Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

Văn hóa gia đình ở thành phố bảo lộc lâm đồng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 111 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là nền tảng của xã hội. Sự ổn định và phát triển của xã hội phụ
thuộc rất lớn vào gia đình. Một xã hội phát triển phồn vinh chỉ có thể xây
dựng trên nền tảng của gia đình ấm no, hạnh phúc. Là thiết chế xã hội cơ bản,
gia đình khơng chỉ là mơi trường quan trọng nhất để hình thành nuôi dưỡng
và giáo dục nhân cách con người mà gia đình cịn là nơi bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hóa dân tộc. Gia đình là tế bào của xã hội, do đó xây dựng văn
hóa gia đình có mối quan hệ chặt chẽ với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa truyền thống dân tộc. Con người là chủ thể của văn hoá và cũng là sản
phẩm của văn hóa. Cá thể người chỉ trở thành con người nhờ có q trình
nhập thân văn hóa, mà trước hết diễn ra trong mơi trường gia đình. Chính gia
đình là một thiết chế văn hố góp phần tạo dựng nên nền tảng của xã hội. Xã
hội càng phát triển, càng phản ánh sự đa dạng phong phú trong cuộc sống gia
đình. Gia đình càng hồn thiện, càng ổn định và có nền tảng văn hố sẽ góp
phần xây dựng lối sống tốt đẹp cho xã hội. Khi gia đình và xã hội khơng gắn
kết, đồng phát triển sẽ tạo nên sự trì trệ, xáo trộn và mất ổn định xã hội.
Trong các văn kiện của Đảng, vấn đề gia đình chiếm vị trí quan trọng
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI đã khẳng định: “Gia đình là tế bào của xã
hội, có vai trị rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới, nền kinh
tế mới, con người mới". Các Nghị quyết Đại hội lần thứ VII, VIII, IX, X của
Đảng Cộng sản Việt Nam đều đề cập đến vị trí, vai trị của gia đình trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Đến Đại hội XI của Đảng, vị trí, vai
trị của gia đình được xác định cụ thể và rõ ràng hơn: Phát huy giá trị truyền
thống của gia đình Việt Nam, thích ứng với những giá trị của quá trình CNH,
HĐH. Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tổ
ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là mơi trường quan trọng
hình thành, ni dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy
văn hóa truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.




2
Từ những trình bày trên đây cho thấy vai trị đặc biệt quan trọng của
gia đình nói chung, văn hóa gia đình nói riêng trong việc tạo ra mơi trường
lành mạnh, nuôi dưỡng, giáo dục nhân cách con người, tạo nguồn nhân lực
phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ở nước ta, trong quá trình đổi mới, với truyền thống giàu lịng nhân ái,
thủy chung, trọng tình nghĩa, giá trị của đạo đức gia đình, văn hóa gia đình và
vai trị của gia đình trong quan hệ nhà - làng - nước vẫn được chú trọng. Hiện
nay, nhiều gia đình Việt Nam vẫn giữ gìn và phát huy được những đức tính,
phẩm chất tốt đẹp của đạo đức gia đình, văn hóa gia đình truyền thống. Cùng
với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đời sống vật chất và đời sống
tinh thần của mỗi gia đình được nâng lên, là điều kiện thuận lợi cho việc phát
huy các giá trị của văn hóa gia đình Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh đó,văn hóa gia đình ở nước ta hiện nay đang đặt ra
nhiều vấn đề. Sự tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường, của các sản phẩm
phi văn hóa, của lối sống thực dụng phương Tây… đang làm băng hoại văn
hóa, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ các gia đình. Những quan
hệ thiêng liêng trong gia đình như cha mẹ và con cái, vợ chồng, anh em với
những chuẩn mực đạo đức cơ bản là tình nghĩa, thủy chung, hiếu thảo, hịa
thuận đang có nguy cơ bị xâm hại, lấn át bởi sức mạnh của đồng tiền. Nhiều
biểu hiện tiêu cực về đạo đức gia đình đã và đang phát sinh, ảnh hưởng không
nhỏ tới đạo đức cá nhân và văn hóa gia đình trên địa bàn cả nước nói chung ở
thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng nói riêng.
Thành phố Bảo Lộc là một thành phố mới được thành lập của tỉnh Lâm
Đồng, thuộc đô thị miền núi của khu vực nam Tây Nguyên, nằm trên cao
nguyên Di Linh, là trung tâm kinh tế khu vực phía nam của tỉnh. Là một thành
phố đô thị loại 3, thành phố Bảo Lộc có tính chất đặc thù riêng, hoàn toàn
khác so với nhiều thành phố trong cả nước. Đó là thành phố miền núi thuộc

