Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường sinh thái cho nhân dân tỉnh kiên giang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.8 KB, 90 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mơi trường là nơi sinh sống và hoạt động của con người, là nơi tồn tại
của xã hội. Môi trường sống của con người không đơn giản chỉ là môi trường
địa lý, cũng không phải chỉ là môi trường tự nhiên thuần tuý mà là môi trường
tự nhiên - xã hội hay môi trường “tự nhiên người hoá” “Con người vừa là
sinh vật, vừa là người nhào nặn mơi trường của mình. Mơi trường tạo cho con
người phương tiện sinh nhai về mặt thể chất, ban cho con người cơ hội phát
triển trí tuệ, đạo đức, xã hội và tinh thần” . Ngày nay mơi trường sống của con
người và xã hội lồi người thường được gọi là môi trường sinh thái.
Môi trường sinh thái là một trong những vấn đề có tính tồn cầu cấp
bách, dù đó là quốc gia phát triển hay đang phát triển. Sự ơ nhiễm, suy thối
và những sự cố môi trường diễn ra ngày càng ở mức độ cao, con người đang
đứng trước sự “trả thù” ghê gớm của tự nhiên. Nguy cơ ơ nhiễm,suy thối
mơi trường đang trở nên nóng bỏng ở các quốc gia đang phát triển - nơi nhu
cầu cuộc sống hàng ngày của con người và nhu cầu phát triển của xã hội đang
xung đột mạnh mẽ với sự cần thiết bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi
trường sống của con người. Việt Nam hiện đang đứng trong danh sách các
quốc gia đang phát triển có thu nhập trung bình và cũng đang phải đối mặt với
khơng ít vấn đề mơi trường.
Có nhiều ngun nhân dẫn đến hiện trạng suy thối mơi trường sinh
thái như hiện nay. Trước hết phải kể đến sự hành động vô ý thức do sự hạn
chế về mặt tri thức khoa học và công nghệ của con người trong quá trình tác
động qua lại giữa xã hội và tự nhiên, hay do chạy theo lợi nhuận trước mắt.
Ở nước ta tình trạng ơ nhiễm mơi trường hiện nay có nguyên nhân chủ
yếu là do nhu cầu ngày càng tăng của nền sản xuất xã hội, do chưa hồn thiện
của kỹ thuật, cơng nghệ khai thác chế biến, do sự hiểu biết còn hạn chế của con


2


người đối với mơi trường thiên nhiên. Ngồi ra, cịn phải kể đến các yếu tố xã
hội nhân văn như văn hoá, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán, pháp luật, tâm
lý con người chưa thay đổi kịp thời với sự biến đổi nhu cầu của con người.
Trong thời gian qua, khi bàn về vấn đề môi trường và bảo vệ môi
trường người ta chỉ chủ yếu quan tâm đến các khía cạnh kỹ thuật cơng nghệ,
kinh tế, y học, pháp luật còn các yếu tố nhân văn nhất là các yếu tố văn hoá
truyền thống dân tộc, ý thức, đạo đức, lối sống chưa được chú ý đúng mực,
mặc dù đó là những yếu tố rất cơ bản và quan trọng trong việc điều chỉnh
hành vi của con người trong quá trình khai thác và sử dụng các nguồn tài
ngun thiên nhiên và bảo vệ mơi trường. Vì vậy, khi xác định vấn đề bảo vệ
môi trường là trách nhiệm của mỗi quốc gia và của cả loài người thì việc xây
dựng mối quan hệ hài hồ giữa con người và tự nhiên phải được coi là yêu
cầu mới của thời đại đối với phẩm chất, ý thức đạo đức của con người.
Ý thức bảo vệ môi trường sinh thái được thể hiện trực tiếp trong các
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, nó địi hỏi mọi người, nhất là các
tầng lớp nhân dân phải được thường xuyên nâng cao ý thức bảo vệ môi
trường sinh thái mà trước hết là nâng cao ý thức sự hiểu biết về môi trường
sinh thái, hiểu biết các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà
nước về mơi trường sinh thái và phải có sự tự ý thức với tinh thần tự giác cao
trong việc bảo vệ mơi trường sinh thái.
Tỉnh Kiên Giang có diện tích tự nhiên trên 6.345km2, trong đó diện
tích sản xuất nơng nghiệp chiếm trên 64%, diện tích rừng trên 122 nghìn ha
đã thăm dò xác định 152 điểm quặng và 23 mỏ khống sản, trong đó trữ
lượng đá vơi 440 triệu tấn, than bùn 150 triệu tấn, Kiên Giang có bờ biển dài
200 km với diện tích 63.000km2 và hơn 100 hịn đảo lớn nhỏ. Tỉnh đã tiến
hành quy hoạch 15 khu-cụm công nghiệp, tập trung quy hoạch và kêu gọi đầu
tư phát triển du lịch Hà Tiên, Kiên Lương, Rạch Gía, Hòn Đất, Kiên Hải, quy


3

hoạch khu đô thị, khu chức năng của đảo Phú Quốc, tập trung xây dựng nhiều
cảng biển, cảng hàng không, các tuyến giao thông trọng điểm trên đảo.
Hoạt động sản xuất kinh doanh, khai thác tài nguyên, khoáng sản, đầu
tư xây dựng đã làm cho tình trạng ơ nhiễm mơi trường diễn ra ở nhiều nơi,
nhất là các cơ sở chế biến thủy sản, khu du lịch, đô thị, dân cư, bệnh viện, các
sông, rạch. Nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh có nguy cơ gây ơ nhiễm mơi
trường nghiêm trọng nhưng chưa có hệ thống xử lý nước thải, xả nước thải
chưa qua xử lý, khí thải ra mơi trường vượt quá tiêu chuẩn cho phép, vận
chuyển, xử lý chất thải nguy hại không đúng quy định, chất thải công nghiệp,
chất thải rắn…
Các tầng lớp nhân dân là nguồn nhân lực trước mắt cũng như lâu dài
đáp ứng yêu cầu của đất nước, phục vụ thiết thực cho sự phát triển kinh tế - xã
hội nói chung, của từng ngành, từng lĩnh vực, từng vùng, từng địa phương nói
riêng. Là đối tượng trực tiếp thực hiện, tham gia kiểm tra, giám sát việc thực
hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, là nguồn
lực để đào tạo, bồi dưỡng trở thành các nhà quản lý, những người ra quyết
định, những nhà kỹ thuật, cán bộ nghiên cứu, tham gia vào các tổ chức kinh
tế, chính trị, văn hoá, xã hội, y tế, các hoạt động mà ít nhiều có liên quan đến
mơi trường sống trong tương lai. Vì vậy vấn đề nâng cao ý thức bảo vệ môi
trường sinh thái cho nhân dân Kiên Giang có ý nghĩa to lớn đến sự phát triển
bền vững của địa phương nói riêng , cả nước nói chung.
Để bảo vệ và khắc phục tình trạng ơ nhiễm mơi trường trong thời gian
qua, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh, các ngành chức năng
đã tập trung xây dựng, từng bước hoàn thiện các quy chế, quy định; xây dựng,
triển khai các chiến lược quy hoạch, kế hoạch bảo vệ môi trường, ứng dụng
khoa học công nghệ, tuyên truyền các cá nhân đoàn thể bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên để giải quyết vấn đề môi trường sinh thái một cách toàn diện và


