Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Hoàn thiện pháp luật về thể dục thể thao ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.18 KB, 97 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau gần 30 năm tiến hành đổi mới toàn diện đất nước, mọi mặt của đời
sống kinh tế-xã hội đã có sự thay đổi lớn, sức khoẻ của nhân dân ngày ngày
càng được nâng lên nhằm đáp ứng những tiêu chí của con người mới - con
người trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự thay đổi đó
được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực khác nhau. Trong đó, hoạt động thể dục
thể thao (TDTT) nhằm tăng cường rèn luyện sức khỏe nhân dân cũng đã được
Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm. Cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện
thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” do Đảng ta phát động đã được toàn thể
nhân dân nhiệt tình hưởng ứng, phong trào luyện tập TDTT phát triển rộng
khắp từ trung ương đến địa phương, từ thành thị đến nông thôn cho đến vùng
rừng núi hay hải đảo xa xơi. Từ trong phong trào TDTT đó, chúng ta đã phát
hiện ra nhiều tài năng thể thao và đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng cho các đội
tuyển quốc gia tham gia thi đấu các giải thể thao quốc tế. Những thành tích đã
đạt được của các thế hệ vận động viên (VĐV) đã nâng cao vị thế của Thể thao
Việt Nam trên đấu trường quốc tế cũng như góp phần quảng bá hình ảnh, đất
nước, con người Việt Nam ra toàn thế giới. Kết quả đã đạt được tại các đấu
trường khu vực, châu lục và thế giới như SEA Games; Asiad; Olympic…
trong thời gian qua đã phản ánh mức độ phát triển của phong trào TDTT nước
nhà. Cùng với đó là sự tham gia đơng đảo của các cá nhân, tổ chức hoạt động
kinh doanh trong lĩnh vực TDTT đã góp phần khơng nhỏ trong việc thúc đẩy
phát triển sự nghiệp TDTT ngày càng phát triển rộng khắp.
Bên cạnh, những thành tích đã đạt được, hoạt động TDTT ở nước ta
vẫn còn tồn tại những hạn chế, yếu kém nhất định. Nguyên nhân của những
hạn chế, yếu kém một phần là do hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về
TDTT còn rất yếu và thiếu, hiệu lực pháp lý của nhiều văn bản chưa cao.
Thực tiễn nhiều vấn đề quan trọng của hoạt động TDTT đang đặt ra như: vấn



2
đề quản lý nhà nước về TDTT; vấn đề tổ chức và hoạt động của các liên đoàn,
hiệp hội thể thao; điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực TDTT; điều kiện hành
nghề; vấn đề mua bán, chuyển nhượng VĐV; vấn đề cá cược trong thi đấu thể
thao…. ít được đề cập đến hay được đề cập đến nhưng quy định mang tính
chất chung chung, khái quát. Các văn bản quy phạm pháp luật về TDTT được
ban hành không nhiều, và các văn bản quy phạm pháp luật đó phần lớn được
quy định tại các văn bản dưới luật như các Nghị định, Thông tư, Thông tư liên
tịch... và một số văn bản được ban hành thiếu cơ sở pháp lý, khơng có tính
khả thi khi đưa vào áp dụng trong thực tế đời sống. Chính sự yếu và thiếu của
hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về TDTT ở Việt Nam hiện nay nên việc
hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực TDTT trong giai đoạn hiện nay là vô cùng
quan trọng và cần thiết.
Hoàn thiện pháp luật về TDTT không chỉ xuất phát từ thực trạng pháp
luật về TDTT nước nhà mà còn là yêu cầu của việc xây dựng và hồn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam nói chung nhằm hướng đến việc xây dựng nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hoàn thiện pháp luật về TDTT là một
trong những nội dung quan trọng trong đổi mới quản lý nhà nước về hoạt
động TDTT. Nó là cơ sở pháp lý quan trọng, cần thiết trong việc quản lý nhà
nước về lĩnh vực TDTT, trong việc triển khai thực hiện “Chiến lược phát triển
thể dục thể thao đến năm 2030” đã được Chính phủ phê duyệt. Đồng thời, tạo
ra mơi trường pháp lý thơng thống để các tổ chức, cá nhân tham gia kinh
doanh, hoạt động trong lĩnh vực TDTT nhằm góp phần đáp ứng yêu cầu luyện
tập TDTT, tăng cường sức khỏe người người dân trong giai đoạn hiện nay.
Việc nghiên cứu của đề tài sẽ tạo cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoàn
thiện pháp luật về TDTT, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
bằng pháp luật đối với hoạt động TDTT. Nhận thức được tầm quan trọng của
vấn đề này nên học viên lựa chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật về thể dục



3
thể thao ở Việt Nam hiện nay” để thực hiện Luận văn thạc sĩ Luật học của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn
Sự nghiệp TDTT cách mạng ở nước ta phát triển từ rất sớm, gắn liền
với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ. Nhận thức được vai trị
của TDTT đối với vấn đề nâng cao sức khoẻ nhân dân, phục vụ sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc, với mục nhiệm vụ “xét vấn đề thể dục rất cần thiết để
tăng bổ sức khoẻ quốc dân và cải tạo nòi giống Việt Nam”, ngày 27/3/1946
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 33/SL về việc thành lập Nha Thanh
niên và Thể dục thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục. Để khuyến khích, động viên
thúc đẩy phong trào tồn dân rèn luyện sức khoẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết
“Lời kêu gọi toàn dân tập thể dục". Lời hiệu triệu ấy đã góp phần quan trọng
thúc đẩy mạnh mẽ phong trào luyện tập TDTT trong toàn dân từ ngay sau khi
nước nhà giành được độc lập và cho đến tận ngày nay.
Phong trào TDTT đuợc phát triển từ rất sớm, nó gắn liền với quá trình
lao động sản xuất của con người và giữa chúng có mối quan hệ gắn bó hữu cơ
với nhau. Mặc dù khoa học về TDTT được nghiên cứu rất sớm với nhiều cơng
trình khoa học đã được cơng bố trong và ngồi nước nhưng vấn đề pháp luật về
TDTT thì chưa được các nhà nghiên cứu quan tâm đúng mức, nếu khơng muốn
nói là một thiếu sót lớn trong nghiên cứu về khoa học TDTT nói chung. Pháp
luật về TDTT ở Việt Nam hiện nay là một vấn đề mới, Luật Thể dục, Thể thao
được Quốc hội nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam khố XI, kỳ họp thứ
10 thơng qua ngày 29/11/2006, có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2007 buớc đầu đã tạo
cơ sở pháp lý quan trọng cho việc quản lý nhà nước về TDTT cũng như thúc đẩy
phong trào TDTT phát triển. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu về pháp luật
TDTT hầu như khơng có, chỉ có một số bài viết đăng trên Tạp chí Thể thao, trên
Báo Thể thao Việt Nam, trong các báo cáo tổng kết công tác thi hành pháp luật
về TDTT của ngành… nhưng cũng hết sức khái qt, sơ sài. Để có một cơng
trình nghiên cứu khoa học đúng nghĩa liên quan đến vấn đề pháp luật về TDTT