cao nguyên vừa có thành thị và nông thôn, với 11 đơn vị hành chính, gồm 6
phường và 5 xã; là địa bàn cư trú của hơn 20 dân tộc anh em sinh sống. Với 4
tơn giáo chính gồm Phật giáo, Cơng giáo, Tin lành, Cao đài, trong đó tín đồ
các tơn giáo chiếm tỷ lệ hơn 50% dân số toàn thành phố hiện nay [47].


3
Cũng như các địa phương khác trong cả nước, trong điều kiện phát
triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và đơ thị hóa, văn hóa gia đình ở
thành phố Bảo Lộc đang có những biến đổi mạnh mẽ, đan xen cả yếu tố tích
cực và tiêu cực. Do đó, việc nghiên cứu thực trạng văn hóa gia đình ở thành
phố Bảo Lộc, trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp và kiến nghị thiết thực
nhằm xây dựng văn hóa gia đình ở thành phố Bảo Lộc, đảm bảo cho sự phát
triển bền vững ở đây là việc làm cần thiết và có ý nghĩa.
Xuất phát từ những lý do đó, tơi lựa chọn đề tài“Văn hóa gia đình ở
thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp hệ đào
tạo thạc sĩ Văn hố học tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, ở nước ta, xuất hiện nhiều cơng trình nghiên
cứu về gia đình, văn hóa gia đình. Liên quan đến đề tài, có thể kể đến nhiều
hướng nghiên cứu, cụ thể như sau:
Thứ nhất, những công trình nghiên cứu về gia đình nói chung
- Một vài nét nghiên cứu về gia đình Việt Nam (1990), của tập thể tác
giả Trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ, thuộc Trung tâm
Khoa học xã hội nhân văn Quốc gia. Trong cơng trình này, các tác giả đã
nghiên cứu về vai trị, vị trí của gia đình trong xã hội nhưng mới chỉ đặt vấn
đề và gợi ý là chủ yếu.
- Những nghiên cứu xã hội về gia đình Việt Nam (1991), của tập thể tác
giả của Viện Xã hội học thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc
gia phối hợp với Khoa xã hội học Trường đại học Gothenburg (Thụy Điển) đã

tiến hành khảo sát ở nhiều tỉnh, thành trong cả nước về đặc điểm của gia đình
Việt Nam trước những năm 1990.
- Văn minh Phương Đơng và gia đình Việt Nam truyền thống (1994),
Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia do quỹ Toyota
Founddation tài trợ, đã có những khảo sát và nghiên cứu, đánh giá bước đầu
về gia đình truyền thống ở Việt Nam qua một số mốc lịch sử của Việt Nam.
- Gia đình Việt Nam với chức năng xã hội hóa (1998) của tác giả Lê
Ngọc Văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Ở công trình này, tác giả đã tập trung trình


4
bày về chức năng xã hội hóa để làm rõ sự biến đổi chức năng của gia đình
Việt Nam truyền thống khi xã hội Việt Nam chuyển từ xã hội nơng nghiệp
sang xã hội cơng nghiệp.
- Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới (2003) của GS.
Lê Thi (kết quả cuộc điều tra về gia đình Việt Nam có quy mơ lớn nhất từ
trước tới nay), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Cơng trình này tác giả đã trình
một cách tổng thể về gia đình Việt Nam. Q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, đơ thị hóa và hội nhập quốc tế tạo ra nhiều cơ hội và điều kiện thuận lợi,
đồng thời cũng đặt gia đình và cơng tác gia đình trước nhiều khó khăn, thách
thức. Mặt trái của cơ chế thị trường và lối sống thực dụng tác động mạnh tới
các giá trị đạo đức truyền thống và lối sống. Sự phân hóa giàu nghèo giữa các
gia đình đang có sự gia tăng.
- Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam (2012) của tác giả Lê Ngọc
Văn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Cơng trình này trình bày hệ thống về
những vấn đề gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam trong hơn hai thập
niên vừa qua và gợi ý cho những nghiên cứu tiếp tục về chủ đề gia đình trong
thời gian tới.
Thứ hai, những cơng trình nghiên cứu về văn hóa gia đình
- Văn hóa gia đình và sự phát triển xã hội (1994) của nhiều tác giả, do