4

bền vững thì những giải pháp về kinh tế, hành chính, pháp luật là chưa đủ mà
cần phải nâng cao ý thức, nhận thức bảo vệ môi trường sinh thái cho các tầng
lớp nhân dân là một trong những vấn đề cần được quan tâm nhất hiện nay.
Với những lý do trên tác giả chọn “Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường sinh
thái cho nhân dân tỉnh Kiên Giang hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ
chuyên ngành triết học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xung quanh vấn đề ý thức bảo vệ môi trường sinh thái đã được đề cập
trong nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học.
PGS,TS. Vũ Trọng Dung trong “Đạo đức sinh thái và giáo dục đạo đức
sinh thái”, Nxb Chính trị quốc gia, HN.2009 đã viết “ …trong đạo đức sinh
thái chỉ có con người chủ động quan hệ, tác động lên các khách thể tự nhiên,
chỉ có con người tự giác đặt ra những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực để tự
điều chỉnh hành vi của mình trong quan hệ với tự nhiên…đồng thời phải có
những hiểu biết sâu xa về các giá trị của các yếu tố tự nhiên. Trên cơ sở
những hiểu biết đó, con người mới có thể chọn lựa xác định được những hành
vi đạo đức đúng đắn, phù hợp trong quá trình khai thác, sử dụng tài nguyên
thiên nhiên và bảo vệ môi trường” [12, tr.80]
GS,TS.Vũ Đình Cự và PGS,TS. Trần Xuân Sầm trong cuốn sách: “Lực
lượng sản xuất mới và kinh tế tri thức” đã khẳng định rằng “Ngày nay, chúng
ta hiểu thái độ tích cực của con người đối với tự nhiên là một đặc thù phản
ánh tư chất cao nhất của con người khác hẳn với các loài động vật khác. Một
mặt, con người phải chuyển đổi các nguồn lực của tự nhiên thành các sản
phẩm để đáp ứng nhu cầu cơ bản nhất là “sản xuất ra đời sống con người”;
mặt khác, lại phải có ý thức bảo vệ, duy trì, phục hồi các nguồn lực tự nhiên.
Con người cần có thái độ sống thân thiện với tự nhiên chứ không chỉ là chinh
phục hay “chiến thắng” tự nhiên” [10, tr.28-29].


5

TS Nguyễn Hữu Khải (chủ biên) trong “Nhãn sinh thái đối với hàng
hoá xuất khẩu và tiêu dùng nội địa”, Nxb Lý luận chính trị đã đề cập đến mối
quan hệ giữa các điều khoản của hệ thống thương mại và những biện pháp
thương mại vì mục đích bảo vệ môi trường, các điều mục của hệ thống
thương mại liên quan đến tính thơng suốt của những biện pháp thương mại vì
mục đích bảo vệ mơi trường sinh thái.
Ngồi ra cịn có rất nhiều bài báo, tạp chí đề cập đến vấn đề này:
Phạm Thị Ngọc Trầm (2002), “Vấn đề xây dựng đạo đức sinh thái
trong điều kiện kinh tế thi trường”, Tạp chí triết học, số 3.
Phạm Khơi Ngun (2009), “Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa
trong công tác bảo vệ mơi trường”, Tạp chí cộng sản, số 797.
Vũ Minh Tâm (2005) “Xây dựng văn hoá sinh thái - nhân văn ở nông
thôn Việt Nam hiện nay”, Tạp chí lý luận chính trị, số 2.
Hồ Văn Vĩnh (2009), “Bảo vệ tài ngun mơi trường vì mục tiêu phát
triển bền vững”, Tạp chí lý luận chính trị, số 7.
Trần Sỹ Phán (2006) “Đạo đức sinh thái-vấn đề cần được quan tâm”,
Tạp chí giáo dục lý luận, số 7.
Hồ Sĩ Q (2005), “Về đạo đức mơi trường”, Tạp chí triết học, số 9.
Lê Thị Thanh Hà (2012), “Ph.Ăngghen - Nhà lý luận thiên tài trong lĩnh
vực bảo vệ môi trường”, Thông tin những vấn đề triết học và đời sống, số 4 (40).
Vấn đề này cũng được tiếp cận ở một số luận án, luận văn, đề tài như:
Vũ Trọng Dung (chủ nhiệm đề tài), “Đạo đức sinh thái và việc giáo
dục đạo đức sinh thái cho cán bộ cấp huyện ở các tỉnh phía Bắc nước ta hiện
nay”, Đề tài cấp bộ năm 2003 - 2004.
Bùi Văn Dũng: “Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi
trường cho sự phát triển lâu bền”, Luận án Tiến sĩ Triết học, năm 1999.
Nguyễn Tiến Hùng: “Vấn đề bảo vệ mơi trường sinh thái trong q
trình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá ở ngoại thành Hà Nội hiện nay”, Luận
văn Thạc sĩ Triết học, 2009.



6
Trần Thị Thủy, “Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường sinh thái cho sinh
viên ở Bình Dương hiện nay” Luận văn Thạc sĩ Triết học, 2010.
Nhìn chung, những cơng trình nghiên cứu trên đã ít nhiều đề cập đến
vấn đề đạo đức sinh thái nói chung, giáo dục bảo vệ mơi trường sinh thái nói
riêng và chỉ ra những yêu cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay là phải tăng
cường công tác giáo dục đạo đức sinh thái để tạo điều kiện phát triển bền
vững. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu
một cách toàn diện và sâu sắc vấn đề nâng cao ý thức bảo vệ môi trường sinh
thái cho các tầng lớp nhân dân ở Kiên Giang hiện nay. Vì thế tác giả chọn và
nghiên cứu đề tài này với hy vọng sẽ góp phần tìm ra những giải pháp để
nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường sinh thái cho các tầng lớp nhân dân
ở Kiên Giang hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích thực trạng mơi trường sinh thái và ý thức bảo vệ
môi trường sinh thái của các tầng lớp nhân dân ở Kiên Giang, đề xuất một số
giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường sinh thái cho các
tầng lớp nhân dân ở Kiên Giang hiện nay .
3.2. Nhiệm vụ
- Luận văn tập trung làm rõ một số khái niệm cơng cụ có liên quan đến
đề tài. Chỉ ra tầm quan trọng của việc nâng cao ý thức bảo vệ môi trường sinh
thái cho các tầng lớp nhân dân ở Kiên Giang hiện nay .
- Phân tích thực trạng ý thức bảo vệ môi trường sinh thái cũng như
thực trạng nâng cao ý thức bảo vệ môi trường sinh thái cho các tầng lớp nhân
dân ở Kiên Giang hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi
trường sinh thái cho các tầng lớp nhân dân ở Kiên Giang hiện nay.



