Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra, xét xử tội phạm giết người của viện kiểm sát nhân dân tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.3 KB, 109 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Yêu cầu đấu tranh phịng chống tội phạm trong tình hình hiện nay đòi
hỏi phải nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật
trong đó việc tăng cường chất lượng công tố, kiểm sát điều tra, xét xử của
Viện kiểm sát nhằm chống bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, là
một nội dung quan trọng được thể hiện trong nhiều nghị quyết của Đảng về
cải cách tư pháp. Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một
số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới đã chỉ rõ:
"Chất lượng cơng tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với nhu cầu và đòi
hỏi của nhân dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô
tội; vi phạm các quyền tự do, dân chủ của cơng dân, làm giảm sút lịng tin của
nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp". Đồng thời, Nghị
quyết cũng nhấn mạnh:
Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố
phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá
trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm
tội, không làm oan người vô tội... Nâng cao chất lượng cơng tố của
Kiểm sát viên tại phiên tịa, bảo đảm tranh tụng với luật sư, người
bào chữa và những người tham gia tố tụng khác... [2, tr.1].
Viện kiểm sát nhân dân là hệ thống cơ quan nhà nước thực hiện chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Với chức
năng đó, Viện kiểm sát nhân dân có vai trị quan trọng trong hàng loạt các
hoạt động, từ việc phát hiện, phân loại xử lý tin báo, tố giác về tội phạm đến
quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự. Trong những năm qua,
Viện kiểm sát nhân dân đã không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng công
tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, qua đó nâng



2
cao hiệu quả đấu tranh phịng, chống tội phạm nói chung và tội phạm giết
người nói riêng, nhằm giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an tồn xã hội, góp
phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp.
Sau hơn 25 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn
về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội. Nền kinh tế đang trên đà tăng
trưởng mạnh, góp phần tích cực vào sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, nâng cao đời sống của nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những thành
tựu đã đạt được, cũng đã nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc. Một trong những vấn
đề đó là những vụ án giết người, giết người cướp tài sản xảy ra nhiều, gây ra
những hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt, gây bất bình trong dư luận xã hội.
Trong quá trình xây dựng và thực hiện đường lối đổi mới, cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước đã đem lại những tác động tích cực, góp
phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, nhưng cơ chế thị trường cũng đưa
đến những mặt trái, tác động tiêu cực. Một số đối tượng đã bị ảnh hưởng lối
sống thiếu lành mạnh, ăn chơi sa đọa, hoặc ảnh hưởng lối sống bạo lực, sẵn
sàng giải quyết những mâu thuẫn cá nhân bằng bạo lực, xâm phạm nghiêm
trọng đến tính mạng, sức khỏe của người khác; Cá biệt cịn có đối tượng
nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác mà ra tay sát hại người bị
hại...Phương pháp, thủ đoạn phạm tội cũng rất đa dạng, tinh vi, phức tạp.
Trên thực tế, việc áp dụng pháp luật trong xử lý tội phạm giết người gặp
khơng ít khó khăn do luôn phải đối mặt với sự vận động, biến động của nền
kinh tế, sự thay đổi của cơ chế, chính sách quản lý kinh tế - xã hội ... Trong
khi hệ thống các văn bản pháp luật, nhất là Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng
hình sự để điều chỉnh tội phạm nói chung và cụ thể là các hành vi phạm tội
giết người nói riêng cịn nhiều bất cập, thiếu văn bản hướng dẫn, dẫn đến
vướng mắc, khó khăn trong q trình áp dụng pháp luật. Thực tế đó đặt ra
những thách thức khơng nhỏ đối với các cơ quan chức năng, trong đó có Viện
kiểm sát nhân dân, phải làm sao áp dụng pháp luật một cách đúng đắn, chính



3
xác để kịp thời phát hiện, xử lý đối với tội phạm giết người, bảo đảm việc xử
lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Viện kiểm sát nhân dân Quảng Ninh thực hiện chức năng thực hành quyền
công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp trên địa bàn một tỉnh thuộc vùng trọng
điểm kinh tế phía Bắc, với nhiều tiềm năng, lợi thế, như: có nhiều loại tài
ngun, khống sản với trữ lượng lớn; có bờ biển dài, nhiều cảng biển; có cửa
khẩu biên giới với Trung Quốc … Cùng với những thành tựu của đất nước sau
hơn 25 năm đổi mới, Quảng Ninh đã có sự phát triển vượt bậc trên mọi lĩnh
vực: kinh tế tăng trưởng mạnh, chính trị ổn định, quốc phịng an ninh được bảo
đảm, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững, đời sống của nhân dân ngày càng
được cải thiện. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, q trình xây dựng
và phát triển ở Quảng Ninh đã và đang đặt ra nhiều vấn đề bức xúc. Một trong
những vấn đề bức xúc đó là tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh có chiều hướng
gia tăng. Trong đó, tội phạm giết người xảy ra ngày càng nhiều với những phương
thức mới, thủ đoạn tinh vi, tính chất ngày càng nghiêm trọng và phức tạp, gây
thiệt hại đến tính mạng, tài sản của cơng dân, gây bất bình trong nhân dân.
Trong thời gian qua, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã đạt
được nhiều thành tựu đáng khích lệ trong việc trừng trị tội phạm, bảo vệ
quyền tự do dân chủ của nhân dân, đặc biệt là đấu tranh chống loại tội phạm
Giết người xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của người khác. Tuy nhiên, so với
yêu cầu đấu tranh phịng, chống tội phạm thì cịn có những tồn tại, hạn chế.
Một trong những nguyên nhân là do việc nghiên cứu lý luận hình sự, tố tụng
hình sự chưa được đồng bộ, chưa có tổng kết, đúc rút kinh nghiệm giải quyết
các loại tội phạm trên.
Hiện nay đã có một số tài liệu mang tính chất tham khảo, bình luận khoa
học về tội phạm giết người, nhưng chủ yếu được bàn dưới góc độ lý luận
chung, hoặc dưới góc độ tổ chức thực tiễn việc thực hành quyền công tố.

