quản lý sản xuất, kinh doanh ở các lĩnh vực nói trên
khơng bị lạc hậu trước những tiến bộ khoa học kỹ thuật của thời đại.
Với tất cả những yêu cầu trên, đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo cấp quận
huyện một mặt, phải nắm chắc, hiểu sâu sắc đường lối, chủ trương chung của
cấp trên; mặt khác phải tường tận tình hình thực tế của địa phương về mọi
mặt và xu hướng vận động của nó. Từ đó xây dựng được các chương trình, kế
hoạch, có những giải pháp, kiến nghị phù hợp với thực tiễn cụ thể địa phương,
tạo điều kiện phát huy thế mạnh của từng vùng, từng địa bàn cụ thể, làm cho
kinh tế - xã hội của huyện đó phát triển.
1.2.2. Những yêu cầu trong bồi dưỡng tư duy chiến lược cho cán bộ
lãnh đạo cấp huyện
1.2.2.1. Bồi dưỡng phương pháp biện chứng duy vật

Nói đến tư duy chiến lược là nói đến khả năng tư duy với tầm nhìn xa
trơng rộng, khả năng bao qt, khái qt, đưa ra những chủ trương, kế
hoạch đúng đắn cho sự phát triển trong tương lai. Để có được tư duy
chiến lược thì người cán bộ lãnh đạo nói chung trước hết cần được bồi
dưỡng, trau dồi phương pháp biện chứng duy vật. Phương pháp biện
chứng duy vật giúp chủ thể đi sâu nhận thức bản chất của sự vật, hiện
tượng, gạt bỏ cái bề ngoài, ngẫu nhiên, hạn chế các phương pháp siêu
hình, kinh nghiệm, giáo điều.
Khái niệm phương pháp được đề cập phổ biến, tùy từng lĩnh vực khoa


23
học cụ thể mà có những cách định nghĩa khác nhau. Theo nghĩa chung nhất
thì phương pháp là: “cách thức đạt tới mục tiêu, là hoạt động được sắp xếp
theo một trật tự nhất định” [49, tr.458]. Theo nghĩa triết học thì phương pháp
với tính cách là phương tiện nhận thức thì: “phương pháp là cách thức tái hiện
lại đối tượng nghiên cứu trong tư duy. Việc áp dụng một cách có ý thức những
phương pháp đã được luận chứng một cách khoa học là điều kiện quan trọng
nhất để nhận thức được tri thức mới” [49, tr.458].
Trong lịch sử triết học, vấn đề về phương pháp của tư duy được đề cập
đến ngay từ khi triết học ra đời và trong quá trình phát triển của nhận thức đã
vạch ra được những nguyên tắc chung của tư duy khoa học như quy nạp, diễn
dịch, phân tích, tổng hợp, so sánh, thực nghiệm…Cơ sở của mọi phương pháp
là quy luật khách quan. Phương pháp mà triết học đề ra là phương pháp nhận
thức chung nhất - phương pháp biện chứng duy vật. Phương pháp này không
thay thế phương pháp của các ngành khoa học khác mà là cơ sở triết học
chung, được dùng làm công cụ nhận thức trong mọi lĩnh vực. Phương pháp
biện chứng duy vật là phương pháp nhận thức và cải tạo thế giới.
Phương pháp biện chứng duy vật ra đời không phải ngay từ đầu đã đạt
được quan niệm khoa học mà trải qua lịch sử phát triển, cùng những sự biến

đổi của thực tiễn, sự phát triển của tư duy nhân loại, tư duy triết học. Cho tới
C.Mác và Ph.Ănghen mới sáng tạo ra được một quan niệm thật sự khoa học
về phương pháp biện chứng. Hai ông đã xây dựng phương pháp biện chứng
trên cơ sở quan niệm duy vật về quá trình lịch sử và sự phát triển của nhận
thức, trên cơ sở tổng kết những quá trình hiện thực đang xảy ra trong tự nhiên,
trong xã hội và tư duy. Trong phương pháp biện chứng khoa học, những quy
luật phát triển của tồn tại và của nhận thức được kết hợp một cách hữu cơ.
Phương pháp biện chứng duy vật không chỉ là học thuyết về bản thể luận mà
còn là học thuyết nhận thức luận, là lơgíc học xem xét tư duy và nhận thức