7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề nâng cao ý thức bảo vệ môi
trường sinh thái cho các tầng lớp nhân dân ở Kiên Giang hiện nay (học sinh,
các tầng lớp nhân dân, kể cả cán bộ, công chức, viên chức…).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Dưới góc độ triết học, luận văn chỉ tập trung làm rõ thực chất nâng cao
ý thức bảo vệ môi trường sinh thái là nâng cao. Tri thức, tình cảm, niềm tin, lý
trí, ý chí... cho các tầng lớp nhân dân ở Kiên Giang từ khi đất nước bước vào
thời kỳ đổi mới đến nay mà chủ thể nâng cao là các cấp ủy Đảng, chính quyền
và các tổ chức chính trị - xã hội.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn thực hiện dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về môi trường,
bảo vệ môi trường sinh thái. Ngoài ra, thực hiện luận văn này tác giả cịn
tham khảo và kế thừa có chọn lọc những cơng trình khoa học đã cơng bố có
liên quan trực tiếp đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận chung của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với phương
pháp phân tích và tổng hợp, khảo sát, thống kê, so sánh…
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ tầm quan trọng của việc nâng cao ý thức
bảo vệ môi trường sinh thái cho các tầng lớp nhân dân ở Kiên Giang hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường
sinh thái cho các tầng lớp nhân dân ở Kiên Giang hiện nay.



8
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần vào việc đưa ra những cơ sở khoa học cho việc
nâng cao ý thức bảo vệ môi trường sinh thái cho các tầng lớp nhân dân ở Kiên
Giang hiện nay.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, học tập, giảng dạy môn
đạo đức sinh thái, mơi trường; góp phần luận giải, phân tích và khuyến nghị
giải pháp để nâng cao ý thức bảo vệ môi trường sinh thái cho các tầng lớp
nhân dân ở Kiên Giang hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.


9
Chương 1
Ý THỨC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI,
NỘI DUNG VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC NÂNG CAO
Ý THỨC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI CHO CÁC TẦNG
LỚP NHÂN DÂN Ở KIÊN GIANG HIỆN NAY
1.1. Ý THỨC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI VÀ NHỮNG NHÂN TỐ
CƠ BẢN ẢNH HƯỞNG ĐẾN Ý THỨC BẢO VỆ MƠI TRƯỜNG SINH THÁI

1.1.1. Mơi trường sinh thái và ý thức bảo vệ môi trường sinh thái
- Môi trường sinh thái (và một số khái niệm liên quan: môi trường,
sinh thái).
Môi trường là một khái niệm rất rộng và đã có nhiều định nghĩa khác nhau.
Mơi trường bao gồm tất cả những gì bao quanh sinh vật, tất cả các yếu
tố vô sinh và hữu sinh có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên sự sống, phát

triển và sinh sản của sinh vật (trong đó có con người).
Có bốn loại mơi trường phổ biến : mơi trường đất, mơi trường nước,
mơi trường khơng khí và mơi trường sinh vật. Có ba nhóm nhân tố sinh thái:
Một là, nhóm nhân tố vơ sinh, bao gồm tất cả các yếu tố khơng sống của
thiên nhiên có ảnh hưởng đến cơ thể sinh vật như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm...
Hai là, nhóm nhân tố hữu sinh, bao gồm mọi tác động của các sinh vật
khác lên cơ thể sinh vật.
Ba là, nhân tố con người, bao gồm mọi tác động trực tiếp hay gián tiếp
của con người lên cơ thể sinh vật.
Theo PGS.TS Phạm Thị Ngọc Trầm, “Môi trường sinh thái là bao gồm
tất cả những điều kiện xung quanh có liên quan đến sự sống của sinh thể. Đối
với con người, môi trường sinh thái là tất cả những điều kiện tự nhiên và xã
hội, cả vơ cơ và hữu cơ, có liên quan đến sự sống của con người, sự tồn tại và
phát triển của xã hội” [58, tr.16].


10
Nhìn chung, về cơ bản, các định nghĩa nói trên đều cho rằng môi
trường gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo, bao quanh con người và
ảnh hưởng đến sự tồn tại, phát triển của con người. Nội dung cơ bản này cũng
đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam sử dụng trong các văn bản pháp luật, cụ
thể là trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2005: “Môi trường bao gồm các yếu
tố tự nhiên và yếu tố vật chất bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời
sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật” [32, tr.7-8]
Một là, môi trường được hiểu là toàn bộ thế giới vật chất với tất cả sự
đa dạng, phong phú, luôn vận động, phát triển và tồn tại khách quan, hay còn
được gọi là thế giới khách quan - giới tự nhiên. Đó được gọi là mơi trường
Trái Đất hay mơi trường tồn cầu.
Hai là, môi trường được hiểu theo nghĩa là môi trường sống, tức là
phần thế giới vật chất đã và đang tồn tại sự sống. Môi trường này được gọi là

sinh quyển - ngôi nhà chung của tất cả mọi sinh vật trên Trái Đất, kể cả con
người và xã hội loài người với tư cách là những hệ thống vật chất sống. Môi
trường sống bao gồm cả môi trường vô cơ lẫn hữu cơ... Các yếu tố vô cơ và
hữu cơ trong mơi trường sống có mối quan hệ khăng khít và ln tác động lẫn
nhau. Mơi trường sống cịn được gọi là mơi trường sinh thái tự nhiên hay nói
gọn lại là mơi trường sinh thái.
Ba là, mơi trường cịn được hiểu là mơi trường sống của con người
và xã hội lồi người, nó bao gồm: sinh quyển và xã hội lồi người hay cịn
được gọi là mơi trường sinh thái - nhân văn. Đó là mơi trường của mối
quan hệ và tác động lẫn nhau giữa con người và xã hội loài người với các
yếu tố của sinh quyển.
Nhân tố con người trong môi trường sinh thái vừa là chủ thể của môi
trường sinh thái, vừa là một yếu tố cấu thành hệ thống môi trường sinh thái.
Có thể khẳng định rằng, ngày nay khơng có một nơi nào trên trái đất đã và


11
đang có con người sinh sống mà mơi trường sinh thái lại khơng chịu ảnh
hưởng ít nhiều bởi sự tác động của con người.
Tác động của con người đối với mơi trường sinh thái có thể phân ra các
loại tác động chính sau:
Thay đổi, cải tạo các hệ sinh thái tự nhiên. Con người tác động vào các
hệ sinh thái tự nhiên bằng cách thay đổi hoặc cải tạo chúng như:
Chuyển đất rừng thành đất nông nghiệp làm mất đi nhiều loại động thực
vật q hiếm (có lồi tuyệt chủng hồn tồn, chỉ cịn trong sử sách), tăng xói
mịn đất, thay đổi khả năng điều hoà nước và biến đổi khí hậu. Các hệ sinh thái
đất thường kém ổn định và để duy trì chúng, con người phải bổ sung thêm năng
lượng dưới dạng: sức lao động, xăng dầu, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật...
Cải tạo đầm lầy thành đất canh tác, làm mất đi các vùng đất ngập nước có
tầm quan trọng đối với mơi trường sống của nhiều loài sinh vật và con người.