Trong những năm vừa qua, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã tổ chức toàn
ngành nghiên cứu về những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền


4
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp hình sự, ngồi ra Vụ 1A - Viện
kiểm sát nhân dân Tối cao đã mở Hội thảo chuyên đề kinh nghiệm giải quyết
án giết người, những kết quả nghiên cứu trên thuộc dạng chuyên đề tổng kết
thực tiễn.
Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng quá trình áp dụng pháp luật trong
thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự về tội phạm
giết người trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh để tìm ra cách thức áp dụng pháp luật
một cách hiệu quả nhất thực chất là góp phần tăng cường pháp chế XHCN
trong quản lý kinh tế - xã hội, giúp cho hoạt động duy trì trật tự trị an xã hội
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh theo đúng pháp luật của Nhà nước, kịp thời phát
hiện, xử lý các tội phạm giết người, tạo sự ổn định, giữ vững trật tự, kỷ cương
xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đáp
ứng yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai đoạn
hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài “Áp dụng pháp
luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra, xét xử tội phạm
giết người của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh” là cần thiết, đáp
ứng yêu cầu cấp bách hiện nay cả phương diện lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra,
xét xử các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân là nhóm đề tài phong
phú và được nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau.
Một là, nhóm cơng trình nghiên cứu liên quan đến thực hành quyền cơng
tố trong giai đoạn điều tra, xét xử, có các cơng trình tiêu biểu sau:
- “Thực hành quyền cơng tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai

đoạn điều tra” do Tiến sĩ Lê Hữu Thể chủ biên Nxb Tư pháp năm 2008.
- “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực hành quyền công tố ở
Việt Nam từ 1945 đến nay”, đề tài khoa học do Viện kiểm sát nhân dân tối cao
thực hiện năm 1999.


5
- “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các
vụ án hình sự", đề tài khoa học do Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện
năm 2008.
- “Quyền công tố ở Việt Nam”, Luận án tiến sỹ khoa học Luật học năm
2002 của tác giả Lê Thị Tuyết Hoa.
- “Tài liệu tập huấn Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 về
công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra - kiểm sát xét xử án sơ
thẩm án hình sự của Viện kiểm sát” của tác giả Trần Thu.
Một số bài viết về các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công
tố theo yêu cầu cải cách tư pháp của các tác giả trong ngành kiểm sát, như:
- Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp góp phần đẩy mạnh cải cách tư pháp, của tác giả Hà Mạnh Trí, trên tạp
chí Nhà nước và pháp luật số 01/2003.
- Một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn thực hiện chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát theo yêu cầu cải
cách tư pháp, của tác giả Nguyễn Duy Giảng, trên tạp chí Kiểm sát số 14 và
16 năm 2008.
- Một số vấn đề về chủ trương tăng cường trách nhiệm công tố hoạt
động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư
pháp, của tác giả Trần Cơng Phàn, trên tạp chí Kiểm sát tháng 01 năm 2012.
Hai là, nhóm cơng trình nghiên cứu liên quan đến áp dụng pháp luật
trong thực hành quyền cơng tố nói chung và thực hành quyền cơng tố ở giai
đoạn điều tra, xét xử tội phạm giết người có các cơng trình tiêu biểu sau:

- “Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra
của Viện kiểm sát Nhà nước ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sỹ Luật
học của tác giả Trịnh Duy Tám.
- “Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra
các vụ án bn lậu, vận chuyển trái phép hàng hố qua biên giới của Viện


6
kiểm sát nhân dân ở tỉnh Quảng Ninh”, Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác
giả Lương Phúc Sơn.
Ba là, nhóm cơng trình nghiên cứu liên quan đến cơng tác đấu tranh
phịng, chống tội phạm giết người có một số cơng trình, đề tài nghiên cứu sau:
- "Chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án giết người ở
Việt Nam", Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Nguyễn Thế Cường.
- “Đấu tranh tội phạm giết người sử dụng vũ khí nóng tại Quảng Ninh”,
Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Nguyễn Văn Khải.
Ngồi ra cịn có một số bài viết trên các báo và tạp chí có liên quan.
Những cơng trình được công bố trên đây, ở mức độ nhất định đã đề cập
đến một số vấn đề lý luận và thực tiễn của thực hành quyền công tố, thực
hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra và áp dụng pháp luật trong thực hành
quyền công tố ở giai đoạn điều tra, xét xử tội phạm như khái niệm, địa vị
pháp lý của Viện kiểm sát trong thực hành quyền công tố. Đồng thời cũng đã
đề cập đến một số vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật và áp dụng pháp luật
trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra, xét xử tội phạm như các
khái niệm, quy trình áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai
đoạn điều tra, xét xử tội giết người.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách
tương đối có hệ thống và tồn diện về hoạt động áp dụng pháp luật trong thực
hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra, xét xử tội phạm giết người, đặc biệt
là hoạt động áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố trong giai đoạn

điều tra, xét xử tội phạm giết người gắn với địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Mặc dù vậy, các cơng trình trên đây là tài liệu tham khảo có giá trị cho
việc nghiên cứu, viết thành công luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá thực
trạng hoạt động áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong giai đoạn


7
điều tra, xét xử tội phạm giết người của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng
Ninh, tác giả đề xuất các quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm áp dụng
pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra, xét xử tội phạm giết
người của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật và áp dụng pháp luật thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, xét xử tội phạm giết người của
Viện kiểm sát nhân dân; những vấn đề lý luận để làm rõ về tội phạm giết người.
Trong đó tập trung làm rõ khái niệm, đặc điểm, quy trình và các yếu tố bảo
đảm việc áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra,
xét xử tội phạm giết người của Viện kiểm sát nhân dân.
- Phân tích thực trạng hoạt động áp dụng pháp luật trong thực hành
quyền công tố ở giai đoạn điều tra, xét xử tội phạm giết người của Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh, trọng tâm là phân tích làm rõ những kết quả đã
đạt được; những khó khăn, vướng mắc cũng như những hạn chế, bất cập và
nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm bảo đảm áp dụng pháp luật
trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra, xét xử tội phạm giết người
của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh, góp phần quan trọng vào cuộc
đấu tranh phòng, chống tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn
của áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra, xét
xử tội phạm giết người của Viện kiểm sát nhân dân.
- Phạm vi nghiên cứu:
. Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễn áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều
tra, xét xử tội phạm giết người của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh;
. Về thời gian: Các số liệu, dữ liệu chứng minh cho những phần xác định,
đánh giá được giới hạn từ năm 2008 đến 2012.