nhà văn Lê Minh chủ biên, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
- Văn hóa gia đình với việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ em
(2001) của PGS.TS Lê Như Hoa, Nxb Văn hóa thơng tin, Hà Nội.
- Văn hóa gia đình (2007) của GS. Vũ Ngọc Khánh, Nxb Thanh niên, Hà
Nội.
- Người phụ nữ trong văn hóa gia đình đơ thị (2003) của TS. Lê Q
Đức và Ths. Vũ Thy Huệ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến những vấn đề lý luận và
thực tiễn về gia đình, văn hóa gia đình, xây dựng văn hóa gia đình, sự biến đổi
của gia đình và văn hóa gia đình trong bối cảnh mới, những vấn đề của gia đình
Việt Nam từ truyền thống đến hiện tại, cũng như ảnh hưởng của văn hóa gia đình
đối với sự phát triển của cá nhân nói riêng và xã hội nói chung.


5
Thứ ba, các đề tài, luận văn, luận án nghiên cứu gia đình, xây dựng
gia đình văn hóa, văn hóa gia đình dưới góc độ triết học, chủ nghĩa xã hội
khoa học và văn hóa học, có thể kể đến một số cơng trình sau:
- Vai trị của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay
(2001), Luận án tiến sĩ triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học của
Nghiêm Sỹ Liêm (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh).
Trong luận án này, tác giả đã làm rõ vai trò, các yếu tố ảnh hưởng đến gia
đình và thực trạng của giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay.
- Gia đình Việt Nam và vai trị của người phụ nữ trong gia đình Việt
Nam hiện nay (2003), Luận án tiến sĩ Triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa xã
hội khoa học, của Dương Thị Minh (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh). Trong luận án này, tác giả đã khẳng định vị trí, vai trị của phụ nữ Việt
Nam được xác định là một nhiệm vụ quan trọng, tạo bình đẳng thực sự để chị
em vừa có cơ hội thể hiện, cống hiến năng lực của mình.
- Gia đình trong việc bảo vệ chăm sóc trẻ em của nước ta hiện nay

(2004), Luận văn thạc sĩ Triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học
của Phạm Thị Xuân (Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh).
Tác giả đã đề cập và khẳng định trẻ em là thành phần quan trọng cấu
thành gia đình. Cha mẹ và các thành viên trong gia đình là những người gần
gũi mật thiết thường xuyên ở bên cạnh trẻ em, việc chăm sóc con trẻ khơng
chỉ là trách nhiệm mà còn là “bản năng” của họ.
- Phát huy vai trị của người phụ nữ trong xây dựng gia đình văn hóa ở
tỉnh Bạc Liêu hiện nay (2006), luận văn thạc sĩ Triết học, chuyên ngành chủ nghĩa
xã hội khoa học của Lê Cẩm Lệ. Tác giả cũng đề cập tới vai trò quan trọng của
người phụ nữ trên cơ sở thực hiện chức năng của gia đình trong tỉnh Bạc Liêu.
- Văn hóa gia đình và vấn đề xây dựng gia đình văn hóa ở thủ đơ Hà
Nội (2003), Luận văn thạc sỹ văn hóa học của Đỗ Xuân Đán (Trường Đại học
Văn hóa Hà Nội). Tác giả phân tích thực trạng trong bối cảnh CNH, HĐH đất
nước đồng thời khảo sát về cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa ở Hà
Nội.


6
- Văn hóa gia đình và xây dựng văn hóa gia đình trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh
(2009), Luận văn thạc sĩ Văn hóa học của Nguyễn Thị Nguyệt (Học viện Chính trị
- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh). Trong luận văn này, tác giả đã đánh giá thực
trạng việc xây dựng gia đình văn hóa và văn hóa gia đình ở tỉnh Hà Tĩnh.
- Văn hóa gia đình ở huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình hiện nay (2012),
Luận văn Thạc sĩ của Võ Thị Thanh Thủy (Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh). Luận văn này nghiên cứu các phương diện lý luận về
văn hóa gia đình, tập trung khảo sát văn hóa gia đình được thể hiện ở các hệ
giá trị của gia đình.
- Văn hóa gia đình trong việc giáo dục trẻ em trước tuổi đến trường
tiểu học (tỉnh Hưng Yên), Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành văn hóa học của Lê
Thị Hiền. Tác giả đã đề cập đến vai trò của gia đình, văn hóa gia đình trong