Chuyển đất rừng, đất nông nghiệp thành các khu công nghiệp, khu đô
thị, tạo nên sự mất cân bằng sinh thái khu vực và ô nhiễm cục bộ.
Gây ô nhiễm môi trường ở nhiều dạng hoạt động kinh tế xã hội khác nhau.
Tác động vào cân bằng sinh thái. Tác động của con người vào cân bằng
sinh thái thể hiện như:
Săn bắn quá mức, đánh bắt quá mức, gây ra sự suy giảm, thậm chí làm
biến mất một số lồi và gia tăng sự mất cân bằng sinh thái.
Chặt phá rừng tự nhiên lấy gỗ, làm mất nơi cư trú của động thực vật.
Lai tạo các loài sinh vật mới làm thay đổi cân bằng sinh thái tự nhiên.
Một mặt các loài lai tạo thường kém tính chống chọi với mơi trường tự nhiên,
dễ bị suy thối. Mặt khác, các lồi lai tạo có thể tạo ra một nhu cầu thức ăn
hoặc tác động khác có hại đến các lồi đã có hoặc đối với con người.
Đưa vào hệ sinh thái tự nhiên các hợp chất nhân tạo mà sinh vật khơng
có khả năng phân huỷ như: các chất tổng hợp, dầu mỡ, thuốc trừ sâu, kim loại
độc hại; chất thải khí, chất thải rắn độc hại v.v..


12
Do đó, việc tuyên truyền, giáo dục cho con người có ý thức bảo vệ mơi
trường sinh thái sẽ góp phần bảo vệ, làm phong phú thêm môi trường sinh
thái và hạn chế những tác động có hại đến mơi trường sinh thái kể trên.
Ý thức bảo vệ môi trường sinh thái.
Ý thức bảo vệ môi trường sinh thái là một bộ phận của ý thức con
người nói chung.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, ý thức là sự
phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người một cách năng
động và sáng tạo. Mác đã nhấn mạnh: “Ý thức không bao giờ có thể là cái gì
khác hơn là sự tồn tại được ý thức” [34, tr.37]
Đó là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Tuy nhiên, không phải cứ thế giới

khách quan tác động vào bộ óc người là tự nhiên trở thành ý thức. Ngược lại,
ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo về thế giới, do nhu cầu của việc
con người cải biến giới tự nhiên quyết định và được thực hiện thông qua hoạt
động lao động. “ Ý niệm chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào
trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó” [36, tr.35].
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người,
song đây là sự phản ánh đặc biệt - phản ánh trong quá trình con người cải tạo
thế giới. Quá trình ý thức là quá trình thống nhất của 3 mặt là: trao đổi thông
tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Tiếp đến là mơ hình hóa đối tượng
trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần và cuối cùng là chuyển mơ hình từ
tư duy ra hiện thực khách quan.
Ý thức là sản phẩm lịch sử của sự phát triển xã hội nên về bản chất là
có tính xã hội: Ý thức khơng phải là một hiện tượng tự nhiên thuần túy mà là
một hiện tượng xã hội. Ý thức bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử-xã hội, phản ánh
những quan hệ xã hội khách quan.


13
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về cấu trúc của ý thức. Trong luận
văn này, tác giả tiếp cận cấu trúc của ý thức bao gồm các yếu tố cấu thành
sau: tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí.
Tri thức (knowledge) là kết quả, là sản phẩm chủ yếu của quá trình con
người phản ánh thế giới hiện thực khách quan, của quá trình con người nhận
thức thế giới.
Để sinh tồn và phát triển con người phải tác động vào thế giới hiện thực
khách quan, từ đó tìm ra những điều kiện vật chất đáp ứng trước hết những
nhu cầu tối cần thiết cho cuộc sống: ăn, mặc, ở v… Muốn tác động, khai thác
được thế giới hiện thực khách quan một cách có hiệu quả, con người phải tìm
hiểu, nhận thức thế giới. Hoạt động nhận thức của con người bao gồm việc
tìm kiếm tri thức để tăng cường hiểu biết về tự nhiên, về cộng đồng xã hội và

về bản thân con người, những hiểu biết đó dần dần được tích lũy, được hệ
thống hóa, khái qt hóa hình thành một “quỹ” tri thức chung ngày càng lớn
hơn, phong phú hơn, phản ánh đúng đắn hơn thế giới hiện thực khách quan,
cho nhân loại. Tất nhiên, loài người không chỉ thụ động sử dụng những tri
thức mà các thế hệ trước tích lũy được, mà ngày càng chủ động, tích cực tìm
kiếm thu thập, tích lũy ngày càng nhiều hơn tri thức.
Trải qua nhiều thế kỷ nhận thức thế giới, loài người đã sử dụng những tri
thức đã được tích lũy tạo nên những kỹ thuật, cơng nghệ, đưa ra các giải pháp
tối ưu trên nền tảng những tri thức đó phục vụ cho cuộc sống con người ngày
càng thuận tiện hơn, ngày càng nâng cao hơn chất lượng cuộc sống. Có thể
nói q trình con người nhận thức, tìm kiếm, tích lũy tri thức cũng là quá trình
hình thành và phát triển ý thức của con người.
Tình cảm (emotion): Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản
ánh tồn tại khách quan trong bộ não của con người, phản ánh mối quan hệ
giữa con người với con người và quan hệ giữa con người với thế giới hiện
thực khách quan.