8
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Về cơ sở lý luận
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, bảo đảm hoạt động giám sát
của cơ quan Viện kiểm sát; các qui định của Hiến pháp, pháp luật có liên quan
đến hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra, xét xử các vụ án hình sự để
phân tích, đánh giá và xây dựng các giải pháp.
5.2. Về phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của
triết học Mác - Lênin. Đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể,
như: phân tích, tổng hợp, phương pháp lôgic lịch sử, phương pháp thống kê, so
sánh và tổng kết thực tiễn.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn sẽ phân tích, làm rõ thêm cơ sở lý luận áp dụng pháp luật trong
thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra, xét xử tội phạm giết người của

Viện kiểm sát nhân dân; đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong thực
hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra, xét xử tội phạm giết người của Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp cơ
bản nhằm bảo đảm và nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong thực hành
quyền công tố ở giai đoạn điều tra, xét xử tội phạm giết người của Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là cơng trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn
diện về hoạt động áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai
đoạn điều tra, xét xử tội phạm giết người của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Quảng Ninh. Do đó, ở mức độ nhất định, những kết quả nghiên cứu của luận văn
có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo, vận dụng trong quá trình giảng dạy và


9
nghiên cứu về những vấn đề có liên quan đến chức năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân, đồng thời
có thể được vận dụng trong thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng hoạt động áp
dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, xét xử tội
phạm giết người.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.


10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ Ở GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA, XÉT XỬ TỘI
GIẾT NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ Ở GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA, XÉT XỬ TỘI GIẾT
NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

1.1.1. Các khái niệm chung
1.1.1.1. Áp dụng pháp luật và đặc điểm của áp dụng pháp luật
Pháp luật là một hệ thống các quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban
hành hoặc thừa nhận thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, được Nhà nước bảo
đảm thực hiện, kể cả bằng biện pháp cưỡng chế, để điều chỉnh các quan hệ xã
hội, duy trì xã hội trong một trật tự có lợi cho giai cấp thống trị [15].
Hệ thống pháp luật bao gồm một số lượng lớn các quy phạm pháp luật
với nội dung phong phú, đa dạng, điều chỉnh những mối quan hệ xã hội
khác nhau với phương pháp điều chỉnh khác nhau nên hình thức thực hiện
pháp luật cũng rất khác nhau; dựa trên nền tảng tính chất đặc điểm của hoạt
động thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý phân chia thực hiện pháp luật
thành các hình thức: Tuân thủ pháp luật; Chấp hành pháp luật; Sử dụng
pháp luật và Áp dụng pháp luật.
Áp dụng pháp luật là một trong những hình thức quan trọng của thực
hiện pháp luật. Tuy cũng là hình thức thực hiện pháp luật, nhưng khác biệt với
3 hình thức thực hiện pháp luật nêu trên mà ở đó mọi chủ thể pháp luật đều có
thể thực hiện thì ADPL là hình thức thực hiện pháp luật trong đó Nhà nước
thơng qua các cơ quan Nhà nước hoặc cán bộ công chức có thẩm quyền tổ
chức cho các chủ thể thực hiện những quy định của pháp luật. Hoặc tự mình
căn cứ vào các quy định của pháp luật ra các quyết định làm phát sinh, chấm
dứt hay thay đổi những quan hệ pháp luật cụ thể.


11
ADPL được coi là hình thức thực hiện pháp luật đặc biệt, được xem là
đảm bảo đặc thù của Nhà nước cho các quy phạm pháp luật được thực hiện có

hiệu quả trong đời sống xã hội. Nghiên cứu làm rõ các đặc điểm pháp lý của
ADPL giúp chúng ta thấy rõ hơn vai trò, ưu thế của ADPL so với các hình
thức thực hiện pháp luật khác. ADPL có một số đặc điểm đặc thù, đó là:
Một là, ADPL về nguyên tắc chỉ do những cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền tiến hành (trong trường hợp cá biệt pháp luật trao cho các tổ chức xã
hội có thẩm quyền ADPL). Các cơ quan Nhà nước khác nhau có thẩm quyền
ADPL khác nhau.
Ví dụ: ADPL để truy tố người thực hiện hành vi phạm tội chỉ có VKSND
mới có thẩm quyền áp dụng.
Hai là, ADPL là một dạng hoạt động thể hiện tính quyền lực Nhà nước;
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ADPL theo ý chí đơn phương, khơng
phụ thuộc vào ý chí, mong muốn của chủ thể bị áp dụng; ADPL của cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền mang tính bắt buộc với chủ thể bị áp dụng và được
bảo đảm bởi sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.
Ví dụ: Việc ADPL của CQĐT ra quyết định khởi tố bị can khơng phụ
thuộc vào ý chí của người phạm tội.
Ba là, ADPL là hoạt động phải được tiến hành theo thủ tục chặt chẽ, do
pháp luật quy định; địi hỏi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, các bên có
liên quan trong q trình ADPL phải tuân thủ nghiêm ngặt.
Ví dụ: Để truy tố bị can, các cơ quan tố tụng có thẩm quyền phải thực hiện
đầy đủ các trình tự thủ tục theo quy định của BLTTHS từ việc khởi tố vụ án,
khởi tố bị can, điều tra, ra bản kết luận điều tra, chuyển hồ sơ đề nghị truy tố...
Bốn là, ADPL là hành động mang tính sáng tạo, do ADPL là q trình
vận dụng cái chung (các quy phạm pháp luật) để điều chỉnh, xử lý các vụ việc
cụ thể có tính đặc thù và q trình này tất yếu địi hỏi cơ quan có thẩm quyền,
người có thẩm quyền ADPL phải vận dụng cái chung phù hợp với cái riêng
(đặc thù) rất phong phú, đa dạng và phức tạp. Để thực hiện được yêu cầu này,