4
từ trước đến nay thì khơng có. Vì vậy, có thể coi đây là cơng trình nghiên cứu
mang tính lý luận và thực tiễn đầu tiên về pháp luật TDTT ở Việt Nam.
Để đi sâu nghiên cứu về vấn đề này, một mặt học viên phải tìm đọc các
tài liệu liên quan đến lịch sử phát triển của nền TDTT Việt Nam nói chung
cũng như tìm hiểu các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động TDTT
trải qua các thời kỳ nói riêng. Đồng thời cần phải đi sâu nghiên cứu các tài
liệu khác nhau liên quan đến vấn đề hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam trong
một số lĩnh vực cụ thể khác nhằm bổ sung những vấn đề mang tính lý luận
trong luận văn của mình, ví dụ như:
- Trần Tuyết Ánh (2008), Hồn thiện pháp luật về công vụ trong quản
lý nhà nước ngành văn hóa, thể thao và du lịch ở Việt Nam hiện nay, Luận
văn Thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Lê Thanh Liêm (2011), Giáo dục pháp luật dành cho cán bộ, công
chức, viên chức ngành thể dục thể thao ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc
sĩ Luật, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Lê Minh Tâm (2003), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam, Sách chuyên khảo, NXb Công an nhân dân, Hà Nội.
Các cơng trình nghiên cứu trên nghiên cứu về vấn đề hoàn thiện pháp
luật trong các lĩnh vực pháp luật cụ thể không liên quan đến pháp luật về
TDTT. Các cơng trình nghiên cứu đó chỉ mang tính chất thảm khảo nhằm góp
phần bổ sung cơ sở, phương pháp và cách thức tiếp cận vấn đề hoàn thiện
pháp luật mà thơi. Luận văn hồn thiện pháp luật về TDTT ở Việt Nam hiện
nay là cơng trình nghiên cứu đầu tiên về pháp luật TDTT ở Việt Nam hiện
nay. Do đó cách tiếp cận, tìm hiểu và giải quyết vấn đề khơng thể tránh khỏi
những hạn chế, thiếu sót nhất định. Vì vậy rất cần sự đóng góp ý kiến của
Q thầy, cơ giáo cùng tồn thể độc giả để luận văn được hồn thiện hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

3.1. Mục đích


5
Trên cơ sở phân tích, đánh giá những vấn đề lý luận và thực tiễn hệ
thống pháp luật về TDTT để đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật về TDTT ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
Một là, xây dựng cơ sở lý luận về pháp luật thể TDTT và hoàn thiện
pháp luật về TDTT; đề xuất các tiêu chí xác định mức độ hồn thiện pháp luật
về TDTT.
Hai là, phân tích, đánh giá các ưu điểm và hạn chế của pháp luật về
TDTT trong thời gian qua.
Ba là, trên cơ sở lý luận đã được xây dựng, chỉ ra những đặc điểm và
hạn chế của pháp luật về TDTT Việt Nam. Đồng thời đề xuất một số phương
hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về TDTT của Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống pháp luật hiện hành về
TDTT ở Việt Nam. Qua nghiên cứu cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp
luật về TDTT, luận văn đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về
thể dục, thể thao ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng TDTT và pháp luật về TDTT
hiện hành để tìm ra các đặc điểm, hạn chế cụ thể nhằm xác định được các
phương hướng và giải pháp cơ bản để hoàn thiện pháp luật về TDTT ở Việt
Nam hiện nay. Luận văn phân tích và khái quát các yêu cầu cụ thể của các
lĩnh vực cụ thể khác nhau liên quan đến TDTT để làm nổi bật vấn đề quan
tâm chủ yếu: hoàn thiện pháp luật về TDTT nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới cơ

bản và toàn diện về quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động TDTT ở
Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn


6
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam về nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng về triển TDTT trong
giai đoạn hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là: phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, phương pháp xã hội học, kết hợp giữa phương pháp
thống kê, phương pháp hệ thống; phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu,
so sánh hệ thống pháp luật Việt Nam về TDTT qua các thời kỳ cũng như kinh
nghiệm pháp luật về TDTT của một số nước trên thế giới, từ đó giải quyết các
vấn đề lý luận và thực tiễn mà đề tài đặt ra.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn là cơng trình mới, đầu tiên, khơng trùng lặp với bất kỳ cơng
trình khoa học nào đã cơng bố liên quan đến vấn đề này và nghiên cứu một
cách toàn diện, tập trung và trực tiếp vấn đề lý luận về pháp luật TDTT nhằm
mục đích đề xuất các phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
TDTT ở Việt Nam hiện nay. Cụ thể:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật TDTT và
hoàn thiện pháp luật về TDTT như: khái niệm, đặc điểm TDTT; khái niệm,
đặc điểm về pháp luật TDTT…
- Khái quát, hệ thống hóa thực trạng TDTT và hệ thống pháp luật về
TDTT trong các giai đoạn khác nhau. Từ đó có đánh giá, nhận xét hệ thống
pháp luật điều chỉnh các hoạt động TDTT, đặc biệt là từ khi đổi mới đến nay.

Những kết quả đã đạt được, những tồn tại của hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật về TDTT, kinh nghiệm xây dựng Luật Thể dục, Thể thao của một số
nước trên thế giới.


7
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật về TDTT ở Việt
Nam trong thời gian qua và kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới có
những nét tương đồng, luận văn đã đề xuất các kiến nghị và giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật về TDTT ở Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa về mặt lý luận: kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bước
đầu làm rõ một số vấn đề lý luận về pháp luật TDTT và đưa ra các kiến nghị,
giải pháp để hoàn thiện pháp luật về TDTT ở Việt nam hiện nay. Nó có thể
được sử dụng như một tài liệu mang tính chất tham khảo, chuyên khảo trong
các trường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ đối với cán bộ quản lý về TDTT;
đối với lực lượng VĐV, HLV về thể dục, thể thao ở Việt Nam hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn: luận văn góp phần hồn thiện pháp luật về TDTT
nhằm tăng cường quản lý nhà nước về TDTT, hồn thiện cơ chế, chính sách,
đối với hoạt động TDTT. Đặc biệt là trong giai đoạn đang tiến hành nghiên
cứu, sửa đổi Luật Thể dục, Thể thao hiện nay thì kết quả nghiên cứu có thể
được coi là nguồn tài liệu tham khảo đối với các cơ quan xây dựng và ban
hành chính sách pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật về lĩnh vực TDTT
cũng như trong hoạt động quản lý nhà nước về TDTT.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.