việc hình thành nhân cách cho trẻ, góp phần tạo ra mơi trường phát triển lành
mạnh, tồn diện cho trẻ.
Như vậy, có thể nói, cho đến nay vẫn chưa có một cơng trình nào nghiên
cứu về văn hóa gia đình ở thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng. Trên cơ sở kết quả
nghiên cứu của các tác giả đi trước, luận văn nghiên cứu, khảo sát về văn hóa
gia đình ở thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng hiện nay, đề xuất những giải
pháp, kiến nghị để phát huy các giá trị văn hóa gia đình ở Bảo Lộc trong thời
gian tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở hệ thống lại những vấn đề lý luận về văn hóa gia đình, luận
văn nghiên cứu thực trạng văn hóa gia đình ở thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm
Đồng trong thời gian vừa qua và đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao
chất lượng, hiệu quả cơng tác xây dựng văn hóa gia đình của địa phương thời
gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống những vấn đề lý luận về văn hóa gia đình, vai trị của văn
hóa gia đình đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Bảo Lộc, tỉnh
Lâm Đồng hiện nay.


7
- Khảo sát, đánh giá thực trạng văn hóa gia đình ở thành phố Bảo Lộc,
tỉnh Lâm Đồng.
- Đề xuất các giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả
cơng tác xây dựng văn hóa gia đình của địa phương thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Văn hóa gia đình ở thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về thời gian: từ năm 2005 đến nay.
- Về không gian: thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng về xây dựng nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó có vấn đề xây dựng văn hóa gia đình.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành và đa ngành
như: văn hoá học, lịch sử, nhân học, xã hội học và các phương pháp nghiên
cứu cơ bản khác: phân tích và tổng hợp, đối chiếu và so sánh, logic và lịch sử,
thống kê … để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn nghiên cứu thành cơng sẽ có những đóng góp sau:
- Đánh giá thực trạng văn hóa gia đình ở thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm
Đồng từ năm 2005 đến nay.
- Đề xuất các giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả
cơng tác xây dựng văn hóa gia đình của địa phương thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các
luận văn, luận án, đề tài nghiên cứu về văn hóa gia đình.


8
Làm cơ sở cho các cơ quan chức năng của thành phố Bảo Lộc trong
q trình thực hiện cơng tác gia đình và xây dựng văn hóa gia đình ở thành
phố Bảo Lộc.
Làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác tuyên truyền vận động cho
các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng.
8. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.


9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA GIA ĐÌNH VÀ KHÁI
QUÁT CHUNG VỀ THÀNH PHỐ BẢO LỘC, TỈNH LÂM ĐỒNG
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HĨA GIA ĐÌNH

1.1.1. Quan niệm về văn hóa gia đình
1.1.1.1. Quan niệm về văn hóa
Sự phát triển của lồi người gắn liền với văn hoá ngay từ những bước
đi lịch sử đầu tiên của mình. Văn hố xuất hiện cùng với con người. Tuy
khơng phải ngay lúc đó đã có một khái niệm văn hố nhưng có thể nói rằng từ
văn hố xuất hiện khá sớm trong ngơn ngữ của nhiều dân tộc trên thế giới
ngay từ thời cổ đại như Trung Hoa, Ấn Độ, Ai Cập, Hy Lạp.
Ở phương Đơng, từ văn hố mà chúng ta đang sử dụng có cội nguồn từ
tiếng Hán. Trong ngơn ngữ Hán, hai từ văn và hoá xuất hiện khá sớm, như hai
từ đơn có nghĩa riêng biệt. Văn có nghĩa là vẻ đẹp, hố có nghĩa là biến đổi,
biến hố. Văn hoá gộp lại theo nghĩa gốc là làm cho đẹp, trở thành đẹp đẽ.
Ở phương Tây, dựa theo sự nghiên cứu của nhà ngôn ngữ học người
Đức W.Vunđơ, từ văn hoá bắt nguồn từ một động từ tiếng Latinh “colere” sau
chuyển thành cultural, có nghĩa là cày cấy, vun trồng. Về sau, từ cultural
chuyển nghĩa từ trồng trọt cây cối chuyển sang vun trồng tinh thần, trí tuệ.
Nhờ có q trình gieo trồng tinh thần này mà lồi người mới tạo ra được sự
khác biệt về bản chất với muôn lồi. Cũng chính nhờ có văn hố mà từng
cộng đồng dân tộc có thể tự nhận thức về mình và mới có thể tự phân biệt
mình với người khác. Sau này, trong ngôn ngữ hiện đại, Culture trong tiếng
Anh, Pháp, Kutur tiếng Đức, Kultura tiếng Nga đều chỉ văn hoá.