12

người ADPL khơng được máy móc, cứng nhắc mà phải có nhận thức pháp
luật sâu sắc, có hệ thống và có kinh nghiệm thực tiễn phong phú.
Kết quả ADPL được thể hiện bằng các văn bản ADPL với những đặc
điểm như: Do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức xã hội được
giao quyền ban hành và được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế của Nhà
nước; văn bản ADPL chỉ áp dụng một lần và xác định rõ đối tượng cụ thể bị
áp dụng. Ví dụ: Bản cáo trạng của Viện kiểm sát phải quyết định cụ thể truy
tố bị can nào, về tội gì, theo điều khoản nào của BLHS.
Từ những đặc điểm của ADPL nêu ở trên có thể thấy ADPL là hình thức
thực hiện pháp luật có tính chất đặc biệt, hiệu quả điều chỉnh cao.
Như vậy, chúng ta nhất quán với định nghĩa: ADPL là hoạt động mang
tính tổ chức thể hiện quyền lực của Nhà nước, được thực hiện thông qua các
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc tổ chức xã hội được
Nhà nước giao quyền, nhằm cá biệt hoá những quy phạm pháp luật vào các
trường hợp cụ thể, đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể [15, tr.65].
1.1.1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra,
xét xử của Viện kiểm sát nhân dân
a) Quyền công tố:
Quyền công tố là một khái niệm pháp lý gắn liền với bản chất Nhà nước,
là bộ phận cấu thành và không thể tách rời khỏi cơng quyền. QCT dưới góc độ
khoa học pháp lý là một khái niệm đã được hình thành từ khá lâu và luôn được
các nhà khoa học pháp lý các thời kỳ quan tâm nghiên cứu, mổ xẻ. Ở Việt Nam,
chế định "quyền công tố" chưa được nghiên cứu một cách tồn diện và giải thích
chính thức trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền, cho nên chưa có khái niệm chính thống về quyền công tố.
Thuật ngữ "quyền công tố" lần đầu tiên được ghi nhận tại Hiến pháp 1980,
sau đó là Hiến pháp 1992, Bộ luật tố tụng hình sự 1998, Bộ luật tố tụng hình sự
2003, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981, Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 1992, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002.



13
Do chưa có văn bản pháp luật nào của Nhà nước giải thích chính thức
nội dung quyền cơng tố nên có nhiều quan điểm khác nhau về nội dung, lĩnh
vực cũng như chủ thể tham gia thực hành quyền công tố.
Tác giả nhất trí với quan điểm cho rằng, QCT là quyền nhân danh Nhà
nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội…
quyền này thuộc về Nhà nước, được Nhà nước giao cho một cơ quan thực
hiện (ở nước ta là cơ quan VKS) để phát hiện tội phạm và truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Để làm được điều này, cơ quan VKS
phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác
định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó, quyết định truy tố bị can ra
trước Toà án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tồ [31].
- Đối tượng, nội dung và phạm vi của QCT:
+ Đối tượng của QCT là cái mà QCT tác động vào nhằm đạt được mục
đích cụ thể nào đó như nhằm buộc tội được người phạm tội để trừng phạt,
nhằm bảo đảm trật tự xã hội và trật tự pháp luật, nhằm bảo đảm lợi ích chung
cho xã hội….
Từ quan điểm nhận thức về QCT đã trình bày ở trên chúng tơi cho rằng
đối tượng của QCT chỉ có thể là: Tội phạm và người phạm tội.
+ Nội dung QCT: Cũng như QCT, nội dung QCT cũng còn tồn tại nhiều
ý kiến khác nhau. Từ quan điểm của mình về QCT đã nêu ở trên, chúng tôi
cho rằng: Nội dung của QCT là sự buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi
phạm tội; còn việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý do luật định
nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý theo
pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội không làm oan người vô
tội là nội dung của hoạt động THQCT.
+ Phạm vi QCT: Cũng tồn tại nhiều ý kiến khác nhau, nhưng tựu trung
lại chúng tơi cho rằng có hai nhóm quan điểm chính. Đó là: Nhóm quan điểm
cho rằng phạm vi QCT khơng chỉ bị giới hạn bó hẹp trong lĩnh vực TTHS mà

có cịn bao trùm cả trong các lĩnh vực tư pháp khác như tố tụng dân sự, tố
tụng hành chính, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động.


14
Khác biệt với nhóm quan điểm này là nhóm quan điểm cho rằng phạm vi
của QCT chỉ có trong lĩnh vực TTHS và khơng thể có trong các lĩnh vực tố
tụng khác.
Chúng tôi luôn cho rằng QCT là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện
việc buộc tội đối với người phạm tội; do đó, QCT khơng thể tồn tại ở lĩnh vực
nào khác ngoài lĩnh vực TTHS.
Phạm vi của QCT xuyên suốt cả quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án tức là nó bắt đầu khi tội phạm xảy ra và chỉ kết thúc khi
người phạm tội chấp hành xong bản án.
b) Thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKS:
Xuất phát từ quan điểm cho rằng QCT là quyền nhân danh quyền lực
công thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, đây
là quyền của Nhà nước, gắn liền với bản chất từng kiểu Nhà nước và chỉ có
trong lĩnh vực TTHS. Phạm vi của QCT bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra và
kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị và đối tượng
tác động của QCT là tội phạm và người phạm tội. Để đảm bảo cơ sở pháp lý
cho việc thực hiện QCT, Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật quy định
các quyền năng pháp lý thuộc nội dung QCT. Các quyền năng này được giao
cho cơ quan Nhà nước nào thì cơ quan đó là cơ quan có trách nhiệm THQCT.
ở nước ta theo quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức VKSND, Luật TTHS,…
thì cơ quan được Nhà nước giao THQCT là VKSND.
Chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng: THQCT là việc sử dụng tổng
hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung QCT để thực hiện việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố
và xét xử [31].

- Phạm vi THQCT: Xét về nguyên tắc thì phạm vi THQCT đồng nhất với
phạm vi của QCT; tức là bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án
của Tịa án có hiệu lực pháp luật khơng bị kháng nghị hoặc vụ án được đình
chỉ theo đúng quy định của pháp luật TTHS.