8

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ THỂ DỤC THỂ THAO
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA THỂ DỤC THỂ THAO

1.1.1. Khái niệm thể dục thể thao
Để định nghĩa một cách chính xác và đầy đủ về TDTT là một vấn đề
không hề dễ dàng, khái niệm TDTT có thể được nhìn nhận dưới nhiều giác độ
khác nhau, do đó vẫn chưa có sự thống nhất trong vấn đề này. Vì vậy để có
cái nhìn chính xác hơn, đầy đủ hơn về vấn đề này, chúng ta cần tiếp cận khái
niệm TDTT dưới các góc độ sau đây:
1.1.1.1. Khái niệm thể dục
Theo Viện từ điển học và Bách khoa tồn thư Việt Nam thì “Thể dục là
hệ thống các bài luyện tập và thủ pháp được lựa chọn một cách chuyên biệt để
tăng cường sức khỏe phát triển cơ thể hài hòa” [51].
Theo Từ điển tiếng Việt phổ thông của Viện ngôn ngữ học thì “thể dục
là hệ thống các động tác tập luyện, thường được sắp xếp thành bài, nhằm giúp
cho sự phát triển hài hòa của cơ thể, tăng cường và giữ gìn sức khỏe”. Cịn
theo Từ điển từ và ngữ Việt Nam thì thể dục được hiểu là “mơn rèn luyện thân
thể hàng ngày để tăng cường sức khỏe” [50].
Theo Từ điển Từ và ngữ Việt Nam thì “Thể dục là môn rèn luyện thể
chất hàng ngày để tăng cường sức khỏe” [24].
Theo Pháp lệnh Thể dục, Thể thao năm 2000 thì thể dục là một bộ phận
của thể dục, thể thao. Thể dục bao gồm: thể dục, thể thao quần chúng và thể
dục, thể thao trường học. Thể dục thể thao quần chúng là hoạt động tập luyện,
biểu diễn và thi đấu thể dục thể thao mang tính tự nguyện đông đảo của nhân
dân. Xét về thực chất, thể dục thể thao quần chúng cũng là thể thao cho mọi


9

người. Thể dục, thể thao trường học bao gồm giáo dục thể chất và hoạt động
thể dục, thể thao ngoại khóa cho người học. Thể dục cịn được gọi với tư cách
là tên riêng của một nhóm mơn thể thao thành tích cao trong chương trình thi
đấu của Olympic, bao gồm: thể dục dụng cụ, thể dục nhịp điệu, thể hình.
Do bắt nguồn từ gốc Hán - Việt nên ở nước ta hiện nay người ta gọi tắt
thể dục là giáo dục thể chất theo nghĩa tương đối hẹp, nó chỉ bó gọn trong
phạm vi các bài tập rèn luyện và nâng cao sức khỏe. Trong khi đó theo cách
nhìn nhận của Hán - Việt cũ thì khái niệm thể dục được hiểu rộng hơn khái
niệm mà chúng ta đang nhìn nhận hiện nay, nói đến thể dục có nghĩa là TDTT.
Thông thường, người ta coi giáo dục thể chất là một bộ phận của TDTT.
Nhưng chính xác hơn, đó cịn là một trong những hình thức hoạt động cơ bản
có tính định hướng rõ của TDTT trong xã hội, một q trình có tổ chức để
truyền thụ và tiếp thu những những giá trị của TDTT trong hệ thống giáo dụcgiáo dưỡng. Giáo dục thể chất có hai đặc điểm cơ bản:
Thứ nhất là giáo dưỡng thể chất, là dạy học vận động qua động tác. Nói
rõ và đầy đủ hơn đó là truyền thụ và tiếp thu có hệ thống những cách thức
điều khiển hợp lý sự vận động của con người, qua đó sẽ hình thành những kỹ
năng, kỹ xảo vận động cần thiết và những hiểu biết có liên quan.
Thứ hai là sự tác động có chủ đích đến sự phát triển theo định hướng
các tố chất thể lực nhằm nâng cao sức lực vận động của con người. Việc dạy
học động tác và phát triển các tố chất vận động có liên quan chặt chẽ và làm
tiền đề cho nhau nhưng chúng không bao giờ đồng nhất và có quan hệ khác
biệt trong các giai đoạn phát triển thể chất và giáo dục thể chất khác nhau.
Trong hệ thống giáo dục, nội dung đặc trưng ấy của giáo dục thể chất được
gắn liền với đức, trí, thể, mỹ. Trong hệ thống giáo dục xã hội chủ nghĩa, giáo
dục thể chất có ý nghĩa như một trong những nhân tố giáo dục nhằm hoàn
thiện nhân cách con người một cách toàn diện.


10
Như vậy có thể hiểu giáo dục thể chất là một loại hình giáo dục mà nội

dung chuyên biệt là dạy học vận động (động tác) và phát triển có chủ đích các
tố chất vận động của con người.
1.1.1.2. Khái niệm thể thao
Theo Viện từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam: “Thể thao là một bộ
phận của văn hóa thể lực, là phương tiện và phương pháp để giáo dục thể
chất, hệ thống tổ chức, rèn luyện và tiến hành các cuộc thi đấu các môn thể
thao, các bài thể dục khác nhau” [51].
Theo từ điển tiếng Việt phổ thơng của Viện Ngơn ngữ học thì “Thể thao
là hoạt động nhằm nâng cao thể lực con người, thường được tổ chức thành
các hình thức trị chơi hay cuộc thi đấu” [50].
Còn theo Từ điển từ và ngữ Việt Nam thì Thể thao được hiểu là “sự tập
dượt thân thể theo một cách thức nhất định và thường biểu diễn trước công
chúng” [24, tr.1719].
Theo pháp lệnh Thể dục, Thể thao thì thể thao là một bộ phận của thể
dục-thể thao, gọi là thể thao thành tích cao. Thể thao thành tích cao là một
hoạt động tập luyện và thi đấu thể thao của vận động viên chuyên nghiệp hoặc
nhà nghề. Trong đó, thành tích cao, kỷ lục thể thao được coi là giá trị văn hóa,
là sức mạnh và năng lực sang tạo của con người. Thể thao thành tích cao ở
Việt Nam được phân thành nhiều mơn khác nhau và được tổ chức thi đấu
trong các chương trình đại hội thể thao trong nước cũng như quốc tế: Đại hội
TDTT toàn quốc; Sea Games; Asiad; Olympic… Thuật ngữ thể thao lúc đó
được sử dụng khá rộng gần như cả thể dục và thể thao, có lúc lại rất hẹp hầu
như chỉ bao hàm trong thể thao thành tích cao. Việc khơng thống nhất trong
việc chuẩn hóa khái niệm thể dục, thể thao đã gây ra những khó khăn nhất định.
Theo lý luận và phương pháp TDTT: trước hết theo nghĩa hẹp thì thể
thao được hiểu “là một hình thức thi đấu đặc biệt, chủ yếu và phần nhiều bằng


