Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông ở tỉnh lai châu hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (424.8 KB, 95 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong đời sống xã hội, pháp luật ln giữ một vai trị đặc biệt quan
trọng. Có thể nói, pháp luật là phương tiện không thể thiếu để bảo đảm cho sự
tồn tại, phát triển của xã hội. Ngồi chức năng là một cơng cụ quản lý Nhà
nước hữu hiệu, pháp luật còn là thước đo hành vi xã hội của con người và là
công cụ để chúng ta kiểm nghiệm nhận thức, điều chỉnh xã hội. Một trong
những đặc trưng của pháp luật là tính liên hệ mật thiết với các quy phạm xã
hội khác, đặc biệt là các quy tắc đạo đức tiến bộ luôn là cơ sở cho pháp luật.
Việc giáo dục, trong đó có giáo dục ý thức trách nhiệm đối với bản
thân, gia đình, xã hội, thế giới tự nhiên hay ý thức pháp luật là điều vô cùng
quan trọng, mang tính chất sống cịn đến sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Con người từ khi sinh ra cho đến lúc trưởng thành đều chịu sự tác động
của giáo dục. Đó chính là giáo dục từ gia đình, nhà trường và xã hội. Bằng
những nhận thức ban đầu do quan sát, tiếp xúc cùng với sự giáo dục, dần dần
ý thức mới hình thành trong con người. Do đó, chúng ta có thể thấy được tầm
quan trọng của việc xây dựng, hình thành ý thức pháp luật trong học sinh là
một việc làm vơ cùng khó khăn, nó địi hỏi chúng ta phải có sự đầu tư, chuẩn
bị thật kỹ càng và thật nghiêm túc ngay từ ban đầu.
Trong những năm gần đây, với đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng
và lãnh đạo đã làm cho diện mạo đất nước thay đổi trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu của công cuộc đổi mới
lại là những biểu hiện về suy thoái đạo đức, lối sống cũng như tình trạng vi
phạm pháp luật của học sinh, sinh viên, điều đó đã gióng lên hồi chng báo
động cho gia đình, nhà trường và cả xã hội. Có lẽ hầu như khơng có ngày nào
mà trên các phương tiện thơng tin đại chúng lại khơng có những thơng tin về
vi phạm pháp luật mà đối tượng là những trẻ vị thành niên, trong khi chúng ta
vẫn luôn kỳ vọng về một ngày mai với những con người có tuổi trẻ, nhiệt



2
huyết, trí tuệ, nhân cách... và chính họ cũng là chủ nhân tương lai của đất
nước, nhưng tương lai đất nước sẽ đi về đâu nếu chúng ta không thật sự
nghiêm túc nhìn nhận một thực tế đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ tình trạng
bạo lực học đường, học sinh bỏ học, nghiện chất ma tuý, thậm chí là vi phạm
pháp luật ở lứa tuổi vị thành niên đang có chiều hướng gia tăng. Trong số đó
có khơng ít trường hợp là học sinh trung học phổ thông đang ngồi trên ghế
nhà trường.
Giáo dục pháp luật cho công dân nói chung và cho học sinh trung học
phổ thơng nói riêng là một vấn đề quan trọng của mọi quốc gia vì được coi là
một phương thức để xây dựng, phát triển nền văn hóa pháp lý, đảm bảo sự ổn
định và bền vững của mỗi quốc gia. Chính vì vậy, ngày nay trên thế giới,
chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng một quốc gia hùng mạnh là một quốc gia có
nền giáo dục phát triển.
Ở nước ta cùng với sự gia tăng mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, thì
vấn đề trật tự pháp luật trong xã hội càng trở nên bức xúc. Theo thống kê của
Bộ Công an, chỉ tính riêng trong năm 2010, trên địa bàn cả nước có 13.572
đối tượng phạm tội là người chưa thành niên, trong đó có 1.600 vụ học sinh
đánh nhau, tăng nhiều lần so với nhiều năm trước kể về số lượng phạm tội lẫn
các vụ trọng án. Nguyên nhân của lý do trên là do ý thức của các em về vấn
đề pháp luật rất thấp, đã có nhiều giải pháp đưa ra để làm giảm các tệ nạn xã
hội, nhưng những giải pháp đó chỉ được coi là giải pháp tình thế. Do đó cần
phải tập trung nghiên cứu, tìm ra các giải pháp hữu hiệu để hình thành cho
mọi người có ý thức chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, đặc biệt là đối tượng
học sinh ngay từ khi các em chưa phải là người tham gia pháp luật thường
xuyên. Vì thế xây dựng chương trình giáo dục pháp luật trong nhà trường là
giải pháp mang tính lâu dài.
Đối với Lai Châu là tỉnh miền núi, vùng cao biên giới, rừng núi nhiều,
địa hình chia cắt, xen kẽ nhiều thung lũng sâu, lại có nhiều cao ngun, sơng



3
núi, phía bắc giáp nước cộng hồ nhân dân Trung Hoa, phía tây và phía Nam
giáp tỉnh Điện Biên, phía Đơng giáp tỉnh Lào Cai, phía Đơng Nam giáp tỉnh
n Bái và phía Nam giáp tỉnh Sơn La, tỉnh lại mới được chia tách thành lập
năm 2004, có diện tích 10.000km 2; dân số Lai Châu mới chỉ trên 39 vạn
người, hầu hết là đồng bào dân tộc thiểu số còn bị hạn chế về mặt bằng tri
thức. Điều kiện kinh tế-xã hội đang cịn gặp nhiều khó khăn, cơ sở hạ tầng
thấp, giao thơng đi lại khó khăn, núi rừng hiểm trở, số lượng học sinh dân tộc
trong toàn tỉnh chiếm tỷ lệ lớn 88,5%, tỷ lệ đói nghèo cao. Tuy nhiên các
đồng bào dân tộc ở tỉnh Lai Châu ln có tinh thần đồn kết, nhân ái, vượt
khó, giữ vững bản sắc dân tộc... những truyền thống quý báu đó đã và đang
được kế thừa và phát huy.
Học sinh trung học phổ thông là những người tuổi đời cịn rất trẻ, đang
ở trong giai đoạn hình thành nhân cách, tâm sinh lý của học sinh đã có nhiều
thay đổi với tâm lý muốn thể hiện, khẳng định mình đã là “người lớn” dễ làm
phát sinh ở lứa tuổi này những hành động bột phát, nơng nổi. Vì vậy rất cần
được quan tâm, định hướng, giáo dục về pháp luật. Hơn nũa ở độ tuổi này có
một đặc thù đó là ngưỡng cuối cùng của một cấp học, vì thế ngoài việc cung
cấp, trang bị cho các em về kiến thức văn hóa thì nhiệm vụ hết sức quan trọng
đó là cần phải trang bị cho các em hành trang pháp luật để các em chủ động,
ứng xử chuẩn mực trước những môi trường mới với nhiều bỡ ngỡ và phức tạp
của xã hội như hiện nay.
Xuất phát từ những cấp bách và yêu cầu về thực tiễn trên đây, học viên
chọn đề tài “Giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông ở tỉnh
Lai Châu hiện nay” nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lý luận lịch
sử về Nhà nước và pháp luật. Việc nghiên cứu này vừa có ý nghĩa lý luận cũng
như thực tiễn trong việc góp phần cung cấp nội dung khoa học cho q trình chủ
động, tích cực tìm ra những giải pháp tối ưu nhằm hoàn thiện dần về chương
trình giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông giai đoạn hiện nay.