15
Như vậy cũng có nghĩa là khi tội phạm xảy ra đòi hỏi QCT phải được
phát động để đảm bảo mọi tội phạm xảy ra đều phải được phát hiện xử lý theo
pháp luật.
Để có cơ sở phát động QCT đòi hỏi phải trải qua một giai đoạn chuẩn bị
nhằm thu thập tài liệu, tin tức về tội phạm xảy ra, như: Tiếp nhận, xác minh
tin báo, tố giác tội phạm; tiến hành một số hoạt động điều tra trước khi KTVA
như khám nghiệm hiện trường, lấy lời khai người làm chứng, lấy lời khai
người bị tạm giữ… và mục đích của giai đoạn này là nhằm xác định có hay
khơng có dấu hiệu tội phạm để làm cơ sở khởi tố hay khơng KTVA hình sự và
THQCT chỉ thực sự phát sinh khi có quyết định KTVA. Nhưng trên thực tế
việc KTVA không thể bao trùm hết được số vụ tội phạm xảy ra (thậm chí số
vụ tội phạm xảy ra khơng được phát hiện khởi tố cịn chiếm một tỷ lệ không
nhỏ so với số vụ tội phạm được khởi tố). Do đó, trong khi THQCT chỉ phát sinh
khi có quyết định KTVA thì QCT ln “treo trên đầu” đối với tất cả những người
thực hiện tội phạm nhưng chưa bị phát hiện khởi tố điều tra. Điều này cũng cho
thấy rõ ràng phạm vi QCT luôn rộng hơn so với phạm vi THQCT. Tuy về
nguyên tắc như đã phân tích ở trên QCT ln bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra
và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật. Nhưng trên thực tế, trong những
trường hợp cụ thể, QCT có thể kết thúc ở giai đoạn tố tụng sớm hơn. Đó là khi
CQĐT, VKS căn cứ vào các quy định của pháp luật ra quyết định đình chỉ vụ án,
bị can (theo quy định của pháp luật Việt Nam thì đó là các trường hợp quy định
ở khoản 2 Điều 105, Điều 107 BLTTHS; Điều 19, Điều 25, khoản 2 Điều 169
BLHS…) và khi QCT chấm dứt thì THQCT cũng chấm dứt.

Như vậy, có thể khẳng định phạm vi THQCT bắt đầu từ khi KTVA hình
sự và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị hoặc vụ
án được đình chỉ điều tra theo quy định của pháp luật TTHS.
- Nội dung THQCT: Là việc sử dụng tất cả những quyền năng tố tụng
nhằm bảo đảm phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội,
không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Theo


16
quy định của pháp luật Việt Nam thì chỉ có VKS là cơ quan duy nhất có chức
năng THQCT.
Theo quy định tại BLTTHS năm 2003 và Luật Tổ chức VKSND năm
2002 thì nội dung THQCT của VKS bao gồm:
+ Hoạt động phát động QCT: Đó là KTVA, KTBC. Đây là việc Nhà
nước chính thức cơng khai trước tồn xã hội có tội phạm xảy ra và bắt đầu
triển khai các hoạt động thực hành quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người đã thực hiện tội phạm đó. Tuy nhiên, phát động QCT không phải là
quyền năng tố tụng chỉ của riêng VKS. Luật TTHS Việt Nam còn quy định
(tại Điều 104) các CQĐT, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra (Cảnh sát Biển, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm
lâm…), Tịa án cũng có thẩm quyền KTVA, BC và thực tiễn việc KTVA,
KTBC chủ yếu do CQĐT thực hiện. Số vụ án, bị can do VKS trực tiếp khởi tố
luôn chiếm tỷ lệ không đáng kể. Tuy vậy, VKS vẫn là cơ quan duy nhất có
quyền KTVA hình sự một cách độc lập, không bị hạn chế quyền năng tố tụng
này bởi bất cứ cơ quan Nhà nước nào.
VKS có quyền yêu cầu CQĐT KTVA, BC; có quyền hủy bỏ quyết định
khởi tố hoặc quyết định không KTVA của CQĐT và các cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; quyết định KTVA của CQĐT
và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải
gửi ngay cho VKS để kiểm sát việc khởi tố, quyết định KTBC của CQĐT

phải được gửi ngay cho VKS để xét phê chuẩn trong thời hạn 24 giờ kể từ thời
điểm ra quyết định khởi tố. Trường hợp có căn cứ thì VKS phê chuẩn và nếu
khơng có căn cứ thì VKS ra quyết định hủy bỏ. Đối với các quyết định KTVA
của Tòa án, VKS cịn có quyền kháng nghị khi xét thấy khơng có căn cứ.
Như vậy, xét cho cùng việc khởi tố hay không KTVA là do cơ quan VKS
quyết định.
+ Hoạt động THQCT tiếp tục được thực hiện bởi VKS trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự bằng các quyền năng tố tụng sau:


17
- Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra.
- Trực tiếp thực hiện một số hoạt động điều tra, như: Lấy lời khai bị can,
nhân chứng…
- Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giữ, tạm giam và
các biện pháp ngăn chặn khác.
- Phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của CQĐT.
- Hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của CQĐT.
- Quyết định việc truy tố bị can.
- Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án, bị can theo quy định của
pháp luật.
Theo quy định của pháp luật TTHS hiện hành thì CQĐT cũng có quyền
đình chỉ điều tra vụ án, bị can (Điều 164 BLTTHS) nhưng quyền này ln
chịu sự giám sát chặt chẽ về tính có căn cứ pháp luật của VKS; qua kiểm sát
việc đình chỉ của CQĐT nếu quyết định đình chỉ điều tra của CQĐT khơng có
căn cứ thì VKS ra quyết định hủy bỏ và yêu cầu CQĐT phục hồi điều tra. Nếu
thấy quyết định đình chỉ điều tra của CQĐT có căn cứ thì VKS trả hồ sơ để
CQĐT giải quyết theo thẩm quyền (khoản 4 Điều 164 BLTTHS).
+ Những hoạt động THQCT của VKS trong giai đoạn xét xử vụ án hình
sự như: Đọc cáo trạng, thẩm vấn, luận tội bị cáo tại phiên tịa hình sự sơ thẩm,

phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm, tranh
luận với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa
sơ thẩm, phúc thẩm; phát biểu quan điểm của VKS tại phiên tòa giám đốc
thẩm, tái thẩm. Những hoạt động trên đây của VKS hồn tồn mang tính độc
lập, khơng lệ thuộc vào bất cứ cơ quan nào.
Như vậy, khi THQCT VKS được trao rất nhiều quyền năng pháp lý để
thực hiện. Trong đó có những quyền chỉ duy nhất VKS có quyền thực hiện
như quyền truy tố và cũng có quyền năng pháp lý CQĐT hoặc Tòa án hoặc cơ
quan khác được giao một số hoạt động điều tra được quyền thực hiện, như
quyền khởi tố….