11
sự vận động thể lực nhằm phát huy những năng lực chuyên biệt, đạt những

hình thức cao nhất được so sánh trực tiếp và công bằng trong những điều kiện
chuyên mơn như nhau”. Hoạt động thi đấu được hình thành trong xã hội lồi
người mà thơng qua thi đấu con người phô diễn, so sánh khả năng về thể chất
và tinh thần. Khái niệm này chỉ nêu lên những đặc điểm bên ngoài để phân
biệt thể thao với các hiện tượng khác. Rõ ràng khái niệm như vậy không bao
quát được hết những biểu hiện cụ thể phong phú của thể thao trong xã hội, bởi
bản chất của thể thao khơng chỉ giới hạn là thành tích thể thao thuần túy mà
cịn là hoạt động tác động tồn diện tới con người.
Cũng theo lý luận và phương pháp TDTT: hiểu theo nghĩa rộng thì thể
thao được định nghĩa “khơng chỉ là hoạt động thi đấu, biểu diễn đặc biệt mà
còn là sự chuẩn bị cho nó cùng những quan hệ, chuẩn mực, những thành tựu
đạt được trong hoạt động này”.
Mặt khác, nói một cách chặt chẽ và đầy đủ thì thể thao khơng hồn tồn
chỉ thuộc về TDTT. Trên ngun tắc bất kỳ một loại hình hoạt động nào nhằm
phát huy, hoàn thiện những năng lực của con người được tạo ra để làm đối
tượng cho thi đấu thể thao tiến hành theo những quy luật của hoàn thiện thể
thao đều có thể thuộc về thể thao. Mặc dù tuyệt đại bộ phận các môn thể thao
hiện đại đều nằm trong lĩnh vực văn hóa thể chất, có những mơn khơng có
những đặc trưng thể chất như: cờ (cờ Vua, cờ Tướng…); thể thao điện tử (ESports); đánh bài… vẫn nằm trong các chương trình thi đấu thể thao của quốc
gia và quốc tế. Vì vậy, có thể thấy rằng giữa TDTT và thể thao tuy có mối liên
hệ rất chặt chẽ, có sự trùng lặp nhưng cũng khơng hồn toàn đồng nhất.
1.1.1.3. Khái niệm thể dục thể thao
Khái niệm về TDTT hiện nay cũng chưa có sự thống nhất, nghiên cứu
duới giác độ khác nhau thì có thể đưa ra những định nghĩa khác nhau. Theo
Viện từ điển học và Bách khoa tồn thư Việt Nam thì TDTT được định nghĩa
như sau:


12
Thể dục thể thao là một bộ phận của nền văn hóa xã hội, một loại

hình hoạt động mà phương tiện cơ bản là các bài tập thể lực nhằm
tăng cường thể chất con người hoặc nâng cao thành tích thể thao,
góp phần làm phong phú đời sống tinh thần, giáo dục con người
phát triển toàn diện, làm khơi dậy và phát huy tối đa mọi tiềm năng
di truyền trong con người [51].
Theo Pháp lệnh Thể dục, Thể thao năm 2000 thì TDTT bao gồm ba bộ
phận chủ yếu cấu thành: TDTT trường học, TDTT quần chúng (thể thao cho
mọi người) và thể thao thành tích cao.
Theo Luật Thể dục, Thể thao năm 2006 thì TDTT được chia thành hai
bộ phận chính đó là TDTT cho mọi người (TDTT trong nhà trường; TDTT
quần chúng; TDTT trong lực lượng vũ trang) và thể thao thành tích cao (thể
thao thành tích cao và thể thao chuyên nghiệp). Thực tế cho thấy rằng ngay
trong bản thân Luật Thể dục, Thể thao cũng không có định nghĩa chính xác
thế nào là thể dục, thế nào là thể thao, thế nào là thể dục thể thao… do đó vẫn
chưa có sự nhìn nhận thống nhất về các thuật ngữ này.
Ở Việt Nam, thuật ngữ TDTT được dùng từ xưa đến nay vẫn chưa xác
định được nội dung cụ thể. Khi nghiên cứu người ta nhận thấy trong q trình
phát triển của xã hội lồi người đã nảy sinh một loại hoạt động đặc biệt, nó
khơng tác động vào tự nhiên bên ngoài mà tác động vào phần tự nhiên con
người nhằm hồn thiện ngay chính bản thân con người, hoạt động ấy được gọi
là TDTT. Để hiểu được đặc điểm của nó một cách tồn diện, các nhà khoa học
đã phân tích trên ba phương diện sau:
Thứ nhất, TDTT là một loại hoạt động: nó là những hình thức vận động
hợp lý mà trong đó con người sử dụng một cách khoa học sự vận động tích
cực của cơ bắp để hồn thiện cơ thể. Trong cuộc sống, con người sử dụng sự
vận động cơ bắp vào nhiều hoạt động khác nhau nhưng không phải tất cả các


13
hình thức vận động đều thuộc về TDTT mà chỉ những hình thức vận động nào

được lựa chọn để hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận động cần thiết cho cuộc
sống, phát triển các tố chất thể lực, phát triển tối ưu trạng thái sức khỏe và khả
năng làm việc… mới thuộc về TDTT.
Thứ hai, TDTT là tổng hợp những giá trị vật chất và tinh thần được
sáng tạo trong xã hội để đảm bảo hiệu quả cần thiết của hoạt động này trong
quá trình hoạt động chinh phục tự nhiên con người không chỉ tạo ra những giá
trị sự dụng trực tiếp mà cịn để lại kinh nghiệm, cơng cụ, phương pháp có giá
trị lâu dài như những di sản đánh giá trình độ văn minh của mỗi giai đoạn
phát triển trong lịch sử xã hội lồi người. Vì vậy, ngoài ý nghĩa là một hoạt
động đặc biệt, TDTT còn là tổng hợp những giá trị vật chất và tinh thần được
sáng tạo ra để đảm bảo hiệu quả cần thiết cho hoạt động tập luyện. Ở đây
muốn đề cập tới các phương tiện, phương pháp tập luyện đang sử dụng rộng
rãi trong TDTT như các trò chơi vận động và rất nhiều bài tập thể chất khác.
Ngoài những giá trị kể trên, trong lĩnh vực TDTT còn bao gồm nhiều
giá trị văn hóa khác như những kiến thức khoa học thực dụng chuyên môn,
những nguyên tắc, quy tắc và phương pháp sử dụng bài tập thể chất, những
tiêu chuẩn đạo đức, những thành tích thể thao, những điều kiện khác được tạo
ra phục vụ cho hoạt động TDTT trong xã hội (các cơng trình TDTT; trang
thiết bị TDTT; y học TDTT; các tác phẩm nghệ thuật về TDTT…)
Thứ ba, TDTT là kết quả học tập: hoạt động TDTT có đối tượng là
con người nên kết quả của nó thể hiện trước nhất ở trình độ chuẩn bị thể lực,
mức độ hoàn thiện các kỹ năng, kỹ xảo vận động, mức độ phát triển khả
năng vận động, thành tích thể thao và những kết quả hữu ích khác đối với xã
hội và cá nhân, phản ánh kết quả học tập TDTT của họ.
Như vậy, kết quả hiện thực, bản chất của việc sử dụng giá trị TDTT trong
đời sống xã hội là số người đạt được chỉ tiêu hoàn thiện thể chất. Chỉ tiêu