4
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Giáo dục pháp luật nói chung và giáo dục pháp luật cho học sinh trung
học phổ thơng nói riêng hiện nay đang là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta
hết sức quan tâm. Có rất nhiều sách, báo, tạp chí, cơng trình nghiên cứu khoa
học tập trung nghiên cứu về tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và tìm
ra các giải pháp nhằm điều chỉnh, định hướng xây dựng chương trình giáo dục
pháp luật cho mọi tầng lớp trong xã hội trong đó có học sinh, sinh viên. Thể
hiện ở một số cơng trình khoa hoc như sau:
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong thời kỳ
đổi mới, Đề tài khoa học cấp bộ của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ
Tư pháp 1994.
- Bàn về giáo dục pháp luật của Trần Ngọc Đường và Dương Thị
Thanh Mai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995.
- Giáo dục ý thức pháp luật và lối sống theo pháp luật, do tiến sĩ khoa
học Đào Trí Úc chủ biên, năm 1995.
- Xã hội hóa cơng tác phổ biến giáo dục pháp luật trong tình hình mới,
Hồ Văn Hiệp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 9/2000.
- Tập bài giảng “Nghiệp vụ phổ biến giáo dục pháp luật” do Viện Nhà
nước và pháp luật - Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
biên soạn năm 2010.
* Một số tài liệu dưới dạng luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ nghiên
cứu vấn đề này như:
- Giáo dục pháp luật với việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa,
Luận án phó tiến sĩ luật học Trần Ngọc Đường (bảo vệ tại Liên Xô) 1988.
- Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tư pháp Việt Nam, Luận án
tiến sĩ luật học của Dương Thị Thanh Mai 1996.
- Cơng trình nghiên cứu về giáo dục pháp luật cho các đối tượng giáo

dục pháp luật trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề


5
(không chuyên luật) ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học của Đinh
Xuân Thảo, 1996.
- Đổi mới giáo dục pháp luật trong hệ thống các trường chính trị ở
nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ của Viện Nhà nước và pháp luật Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
- Giáo dục pháp luật trong các trường sĩ quan quân đội Việt nam hiện
nay, Luận văn thạc sĩ luật học của Phạm Trọng Nghĩa, 2000.
- Giáo dục pháp luật cho nhân dân các dân tộc thiểu số ở tỉnh Đắc Lắc
- thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ luật học, Phạm Hàn Lâm, 2001.
- Giáo dục pháp luật cho phụ nữ nông thôn trên địa bàn tỉnh Hưng Yên,
Luận văn thạc sĩ luật học của Đinh Thị hương 2008.
- Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức của Đài truyền hình Việt Nam
hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học của Lại Tự Hùng, 2007.
- Giáo dục pháp luật cho phụ nữ nông thôn trên địa bàn tỉnh Hưng Yên,
Luận văn Thạc sĩ Luật học của Đinh Thị Hương, 2008.
- Giáo dục pháp luật cho công chức, viên chức y tế ở tỉnh Nghệ An, Luận
văn Thạc sĩ Luật học của Trương Văn Anh, 2009.
* Một số bài viết của các tác giả đăng trên tạp chí
thời gian gần đây:
- Kết hợp giáo dục pháp luật với giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức
và văn hóa đối với doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam của Vũ Thị Hồi
Phương, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 04/2007.
- Hoàn thiện hệ thống giáo dục pháp luật ở Việt Nam nhằm thi hành hiến
chương ASEAN của PGS-TS Trần Ngọc Dũng, Tạp chí Luật học, số 01/2010.
Các nghiên cứu trên đã tập trung làm rõ được nội dung, tầm quan trọng
của việc giáo dục pháp luật cũng như đề xuất được một số giải pháp thiết thực
nhằm nâng cao chất lượng hiểu biết pháp luật, công tác giáo dục pháp luật

cho con người nói chung và cho một số đối tượng cụ thể ở một không gian,
thời gian nhất định, là tài liệu hết sức bổ ích trong việc nghiên cứu vấn đề


6
pháp luật và giáo dục pháp luật.
Đã có khá nhiều sách, báo, tạp chí, cơng trình nghiên cứu khoa học đề
cập về vấn đề giáo dục pháp luật. Nhưng cho đến nay chưa có cơng trình khoa
học nào nghiên cứu về vấn đề giáo dục pháp luật cho đối tượng là học sinh
trung học phổ thông ở tỉnh Lai Châu một cách có hệ thống, chi tiết, cụ thể...,
vì vậy đề tài mà học viên lựa chọn nghiên cứu không trùng với các cơng trình
khoa học đã cơng bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
- Trên cơ sở phân tích lý luận về giáo dục pháp luật cho học sinh trung
học phổ thông và thực trạng giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ
thơng ở tỉnh Lai Châu hiện nay. Từ đó đưa ra những giải pháp bảo đảm giáo
dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông ở tỉnh Lai Châu hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những
nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Làm rõ khái niệm, vai trò và mục đích của giáo dục pháp luật cho học
sinh trung học phổ thông.
- Đánh giá thực trạng nhận thức pháp luật và giáo dục pháp luật trong
các trường trung học phổ thông ở tỉnh Lai Châu hiện nay.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp bảo đảm giáo dục pháp luật cho học
sinh trung học phổ thông ở tỉnh Lai Châu hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng hoạt động giáo dục pháp luật

cho học sinh trung học phổ thông ở tỉnh Lai Châu hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Để giải quyết vấn đề nêu trên, luận văn giới hạn tập trung vào các


7
trường trung học phổ thông ở tỉnh Lai Châu từ năm 2009 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận:
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về Pháp luật. Quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản
Việt Nam về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn vận dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp cụ thể: phương pháp
thống kê, lôgic và lịch sử, phân tích và tổng hợp từ các tri thức lý luận chun
ngành. Ngồi ra, tác giả luận văn cịn sử dụng phương pháp điều tra xã hội
học để tổng kết thực tiễn về thực trạng nhận thức và chấp hành pháp luật và
giáo dục pháp luật ở các trường trung học phổ thơng ở tỉnh Lai Châu.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Góp phần làm rõ thêm vị trí, vai trị, nội dung của giáo dục pháp luật
cho học sinh trung học phổ thông ở tỉnh Lai Châu.
- Phân tích và đánh giá thực trạng nhận thức, chấp hành và giáo dục
pháp luật ở các trường trung học phổ thông ở tỉnh Lai Châu từ đó có hướng đề
xuất, kiến nghị một số giải pháp bảo đảm giáo dục pháp luật cho đối tượng là
học sinh trung học phổ thông ở tỉnh Lai Châu hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận về giáo dục pháp luật,
làm rõ tính cấp thiết của việc giáo dục pháp luật cho thế hệ trẻ ngày nay mà
đặc biệt là đối tượng vị thành niên, trong đó có đối tượng là học sinh trung

học phổ thông.
- Luận văn là tài liệu chuyên khảo về giáo dục pháp luật cho học sinh
trung học phổ thông ở tỉnh Lai Châu.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn


8
gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. KHÁI NIỆM, VAI TRỊ VÀ MỤC ĐÍCH CỦA GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

1.1.1.