18
Nhưng chỉ có VKS là cơ quan được quyền sử dụng tổng hợp các quyền
năng pháp lý để đưa người phạm tội ra Tòa và như vậy ở nước ta chỉ có VKS
là cơ quan duy nhất THQCT; CQĐT được thực hiện một số quyền năng pháp
lý nhưng đó khơng phải là THQCT mà mục đích của nó khơng có gì khác hơn
là hỗ trợ VKS đưa người phạm tội ra Tòa; còn Tòa án chỉ xét xử những tội
phạm và người phạm tội mà VKS truy tố.
Từ những phân tích nêu trên có thể xác định phạm vi và nội dung
THQCT trong giai đoạn điều tra của VKS như sau:
THQCT trong giai đoạn điều tra của VKSND là việc VKS sử dụng tổng
hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung của QCT để truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội và được thực hiện từ khi KTVA và kết thúc khi
VKS quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử hoặc khi vụ án được
đình chỉ điều tra theo đúng quy định của pháp luật.
c) Thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử của VKS:
Theo qui định của BLTTHS (Điều 206, 207, 217), trong hoạt động
THQCT tại phiên toà xét xử sơ thẩm án hình sự, Kiểm sát viên đại diện cho
Viện kiểm sát sẽ đọc bản cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung nếu có trước

khi tiến hành xét hỏi. Theo qui định của BLTTHS thì bản cáo trạng là quyết
định truy tố của Viện kiểm sát, đã được tống đạt cho bị can, người bào chữa
được đọc bản cáo trạng và được chuyển cho Toà án cùng hồ sơ vụ án để xét
xử. Do vậy, về nguyên tắc phần thủ tục bắt đầu phiên toà, trước khi xét hỏi
Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng, khơng trình bày như bản luận tội.
Trong q trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, giai đoạn xét hỏi là giai
đoạn trung tâm, ở giai đoạn này sẽ thẩm tra tất cả các chứng cứ do Cơ quan
điều tra thu thập, bao gồm các lời khai tại Cơ quan điều tra của bị cáo, người
bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan…các lời
khai đó khơng những được thẩm tra lại mà cịn được đối chiếu giữa các lời
khai với nhau, đối chiếu với vật chứng, tài liệu đã thu thập được với kết luận
của Giám định viên. Trên cơ sở đó, so sánh, lựa chọn, đánh giá một cách toàn


19
diện, khách quan, dân chủ các chứng cứ nhằm tìm ra sự thật của vụ án. Đối với
Kiểm sát viên thì việc tiến hành xét hỏi tại phiên tồ vừa là phương thức
THQCT, vừa là trách nhiệm của cơ quan chứng minh, kiểm tra lại toàn bộ
chứng cứ một cách công khai, chứng minh mọi luận điểm nêu trong cáo trạng
bằng việc chủ động xét hỏi, đưa ra các chứng cứ để bảo vệ cáo trạng và đồng
thời góp phần cùng Hội đồng xét xử làm rõ sự thật của vụ án.
Kết thúc quá trình xét hỏi là phần tranh luận. Theo qui định của BLTTHS
tại chương XXI thì tranh luận bao gồm 2 nội dung chính là Kiểm sát viên trình
bày lời luận tội và đối đáp với những người tham gia tố tụng. Tranh luận của
Kiểm sát viên tại phiên tồ khơng chỉ là nhiệm vụ quan trọng của Kiểm sát
viên mà còn là nhiệm vụ trung tâm của phiên tồ, là giai đoạn trung tâm của
q trình diễn ra những quan điểm đánh giá chứng cứ giữa bên buộc tội và gỡ
tội và những người tham gia phiên toà. Đây cũng là giai đoạn biểu hiện tập
trung nhất về ý kiến tranh luận của Kiểm sát viên và những người tham gia
phiên tồ về các tình tiết của vụ án.

Từ những nội dung trên, tác giả đồng nhất quan điểm khái niệm về
THQCT trong XXST án hình sự như sau:
Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm án hình sự là việc Kiểm
sát viên đại diện cho Viện kiểm sát đọc bản cáo trạng, thực hiện việc xét hỏi,
luận tội, tranh luận tại phiên toà sơ thẩm, nhằm làm sáng rõ các tình tiết của
vụ án, giúp cho Hội đồng xét xử đưa ra quyết định, bản án đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật [31].
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra, xét xử tội giết người của Viện kiểm sát nhân dân
+ Khái niệm ADPL thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, xét
xử tội giết người của VKSND.
Trước hết ADPL THQCT trong giai đoạn điều tra tội giết người là một
trong các trường hợp ADPL nói chung và cũng là hoạt động thực hiện pháp
luật. Cơ sở để phát sinh hoạt động ADPL của VKS là các quyết định tố tụng


20
của CQĐT, các hành vi tố tụng của những người tiến hành tố tụng trong giai
đoạn điều tra vụ giết người. Các quyết định, hành vi tố tụng có thể được ban
hành, thực hiện có căn cứ hoặc khơng có căn cứ, đúng hoặc không đúng quy
định của pháp luật. Khi đó, Nhà nước thơng qua hệ thống cơ quan VKS phát
hiện quyết định, hành vi tố tụng có thiếu sót hoặc vi phạm pháp luật, từ đó
VKS căn cứ vào quy định của pháp luật để ban hành các quyết định như phê
chuẩn hoặc hủy bỏ các quyết định của CQĐT, yêu cầu CQĐT, điều tra viên áp
dụng các biện pháp tố tụng hoặc quyết định áp dụng các biện pháp khác theo
quy định của pháp luật để đảm bảo việc điều tra các vụ án giết người đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan
người vô tội, kịp thời khắc phục sửa chữa thiếu sót, vi phạm pháp luật trong
hoặc động điều tra.
Từ những phân tích khái niệm ADPL nói chung và từ sự phân tích về