24
một cách như nhau trong sự hình thành và phát triển, bởi vì các sự vật và hiện
tượng là cái mà chúng đang hình thành trong quá trình phát triển. Trong
những sự vật và hiện tượng đó đã có sẵn tương lai của chúng với tính cách là
xu thế, cái mà chúng sẽ trở thành.
Có thể nói, phương pháp biện chứng duy vật là phương pháp đỉnh cao
của phương pháp tư duy khoa học, giá trị của nó được thể hiện ở chỗ nó là
giải pháp cho những vấn đề mà tư tưởng tiến tới của loài người đặt ra, soi
sáng các nhiệm vụ lịch sử. Chỉ có phương pháp biện chứng duy vật mới có sự
giải thích khoa học về những quá trình vận động, phát triển của tự nhiên, xã
hội và tư duy, nắm được quy luật vận động của lịch sử, đem lại những giải
pháp khoa học cho những vấn đề do cuộc sống đặt ra và vạch ra phương
hướng giải quyết những vấn đề đó một cách khoa học. Lênin đã từng khẳng
định phép biện chứng duy vật là “học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức
hồn bị nhất, sâu sắc nhất và khơng phiến diện” [21, tr.53]. Phương pháp biện
chứng duy vật không chỉ phản ánh đúng đắn thế giới khách quan mà còn chỉ
ra những cách thức cho con người trong nhận thức và cải tạo thế giới. Phương
pháp biện chứng duy vật không chỉ khái quát những thành tựu của các nhà
khoa học chuyên ngành, các khoa học cụ thể mà nó cịn kết tinh những tinh

hoa trong q trình phát triển tư tưởng triết học nhân loại.
Phương pháp biện chứng duy vật là phương pháp triết học nghiên cứu
tự nhiên và xã hội. Với quan điểm biện chứng, nghiên cứu sự vật, hiện tượng
trong sự ràng buộc, quy định lẫn nhau, cái này là điều kiện, tiền đề cho cái
kia; nghiên cứu sự vật trong sự vận động, biến đổi chuyển hóa khơng ngừng
trong đó có những yếu tố đang phát sinh phát triển, có những yếu tố đang suy
vong; các sự vật, hiện tượng, quá trình đều hàm chứa những mâu thuẫn bên
trong nó. Như vậy, chỉ theo quan điểm của phép biện chứng duy vật mới có
thể hiểu được con đường hình thành phức tạp, đầy mâu thuẫn của chân lý


25
khách quan, mối quan hệ của những yếu tố tuyệt đối và tương đối, ổn định và
biến đổi, những sự chuyển hóa từ những hình thức khái qt này sang hình
thức khái quát khác sâu sắc hơn, trên mỗi giai đoạn phát triển của khoa học.
Phương pháp biện chứng duy vật khơng dung hịa bất cứ sự bất động và
trì trệ nào, điều đó làm cho nó trở thành cơng cụ cải tạo thực tiễn xã hội, giúp
tính tốn một cách khách quan tới những yêu cầu lịch sử của sự phát triển
xã hội, tình trạng những hình thức và nội dung cũ khơng cịn phù hợp phải
chuyển đến sự phát triển cao hơn thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội lồi người.
Với phép biện chứng thì phương pháp biện chứng nói chung, trong q
trình hình thành và phát triển của mình đã khơng ngừng giải quyết những
vấn đề có tính căn cứ duy vật và hợp lý trước những hiện tồn của lịch sử xã
hội loài người.
Như vậy, phương pháp biện chứng duy vật giúp người cán bộ lãnh đạo
huyện xem xét sự vật, hiện tượng cùng những phản ánh của chúng trong mối
liên hệ, ràng buộc, chuyển hóa lẫn nhau, trong sự vận động, biến đổi khơng
ngừng của chúng theo khuynh hướng chung là phát triển với việc không
ngừng giải quyết những mâu thuẫn để định hướng cho hoạt động nhận thức và
thực tiễn của chủ thể nhằm đạt được mục đích đã xác định.

Phương pháp biện chứng duy vật đối lập với phương pháp siêu hình.
Phương pháp siêu hình xem xét sự vật, hiện tượng trong thế giới một cách cơ
lập, tĩnh tại, khơng có mối liên hệ với nhau, không vận động, biến đổi và phát
triển. Nếu có thừa nhận sự vận động thì quy mọi sự vận động vào vận động cơ
học, là sự di chuyển của vật thể trong không gian, sự phát triển của thế giới là
sự tăng lên hoặc giảm đi về số lượng, là sự lặp lại theo vòng tuần hồn mà
khơng thấy được trong q trình đó diễn ra những bước nhảy vọt về chất,
những thay đổi cách mạng làm cái cũ mất đi, cái mới ra đời. Phương pháp
siêu hình khơng thấy được nguồn gốc, động lực của sự phát triển nằm ngay


×