Trong khoa học xã hội và nhân văn, từ văn hoá được đưa vào trong
khoa học sớm nhất là ở Đức bởi Pu-phen-dooc, nhà nghiên cứu pháp luật
người Đức năm 1774 và đến năm 1783, được ghi vào từ điển với nghĩa văn
hố là tồn bộ những gì do hoạt động xã hội của con người tạo ra, văn hoá là
cái đối lập với trạng thái tự nhiên.


10
Đầu thế kỷ XX, các ngành khoa học nghiên cứu về văn hố nở rộ trên
thế giới, có rất nhiều ngành khoa học cùng lấy thuật ngữ văn hoá làm đối
tượng nghiên cứu như Dân tộc học, Sử học, Xã hội học, Nhân học…, mỗi nhà
nghiên cứu thường nhấn mạnh một khía cạnh đặc sắc của văn hóa, phù hợp
với cách tiếp cận của họ. Kết quả là ra đời hàng nghìn định nghĩa về văn hóa,
trong đó, nhà văn hóa học người Nga, A.X.Ka-rơ-min đã tổng hợp và phân ra
14 nhóm định nghĩa văn hóa như sau: [34, tr.6].
Định nghĩa mang tính chất miêu tả thiên về liệt kê các yếu tố riêng lẻ
và các biểu hiện của văn hóa, như: phong tục, tín ngưỡng, các dạng hoạt
động: nghệ thuật, giáo dục, khoa học, thể dục thể thao.
Định nghĩa mang tính chất nhân loại học;
Xuất phát từ chỗ cho rằng văn hóa là một tổng thể các sản phẩm do
hoạt động người tạo ra, thế giới vật thể, đối lập với thiên nhiên, là những thứ
do con người sáng tạo ra (thiên nhiên thứ hai).
Định nghĩa mang tính chất giá trị;
Giải thích văn hóa như là tổng thể các giá trị tinh thần và vật chất, do
con người sáng tạo ra.
Định nghĩa mang tính chất chuẩn mực;
Xác nhận rằng nội dung của văn hóa tạo ra các chuẩn mực và quy tắc,
để điều tiết đời sống mọi người.
Định nghĩa mang tính chất thích nghi;
Văn hóa được giải thích như là phương thức đáp ứng các nhu cầu, như

một dạng hoạt động đặc biệt, là cái vốn có ở con người, bằng cách truyền đạt
kinh nghiệm mà con người thâu lượm được từ thế hệ này đến thế hệ khác.
Định nghĩa mang tính chất lịch sử;
Nhấn mạnh rằng văn hóa là sản phẩm của lịch sử xã hội và phát triển
bằng cách truyền đạt kinh nghiệm mà con người thâu lượm được từ thế hệ này
đến thế hệ khác.
Định nghĩa mang tính chất chức năng;


11
Xác định văn hóa thơng qua các chức năng, văn hóa thực hiện các chức
năng trong xã hội, các chức năng ấy tạo nên sự thống nhất và mối tương liên
giữa chúng trong văn hóa.
Định nghĩa mang tính chất ký hiệu học;
Xem xét văn hóa như là hệ thống ký hiệu, được xã hội sử dụng.
Định nghĩa mang tính chất biểu tượng;
Nhấn vào sự quan tâm đến việc sử dụng các biểu tượng trong văn hóa.
Định nghĩa mang tính chất thơng diễn học;
Liên quan đến văn hóa như một đa số văn bản, chúng được thông giải
và được suy ngẫm bởi mọi người.
Định nghĩa mang tính chất tinh thần;
Xác định văn hóa như là đời sống tinh thần của xã hội, như là dòng tư
tưởng và các sản phẩm khác của sáng tạo tinh thần, chúng được tích lũy trong
ký ức xã hội.
Định nghĩa mang tính chất tâm lý học;
Chỉ ra mối liên hệ giữa văn hóa với tâm lý học ứng xử (hành vi) của
mọi người và nhận thấy trong văn hóa có những đặc điểm quy ước về mặt xã
hội của tâm lý người.
Định nghĩa mang tính chất học tập;
Xem xét văn hóa như là cái mà con người học được (chứ không phải là