hoạt động ADPL THQCT của VKS trong giai đoạn điều tra tội giết người có
thể xác định khái niệm ADPL THQCT trong giai đoạn điều tra tội giết người
của VKS là hoạt động mang tính tổ chức thể hiện quyền lực Nhà nước, trong
đó Nhà nước thông qua hệ thống các cơ quan VKS căn cứ vào các quy định của
pháp luật TTHS, hình sự… để ban hành các quyết định cá biệt (văn bản ADPL)
làm phát sinh thay đổi, chấm dứt các quan hệ xã hội trong giai đoạn điều tra tội
giết người đảm bảo tính nghiêm minh, tính đúng đắn của pháp luật.
+ Đặc điểm áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra, tội giết người của VKSND:
Một là: ADPL THQCT ở giai đoạn điều tra tội phạm nói chung và tội giết
người nói riêng chỉ do cơ quan Nhà nước duy nhất thực hiện đó là cơ quan VKS.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì ở Việt Nam, VKS là cơ quan
duy nhất thực hiện chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Để thực
hiện chức năng công tố, VKS sử dụng hệ thống các quyền năng pháp lý theo
quy định của pháp luật. Trong các quyền năng pháp lý này có quyền năng chỉ
có VKS mới được thực hiện như quyền truy tố bị can ra Tịa và có những


21
quyền các cơ quan Nhà nước khác, như CQĐT… cũng được thực hiện như
KTVA, KTBC; quyền ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam… Trên thực tế đối với
các loại tội phạm nói chung và tội giết người nói riêng, việc quyết định ADPL
để khởi tố, ra lệnh bắt, giam, giữ chủ yếu do CQĐT tiến hành. Tuy nhiên,
quyết định của CQĐT luôn chịu sự kiểm sát chặt chẽ của VKS, trong đó nhiều
quyết định của CQĐT chỉ có giá trị pháp lý khi được VKS phê chuẩn như
quyết định KTBC, lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh gia hạn tạm giữ, lệnh
tạm giam… Như vậy, VKS luôn là cơ quan duy nhất được thực hiện QCT một
cách độc lập. VKS có quyền và trách nhiệm sử dụng mọi quyền năng pháp lý
do pháp luật quy định để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, đảm
bảo khơng bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội.

Hoạt động công tố của Kiểm sát viên là nhân danh quyền buộc tội nhà
nước, chịu sự lãnh đạo tập trung của Viện trưởng VKS mỗi cấp và chịu sự
lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao. VKS cấp trên có quyền
rút, hủy bỏ các quyết định cơng tố khơng có căn cứ và trái pháp luật của VKS
cấp dưới và yêu cầu ra quyết định đúng pháp luật. Điều này khác với tổ chức
hoạt động điều tra, CQĐT cấp trên khơng có quyền rút, hủy bỏ các quyết định
tố tụng của CQĐT cấp dưới.
Hai là: việc ADPL THQCT trong giai đoạn điều tra của VKS đối với các
loại tội phạm nói chung và tội giết người nói riêng tuân thủ theo trình tự, thủ
tục được pháp luật quy định chặt chẽ nhằm cá biệt hóa các quy định pháp luật
hình sự và pháp luật TTHS vào các trường hợp cụ thể.
Cũng như hoạt động áp dụng pháp luật nói chung, ADPL THQCT trong
giai đoạn điều tra tội giết người ln được thực hiện theo một thủ tục, trình tự
chặt chẽ do pháp luật quy định. Mục đích của hoạt động ADPL THQCT trong
giai đoạn điều tra của VKS đối với các tội giết người là truy cứu TNHS đối
với người phạm tội, buộc họ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi do các chế
tài pháp luật hình sự qui định. Đây là chế tài nghiêm khắc nhất trong hệ thống
các chế tài pháp luật. Vì vậy, việc ADPL THQCT trong giai đoạn điều tra của


22
VKS đối với các loại tội phạm nói chung và tội giết người nói riêng ln
động chạm trực tiếp tới các quyền cơ bản của đối tượng bị áp dụng nên trình
tự, thủ tục, thẩm quyền ADPL càng địi hỏi sự chặt chẽ, nghiêm ngặt và phải
công minh, khách quan, thận trọng trong việc xem xét, đánh giá chứng cứ
đảm bảo việc ADPL chính xác. Đối với từng trường hợp ADPL THQCT trong
giai đoạn điều tra tội giết người, như KTVA, BC; yêu cầu CQĐT KTVA, BC;
thay đổi khởi tố; phê chuẩn hay không phê chuẩn các quyết định của CQĐT;
hủy bỏ quyết định trái pháp luật của CQĐT; áp dụng, hủy bỏ hoặc thay thế
biện pháp ngăn chặn… VKS đều phải thực hiện theo trình tự, thủ tục được

pháp luật quy định (trước hết là các quy định của BLTTHS).
Ba là: ADPL THQCT trong giai đoạn điều tra tội giết người là hoạt động
ADPL mang tính cá biệt do VKS thực hiện trong giai đoạn điều tra tội giết người.
Khi THQCT trong giai đoạn điều tra các tội phạm nói chung và tội giết
người nói riêng, VKS có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các quyền năng pháp
lý theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm đảm bảo
việc thu thập tài liệu chứng cứ xác định có hay khơng có hành vi phạm tội xảy
ra; thời gian, địa điểm xảy ra tội phạm; ai là người thực hiện tội phạm; tính chất
lỗi của người thực hiện tội phạm; người thực hiện tội phạm có năng lực trách
nhiệm hình sự hay khơng; mục đích, động cơ phạm tội; tính chất, mức độ thiệt
hại, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, trách
nhiệm hình sự của người phạm tội…
Trên cơ sở tài liệu chứng cứ thu thập, VKS có trách nhiệm nghiên cứu
đánh giá khách quan tồn diện, chính xác căn cứ các quy định của pháp luật
để ban hành văn bản ADPL nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội nói chung
(tội giết người nói riêng) đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra,
truy tố… đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và
người phạm tội, không làm oan người vơ tội.
Vì vậy, ADPL THQCT trong giai đoạn điều tra tội giết người chỉ áp dụng
đối với các vụ án hình sự về tội giết người.