14
Tình cảm là sự rung động, biểu thị thái độ của con người trong quan hệ với
khách thể và với chính bản thân. Có tình cảm tích cực, có tình cảm tiêu cực.
Tình cảm kết hợp với tri thức tạo thành niềm tin (có thể đúng, có thể
sai), góp phần tác động trực tiếp đến ý chí, làm cho ý chí được tăng cường
hoặc giảm sút.
Tùy vào đối tượng của nhận thức khác nhau, tạo nên những loại tình
cảm khác nhau: tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tơn giáo.
Tình cảm tham gia vào mọi hoạt động của con người, chi phối và là
động lực quan trọng của cuộc sống con người.
Tình cảm tích cực sẽ tạo những điều kiện thuận lợi cho cuộc sống và
hoạt động của con người, có ảnh hưởng rõ rệt đến quan hệ con người. Khi có

tình cảm tích cực, con người làm việc quên mệt mỏi, thường có nhiều sáng
kiến hơn, tháo vát hơn trong giải quyết các nhiệm vụ, dễ dàng khắc phục
những khó khăn, trở ngại nẩy sinh. Con người trở nên tốt bụng, quan tâm và
cởi mở hơn đối với người khác.
Tri thức có biến thành tình cảm mãnh liệt mới sâu sắc và bền vững,
đồng thời, tri thức phải thơng qua tình cảm, từ tình cảm biến thành hành động
thực tế, mới có tác động đến thế giới hiện thực khách quan và làm biến đổi
thế giới hiện thực khách quan theo chiều hướng mà con người mong muốn.
Ý chí (will): là những năng lực vượt qua mọi khó khăn trở ngại để đạt
được mục đích (năng lực đó mạnh hay yếu được biểu hiện bằng nghị lực).
Được coi là mặt năng động của ý thức, giúp con người đấu tranh với
mình và ngoại cảnh để thực hiện đến cùng mục đích đã đề ra.
Ý chí điều khiển, điều chỉnh hành vi cho phép con người tự kiềm chế,
làm chủ bản thân, quyết đốn….
Khi phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, chủ nghĩa duy vật
biện chứng khẳng định tính thứ nhất của vật chất, vai trò quyết định của vật


15
chất đối với ý thức; đồng thời thừa nhận tác động trở lại của ý thức đối với thế
giới hiện thực khách quan. Ý thức trang bị cho con người sự hiểu biết về thế
giới xung quanh, giúp con người xác định mục tiêu, lựa chọn phương pháp
cho hoạt động của mình tạo nên ở con người tình cảm, niềm tin, ý chí, thơi
thúc con người nỗ lực hành động để đạt được mục tiêu đề ra. Ý thức có thể
thúc đẩy hoặc kìm hãm sự vận động, phát triển của những điều kiện vật chất ở
những mức độ nhất định.
Nếu ý thức phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan thì nó sẽ làm thúc
đẩy sự phát triển của các điều kiện vật chất. Nếu ý thức phản ánh khơng đúng
đắn hiện thực thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của các điều kiện vật chất. Song
sự kìm hãm đó chỉ mang tính tạm thời, bởi vì sự vật vận động theo các quy

luật khách quan vốn có của nó, nên nhất định phải có ý thức tiến bộ, phù hợp,
thay thế cho ý thức lạc hậu, không phù hợp. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng,
bản thân ý thức, tư tưởng khơng thơi thì khơng thể thực hiện được cái gì hết.
Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng hoạt động thực
tiễn. Chỉ có thơng qua hoạt động thực tiễn của con người ý thức, tư tưởng, lý
luận mới thể hiện được sức mạnh vật chất của mình. Điều này đã được Mác
chỉ ra: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên khơng thể thay thế được sự phê phán
của vũ khí. Lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất.
Nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào
quần chúng” [33, tr.580].
Con người và xã hội loài người là những hệ thống vật chất sống tồn
tại, phát triển trong sinh quyển. Con người không chỉ tồn tại trong mơi
trường tự nhiên mà cịn sống trong mơi trường xã hội, với mối quan hệ tác
động qua lại giữa người với người và những tạo phẩm văn hoá do con
người sáng tạo ra trong quá trình lao động sản xuất. Đây chính là mơi
trường sinh thái - nhân văn. Đó là: môi trường của mối quan hệ và tác động


16
lẫn nhau giữa con người và xã hội loài người với các yếu tố của sinh
quyển. Môi trường sinh thái nhân văn bao gồm tất cả những điều kiện tự
nhiên vốn có cùng những tạo phẩm văn hóa do bàn tay và khối óc của con
người tạo nên từ các chất liệu lấy từ tự nhiên (mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên) và các mối quan hệ, tác động lẫn nhau giữa người và người
(mối quan hệ xã hội hay xã hội).
Bản chất của việc xây dựng ý thức bảo vệ mơi trường sinh thái - nhân
văn chính là tạo ra sự hài hồ, tơn trọng lẫn nhau giữa con người với con
người, con người với xã hội và con người với tự nhiên. Sinh thái - nhân văn
không chỉ phụ thuộc vào các vấn đề kinh tế - xã hội, mà cịn phụ thuộc vào
văn hố, lối sống của một cộng đồng, một xã hội nhất định. Vì vậy, vấn đề

bảo vệ mơi trường sinh thái cũng không chỉ giới hạn trong quan hệ trực tiếp
giữa con người với mơi trường tự nhiên, mà cịn được thể hiện trong quan hệ
giữa con người với con người. Để bảo đảm cho sự phát triển của mình, con
người phải biết yêu quý, bảo vệ tự nhiên và tôn trọng sự đa dạng sinh học.
Song, để bảo vệ tự nhiên, con người lại phải giải quyết thỏa đáng những vấn
đề về kinh tế - xã hội, những quan hệ giữa con người với con người biểu hiện
ở mọi phạm vi: cộng đồng, dân tộc và toàn nhân loại về các mặt phát triển
kinh tế, chuyển giao và sử dụng công nghệ sạch, ngăn chặn chiến tranh, bảo
vệ hịa bình v.v..
Đến nay, trong các cơng trình nghiên cứu khoa học và trong các văn
bản liên quan đến môi trường, chúng ta thường gặp các thuật ngữ như ý thức
sinh thái, ý thức bảo vệ mơi trường sinh thái… Qua đó, chúng ta có thể hiểu ý
thức bảo vệ mơi trường “là hệ thống quan điểm, quan niệm của con người về
hệ sinh thái và ý thức trách nhiệm của con người trong hệ sinh thái đó” [45,
tr.40]. Nói cách khác, ý thức bảo vệ môi trường sinh thái là sự nhận thức một
cách tự giác của con người về tự nhiên và thái độ, trách nhiệm của con người


17
đối với mơi trường sinh thái được hình thành trên cơ sở những tri thức, sự
hiểu biết của con người về tự nhiên và vị trí, vai trị của con người trong mối
quan hệ với tự nhiên.
Theo tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm: “Có thể coi ý thức sinh thái là sự
nhận thức một cách tự giác của con người về mối quan hệ giữa con người, xã
hội và tự nhiên và các phương thức điều khiển một cách có ý thức các mối
quan hệ đó nhằm tạo ra sự hài hòa thật sự giữa xã hội và tự nhiên, tạo ra
những điều kiện cho sự phát triển lâu bền. Bởi vậy, xây dựng ý thức sinh thái
không chỉ hạn định ở sự thay đổi quan niệm của con người về một khía cạnh
nào đó của mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên, mà phải thay đổi toàn bộ lối
tư duy cũ bằng tư duy mới - tư duy sinh thái đối với tất cả các vấn đề thuộc