di truyền sinh học).
Định nghĩa mang tính chất xã hội học;
Văn hóa được quan niệm như là nhân tố tổ chức đời sống xã hội, như là
tổng thể các ý tưởng, các nguyên tắc, các định chế xã hội, bảo đảm duy trì
hoạt động tập thể của mọi người.
Trong toàn bộ các dạng định nghĩa vừa kể trên đây, mỗi dạng đều có
nội dung hợp lý, chỉ ra những (nét) đặc điểm ít hay nhiều quan trọng của
văn hóa.
Luận văn tìm hiểu về văn hóa của một nhóm xã hội đặc thù là gia đình,
trên một địa bàn cụ thể là thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng. Với cách tiếp cận


12
này, văn hóa mang ý nghĩa của nhân tố có khả năng gắn kết các thành viên
của gia đình thơng qua việc chia sẻ các giá trị, thực hiện các chuẩn mực, các
hoạt động chung, thực hiện các chức năng của gia đình, qua đó hình thành nên
văn hóa gia đình.
1.1.1.2. Quan niệm về gia đình
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, “gia đình” là một trong những phạm
trù sớm xuất hiện trong lịch sử nhân loại; và từ “gia đình” có lẽ được sử dụng
nhiều nhất trong ngơn ngữ hàng ngày và trong nhiều lĩnh vực hoạt động xã
hội cũng như trong các nghiên cứu về gia đình, song hiếm khi “gia đình”
được định nghĩa một cách rõ ràng. Ngày nay, chúng ta vừa biết nhiều hơn lại
vừa biết ít hơn về gia đình, bởi sự biến đổi và tính đa dạng của gia đình.
Trong thực tế khơng có một loại gia đình đồng nhất cũng như khơng có một
hình thức gia đình giống nhau ở mọi nơi và mọi thời điểm. Gia đình khơng
chỉ khác nhau giữa các quốc gia và các nền văn hóa mà thậm chí cịn khơng
giống nhau từ gia đình này đến gia đình khác trong một nền văn hóa.
Xác định gia đình có ý nghĩa quan trọng trong đời sống của mỗi người,
trong nhận thức xã hội, đồng thời còn là cơ sở để xây dựng những chính sách,

chương trình phù hợp với gia đình. Trong các nghiên cứu, gia đình khơng chỉ là
chủ thể nghiên cứu mà còn là một đơn vị cơ bản để thu hút thơng tin, phân tích
số liệu. Vì thế việc xác định khái niệm gia đình là hết sức cần thiết cho việc tiến
hành những nghiên cứu về gia đình, định hướng các vấn đề nghiên cứu.
Cho dù có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về gia đình đã được triển
khai, song “gia đình là gì” vẫn cịn đang là vấn đề gây nhiều tranh cãi. Cho
đến nay gia đình được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Và thuật ngữ
gia đình vẫn là “một thuật ngữ được định nghĩa lỏng lẻo nhất trong từ vựng
của nhà xã hội học” [36, tr.34]. Khó khăn trong việc xác định khái niệm gia
đình do nhiều nguyên nhân. Trước hết bởi gia đình là một thuật ngữ hết sức
quen thuộc với tất cả mọi người. Gia đình là nơi mỗi người sinh ra và lớn lên
khi nhắc tới khái niệm gia đình ai cũng có thể có ngay những hình dung về
nó. Chính sự quen thuộc này khiến nhiều người tưởng hiểu rất rõ về gia đình