Khái niệm giáo dục pháp luật cho học sinh

trung học phổ thông
Hiện nay ở Việt Nam, vấn đề lý luận về giáo dục pháp luật vẫn tồn tại
nhiều quan điểm khác nhau, mỗi quan điểm đều có cơ sở khoa học của nó.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Giáo dục pháp luật là một bộ phận của
giáo dục chính trị, tư tưởng và đạo đức. Và chỉ cần thực hiện tốt công tác giáo
dục chính trị, tư tưởng và đạo đức là mọi người có ý thức pháp luật cao, có sự
tơn trọng và tuân thủ pháp luật.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Coi giáo dục pháp luật là sự tuyên truyền,
phổ biến hay giải thích pháp luật. Với quan điểm này, việc giáo dục pháp luật
thực chất chỉ là các đợt tuyên truyền, cổ động khi có văn bản pháp luật quan
trọng mới ban hành.

Quan điểm thứ ba cho rằng: Khơng có khái niệm giáo dục pháp luật.
Pháp luật là những quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành, có tính bắt buộc
chung, tất cả mọi người đều có nghĩa vụ phải thực hiện. Vì thế khơng cần đặt
ra vấn đề giáo dục pháp luật, chỉ cần ban hành, phổ biến pháp luật và mọi
người phải thực hiện.
Cả ba quan niệm trên, xét cho cùng chưa đánh giá đúng bản chất của
khái niệm pháp luật, có chăng chỉ là những cách hiểu, đánh giá một chiều,
phiến diện mà chưa thấy được đặc thù và giá trị vốn có của giáo dục pháp
luật. Mặt khác trong thực tiễn các quan điểm trên nhiều khi cịn tạo ra một rào
cản trong q trình triển khai, hoạt động, tổ chức cũng như quy mô việc thực


9
hiện pháp luật thậm chí cịn làm cho hiệu lực, hiệu quả của pháp luật trong
thực tế không cao.
Theo từ điển Tiếng Việt “Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một
cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào
đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có những phẩm chất và năng lực như yêu
cầu đề ra” [67, tr.394].
Trong khoa học pháp luật và thực tiễn hiện nay, quan niệm giáo dục
pháp luật thường được hiểu ở hai góc độ, theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, giáo dục pháp luật được hiểu là quá trình hình thành ý
thức pháp luật, văn hóa pháp luật của các thành viên xã hội chịu tác động tích
cực và tiêu cực, có chủ định và tự phát của các điều kiện khách quan và chủ
quan, như chế độ xã hội, chế độ kinh tế, chế độ chính trị, mơi trường sống và
giáo dục chung...
Theo nghĩa hẹp, giáo dục pháp luật được hiểu là hoạt động có định
hướng, có tổ chức, có chủ định của cơ quan, tổ chức và cá nhân cung cấp tri
thức pháp luật, bồi dưỡng tình cảm và hành vi hợp pháp nhằm hình thành ở
đối tượng giáo dục ý thức và tình cảm pháp luật đúng đắn, thói quen hành

động theo pháp luật và tích cực tham gia đấu tranh phòng, chống vi phạm
pháp luật trong xã hội.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục pháp luật là hoạt động
giảng dạy, học tập pháp luật trong các nhà trường, các cơ sơ giáo dục khác
trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Như vậy, giáo dục pháp luật là một hoạt động mang đầy đủ tính chất
chung của giáo dục, nhưng nó cũng có những nét đặc thù so với các hoạt động
giáo dục khác ở những điểm sau:
Một là, giáo dục pháp luật là hoạt động nhằm hình thành tri thức, tình
cảm và thói quen xử sự phù hợp với quy định của pháp luật, làm cho công dân


10
tự giác tuân thủ pháp luật, có ý thức pháp luật cao, góp phần tăng cường hiệu
quả của pháp luật.
Hai là, giáo dục pháp luật đó chính là sự tác động có định hướng với
nội dung cơ bản là chuyển tải tri thức về nhà nước và pháp luật mà trong đó
pháp luật thực định hiện hành của Nhà nước là bộ phận cơ bản nhất.
Ba là, xét trên yếu tố chủ thể, khách thể, hình giáo dục pháp luật cũng
có nét riêng. Có thể thấy, so với các dạng giáo dục khác thì giáo dục pháp luật
là quá trình tác động một lần của chủ thể lên đối tượng giáo dục. Chính vì
vậy, giáo dục pháp luật trở thành hoạt động thường xuyên trong các gia đình,
trường học, các tập thể lao động, tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước và đoàn
thể xã hội.
Như vậy, giáo dục pháp luật là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có
chủ định của cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tri thức pháp luật, bồi dưỡng
tình cảm pháp lý và hành vi hợp pháp cho đối tượng giáo dục nhằm hình
thành ở họ ý thức pháp luật, tình cảm pháp luật đúng đắn và thói quen hành
động phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành.
Công tác giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông là một

bộ phận của quá trình giáo dục được thực hiện ở các trường trung học phổ
thông, nên giáo dục pháp luật cũng mang những nét chung, đặc thù trong q
trình giáo dục tổng thể. Đồng thời, nó cịn vận động và phát triển nhận thức,
tình cảm và hành vi phù hợp với pháp luật hiện hành. Trong đó, giảng dạy
pháp luật trong trường học được thực hiện đối với một nhóm đối tượng nhất
định trong xã hội, cụ thể là học sinh các trường trung học phổ thông, trung
cấp chuyên nghiệp và dạy nghề, sinh viên các trường đại học, cao đẳng; với
những điều kiện nhất định về chương trình, nội dung, đội ngũ giáo viên,
phương tiện và phương pháp dạy học...phù hợp với từng nhóm đối tượng.
Giảng dạy pháp luật trong nhà trường là hình thức quan trọng để nâng cao ý
thức pháp luật cho người học, song chỉ như vậy chưa đủ mà còn phải kết hợp