14
hồn thiện thể chất có tính lịch sử cụ thể, chúng không cố định trong mọi thời

gian mà thay đổi tùy theo các giai đoạn phát triển xã hội, khi đó phản ánh
những yêu cầu của thực tế xã hội.
Thể dục thể thao có vai trị quan trọng khơng chỉ là nhân tố hồn thiện
thể chất mà cịn là một trong những phương tiện để giáo dục và hoàn thiện
con người bên cạnh các yếu tố giáo dục khác như đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ…
nhằm phát triển con người một cách tồn diện. Có thể nói rằng, khái niệm về
TDTT có rất nhiều cách hiểu khác nhau với nội hàm khác nhau. Từ những
vấn đề trên cho phép chúng ta định nghĩa TDTT như sau: Thể dục thể thao là
một bộ phận của nền văn hóa xã hội, một loại hình hoạt động mà phương tiện
cơ bản là các bài tập thể lực được thể hiện cụ thể qua các hình thức rèn luyện
thân thể nhằm tăng cường thể chất cho con người, nâng cao thành tích thể
thao, góp phần làm phong phú sinh hoạt văn hóa và giáo dục con người phát
triển cân đối hợp lý. Trong phạm vi giới hạn của luận văn, chúng ta sẽ nhìn
nhận về TDTT theo quan niệm này.
1.1.2. Đặc điểm của thể dục thể thao
1.1.2.1. Thể dục thể thao là hoạt động gắn liền với con người
Hoạt động TDTT là một trong những cách thức biểu hiện sự tồn tại của
con người trong giới tự nhiên. Con người sinh ra, tồn tại và phát triển đều
gắn liền với giới tự nhiên. TDTT là hoạt động gắn liền với mỗi con người
cụ thể, là cách thức thể hiện sự tồn tại của con người trong giới tự nhiên.
Thông qua hoạt động lao động sản xuất và hoạt động TDTT con người đã
khẳng định vững chắc sự tồn tại và phát triển vượt trội của mình so với
phần cịn lại của giới tự nhiên. Hoạt động TDTT biểu hiện hoạt động sống
của con người, gắn liền với con người và hoạt động này chỉ tồn tại trong xã
hội lồi người mà thơi mà lồi người chính là sản phẩm phát triển cao nhất
của giới tự nhiên.


15
1.1.2.2. Thể dục thể thao hình thành từ trong quá trình lao động, sản

xuất của xã hội lồi người
Lao động, sản xuất là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên,
chinh phục giới tự nhiên nhằm tạo ra nguồn của cải vật chất phục vụ nhu cầu của
mình. Chính q trình lao động tích cực đó, con người đã tìm ra được những
cách thức nhằm duy trì sức khỏe, tăng cường sự dẻo dai để tiếp tục quay lại phục
vụ quá trình lao động sản xuất của mình. Từ đó, những những động tác, những
bài tập thể dục sơ khai đã được hình thành và hoạt động TDTT ra đời chính là
để đáp ứng chính nhu cầu rèn luyện sức khỏe đó của con người.
1.1.2.3. Thể dục thể thao là hình thức rèn luyện sức khoẻ, duy trì và
phát triển nịi giống của lồi người
Có thể nói rằng luyện tập TDTT là cách thức tốt nhất và ít tốn kém nhất
để duy trì sức khỏe con người. Sức khỏe được coi là tài sản quý giá nhất của
con người "có sức khỏe là có tất cả". Vì vậy, muốn có sức khỏe thì địi hỏi con
người phải thường xuyên tham gia tập luyện TDTT. Khi đời sống xã hội ngày
càng càng được nâng cao, con người luôn phải làm việc với cường độ lớn
hơn, nhất là các công việc mang tính trí tuệ thường căng thẳng hơn và thay
thế dần các hoạt động lao động chân tay. Do đó địi hỏi con người phải tích
cực tham gia các hoạt động TDTT để nhằm cân bằng trạng thái của con
người, giảm stress do các hoạt động thần kinh căng thẳng gây ra. TDTT chính
là cách thức hữu hiệu nhất để duy trì sức khỏe của con người, phát triển nịi
giống lồi người để các thế hệ sau này ln được thừa hưởng những nguồn
gen quý giá mà các thế hệ đi trước có được.
1.1.2.4. Thể dục thể thao là một hoạt động vừa mang tính cá nhân lại
vừa mang tính xã hội
Tính cá nhân của nó thể hiện ở chỗ, hoạt động TDTT là hoạt động mang
tính thường xuyên, liên tục và gắn với mỗi con người cụ thể và nó phụ thuộc


16
vào sở thích, đặc điểm thể chất của từng cá nhân con người để có thể tham gia

luyện tập các bài tập mà cá nhân thấy phù hợp nhất với bản thân. Nó mang
tính xã hội bởi vì đó là nhu cầu chung của cả xã hội loài người, các hoạt động
TDTT dần mang tính phổ biến từ các bài tập, cách thức, phương pháp luyện
tập... nó trở thành khn mẫu chung để các cá nhân trong xã hội tham gia
luyện tập. Do đó, có thể thấy rằng hoạt động TDTT là hoạt động của cá nhân
nhưng mang tính cộng đồng rất cao.
1.1.2.5. Thể dục thể thao là phương thức giao lưu, học hỏi và hợp tác
giữa các đơn vị, địa phương với nhau cũng như trong quan hệ quốc tế
Bởi lẽ TDTT là một bộ phận của đời sống văn hóa - xã hội lồi người
và đó là một nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Trong quá trình tham gia luyện
tập, thi đấu TDTT giữa các cá nhân, tổ chức với nhau đã tạo ra sự giao lưu,
học hỏi, tăng cường tình đồn kết giữa các bên. Đặc biệt trong giai đoạn hiện
nay, cùng với xu thế mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế ngày càng diễn ra
mạnh mẽ thì TDTT là phương tiện góp phần quan trọng để các quốc gia tham
gia giao lưu, học hỏi và tạo tiền đề cho sự hợp tác bền vững. Đồng thời,
TDTT cũng là phương tiện góp phần quan trọng để chuyển tải những thông
điệp, những giá trị mà văn hóa mỗi dân tộc, mỗi quốc gia có được trong lịch
sử của mình ra rộng rãi cộng đồng quốc tế. Chính vì vậy tại các kỳ đại hội lớn
của thể thao thế giới như Olympic; Asiad; World cup… rất nhiều các quốc gia
mong muốn trở thành nước chủ nhà của các sự kiện này.
Việt Nam vinh dự được Ủy ban Olympic Châu Á tin tưởng giao cho
đăng cai Đại hội Thể thao Châu Á lần thứ 18 (Asiad) năm 2019. Đây là một
vinh dự đáng tự hào nhưng đồng thời cũng là trọng trách rất lớn của chúng ta
trong bối cảnh đời sống kinh tế thế giới và trong nước như hiện nay. Do nhiều
nguyên nhân cả về mặt chủ quan lẫn khách quan khác nhau nên chúng ta đã
xin rút khơng đăng cai sự kiện này. Có thể nói, đây là điều đáng tiếc không