13
lại cảm thấy rất mơ hồ khi được yêu cầu cung cấp những tiêu chí để nhận diện
gia đình. Thứ hai, gia đình là một nhóm xã hội đặc thù, khác với các nhóm xã
hội khác, gia đình hội tụ trong đó tất cả các yếu tố sinh học, tâm lý, văn hóa
và cả kinh tế. Sự phức tạp trong chính đặc điểm của gia đình khiến việc định
nghĩa gia đình trở nên khó khăn. Thứ ba, gia đình ln biến đổi cùng với sự biến
đổi của xã hội, của nền văn hóa mà gia đình tồn tại trong đó. Khơng dễ dàng để
xác định một khái niệm gia đình đúng với tất cả các dạng gia đình khác nhau về
mặt văn hóa, lịch sử. Thực tế lịch sử phát triển của lồi người đã cho thấy, gia đình
đã tồn tại với rất nhiều kiểu loại, từ gia đình cùng dịng máu, tới gia đình cặp đơi,
gia đình một vợ, một chồng,… khác biệt trong bản chất của nó. Cho đến nay, gia
đình đã được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau.
Từ điển tiếng Việt do tác giả Văn Tân chủ biên - Nhà xuất bản khoa học
xã hội phát hành - định nghĩa “ Gia đình là đơn vị xã hội thành lập trên cơ sở
cùng dòng máu, bắt đầu có từ thời đại thị tộc mẫu hệ; trong thời đại phong

kiến, thường có cha mẹ, con cháu, có khi có cả chắt nữa, trong thời đại tư bản
thường chỉ có vợ chồng và con cái” [71, tr.17].
Từ điển tiếng Việt, 1996 do tác giả Hoàng Phê chủ biên - Nhà xuất bản
Đà Nẵng định nghĩa gia đình là: “Tập hợp người cùng sống chung thành một
đơn vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn bó với nhau bằng quan hệ hơn nhân và dịng
máu, thường gồm có vợ chồng, cha mẹ và con cái” [71, tr.17].
Theo cách tiếp cận vĩ mơ, gia đình được định nghĩa với tư cách là một
thiết chế xã hội, một đơn vị cơ sở của xã hội, thực hiện những chức năng xã
hội nhất định, trước hết là chức năng tái sinh sản ra con người. Trong cuốn từ
điển xã hội học của G.Endweeit và G. Trommsdorff, các tác giả đưa ra định
nghĩa gia đình như sau: Gia đình là một nhóm thuộc loại đặc biệt vì nó biểu
hiện một cấu trúc vai trị nhất định (bố, mẹ, con gái, con trai, cháu, em,…),
với nó thì sự tách biệt về giới tính và thế hệ là tiêu chí của cơ cấu gia đình
(bằng một hay đa thế hệ, nam, nữ) và qua nó sẽ chuyển hóa một quan hệ hợp
tác và đồn kết rất đặc biệt mà ở tất cả các xã hội đều tổ chức theo nghi lễ sự
thành lập của nó [80, tr.27]. Ngồi ra, xã hội cũng trao cho nhóm xã hội này


14
những chức năng rất đặc biệt. Theo định nghĩa này, gia đình được xác định là
một nhóm có cấu trúc và đảm nhận chức năng trong xã hội.
Khái niệm về gia đình mang tính pháp lý ở Việt Nam được ghi trong
Luật Hơn nhân và gia đình, năm 2000 (điều 8): “Gia đình là một tập hợp
những người gắn bó với nhau theo hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do
quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền lợi giữa họ với
nhau theo quy định của luật này” [49, tr.12].
Bên cạnh sự quy định của pháp luật, trong cuộc sống gia đình duy trì
phương thức ứng xử, tình nghĩa giữa vợ chồng, cha me, con cái lịng biết ơn, sự
quan tâm chăm sóc người già, trẻ em, sự hy sinh vì người thân của gia đình.
Gia đình là một cộng đồng người mang tính huyết thống (thân tộc) khác

với cộng đồng làng xã, (phường bản) mang tính địa lý hành chính. Gia đình
cũng khác với cộng đồng người (mang đặc trưng chung về nguồn gốc xuất
hiện…). Nó cũng khác cộng đồng dân tộc hình thành trên quan hệ chính trị,
kinh tế, xã hội.
Như vậy, có nhiều định nghĩa về gia đình với các cách tiếp cận khác
nhau. Dưới góc độ văn hóa học, khái niệm gia đình trong luận văn chỉ một
cộng đồng người (nhóm xã hội) có quan hệ mật thiết với nhau trong sinh hoạt
vật chất và tinh thần mang tính đặc thù dựa trên quan hệ hôn nhân và huyết
thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục giữa các thành viên, các quan hệ pháp
lý hay luật tục khác.
Định nghĩa này đã nêu bật được đặc trưng quan trọng và chức năng của
gia đình trong việc sinh sản, giáo dục con người. Đồng thời nhấn mạnh vai trị
của việc xã hội hóa con người, biến con người tự nhiên thành con người xã hội.,
duy trì sự sống và chuyển giao các giá trị văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác
qua những giá trị chuẩn mực trong quan hệ ứng xử cơ bản của gia đình.
1.1.1.3. Quan niệm về văn hóa gia đình
Văn hóa gia đình là một nội dung quan trọng trong lĩnh vực nghiên cứu
về gia đình. Nghiên cứu văn hóa gia đình giúp chúng ta có cơ sở khoa học để
hiểu đúng đắn bản chất và truyền thống của gia đình Việt Nam, trên cơ sở đó,