11
với tuyên truyền, phổ biến và các hình thức tác động khác nữa.
Từ đó cho thấy, giáo dục pháp luật có ý nghĩa rộng lớn hơn với hình
thức thực hiện đa dạng hơn trong đó việc dạy và học pháp luật trong nhà
trường là một kênh quan trọng giúp đối tượng có nhận thức cơ bản và tạo
niềm tin một cách có cơ sở đối với pháp luật. Giáo dục pháp luật là việc sử
dụng những hình thức khác nhau tác động có hệ thống và thường xuyên tới ý
thức của con người nhằm trang bị cho họ những kiến thức pháp lý nhất định,
để từ đó, họ có những nhận thức đúng đắn về pháp luật, tôn trọng và tự giác
xử sự theo yêu cầu của pháp luật.
Cho nên, ngành giáo dục có vai trị to lớn đối với sự phát triển tồn
diện con người Việt Nam trong đó có việc hình thành ý thức pháp luật, văn
hóa pháp lý. Nội dung giáo dục pháp luật là một phần của nội dung chương
trình giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc
dân. Nói cách khác, giáo dục pháp luật là một hoạt động tự thân, thường
xuyên của ngành giáo dục khác một số ngành khác. Giáo dục pháp luật tốt
không những góp phần ổn định hoạt động của ngành mà cịn góp phần trực

tiếp vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm giáo dục.
Từ sự phân tích trên, có thể hiểu khái niệm giáo dục pháp luật cho học
sinh trung học phổ thông như sau:
Giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thơng là hoạt động có
tính định hướng, có tổ chức, có mục đích của đội ngũ những người làm công
tác giáo dục pháp luật cung cấp tri thức pháp luật, bồi dưỡng tình cảm pháp
lý và hành vi hợp pháp cho học sinh nhằm làm hình thành ở họ ý thức pháp
luật, tình cảm pháp luật đúng đắn và thói quen hành động phù hợp với quy
định của pháp luật hiện hành.
1.1.2.

Vai trò của giáo dục pháp luật đối với học

sinh trung học phổ thông
C.Mác-Ph.Ăngghen cho rằng: Bản thân xã hội tạo ra con người với tính
cách như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội như thế ấy. Ph.Ăng ghen đã


12
luận giải một cách khoa học đầy thuyết phục về vai trị to lớn của giáo dục nói
chung đối với sự phát triển của xã hội; chỉ rõ giáo dục có vai trị đặc biệt quan
trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách cá nhân, thơng qua đó
giáo dục góp phần quyết định sự vận động và phát triển của xã hội.
V.I.Lênin cho rằng “Thanh niên là nguồn sinh lực chiến đấu cách
mạng” [30, tr.67]. Ông đánh giá rất cao tiềm năng sáng tạo của tuổi trẻ và khả
năng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cách mạng của thanh niên.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln
ln quan tâm đến việc giáo dục thanh thiếu niên, nhi đồng. Vì Bác coi đó là
một bộ phận quan trọng của dân tộc- những người chủ tương lai của nước
nhà. Trước khi đi xa, Người cịn căn dặn lại tồn Đảng, tồn dân hãy “chăm lo

giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã
hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Đặc biệt Bác rất quan tâm đến vấn đề giáo dục
pháp luật đối với thế hệ trẻ. Người đã từng viêt:
Nhà trường, gia đình và xã hội là những môi trường rất quan trọng
để con người thể hiện hành vi đạo đức của mình. Việc giáo dục ý
thức đạo đức, ý thức pháp luật phải dựa vào các môi trường đó.
Giữa ba yếu tố này có sự đồng bộ sẽ tạo ra cơ chế vững chắc giáo
dục pháp luật cho thế hệ trẻ ngay từ khi các em bắt đầu bước vào
tuổi đi học cho đến khi tốt nghiệp ra trường và đi làm [38, tr.152].
Như vậy, V.I.Lênin cũng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao
vai trò của thế hệ trẻ trong đời sống xã hội và vai trò giáo dục pháp luật cho
đối tượng này trong việc hình thành nhân cách con người.
Trong nhà trường giáo dục pháp luật có vị trí đặc biệt quan trọng và là
biện pháp cơ bản có ý nghĩa chiếc lược trong việc bồi dưỡng, xây dựng, hình
thành những thế hệ công dân, người lao động mới trong nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đáp ứng các yêu cầu của xã hội hiện tại và tương


13
lai. Giáo dục pháp luật có tác động quan trọng và trực tiếp trong việc trang bị
kiến thức pháp luật, bồi dưỡng tình cảm, ý thức trách nhiệm và khả năng điều
chỉnh các hành vi đúng đắn cho học sinh, do đó giáo dục pháp luật có vai trị
quan trọng thể hiện rõ nét ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, giáo dục pháp luật góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Vai trò này bắt nguồn từ vai trò và giá trị xã hội của pháp luật. Một
trong những vai trò cơ bản của pháp luật trong đời sống nhà nước, đời sống
xã hội là: pháp luật là cơ sở để thiết lập, củng cố và tăng cường quyền lực
nhà nước. Một nguyên lý đã được khẳng định là nhà nước không thể tồn tại
thiếu pháp luật và pháp luật không thể phát huy hiệu lực của mình nếu khơng

có sức mạnh của bộ máy nhà nước. Thông qua quyền lực nhà nước, pháp luật
mới có thể phát huy tác dụng trong đời sống xã hội, phát huy vai trò quản lý
Nhà nước, quản lý xã hội. Hệ thống pháp luật là “con đường”, là cái “khung
pháp lý” do Nhà nước vạch ra để mọi tổ chức, mọi cơng dân dựa vào đó mà tổ
chức, hoạt động và phát triển. Phổ biến, giáo dục pháp luật góp phần đem lại
cho mọi người có trí thức pháp luật, xây dựng tình cảm pháp luật đúng đắn và
có hành vi hợp pháp, biết sử dụng pháp luật làm phương tiện để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình quản lý
Nhà nước, quản lý xã hội. Do đó, giáo dục pháp luật cho học sinh trung học
phổ thông là trách nhiệm chung của Đảng, Nhà nước, trong đó có trách nhiệm
của ngành giáo dục. Thực hiện giáo dục pháp luật trong các trường trung học
phổ thông là giúp cho học sinh biết được các quyền cơ bản của mình, từ đó sử
dụng các quyền mà pháp luật quy định (sử dụng pháp luật), các nghĩa vụ mà
họ phải thực hiện (chấp hành pháp luật); đồng thời thơng qua việc học tập,
nghiên cứu các em có hiểu biết và nhận thức được những gì mà pháp luật
cấm từ đó khơng làm những điều cấm (tn thủ pháp luật).
Như vậy, có thể nói cơng tác giáo dục pháp luật được thực hiện trong
trường trung học phổ thông cũng nhằm đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc sống
Thứ hai, góp phần giáo dục đạo đức, lối sống, hình thành nhân cách,