17
chỉ đối với ngành thể thao vì đó là cơ hội rất lớn để thể thao Việt Nam nói

riêng và Việt Nam nói chung khẳng định vị thế, vai trị của mình trên trường
quốc tế; là bàn đạp để thúc đẩy sự giao lưu, hợp tác giữa nước ta với bạn bè
quốc tế. Chính phủ cũng đã nhận thức rất rõ việc đăng cai một sự kiện thể
thao lớn tầm cỡ châu lục và thế giới thì giá trị mang lại của nó sẽ vơ cùng to
lớn. Tuy nhiên, vì điều kiện về mặt kinh tế, xã hội chưa đảm bảo nên chúng ta
đã xin rút đăng cai và khi nào có đủ điều kiện thuận lợi chúng ta sẽ tiếp tục
làm hồ sơ đăng cai Asiad cũng như các sự kiện thể thao quốc tế lớn khác.
1.1.3. Vai trò của thể dục thể thao
1.1.3.1. Góp phần nâng cao sức khỏe tồn dân
Thể dục thể thao có vai trị quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ đất nước. Vai trị quan trọng đầu tiên của TDTT chính là góp phần nâng
cao sức khỏe con người (sức khỏe tồn dân). Đây có thể coi là vai trị nổi trội
của TDTT. Nhận thức được tầm quan trọng đó nên ngay sau ngày Cách mạng
tháng Tám năm 1945 thành công, Hồ Chủ tịch đã quan tâm tới việc cải tạo
giống nòi, nâng cao sức khỏe cho người dân, Người chỉ rõ: “Giữ gìn dân
chủ, xây dựng nước nhà, gây dựng đời sống mới, việc gì cũng cần có sức
khoẻ mới làm thành cơng”. Trong đó TDTT đóng một vai trị rất quan
trọng, trong việc tăng cường sức khỏe nhân dân, Người chỉ rõ: "Dưới chế
độ dân chủ, thể thao và thể dục phải trở thành hoạt động chung của quần
chúng, nhằm mục đích làm tăng cường sức khoẻ nhân dân. Nhân dân có
sức khoẻ thì mọi cơng việc đều làm tốt" [44, tr.39].
Người cũng lưu ý rằng: “Nước ta bị phong kiến thực dân thống trị
hàng bao nhiêu năm, nhân dân ta đói khổ, giống nịi kiệt quệ. Ngày nay,
chế độ mới phải quan tâm đầy đủ đến việc ăn, ở và sức khoẻ của nhân dân”
[44]. Chỉ có quan tâm đến đời sống và coi trọng sức khoẻ nhân dân, đặt nó
lên hàng đầu, bởi yếu tố sức khoẻ con người, sức khoẻ nhân dân được coi


18
như là một sức mạnh. Sức mạnh này không chỉ là sức mạnh của cơ bắp mà

cả sức mạnh tinh thần để làm tốt mọi cơng việc. Nhân dân có sức khoẻ thì
mọi việc đều làm thành cơng.
Sức khoẻ là vốn quý nhất của con người và con người là vốn quý
nhất mà giới tự nhiên đã sản sinh ra. Do đó, nếu sức khoẻ tốt sẽ có tác dụng
rất tích cực đối với tính năng động là: ln ln sẵn sàng, lúc nào cũng
sung sức. Vì vậy, Người dạy: “Phải rèn luyện thân thể cho khoẻ mạnh.
Khoẻ mạnh thì mới có đủ sức để tham gia một cách dẻo dai bền bỉ những
công việc” [44].
Thấm nhuần tư tưởng của Người về cơng tác TDTT nên sau ngày
miền Nam hồn tồn giải phóng, đất nước thống nhất và trên con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội, hoạt động TDTT đã được Đảng và Nhà nước ta hết
sức quan tâm nhằm góp phần nâng cao sức khỏe của người Việt Nam. Hiện
nay chúng ta đang tiến hành triển khai thực hiện Đề án 641 về phát triển
thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011-2020 do Chính phủ phê
duyệt đã chứng tỏ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta trong vấn đề nâng
cao sức khỏe người dân.
1.1.3.2. Góp phần đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Vai trò thứ hai của TDTT cũng phát sinh từ chính vai trị thứ nhất, đó
là TDTT góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Với lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước, sức mạnh về thể lực của
quân đội ta, nhân dân ta đã phần nào được thể hiện. Sức mạnh đó có được
là do bên cạnh ý chí quyết tâm với một “tinh thần yêu nước nồng nàn”
cộng với việc chăm lo rèn luyện sức khỏe của quân và dân chúng ta. Vì
vậy, việc luyện tập TDTT trong các đơn vị lực lượng vũ trang luôn được
chúng ta quan tâm đặc biệt nhằm nâng cao sức khỏe, sức chiến đấu của của
lực lượng này. Mỗi một chiến sĩ, mỗi người dân đều là những con người


19
khỏe mạnh thì sẽ góp phần tạo nên sức mạnh của cả dân tộc. Bên cạnh sức

mạnh về tinh thần là cái vốn có của mỗi người dân Việt Nam thì sức mạnh
về thể chất có vai trị quan trọng không kém. Trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, chúng ta đã tập trung toàn bộ nhân lực,
vật lực và tài lực cho hai cuộc chiến này. Cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi
cuối cùng cũng là lúc mà sức khỏe của nhân dân nói chung rất yếu kém. Do
đó, vấn đề nâng cao sức khỏe của nhân dân được đặt ra để đáp ứng yêu cầu
của công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Chỉ khi nào, mỗi công dân là
một người khỏe mạnh thì cơng cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước mới thực
sự thành công. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang thực hiện
công cuộc CNH, HĐH đất nước địi hỏi mỗi người dân phải có sức khỏe và
trí tuệ để đáp ứng được yêu cầu mà xã hội đề ra đối với con người mới. Do
đó chỉ có trí tuệ thơi thì chưa đủ mà địi hỏi mỗi cá nhân chúng ta phải có
sức khỏe, sự dẻo dai để hồn thành tốt mọi cơng việc mà xã hội giao phó.
Từ đó góp phần quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất nước theo con
đường mà Đảng và Bác đã lựa chọn.
1.2. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỂ
DỤC THỂ THAO

1.2.1. Khái niệm pháp luật về thể dục thể thao
Pháp luật về TDTT là công cụ quản lý nhà nước và điều chỉnh các quan
hệ xã hội. Vai trị điều chỉnh của nó trước hết và chủ yếu thể hiện ở các quy
phạm pháp luật. Quy phạm pháp luật về TDTT được ban hành nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý, tổ chức và hoạt
động TDTT. Quy phạm pháp luật về TDTT cũng như các quy phạm pháp luật
khác có tính bắt buộc chung, là khn mẫu, thước đo để các chủ thể tuân thủ
và là tiêu chí để đánh giá hành vi của con người. Quy phạm pháp luật về
TDTT do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành theo hình thức, trình tự,