23
+ Đặc điểm áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong giai đoạn
xét xử tội giết người của VKSND:
Ở nước ta, Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất thay mặt nhà nước thực
hiện chức năng buộc tội, có trách nhiệm và có quyền đưa ra lời cáo buộc đối
với người phạm tội và bảo vệ sự buộc tội đó tại phiên tồ, nhằm đảm bảo mọi
hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, việc xét xử phải đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm

oan người vơ tội. Như vậy, có thể thấy rằng, hoạt động thực hành quyền công
tố trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự có những đặc điểm sau:
Một là: Hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm là hoạt
động nhân danh quyền lực nhà nước để truy tố người phạm tội ra trước Toà án
và bảo vệ sự buộc tội đó tại phiên tồ xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Hai là: Hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự nói chung, tội giết người nói riêng được qui định và cụ thể hố
trong Hiến pháp, pháp luật Tố tụng hình sự, pháp luật Hình sự, Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân.
Ba là: Hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự ở nước ta được giao cho cơ quan Viện kiểm sát thực hiện. Vì vậy,
chỉ có Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất có chức năng, nhiệm vụ này; mà
người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ này là Kiểm sát viên; được thực hiện trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
1.1.3. Vai trò của áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra, xét xử tội giết người của Viện kiểm sát nhân dân
Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố của VKS ở giai đoạn
điều tra, xét xử tội giết người để bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, tự do tài sản và quyền lợi ích hợp pháp khác của cơng dân, giữ gìn an
ninh chính trị trật tự an tồn XH, góp phần bảo vệ pháp chế, bảo vệ chế độ
XHCN, chế độ chính trị, chế độ kinh tế. Giữ gìn kỷ cương phép nước, đảm
bảo mọi hành vi phạm tội đều bị phát hiện xử lý nhanh chóng nghiêm minh
kịp thời; không bỏ lọt tội phạm, tránh làm oan người vô tội.


24
Hoạt động của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử đều có sự đan xen,
ràng buộc nhau. Viện kiểm sát là một trong những Cơ quan tiến hành tố tụng
với phạm vi của THQCT từ khi phát hiện tội phạm khởi tố vụ án đến khi bản
án có hiệu lực pháp luật. Vì có VKS nên Cơ quan điều tra không thể tùy tiện

bắt, khởi tố hoặc bỏ qua cho trường hợp nào cũng được; tương tự như vậy,
Tịa án khơng thể tùy tiện thích xử, tun án, chọn mức hình phạt nào cũng
được. Họ có thể bị VKS can thiệp bằng các quyền năng tố tụng ngay lập tức,
nếu họ ra các văn bản áp dụng pháp luật sai trái. Điều đó có thể cho thấy VKS
có vai trị quan trọng trong cơng tác bảo vệ cơng lý, công bằng, dân chủ trong
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự nói chung và vụ án giết
người nói riêng.
Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố của VKS ở giai đoạn
điều tra, xét xử tội giết người của VKSND có vai trị quan trọng trong việc
xây dựng và hồn thiện pháp luật: Thông qua công tác thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp sẽ trực tiếp kiểm nghiệm tính phù hợp hay
khơng phù hợp, có căn cứ hay khơng có căn cứ của các văn bản quy phạm
pháp luật, nhất là BLHS và BLTTHS. Qua đó tìm ra những khiếm khuyết,
thiếu sót, chồng chéo trong hệ thống pháp luật để hoàn thiện thể chế - tức là phải
xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật một cách đồng bộ, có tính dự báo trên
tất cả các lĩnh vực của quản lý nhà nước. Qua công tác THQCT, VKSND tối cao
sẽ tổng hợp những vấn đề bất cập nêu trên đề nghị Quốc hội sửa đổi bổ sung
thay thế cho phù hợp. Như vậy, công tác THQCT ở giai đoạn điều tra, xét xử có
vai trị quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra, xét xử các vụ
án hình sự nói chung và vụ án giết người nói riêng có vai trị hướng các chủ
thể của quan hệ pháp luật thực hiện đúng, đầy đủ chức trách nhiệm vụ của
mình khi tiến hành tố tụng; đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của những người
tham gia tố tụng, nhất là người bị tạm giữ, bị can, người bị hại; ngăn ngừa
việc lạm quyền của những người tiến hành tố tụng; hướng các chủ thể của các


25
quan hệ pháp luật trong điều tra các vụ án hình sự thực hiện những hành vi
phù hợp với các quy định của pháp luật: Thực hiện đúng, đầy đủ chức trách

của mình được giao khi tiến hành tố tụng; đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp
của người tham gia tố tụng; Ngăn ngừa, hạn chế các hành vi vi phạm mới
trong quá trình điều tra các vụ án hình sự của những người tiến hành tố tụng
và những người tham gia tố tụng.
ADPL trong thực hành quyền công tố của VKS ở giai đoạn điều tra, xét
xử tội giết người của VKSND đã góp phần phổ biến tuyên truyền pháp luật,
giáo dục riêng đối với người phạm tội, răn đe phịng ngừa chung đối với
người đã và đang có ý định phạm tội. Đồng thời qua hoạt động công tác này
sẽ tổng kết phát hiện nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm nói
chung, tội phạm giết người nói riêng; phương thức thủ đoạn của kẻ phạm tội
để kiến nghị các cơ quan tổ chức có biện pháp phòng ngừa vi phạm và tội
phạm; phát hiện, tổng hợp vi phạm của Cơ quan tiến hành tố tụng và người
tiến hành tố tụng để có giải pháp phịng ngừa, khắc phục.
1.2. NỘI DUNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA, XÉT XỬ TỘI GIẾT NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN

1.2.1. Nội dung áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra tội giết người
ADPL THQCT trong giai đoạn điều tra tội phạm nói chung cũng như đối
với tội giết người nói riêng có vai trị quan trọng trong việc đấu tranh phòng,
chống tội phạm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra
xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội cũng như không làm
oan người vô tội.
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người về tội giết người
phải có căn cứ, đúng pháp luật. Theo quy định của Luật Tổ chức VKSND năm
2002, BLTTHS năm 2003 và quy chế công tác THQCT và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong điều tra các vụ án hình sự năm 2009 của Viện trưởng



×