14
rèn luyện hành vi ứng xử cho thế hệ trẻ ngay từ trên ghế nhà trường tạo nếp
sống, hành động “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”
Hoạt động giáo dục pháp luật là một hoạt động giáo dục cụ thể gắn bó
hữu cơ với hoạt động giáo dục nói chung. Nội dung giáo dục pháp luật là một
phần của nội dung chương trình giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo của
hệ thống giáo dục quốc dân. Nói cách khác, giáo dục pháp luật là một hoạt động
tự thân, thường xuyên của ngành giáo dục khác một số ngành khác. Giáo dục
pháp luật cho học sinh trung học phổ thông thực hiện thông qua việc dạy và học

nội dung, kiến thức pháp luật trong chương trình giáo dục chính khóa qua các
mơn học như giáo dục cơng dân hoặc được lồng ghép, tích hợp vào các mơn học
có liên quan đạo đức, tìm hiểu tự nhiên xã hội, sinh học, lịch sử… (phổ thông).
Nhà trường (trường học) là đơn vị cấu trúc cơ sở của hệ thống giáo dục
quốc dân, là nơi thực hiện chức năng dạy học có tổ chức. Giáo dục trong nhà
trường là hoạt động mang tính mục đích (định hướng), thực hiện mục tiêu của
giáo dục. Các nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục trong nhà
trường được lựa chọn và có độ tin cậy cao. Giáo dục nhà trường giữ vai trị,
tuy khơng phải duy nhất, nhưng rất trọng yếu trong việc giáo dục đạo đức, lối
sống và hình thành nhân cách người học, tạo ra nguồn nhân lực phù hợp với
nhu cầu và sự phát triển của xã hội, đặc biệt trong xã hội tiên tiến, văn minh.
Trong thời đại ngày nay, vị trí của giáo dục nhà trường ngày càng được khẳng
định và nâng cao, giáo dục trong nhà trường đóng vai trị chủ đạo trong việc
đào tạo sức lao động mới, đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của xã hội.
Thứ ba, giáo dục pháp luật góp phần thực hiện mục tiêu
giáo dục toàn diện
Giáo dục pháp luật trong nhà trường có vai trị to lớn đối với sự phát triển
tồn diện con người Việt Nam trong đó có việc hình thành ý thức pháp luật, văn
hoá pháp lý trong nhân dân. Hoạt động giáo dục pháp luật là một hoạt động giáo
dục cụ thể gắn bó hữu cơ với hoạt động giáo dục nói chung. Giáo dục pháp luật


15
tốt khơng chỉ góp phần ổn định hoạt động của ngành mà cịn góp phần trực tiếp
vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm giáo dục, góp phần quan trọng đào tạo
nguồn nhân lực, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam
địi hỏi có những con người mới, có tri thức khoa học, có hiểu biết về pháp
luật, có ý thức tuân thủ pháp luật. Thực tế hiện nay cho thấy, tình hình vi
phạm pháp luật trong xã hội ngày càng tăng nhất là trong lứa tuổi thanh thiếu

niên mà một trong những nguyên nhân đó là tình trạng “mù” pháp luật, khơng
hiểu biết gì về pháp luật, hoặc hiểu biết pháp luật không đầy đủ, từ đó dẫn đến
việc có những hành vi vi phạm pháp luật.
Mặt khác, việc mở cửa nền kinh tế cũng có những ảnh hưởng, tác động
đến truyền thống, đạo đức xã hội, một số nét đẹp trong đạo đức truyền thống
bị pháp vỡ, đạo đức xã hội có biểu hiện xuống cấp, ý thức pháp luật trong dân
chúng chưa cao, việc tuân thủ pháp luật chưa được coi trọng. Xã hội càng
phát triển, nhu cầu hiểu biết pháp luật và vận dụng pháp luật trong các hoạt
động kinh tế hay để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi cá nhân trong
xã hội càng lớn. Do đó, ngồi việc trang bị các kiến thức văn hoá, khoa học
kỹ thuật, việc giáo dục pháp luật vào nhà trường nhằm trang bị những tri thức
pháp luật cơ bản cho học sinh trung học phổ thông, giáo dục ý thức tự giác
tuân thủ pháp luật cho các công dân trẻ - chủ nhân tương lai của đất nước là
việc làm đúng đắn, cần thiết và cấp bách đáp ứng đòi hỏi khách quan của sự
phát triển của xã hội nhằm nâng cao dân trí pháp lý và thực hiện chủ trương
của Đảng đã đề ra trong các Nghị quyết hội nghị Trung ương.
Giáo dục trong nhà trường là sự tác động có bài bản, có định hướng, nội
dung kiến thức được sắp xếp khoa học theo hệ thống từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp, từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng. Chương trình
giáo dục nhà trường có tính kế thừa, tính liên thơng và phát triển trong nội dung
kiến thức ở từng lớp học, bậc học, giúp cho học sinh từng bước mở rộng nhận


16
thức, bồi đắp tri thức và thực hiện nhiệm vụ có tầm quan trọng đặc biệt đó là
hình thành được ở học sinh nhân cách người công dân trong xã hội mới.
Đưa giáo dục pháp luật vào nhà trường là việc sử dụng các thiết chế bộ
máy, các cơ sở vất chất của nhà trường, thông qua chức năng giáo dục của nhà
trường, thực hiện mục đích của giáo dục pháp luật. Là việc bằng các quy tắc,
luật lệ, các hình thức và phương pháp giáo dục trong nhà trường để đưa các

nội dung kiến thức, các chuẩn mực pháp luật đến với học sinh các cấp học,
bậc học. Trang bị cho các em những tri thức pháp luật cần thiết, bồi dưỡng
tình cảm và đặc biệt là xây dựng và hình thành trong các em ý thức pháp luật
làm cơ sở cho sự hình thành hành vi và thói quen hành có các hành vi phù
hợp pháp luật, phù hợp với chuẩn mực đạo đức, với kỷ cương, nề nếp xã hội
yêu cầu. Trường học là môi trường giáo dục pháp luật tốt nhất, dễ đạt hiệu
quả cao. Do việc sử dụng các hình thức, phương pháp đặc trưng của giáo dục
nhà trường trong hoạt động giáo dục pháp luật. Thực hiện giáo dục pháp luật
trong nhà trường là góp phần đưa pháp luật đến với những cơng dân trẻ tuổi
bằng con đường ngắn nhất, nhanh nhất, hiệu quả nhất, góp phần thực hiện tốt
nhất mục tiêu giáo dục toàn diện mà Đảng, Nhà nước và Ngành Giáo dục Đào
tạo đã xác định.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII
đã xác định mục tiêu chủ yếu của giáo dục là thực hiện giáo dục tồn diện đức
dục, trí dục, thể dục, mỹ dục ở tất cả các bậc học. Hết sức coi trọng giáo dục
chính trị, tư tưởng, nhân cách, khả năng tư duy sáng tạo và năng lực thực hành.
Nhà trường có nhiệm vụ xây dựng cho thế hệ trẻ cơ sở ban đầu nhưng
rất quan trọng của nhân cách người công dân, người lao động, những chủ
nhân tương lai của đất nước, biết sống, lao động và học tập trong xã hội mới
với muôn vàn mối quan hệ đa dạng. Muốn vậy, một trong những vấn đề có
tầm quan trọng đặc biệt là giáo dục cho học sinh biết, tôn trọng và làm theo
những chuẩn mực xã hội do pháp luật quy định. Dần dần hình thành trong