lĩnh vực xã hội - tự nhiên” [58, tr.121].
Ý thức bảo vệ môi trường sinh thái là một bộ phận, một yếu tố cấu
thành toàn bộ ý thức của con người. Do đó, ý thức bảo vệ mơi trường sinh
thái cũng có đầy đủ những yếu tố cấu thành ý thức nói chung, nghĩa là có tri
thức bảo vệ mơi trường sinh thái, tình cảm bảo vệ mơi trường sinh thái, ý chí
bảo vệ mơi trường sinh thái vv... Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường sinh thái
cho mọi người nói chung và nâng cao ý thức bảo vệ mơi trường sinh thái cho
nhân dân Kiên giang nói riêng chính là việc nâng cao từng yếu tố cấu thành ý
thức bảo vệ môi trường sinh thái.
Khoa học đã chứng minh được sự hình thành và phát triển của giới tự
nhiên, khẳng định được bản chất của sự sống. Trong tác phẩm “Biện chứng
của tự nhiên”, Ph.Ăngghen đã phân tích quá trình phát sinh và phát triển của
thế giới hữu cơ, khẳng định lịch sử loài người chẳng qua chỉ là sự tiếp nối lịch
sử tự nhiên. Điều này Đác uyn cũng đã khẳng định trong tác phẩm Nguồn gốc
muôn lồi (On the Origin of Species, 1859) của ơng. Trong tác phẩm “Bản
thảo kinh tế - triết học năm 1844” C.Mác khẳng định: “Giới tự nhiên…là thân


18
thể vô cơ của con người. Con người sống bằng giới tự nhiên, như thế nghĩa là
giới tự nhiên là thân thể của con người, thân thể mà với nó con người phải ở
lại trong quá trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại. Nói rằng đời sống thể
xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên, nói như thế chẳng
qua chỉ có nghĩa là giới tự nhiên gắn liền với bản thân giới tự nhiên, vì con
người là một bộ phận của giới tự nhiên” [ 37, tr.135].
Trong mối quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên, môi trường
sinh thái, con người luôn chủ động tác động lên tự nhiên một cách có ý thức,
có mục đích, có phương pháp, nhằm chuyển đổi các nguồn lực của tự nhiên
thành các sản phẩm để đáp ứng nhu cầu cơ bản nhất của mình là “sản xuất ra
đời sống của con người”. Do đó, con người phải có ý thức bảo vệ, duy trì và

phục hồi các nguồn lực của tự nhiên. Có nghĩa con người cần có ý thức bảo
vệ mơi trường sinh thái. Có thể hiểu ý thức bảo vệ mơi trường sinh thái là “sự
nhận thức một cách tự giác của con người về tự nhiên (các yếu tố của tự
nhiên và quy luật hoạt động của chúng), về vị trí, vai trò của con người trong
mối quan hệ với tự nhiên và về trách nhiệm, nghĩa vụ của con người trong
việc điều khiển một cách có ý thức mối quan hệ đó.
Con người bảo vệ mơi trường sinh thái tự nhiên khơng đơn thuần chỉ là
lịng cao thượng (cư xử với thiên nhiên một cách đẹp đẽ), mà còn là hành vi
đầu tư có điều kiện (bảo vệ mơi trường vì lợi ích của chính bản thân mình) và
hơn thế nữa, là hành vi mang tính chất pháp lý (hồn trả lại những gì đã vay
mượn khơng chính thức trước đây của thiên nhiên và của thế hệ con cháu
chúng ta). Nhận thức được mối quan hệ mật thiết gắn bó hữu cơ giữa mơi
trường sinh thái với xã hội lồi người, nhận thức được vai trò hết sức lớn
lao, thậm chí là có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của xã
hội loài người, chúng ta cũng ý thức được rằng, những gì có hại, thù địch
với môi trường tự nhiên sinh thái cũng là có hại, thù địch với xã hội lồi


19
người. Những hành vi phá hoại giới tự nhiên, phá vỡ sự cân bằng trong môi
trường sinh thái đồng nghĩa với sự phá hoại cuộc sống của chính bản thân
con người. Bảo vệ mơi trường sinh thái cũng chính là bảo vệ cuộc sống của
toàn thể loài người.
Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường sinh thái trước hết là nâng cao tri
thức bảo vệ mơi trường sinh thái. Đó là yếu tố cơ bản, cốt lõi của ý thức bảo
vệ môi trường sinh thái. Tri thức này bao gồm những nội dung sau: khái niệm
môi trường sinh thái; vai trị của mơi trường sinh thái đối với cuộc sống của
con người, đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, mối quan hệ
mật thiết hữu cơ giữa môi trường sinh thái và con người, xã hội lồi người;
khái niệm bảo vệ mơi trường sinh thái, tầm quan trọng của bảo vệ môi trường

sinh thái; những biện pháp để bảo vệ mơi trường sinh thái…
Khi nói đến môi trường sinh thái, chúng ta cần hiểu rằng đó là tồn
bộ những yếu tố tự nhiên (đất, nước, khơng khí, động vật, thực vật v.v..) và
các yếu tố kinh tế - xã hội tác động lên cả cộng đồng người. Nói khác đi,
mơi trường sinh thái là tồn bộ tất cả những điều kiện xung quanh có liên
quan đến sự sống của con người. Nâng cao hơn, cần làm cho mọi người
trong cộng đồng nhận thức môi trường sinh thái theo hai góc độ, góc độ tự
nhiên và góc độ xã hội.
Dưới góc độ tự nhiên, mơi trường sinh thái bao gồm tất cả các yếu tố
vô sinh và hữu sinh liên quan đến sự sống của toàn bộ giới sinh vật (trong đó
có con người); dưới góc độ xã hội, mơi trường sinh thái bao gồm tồn bộ
những điều kiện tự nhiên và xã hội có liên quan đến sự sống của con người,
đến sự tồn tại và phát triển của xã hội lồi người.
Bảo vệ mơi trường sinh thái chính là bảo vệ tồn bộ những gì liên quan
đến sự sống của con người, đến sự tồn tại và phát triển của xã hội lồi người.
Có thể khái qt khái niệm bảo vệ mơi trường có nội hàm như sau: đó là tồn