20

thủ tục nhất định và được áp dụng nhiều lần trong cuộc sống trước khi nó bị
thay đổi hoặc hủy bỏ. Các quy phạm pháp luật về TDTT được quy định chủ
yếu ở Luật Thể dục, Thể thao, các Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi
hành Luật Thể dục, Thể thao, các Thơng tư của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch. Ngồi ra nó cịn được thể hiện ở một số văn bản quy phạm pháp luật của
các chuyên ngành khác như: Luật giáo dục, Luật chăm sóc sức khỏe nhân
dân; Luật người cao tuổi… Dù dưới bất cứ hình thức nào thì pháp luật về
TDTT cũng chứa đựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát
sinh trong quá trình quản lý, tổ chức và hoạt động TDTT của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Từ đó chúng ta có thể hiểu một cách chung nhất: Pháp
luật về TDTT là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh trong lĩnh vực thể dục, thể thao.
Có thể nhận thấy rằng đặc điểm về pháp luật TDTT cũng mang những
đặc điểm của pháp luật nói chung. Đó là hệ thống quy tắc xử xự chung, do cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành, được thể hiện dưới những hình thức
nhất định, thể hiện ý chí của Nhà nước và được đảm bảo thực hiện bằng sức
mạnh cưỡng chế Nhà nước.
Các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động TDTT có nhiều nhưng
tổng quát có thể phân loại chúng thành các nhóm cơ bản như sau:
Nhóm 1: các quan hệ phát sinh trong quá trình quản lý nhà nước đối với
hoạt động TDTT. Đó là các quan hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước với
nhau và giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các liên đồn, hiệp hội thể
thao như giữa Bộ Văn hố, Thể thao và Du lịch với Tổng cục Thể dục Thể
thao với các Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch; các Trung tâm Đào tạo, Huấn
luyện và Thi đấu TDTT , các Liên đồn, Hiệp hội thể thao…
Nhóm 2: các quan hệ phát sinh trong quá trình tuyển dụng, đào tạo,
huấn luyện, tập luyện và tổ chức thi đấu về TDTT. Đó là các mối quan hệ


21

giữa các Trung tâm Huấn luyện đào tạo TDTT; các Trường Năng khiếu
TDTT; các trường đào tạo chuyên về TDTT với VĐV, HLV; Ban Tổ chức các
giải thi đấu thể thao…
Nhóm 3: các quan hệ phát sinh trong q trình tổ chức hoạt động kinh
doanh trong lĩnh vực TDTT. Trong nhóm quan hệ này chủ yếu là quan hệ
trong quá trình cấp giấy phép hành nghề trong lĩnh vực TDTT; vấn đề chuyển
nhượng VĐV; vấn đề hợp tác kinh doanh trong lĩnh vực TDTT…
1.2.2. Nội dung của pháp luật về thể dục thể thao
Xuất phát từ khái niệm, đặc điểm về TDTT nêu trên, nội dung của pháp
luật về TDTT phải thể hiện sự điều chỉnh đầy đủ, toàn diện đối với các quan
hệ phát sinh trong quá trình tiến hành các hoạt động về TDTT.
Thể dục thể thao là một loại hình hoạt động làm phát sinh nhiều loại
quan hệ xã hội khác nhau. Có những mối quan hệ bên trong đó là mối quan hệ
giữa các cơ quan quản lý nhà nước về TDTT với nhau; mối quan hệ giữa các
Trung tâm Huấn luyện, đào tạo VĐV với VĐV, HLV…. hay các mối quan hệ
bên ngoài giữa cơ quan quản lý nhà nước về TDTT với các quan, đơn vị và cá
nhân bên ngoài liên quan đến lĩnh vực TDTT. Các mối quan hệ bên trong và
bên ngoài của TDTT phản ánh sự đa dạng, phức tạp của hoạt động TDTT
Nội dung của pháp luật về TDTT ở Việt Nam hiện nay được quy định
chủ yếu trong Luật Thể dục, Thể thao và một số văn bản quy phạm pháp luật
khác. Luật quy định về tổ chức và hoạt động thể dục, thể thao; quyền và nghĩa
vụ của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động trong lĩnh vực TDTT. Đối tượng
của Luật này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động trong lĩnh
vực TDTT; tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động TDTT tại Việt Nam.
Vì vậy, hoạt động TDTT và quản lý hoạt động TDTT phải tuân thủ quy định
của Luật Thể dục, Thể thao và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là


22

thành viên có quy định khác với quy định của Luật này thì ưu tiên áp dụng
theo quy định của điều ước quốc tế đó. Nội dung của pháp luật về TDTT phản
ánh quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển
TDTT đó là nhằm nâng cao sức khoẻ, thể lực, tầm vóc người Việt Nam, góp
phần cải thiện đời sống văn hố, tinh thần cho nhân dân, tăng cường hợp tác,
giao lưu quốc tế về TDTT, nâng cao sự hiểu biết giữa các quốc gia, dân tộc
phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời nhà nuớc cũng
tăng đầu tư ngân sách, dành quỹ đất và có chính sách phát huy nguồn lực để
xây dựng cơ sở vật chất, đào tạo bồi dưỡng nhân lực, phát hiện và bồi dưỡng
năng khiếu thể thao để đào tạo thành những tài năng thể thao; nghiên cứu,
ứng dụng khoa học và công nghệ nhằm nâng cao chất lượng hoạt động TDTT;
phát triển một số mơn thể thao đạt trình độ thế giới. Nhà nước khuyến khích
tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp TDTT, thành lập cơ sở dịch vụ
hoạt động thể thao đáp ứng nhu cầu tập luyện, vui chơi, giải trí của nhân dân,
bảo đảm để các cơ sở thể thao cơng lập và tư nhân được bình đẳng trong việc
hưởng ưu đãi về thuế, tín dụng, đất đai theo quy định của pháp luật. Nhà nước
ưu tiên đầu tư phát triển TDTT ở vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt
khó khăn, bảo tồn và phát triển các môn thể thao dân tộc. Đây là vấn đề đã
được Đảng ta đề ra nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của các dân
tộc. Có thể nói, nội dung của pháp luật về TDTT được đề cập đến nhiều khía
cạnh khác nhau về vấn đề này và nó được quy định cụ thể trong Luật Thể dục,
Thể thao và các văn bản quy phạm pháp luật khác. Nội dung của pháp luật về
TDTT có thể nhìn nhận dưới các khía cạnh cụ thể sau đây:
1.2.2.1. Quy định về cơ quan quản lý nhà nước và nội dung quản lý
nhà nước về thể dục thể thao
Nội dung của pháp luật về TDTT phân định rõ cơ quan quản lý nhà
nước về TDTT cũng như nội dung quản lý nhà nước về TDTT. Trước hết cơ