17
người học những hành vi tự giác ứng xử theo chuẩn mực xã hội đồng thời biết
đề phòng, biết đấu tranh và khắc phục những sai lệch so với các chuẩn mực
đã được quy định. Một trong những chuẩn mực quan trọng, cơ bản nhất của
xã hội hiện đại là chuẩn mực pháp luật. Học sinh trung học phổ thông là
những thành viên của cộng đồng, là những công dân đang trên bước đường

trưởng thành, những người lao động, chủ nhân tương lai của đất nước. Đối
với các em, hiểu biết pháp luật là một bộ phận của học vấn và ý thức pháp
luật là một thành phần quan trọng không thể thiếu được của nhân cách. Thông
qua giáo dục pháp luật trong nhà trường trang bị cho các em những tri thức
pháp luật, xây dựng, hình thành ở các em lối sống lao động và học tập theo
pháp luật với đầy đủ ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của người
công dân. Với vốn kiến thức và ý thức pháp luật được trang bị các em phải
dần dần tự điều chỉnh hành vi của mình theo khn khổ của pháp luật một
cách tự giác. Có thể nói rằng việc giáo dục pháp luật cho học sinh trung học
phổ thông là một yêu cầu khách quan nhằm chuẩn bị một cách có hệ thống
cho thế hệ trẻ vào đời, biết sống và làm việc theo pháp luật, góp phần xây
dựng một nhà nước pháp luật, một xã hội có kỷ cương, nề nếp.
Giáo dục pháp luật là giáo dục về những giá trị cao đẹp, giáo dục cách
xử sự vì lợi ích chung của cộng đồng, lợi ích xã hội và lợi ích của mỗi con
người. Suy cho cùng giáo dục pháp luật là tạo lập, rèn dũa và mài sáng cái
tâm, cái đức trong mỗi con người Việt Nam.
Bác Hồ đã dạy: “Có tài mà khơng có đức thì là người vơ dụng, có đức
mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó”. Xét trên mọi phương diện, giáo
dục đạo đức, lối sống, giáo dục công dân, giáo dục pháp luật đóng góp một
phần quan trọng tạo nên nhân cách của mỗi con người.
Cha ông chúng ta cũng thường dạy: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Giáo
dục đạo đức, cơng dân, giáo dục pháp luật chính là một cách học lễ, học cách
cư xử của người công dân với cộng đồng, với nhau và với nhà nước trong xã


18
hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. Giáo dục đạo đức, công dân, giáo dục pháp
luật xét trên phương diện rộng góp phần đặc biệt quan trọng trong thực hiện
mục tiêu giáo dục mà Đảng đặt ra.
Nói như vậy, khơng có nghĩa là đề cao vị trí, vai trị của giáo dục pháp

luật trong nhà trường mà xuất phát từ yêu cầu thực tế khách quan. Nhà nước
không thể thiếu pháp luật. Bản thân pháp luật không thể tự đến với mỗi người,
với cuộc sống mà phải thông qua q trình tác động có định hướng, có mục
đích - đó là giáo dục pháp luật. Mục đích tổng qt, mục đích cuối cùng của
giáo dục pháp luật là góp phần hình thành và nâng cao ý thức pháp luật, nâng
cao văn hoá pháp lý của từng cá nhân và toàn xã hội. Giáo dục pháp luật là
một nhiệm vụ, một mục tiêu không thể tách rời khỏi bản chất của giáo dục.
1.1.3.

Mục đích của giáo dục pháp luật cho học

sinh trung học phổ thông
Cả lý luận và thực tiễn cho thấy giáo dục là hoạt động có mục đích, có
kế hoạch nhằm tác động đến sự phát triển tinh thần và thể chất của một đối
tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần đần có được những phẩm chất và
năng lực như yêu cầu đặt ra. Giáo dục là một q trình có tính hai mặt, một
mặt đó là sự tác động từ chủ thể giáo dục vào đối tượng giáo dục; mặt
khác, thông qua việc giáo dục pháp luật, sẽ lĩnh hội được những tri thức cơ
bản về pháp luật như giá trị của pháp luật, vai trò điều chỉnh của pháp luật,
các chuẩn mực pháp luật trong từng lĩnh vực đời sống.
- Giáo dục pháp luật là q trình tác động có mục đích của chủ thể giáo
dục đến đối tượng giáo dục để hình thành, làm sâu sắc và từng bước mở rộng
hệ thống tri thức pháp luật cho đối tượng.
Hình thành tri thức pháp luật là nền móng cơ bản để xây dựng tình cảm
pháp luật. Trên cơ sở kiến thức pháp luật được trang bị đã hình thành mở rộng
và làm sâu sắc tri thức pháp luật, giúp người học am hiểu hơn về pháp luật và
biết cách đánh giá một cách đúng đắn các hành vi pháp lý. Tri thức pháp luật


19

góp phần định hướng cho lịng tin đúng đắn vào các giá trị của pháp luật, tạo
cơ sở hình thành hành vi hợp pháp ở mỗi cá nhân.
Tri thức pháp luật giúp con người điều khiển, kiềm chế hành vi của
mình trên cơ sở các chuẩn mực pháp lý, tri thức pháp luật đã nhận thức được.
Các hành vi phù hợp với pháp luật chỉ được hình thành trên cơ sở nhận
thức đúng, có niềm tin và có tình cảm đúng đắn đối với pháp luật.
Với đặc thù về tâm sinh lý và lứa tuổi của học sinh trung học phổ
thông, việc giáo dục pháp luật cho đối tượng này là hết sức cần thiết và là yêu
cầu khách quan trong điều kiện xã hội hiện nay. Bởi lẽ, học sinh trung học
phổ thông là lực lượng sẽ tiếp cận tri thức, khoa học - kỹ thuật trong tương
lai. Vì vậy, họ cần được giáo dục, đào tạo, rèn luyện theo một phương pháp
khoa học và phát triển toàn diện nhân cách. Trong đó, giáo dục pháp luật cho
học sinh là một nội dung quan trọng. Tại Đại hội X Đảng ta đã chỉ rõ:
Coi trọng, bồi dưỡng cho học sinh, sinh viên khát vọng mãnh liệt, xây
dựng đất nước giàu mạnh, gắn liền lập nghiệp bản thân với tương lai
của cộng đồng, của dân tộc, trau dồi cho học sinh, sinh viên bản lĩnh,
phẩm chất và lối sống của thế hệ Việt Nam hiện đại [17, tr.207].
Trong điều kiện môi trường giáo dục trung học phổ thông ở nước ta hiện
nay khi các em chủ yếu được trang bị kiến thức các mơn văn hố mà ít có cơ hội
được giáo dục, tìm hiểu về pháp luật nên các em rất dễ bị lơi kéo, tiêm nhiễm
những thói hư tật xấu mà bản thân họ không ý thức được hậu quả khơn lường.
Do đó, việc xây dựng cho học sinh trung học phổ thông những quan điểm, phẩm
chất đạo đức, ý thức pháp luật, những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, lối sống lành mạnh sẽ giúp cho họ nhận diện được những việc làm trái
đạo đức, trái pháp luật, tránh xa các hiện tượng tiêu cực, lối sống phản tiến bộ,
phản văn hoá trong xã hội. từ đó giúp cho học sinh trung học phổ thơng phát
triển theo hướng tích cực, lành mạnh, có ý thức phòng chống lại các tệ nạn xã
hội, biêt giữ gìn và phát huy bản sắc văn hố dân tộc, đặc biệt là xác định đúng