20
bộ chủ trương, chính sách, thể chế và những hoạt động của con người, từ các
cá nhân, tổ chức xã hội, đến nhà nước nhằm khai thác và sử dụng hợp lý
nguồn tài nguyên thiên nhiên, cải tạo, phục hồi, ngăn ngừa ơ nhiễm mơi
trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, thảm họa thiên nhiên, giữ gìn sự đa
dạng, phong phú của mơi trường vì sự tồn vong của nhân loại và ví sự phát
triển bền vững của mỗi quốc gia
Chúng ta cần nhận thức được rằng, việc bảo vệ môi trường sinh thái
là hết sức cần thiết và cấp bách vì mơi trường sinh thái đóng vai trị vô
cùng quan trọng đối với đời sống con người cũng như đối với sự tồn tại và
phát triển của xã hội loài người, đối với sự tồn vong của toàn nhân loại nói
chung. Có thể nói con người và mơi trường tự nhiên, mơi trường sinh thái

có quan hệ thống nhất hữu cơ với nhau, tác động tương hỗ lẫn nhau. Những
gì thù địch, phá hoại mơi trường sinh thái cũng là thù địch phá hoại chính
bản thân cuộc sống của chúng ta. Hiện nay, con người đang đứng trước
nhiều thách thức đáng quan tâm như: thách thức giữa yêu cầu bảo vệ mơi
trường với lợi ích kinh tế trước mắt trong đầu tư phát triển; thách thức giữa
tổ chức và năng lực quản lý mơi trường cịn nhiều bất cập trước những địi
hỏi phải nhanh chóng đưa cơng tác quản lý môi trường vào nền nếp; thách
thức giữa cơ sở hạ tầng, kỹ thuật bảo vệ môi trường lạc hậu với khối lượng
chất thải đang ngày càng tăng lên; thách thức giữa nhu cầu ngày càng cao
về nguồn vốn cho bảo vệ mơi trường với khả năng có hạn của ngân sách
Nhà nước và sự đầu tư của doanh nghiệp và người dân cho công tác bảo vệ
môi trường cịn ở mức rất thấp… Chính vì thế, vấn đề bảo vệ môi trường
ngày càng trở nên cấp bách. Con người cần phải nhận thức sâu sắc hơn nữa
về vấn đề này.
Từ chỗ nhận thức sâu sắc về môi trường sinh thái và tính cần thiết, cấp
bách của việc bảo vệ môi trường sinh thái, con người cần phải và có thể


21
nghiên cứu, tìm tịi, phát minh ra những giải pháp, phương tiện để có thể tiến
hành bảo vệ mơi trường có hiệu quả thiết thực. Cần phải nhận thức được thực
chất của vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái trong thời đại tồn cầu hóa, thời
đại của nền kinh tế tri thức hiện nay là tập trung giải quyết thật tốt mối quan
hệ giữa phát triển kinh tế và bảo vệ mơi trường sinh thái. Thí dụ, hiện nay con
người đã đưa ra những công nghệ xử lý rác thải, tái sử dụng, tái chế… Hoặc
con người đã đưa ra những nguyên tắc cốt yếu của vấn đề bền vững về môi
trường sinh thái: Phải bảo đảm chất lượng không gian sống cho con người;
dân số không được vượt quá khả năng chịu tải của không gian; chất lượng
môi trường phải được duy trì tốt ở mức tiêu chuẩn cho phép. Tài nguyên thiên
nhiên sử dụng phải không được lớn hơn lượng phục hồi, tái tạo hoặc lượng

thay thế… Ý thức bảo vệ môi trường sinh thái nhất thiết phải có yếu tố tri
thức nói trên về bảo vệ mơi trường sinh thái.
Tình cảm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường cũng là một thành phần của
ý thức bảo vệ mơi trường. Nâng cao, phát triển tình cảm bảo vệ mơi trường
cũng chính là một yếu tố hết sức quan trọng trong việc nâng cao ý thức bảo vệ
môi trường.
Mơi trường sinh thái ln là đối tượng của tình cảm thẩm mỹ của con
người. Đứng trước một phong cảnh thiên nhiên kỳ vĩ, sơn thủy hữu tình, non
xanh nước biếc, khơng khí trong lành con người ln ln có một cảm xúc tích
cực, muốn hịa quyện tâm hồn vào thiên nhiên tuyệt đẹp, yêu quý mảnh đất, trời
cao, biển rộng, dịng sơng, ngọn suối… nơi mình đang sống. Tình yêu cái đẹp sẽ
đưa đến những hành động tích cực, muốn bảo vệ duy trì cái đẹp của mơi trường
thiên nhiên. Nâng cao tình cảm thẩm mỹ đối với mơi trường sinh thái cũng là
nâng cao ý thức bảo vệ mơi trường sống của chúng ta.
Tình cảm đạo đức đối với môi trường sinh thái cũng là một yếu tố quan
trọng của ý thức bảo vệ môi trường. Con người nhìn nhận mơi trường sinh


22
thái như là một đối tượng tương tác đem lại lợi ích cho con người. Con người
đã khai thác giới tự nhiên, lấy từ giới tự nhiên những “vật liệu” xây dựng cho
cuộc sống cả về mặt vật chất lẫn tinh thần của xã hội lồi người. Do đó con
người cần tôn trọng những quy luật khách quan của sự vận động, phát triển
của giới tự nhiên nói chung, của mơi trường sinh thái nói riêng. Con người
khơng thể đối xử với giới tự nhiên, với môi trường sinh thái với tư cách là
một kẻ đi “chinh phục”, với tư cách là “chúa tể” của giới tự nhiên. Tình cảm
đạo đức đúng đắn đối với giới tự nhiên, đối với môi trường sinh thái là con
người phải coi giới tự nhiên, môi trường sinh thái là một bộ phận của cơ thể
mình, là “thân thể vơ cơ” của con người. Một mặt khai thác giới tự nhiên để
phục vụ cho nhu cầu cuộc sống của con người, mặt khác phải bảo vệ, duy trì,

phục hồi và phát triển các nguồn lực phong phú của giới tự nhiên, của môi
trường sinh thái. Có thể nói đây là mối quan hệ “đơi bên cùng có lợi”. Một
hành vi được coi là hành vi đạo đức, mang sắc thái của tình cảm đạo đức là
hành vi đem lại lợi ích cho đối tượng của hành vi đó. Lợi ích ln ln gắn
liền với giá trị, vì giá trị là những gì làm thỏa mãn nhu cầu và đem lại lợi ích
cho con người sống.
Từng yếu tố tự nhiên như động, thực vật, vi sinh vật, nước, ánh sáng,
khơng khí, đất, khống sản… đều có hai loại giá trị: giá trị nội tại và giá trị sử
dụng. Giá trị nội tại của các yếu tố tự nhiên là giá trị vốn có do những thuộc
tính khách quan của các yếu tố tự nhiên quy định và tạo thành bản chất khách
quan của chúng. Còn giá trị sử dụng của các yếu tố tự nhiên khơng chỉ phụ
thuộc vào các thuộc tính khách quan, giá trị nội tại của chúng, mà lại phụ
thuộc vào chủ thể có được nhu cầu lợi ích gì từ các yếu tố tự nhiên và trình độ
nhận thức của con người về các yếu tố tự nhiên đó. Một yếu tố tự nhiên được
coi là có giá trị sử dụng khi nó được sử dụng như một phương tiện nhằm thoả
mãn nhu cầu, mang lại một lợi ích nào đó cho chủ thể. Đặc điểm của loại giá