23

quan quản lý nhà nước về TDTT có trách nhiệm xây dựng, ban hành và tổ
chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển TDTT,
các văn bản quy phạm pháp luật về TDTT. Cùng với đó là tổ chức, chỉ đạo
công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho TDTT. Tiến hành kiểm tra, đánh giá
phát triển TDTT quần chúng và hoạt động thi đấu thể thao, tổ chức, chỉ đạo
hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ trong lĩnh vực TDTT.
Để thúc đẩy hoạt động TDTD ngày càng phát triển theo định hướng đã đề ra,
Nhà nước cần huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực phát triển sự nghiệp
TDTT về nhân lực, vật lực và tài lực... Ngoài những nội dung cơ bản nêu trên,
pháp luật về TDTT còn bao gồm một số nội dung cụ thể khác.
1.2.2.2. Quy định về phát triển thể dục thể thao quần chúng
Pháp luật về TDTT quy định về phát triển TDTT quần chúng, trong đó
quy định trách nhiệm của Nhà nước trong việc đầu tư, khuyến khích tổ chức, cá
nhân tham gia phát triển TDTT quần chúng, tạo cơ hội cho mọi người khơng
phân biệt lứa tuổi, giới tính, sức khoẻ, tình trạng khuyết tật được thực hiện
quyền hoạt động TDTT để nâng cao sức khoẻ, vui chơi, giải trí. Pháp luật cũng
chỉ rõ phong trào TDTT quần chúng, về các vấn đề trong thi đấu thể thao quần
chúng. Thể dục thể thao quần chúng được quy định gồm nhiều loại hình thể
thao với nhiều đối tượng khác nhau như: TDTT cho người khuyết tật; TDTT
cho người cao tuổi; thể dục phòng bệnh, chữa bệnh; các môn thể thao dân tộc;
thể thao giải trí; thể thao quốc phịng. Mỗi mơn có vai trị, vị trí khác nhau
trong vấn đề rèn luyện sức khỏe, nâng cao thể lực tầm vóc người Việt Nam.
1.2.2.3. Quy định về thể dục thể thao trong nhà trường
Nội dung pháp luật về TDTT trong nhà trường: Luật Thể dục, Thể thao
(2006) quy định giáo dục thể chất và thể thao trong nhà trường là yêu cầu bắt
buộc trong việc phát triển tồn diện về thể lực, nhân cách, trí tuệ của học sinh.
Đồng thời nó quy định trách nhiệm của Nhà nước đối với giáo dục thể chất và


24

thể thao trong nhà trường cũng như trách nhiệm của nhà trường trong việc
phát triển TDTT cho học sinh, sinh viên. Để đảm bảo hiệu quả pháp lý cao,
quyền và nghĩa vụ của giáo viên, giảng viên TDTT cũng như quyền và nghĩa
vụ của người học được quy định cụ thể trong Luật. Bên cạnh đó, Luật cũng
quy định về các vấn đề như thi đấu thể thao trong nhà trường, quy định trách
nhiệm của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ chức xã hội-nghề
nghiệp về thể thao trong việc thúc đẩy, phát triển thể thao trong nhà trường.
1.2.2.4. Quy định về thể thao thành tích cao và thể thao chuyên nghiệp
Nội dung pháp luật về thể thao thành tích cao và thể thao chuyên
nghiệp: Đây có thể coi là nội dung quan trọng, tác động và điều chỉnh đến
một nhóm đối tượng đặc biệt, đó là những người coi TDTT như một nghề
nghiệp cũng như các ngành nghề khác được pháp luật thừa nhận. Luật quy
định rõ về phát triển thể thao thành tích cao, quy định quyền và nghĩa vụ của
VĐV thể thao thành tích cao, quyền và nghĩa vụ của HLV thể thao thành tích
cao, quyền và nghĩa vụ của trọng tài thể thao thành tích cao. Đây là cơ sở
pháp lý quan trọng trong việc điều chỉnh quan hệ giữa những cá nhân, tổ chức
hoạt động trong lĩnh vực thể thao thành tích cao và thể thao chuyên nghiệp.
Để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực này, pháp luật quy định cụ thể
về hội thể thao quốc gia, đoàn thể thao quốc gia. Điều kiện, tiêu chuẩn VĐV đội
thể thao quốc gia cũng được quy định cụ thể. Ngoài ra pháp luật quy định về giải
thi đấu thể thao thành tích cao; thẩm quyền tổ chức giải thể thao thành tích cao;
thẩm quyền ban hành điều lệ giải thể thao thành tích cao; thủ tục đăng cai tổ
chức giải thể thao thành tích cao; cơng nhận thành tích thi đấu thể thao thành tích
cao; đẳng cấp VĐV, HLV, trọng tài thể thao thành tích cao; tiêu chuẩn cơ sở vật
chất, trang thiết bị cho tập luyện và thi đấu thể thao thành tích cao.
Pháp luật về thể thao chuyên nghiệp: nội dung bao gồm các quy định
về phát triển thể thao chuyên nghiệp cũng như về quyền và nghĩa vụ của VĐV


25

chuyên nghiệp, của HLV chuyên nghiệp. Trong thể thao chuyên nghiệp, vấn
đề mua bán, chuyển nhượng VĐV diễn ra tất yếu và nó mang cả yếu tố nước
ngồi. Hiện nay vấn đề mua bán, chuyển nhượng VĐV giữa các câu lạc bộ
của các quốc gia khác nhau diễn ra rất phổ biến. Do đó cần phải có chế tài cụ
thể quy định về vấn đề này. Để tạo cơ sở pháp lý cho vấn đề này, Luật Thể
dục, Thể thao 2006 cũng đã bước đầu quy định về vấn đề chuyển nhượng
VĐV chuyên nghiệp cũng như quy định về hợp đồng chuyển nhượng VĐV
chuyên nghiệp... Khi đời sống xã hội ngày càng phát triển thì các tổ chức hoạt
động trong lĩnh vực TDTT cũng ngày phát triển. Đặc biệt là trong giai đoạn
hiện nay các câu lạc bộ thể thao chuyên nghiệp phát triển ngày càng nhiều.
Nhận thức được những vấn đề này, pháp luật đã quy định về điều kiện kinh
doanh hoạt động thể thao của câu lạc bộ thể thao chuyên nghiệp cũng như
trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh, tạm ngừng kinh doanh, chia, tách, hợp
nhất, sáp nhập, chuyển đổi, giải thể, phá sản câu lạc bộ thể thao chuyên
nghiệp. Đồng thời Luật cũng quy định nhiệm vụ, quyền hạn của câu lạc bộ thể
thao chuyên nghiệp, quyền sở hữu đối với giải thể thao thành tích cao và giải
thể thao chuyên nghiệp. Đây là điều kiện, là tiền đề quan trọng để kích thích
các tổ chức, cá nhân tham gia kinh doanh, hoạt động trong lĩnh vực TDTT.
1.2.2.5. Quy định về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thể dục thể thao
Nội dung pháp luật về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực TDTT: trong xu
thế hội nhập và phát triển của đời sống kinh tế, xã hội hiện nay, vấn đề hội
nhập diễn ra là điều tất yếu, trong đó có vấn đề hội nhập về TDTT. Vấn đề
hợp tác quốc tế về lĩnh vực này diễn ra ngày càng sâu rộng. Luật Thể dục,
Thể thao năm 2006 bước đầu đã ghi nhận những nguyên tắc hợp tác quốc tế
về thể thao cũng như những quy định về nội dung hợp tác quốc tế về thể thao.
Đây có thể coi là cơ sở pháp lý quan trọng để cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
nước được tham gia hợp tác, ký kết với các tổ chức, cá nhân nước ngoài trong



×