20
động cơ, thái độ học tập, có hướng phấn đấu, rèn luyện trở thành người có tài
đức, sống có ích, có ý nghĩa cho bản thân, gia đình và xã hội.
- Giáo dục pháp luật để hình thành, bồi dưỡng, phát triển niềm tin pháp
luật cho đối tượng.
Niềm tin vào pháp luật đóng vai trị quan trọng trong việc định hướng
hành vi. Lòng tin vững chắc vào pháp luật là cơ sở để hình thành động cơ của
hành vi hợp pháp. Trong cuộc sống, có nhiều trường hợp những người có kiến
thức pháp luật nhưng khơng có lịng tin vào pháp luật, sẵn sàng chà đạp lên
pháp luật, lợi dụng kẽ hở của pháp luật để trục lợi. Khi con người tin vào tính
cơng bằng của những địi hỏi của quy phạm pháp luật thì khơng cần một sự
tác động bổ sung nào của Nhà nước để thực hiện những địi hỏi đó. Có lịng
tin vào tính cơng bằng của pháp luật, con người sẽ có hành vi phù hợp với các
đòi hỏi của pháp luật một cách độc lập, tự nguyện.
Niềm tin pháp luật được xây dụng trên cơ sở:
+ Giáo dục tình cảm cơng bằng. Nói đến pháp luật là nói đến sự cơng
bằng. Giáo dục tình cảm công bằng là giáo dục cho con người biết cách đánh
giá các quy phạm pháp luật, biết cách xác định, đánh giá các tiêu chuẩn về
tính cơng bằng của pháp luật để tự đánh giá hành vi của mình, biết quan hệ
với người khác và với chính mình bằng các quy phạm pháp luật.
+ Giáo dục tình cảm trách nhiệm là giáo dục ý thức về nghĩa vụ pháp
lý. Giáo dục tình cảm trách nhiệm nhằm hình thành ý thức tuân thủ pháp luật
- một nguyên tắc xử sự của công dân trong mối quan hệ với nhau và với các
cơ quan Nhà nước. Giáo dục tình cảm trách nhiệm làm cho người được giáo
dục nhận thức được rằng mọi việc làm, mọi hành vi của mình phải dựa trên
cơ sở pháp luật và trong khuôn khổ pháp luật cho phép.
+ Giáo dục ý thức đấu tranh không khoan nhượng đối với những biểu
hiện vi phạm pháp luật, chống đối pháp luật, đấu tranh với những hành vi vi
phạm pháp luật và tội phạm.



21
- Giáo dục ý thức nhân cách, rèn luyện thói quen, hành vi tuân thủ pháp
luật cho học sinh trung học phổ thơng.
- Giáo dục pháp luật là nhằm hình thành ý thức pháp luật trong mỗi
công dân. Kết quả cuối cùng của giáo dục pháp luật phải được thể hiện ở hành
vi xử sự phù hợp pháp luật của các công dân. Giáo dục tri thức pháp luật, bồi
dưỡng niềm tin pháp luật là tiền đề để giáo dục ý thức nhân cách rèn luyện
thói quen, hành vi tuân thủ pháp luật hình thành động cơ và hành vi tích cực
pháp luật. Những hành vi hợp pháp của mỗi người thường biểu hiện qua các
việc làm như:
+ Tuân thủ các quy phạm pháp luật. Kiềm chế không thực hiện các
điều pháp luật cấm.
+ Thực hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân.
+ Biết đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật; biết vận dụng pháp
luật để bảo vệ lợi ích hợp pháp của cá nhân khi bị xâm phạm.
Mục đích cuối cùng của giáo dục pháp luật là nhằm hình thành ở mỗi
thành viên xã hội ý thức pháp luật bền vững.
1.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG

Giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thơng là loại hình giáo
dục pháp luật đặc thù, ngoài những đặc thù, ngoài những đặc điểm chung của
giáo dục pháp luật, cịn có những đặc điểm riêng được thể hiện qua: Chủ thể
giáo dục pháp luật, đối tượng giáo dục pháp luật, nội dung giáo dục pháp luật,
phương pháp giáo dục pháp luật và hình thức giáo dục pháp luật.
1.2.1. Đặc điểm về chủ thể giáo dục pháp luật
Trên cơ sở lý luận về giáo dục học thì chủ thể giáo dục là nhà giáo
(thầy, cơ giáo) và tất cả những người làm công tác giáo dục khác. Do vậy, chủ
thể giáo dục pháp luật có thể hiểu là tất cả những người mà theo chức năng,



22
nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội phải tham gia vào việc thực hiện các mục
đích giáo dục pháp luật.
Cả lý luận và thực tiễn xác định có hai loại chủ thể giáo dục pháp luật
gồm chủ thể chuyên nghiệp và chủ thể khơng chun nghiệp với vị trí, nhiệm,
u cầu trình độ và kỹ năng giáo dục pháp luật khác nhau. Trong đó, chủ thể
giáo dục pháp luật chuyên nghiệp là những người mà chức năng, nhiệm vụ
chủ yếu, trực tiếp của họ là thực hiện các mục đích, nội dung giáo dục pháp
luật (giáo viên, giảng viên giảng dạy pháp luật, các báo cáo viên, tuyên truyền
viên về pháp luật...). Cịn chủ thể giáo dục pháp luật khơng chuyên nghiệp là
những người mà chức năng, nhiệm vụ chính của họ không phải là giáo dục
pháp luật nhưng một trong các nhiệm vụ của họ là thông qua hoạt động
chun mơn, nghiệp vụ để thực hiện mục đích giáo dục pháp luật (đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, cán bộ, công chức thuộc các cơ quan
hành pháp, tư pháp...). Chủ thể không chuyên nghiệp tuy không giữ vị trí
nịng cốt nhưng có vai trị rất quan trọng. Nhờ những chủ thể không chuyên
nghiệp nên công tác giáo dục pháp luật được triển khai rộng rãi đến mọi tầng
lớp nhân dân, mọi đối tượng. Điều đó tạo được sức mạnh tổng hợp và đồng
bộ cho công tác giáo dục pháp luật. Ở nước ta trong những năm qua cũng đã
hình thành một đội ngũ đơng đảo những chủ thể chuyên nghiệp và không
chuyên nghiệp tham gia vào công tác giáo dục pháp. Các chủ thể này đã có cố
gắng để đóng góp vào việc thực hiện các nội dung, mục đích giáo dục pháp
luật trong từng thời kỳ. Tuy nhiên để công tác giáo dục pháp luật đạt hiệu quả
cao thì địi hỏi chủ thể giáo dục pháp luật phải là có kiến thức pháp luật, nắm
vững chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, có phẩm chất chính trị
vững vàng, tư cách đạo đức tốt, có tinh thần trách nhiệm và khả năng hồn
thành cơng việc được giao. Tuy nhiên một thực tế hiện nay cho thấy, phần lớn
đội ngũ giáo viên giảng dạy môn giáo dục công dân chưa được đào tạo, bồi