23
trị sử dụng các khách thể tự nhiên là hoàn toàn phụ thuộc vào nhu cầu của con
người, một khi nhu cầu của con người thay đổi, thì lập tức giá trị sử dụng của
chúng cũng thay đổi theo. Ngoài ra, giá trị sử dụng của các yếu tố tự nhiên
còn bị quy định bởi sự nhận thức của con người, bởi trình độ phát triển của
khoa học và cơng nghệ của xã hội. Trong khi đó, giá trị nội tại của chúng (cái
bản chất khách quan) về cơ bản khơng có gì thay đổi trong suốt thời gian tồn
tại của chúng.
Để thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người, nhiều lúc vì những
lợi ích vị kỷ, trước mắt con người không những chỉ khai thác, tận dụng triệt để
những giá trị sử dụng của tự nhiên, mà còn làm huỷ hoại đến những giá trị nội
tại của những yếu tố tự nhiên. Sự gia tăng các hoạt động của con người, đã tạo

nên một sức ép vô cùng lớn đối với giới tự nhiên, vượt ra khỏi khả năng chịu
đựng của nó. Điều đó dẫn tới một mặt, nhiều tài ngun q giá, vốn được tạo
hố tích luỹ từ hàng triệu năm đứng trước nguy cơ cạn kiệt, khan hiếm, mặt
khác gây nên tình trạng ơ nhiễm, mất cân bằng sinh thái mà cho tới hôm nay nó
khơng cịn là mầm mống hậu hoạ nữa mà sự “trả thù” của tự nhiên đang diễn ra
song hành với cuộc sống con người hôm nay và ngày mai.
Xét đến cùng, con người vừa là sản phẩm nhưng cũng là tác nhân làm
giàu hay làm nghèo tự nhiên. Vấn đề là sự phát triển của xã hội lồi người
ln gắn chặt với khai thác tài nguyên thiên nhiên, nhưng nếu nó chỉ diễn ra
một chiều thì vơ hình chung con người tự biến mình thành kẻ thiếu hiểu biết,
thành kẻ phá hoại cái nơi ni dưỡng cả lồi người. Chính vì vậy con người
cần phải có một tình cảm đạo đức đúng đắn đối với giới tự nhiên, để khai thác
và sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý, tiết kiệm, hướng hoạt
động của mình ngày càng “tơn trọng” “thân thiện” với môi trường tự nhiên
hơn, đem lại những “lợi ích” cho giới tự nhiên, cho mơi trường sinh thái nhiều
hơn nữa. Điều này thực ra là đem lại lợi ích cho chính con người.


24
Sự kết hợp giữa hai yếu tố quan trọng của ý thức, tri thức và tình cảm
đã tạo nên niềm tin của con người. Với niềm tin có cơ sở là tri thức và tình
cảm con người sẽ có Ý chí (will) là những năng lực vượt qua mọi khó khăn trở
ngại để đạt được mục đích (năng lực đó mạnh hay yếu được biểu hiện bằng
nghị lực).
Ý chí cũng được coi là một yếu tố cấu thành ý thức và là một yếu tố
năng động của ý thức, điều khiển, điều chỉnh hành vi cho phép con người tự
kiềm chế, làm chủ bản thân, quyết đoán, giúp con người đấu tranh với mình
và ngoại cảnh để thực hiện đến cùng mục đích đã đề ra.
Nâng cao ý thức bảo vệ mơi trường chính là phải nâng cao tất cả những
yếu tố cấu thành ý thức bảo vệ môi trường: tri thức, tình cảm, ý chí v.v.. Bởi

vì xét cho cùng, con người ta chỉ bảo vệ và gìn giữ những gì họ yêu, chỉ yêu
những gì họ hiểu và chỉ hiểu những gì họ được học. Khi đã hiểu đã u rồi thì
con người sẽ có ý chí, nghị lực, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn trở ngại để
bảo vệ bằng được điều mà họ đã hiểu đã yêu.
1.1.2. Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến ý thức bảo vệ môi
trường sinh thái
- Nhân tố nhận thức.
Như phần trên đã phân tích, một trong những yếu tố cấu thành và là yếu
tố cấu thành quan trọng nhất của ý thức bảo vệ môi trường là sự nhận thức, là
tri thức về vấn đề bảo vệ môi trường. Hay nói cách khác, ý thức bảo vệ mơi
trường sinh thái phát triển trên cơ sở nhận thức (tri thức) về mơi trường sinh
thái. Bởi vì, con vật cũng có nhận thức (theo Ph.Ăngghen, con chó cũng có
nhận thức) nhưng nó khơng có ý thức (nên con chó khơng phân biệt được ơng
chủ của nó là người lương thiện hay kẻ đểu cáng) [35, tr.125]. Theo ý nghĩa
đó nhận thức cũng có thể được coi là một trong những nhân tố tác động đến ý
thức bảo vệ môi trường sinh thái.


25
Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào não người
và cải biến nó thành tri thức. Các tri thức được khái quát hóa, hệ thống hóa,
phản ánh những mối quan hệ bản chất, tất nhiên mang tính quy luật của các sự
vật hiện tượng trong thế giới hiện thực khách quan và được biểu thị bằng hệ
thống các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật được gọi là lý luận. Tri
thức được thực tiễn kiểm nghiệm là có nội dung phù hợp, phản ánh đúng đắn
thế giới hiện thực khách quan được gọi là chân lý. Như vậy kết quả cao nhất
của quá trình nhận thức là chân lý.
Như chúng ta đều biết, lý luận là kết quả của quá trình con người
nhận thức, phản ánh những quy luật tồn tại, vận động và phát triển của thế
giới hiện thực khách quan. Sự hình thành và phát triển của các hệ thống lý

luận nhằm phục vụ cho hoạt động thực tiễn của con người, thực tiễn là
mục đích của nhận thức, của lý luận. Trong mối quan hệ với hoạt động
thực tiễn, lý luận đóng vai trò định hướng cho hoạt động thực tiễn. Nhờ có
những tri thức đã thu nhận được, đã được hệ thống hóa thành những bộ
mơn khoa học, trong q trình nhận thức thế giới hiện thực khách quan
con người có thể đề ra mục tiêu đúng đắn cho hoạt động thực tiễn. Sau đó,
con người có thể lập ra kế hoạch hành động để đạt được những mục tiêu
đã đề ra. Đồng thời nhờ có những kiến thức khoa học con người có thể
tìm ra những biện pháp, phương tiện, con đường thực hiện mục tiêu có
hiệu quả nhất.
Nếu những khái niệm về giới tự nhiên, về môi trường sinh thái về vai
trị của mơi trường sinh thái đối với cuộc sống con người cịn mơ hồ, hoặc nói
khác đi, không hiểu biết, không nắm vững những lý luận về bảo vệ môi
trường sinh thái, “mù quáng” đối với vấn đề bảo vệ mơi trường sinh thái, thì
khơng thể nói đến việc có ý thức bảo vệ mơi trường sinh thái chứ đừng nói
đến việc nâng cao ý thức này.


×