dưỡng kiến thức cơ bản về pháp luật, đội ngũ này thường không ổn định, chủ


23
yếu dạy kiêm nhiệm là chính. Bên cạnh đó một bộ phận giáo viên và học sinh
cịn xem mơn học giáo dục cơng dân là mơn học phụ, do đó chưa thật sự say
mê với mơn học này. Vì vậy, để tăng cường giáo dục pháp luật trong tình hình
mới, điều kiện đầu tiên có tính chất quyết định là cần phải có một đội ngũ
giáo viên được đào tạo chính quy, bài bản, được bồi dưỡng thường xuyên kiến
thức về pháp luật và địi hỏi giáo viên dạy mơn giáo dục cơng dân phải có
phẩm chất đạo đức tốt, gương mẫu chấp hành pháp luật.
1.2.2. Đặc điểm về đối tượng giáo dục pháp luật
Học sinh Trung học phổ thông là lứa tuổi cuối của lứa tuổi vị thành
niên, so với học sinh trung học cơ sở thì nhiều mặt ở lứa tuổi này đã phát triển
và trưởng thành hơn nhiều, có nhiều biến đổi về thể chất lẫn tâm hồn, điều
này có tác động lớn đến tâm sinh lý của các em.
Về tâm, sinh lý: Cấu trúc chức năng của các cơ quan trong cơ thể các
em hầu như đã phát triển hồn chỉnh, có khả năng tiếp nhận tác động của các
kích thích vơ cùng phong phú, phức tạp của thế giới xung quanh. Vì vậy, khả
năng tiếp cận tri thức, khả năng nhận thức sự biến đổi, phát triển những sự
vật, hiện tượng xảy ra trong thế giới tự nhiện và xã hội được nâng lên, nhân
sinh quan và thế giới quan của các em khá rõ nét. Thông qua hoạt động học
tập, lao động, nhất là các hoạt động giao lưu xã hội, các em tự phát hiện ra
mình, nhìn thấy cái “tơi” ngày càng đầy đủ hơn và đánh giá người khác cũng
chính xác và khách quan hơn. Ở lứa tuổi này, tâm lý các em có nhiều biến
động rất nhạy cảm, dễ xúc động, dễ bị kích động, bị tác động bởi các yếu tố
bên ngồi như phim, ảnh, các hoạt động văn hố xã hội. Khi cơ thể phát triển
tạo ra các nhu cầu tìm hiểu sự việc, những ham muốn về sinh lý, về giới tính
cộng với tính tị mị muốn biết hết mọi việc, muốn làm như “người lớn”, bắt
trước người lớn, vì thế, nếu khơng được giáo dục, khơng được dạy bảo dễ nảy

sinh các tâm lý lệch lạc dẫn đến hành vi phạm tội, do không được giáo dục,
thiếu hiểu biết về cuộc sống nói chung và các hiểu biết về pháp luật nói riêng.


24
Về nhận thức: Đây là lứa tuổi đang trong giai đoạn bắt đầu hình thành nhân
cách, tâm, sinh lý chưa ổn định, suy nghĩ chưa chín chắn, tính cách hay thay đổi.
Đa số các em chưa nhận thức đầy đủ được tính chất của hành vi của bản thân.
Những đặc điểm đó có tác động, ảnh hưởng rất lớn đến quá trình nhận
thức và hành động của các em, nếu khơng có sự định hướng, tác động giáo
dục theo các mục tiêu, chuẩn mực xã hội thì rất dề bị lôi kéo, quyến rũ vào
các việc làm, các hành vi xấu.
Dưới góc độ xã hội, đây là lứa tuổi bắt đầu được phép tham gia một
số quan hệ xã hội nhất định, được coi pháp luật là có năng lực hành vi
trong một vài quan hệ xã hội, đồng thời cũng bắt đầu phải chịu sự điều
chỉnh của pháp luật, phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình, khi tham
gia các quan hệ xã hội.
Ví dụ: Theo quy định tại Điều 12 của Bộ luật hình sự Việt Nam năm
2003 thì tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự là: Người từ đủ 16 tuổi trở lên
phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm; Người từ đủ 14 tuổi trở lên,
nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm
trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Tuy nhiên trên đây là việc xác định độ tuổi phải chịu trách nhiệm hình
sự theo quy định của Bộ luật hình sự Việt nam. Nhưng nếu một người có độ
tuổi như trên mà phạm tội thì, với quan điểm nhất quán trong việc bảo vệ trẻ
em, Nhà nước Việt Nam tham gia Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm
1989 và đã thúc đẩy việc hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ quyền trẻ em,
trong đó đã dành sự quan tâm đặc biệt cho đối tượng trẻ em vi phạm pháp
luật, nhất là những trường hợp người chưa thành niên phạm tội.
Điều này càng thể hiện mối quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước

Việt Nam đối với trẻ em. Người chưa thành niên chủ yếu đang độ tuổi trẻ em,
cũng có những người mới chuyển từ độ tuổi trẻ em sang người lớn. Bên cạnh
những tư tưởng chỉ đạo, quan điểm nguyên tắc xử lý trách nhiệm hình sự


25
(TNHS) với người phạm tội chưa thành niên, theo xu hướng chung hiện nay
thì nội dung của chính sách hình sự liên quan đến cả hai lĩnh vực: Lĩnh vực
luật nội dung (luật Hình sự) và lĩnh vực luật thủ tục (luật Tố tụng hình sự).
Tuy nhiên, để có thể thừa nhận người chưa thành niên là người phạm tội thì
phải có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Mà bản án của Tòa
án là kết quả của toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành
tố tụng trong việc điều tra, truy tố, xét xử người chưa thành niên. Những hoạt
động này liên quan trực tiếp đến các quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa
thành niên là bị can, bị cáo trong vụ án và đến tính khách quan, tính pháp lý của
bản án. Do vậy chính sách hình sự cịn có nội dung thứ hai là những nguyên tắc,
tư tưởng chỉ đạo, quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị can, bị cáo là người chưa
thành niên. Điều này thể hiện ở chương XXXII Bộ luật Tố tụng hình sự
(BLTTHS) - một chương quy định về thủ tục tố tụng hình sự bổ sung áp dụng
đối với đối tượng này. Tuy nhiên, dựa trên các quy định đối với người chưa
thành niên phạm tội ở Chương X Bộ luật Hình sự (BLHS) 1999, chúng ta có thể
hiểu khái niệm trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên.
Xuất phát từ cơ sở lý luận của chính sách hình sự được ghi nhận trong
Cơng ước về quyền trẻ em năm 1989 là: “Trẻ em, do cịn non nớt về thể chất
và trí tuệ cần được bảo vệ, chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về
mặt pháp lí trước cũng như sau khi ra đời”. Đồng thời, Hiến pháp Việt Nam
năm 1992 quy định tại Điều 71: “Cơng dân có quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân
phẩm...”. Bộ luật Hình sự hiện hành xây dựng một chương riêng quy định
đường lối xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội. Quy định này dựa

trên cơ sở phân tích về tâm, sinh lý đối với người chưa thành niên. Đây là đối
tượng chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm, sinh lý, họ bị hạn
chế về trình độ nhận thức cũng như về kinh nghiệm sống, thiếu những điều
kiện về bản lĩnh tự lập, khả năng tự kiềm chế chưa cao nên họ dễ bị kích


×