15
xác định những giải pháp để phát huy vai trò to lớn của gia đình trong sự phát
triển chung của xã hội. Tuy nhiên, cho đến nay, các cơng trình nghiên cứu về
văn hóa gia đình “Chưa đưa ra được một định nghĩa đầy đủ và một cách giải
thích thuyết phục về khái niệm văn hóa gia đình. Điều này đã gây ra khó khăn
cho việc xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu của văn hóa gia đình” [80,
tr.47]. Một số nhà nghiên cứu định nghĩa văn hóa gia đình bằng việc liệt kê
các yếu tố được coi là thuộc về văn hóa gia đình, một số tác giả khác xác định
văn hóa gia đình là các giá trị, chuẩn mực tốt đẹp của đời sống gia đình mà

mỗi thành viên trong gia đình phải chấp nhận tuân theo.
Nếu coi văn hóa là gồm tất cả những gì làm cho cộng đồng này phân
biệt với cộng đồng khác, thì văn hóa gia đình, một bộ phận của văn hóa nói
chung cũng “bao gồm tất cả những gì làm cho gia đình của một cộng đồng, xã
hội này, dân tộc này, khu vực này khác với gia đình của các cộng đồng, xã
hội, dân tộc, khu vực khác” [80, tr.52]. Nghiên cứu văn hóa gia đình là tìm
hiểu những dấu ấn để lại trong đời sống vật chất, tinh thần của gia đình được
biểu hiện thơng qua các mối quan hệ, cấu trúc, chức năng, sinh hoạt, đời sống
tâm linh… của gia đình. Đó là những dấu ấn “được duy trì qua lịch sử, trở
thành truyền thống, ăn sâu vào tiềm thức, tâm lý, chi phối hành vi, cách ứng
xử giữa các thành viên trong gia đình, giữa gia đình với xã hội, tiếp nối từ thế
hệ này sang thế hệ khác. Những dấu ấn để lại trong đời sống gia đình ở các
cộng đồng, quốc gia, dân tộc khơng giống nhau, tạo nên tính đa dạng của văn
hóa gia đình” [80, tr.53]. Xuất phát từ quan niệm như vậy, tác giả Lê Ngọc
Văn đưa ra định nghĩa về văn hóa gia đình:
Văn hóa gia đình là hệ thống các giá trị, chuẩn mực khu biệt đặc thù
điều tiết mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và mối quan
hệ giữa gia đình và xã hội, phản ánh bản chất của các hình thái gia
đình đặc trưng cho cộng đồng các tộc người, các dân tộc và các khu
vực khác nhau được hình thành và phát triển qua lịch sử lâu dài của
đời sống gia đình, gắn liền với những điều kiện phát triển kinh tế,
môi trường tự nhiên và xã hội [80, tr.54].


16
Theo tác giả Lê Ngọc Văn, các thành tố của văn hóa gia đình khơng tồn
tại một cách cơ lập mà liên kết với nhau tạo thành một hệ thống thực hiện các
chức năng của văn hóa gia đình, cùng với sự biến đổi của xã hội, văn hóa gia
đình cũng có những biến đổi mạnh mẽ, từ sự thay đổi của mỗi chức năng cũng
như vị trí, mối quan hệ của các chức năng trong hệ thống văn hóa gia đình.

Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Hạnh cho rằng, văn hóa con người bắt đầu từ
chính văn hóa gia đình. Văn hóa gia đình khơng phải là một cái gì trừu tượng,
chung chung mà được thể hiện cụ thể, sinh động trong nếp sống, sinh hoạt,
suy nghĩ, tình cảm của mỗi người và mỗi thành viên trong gia đình. Văn hóa
gia đình chính là gia phong của gia đình đó, bao gồm gia giáo (nền giáo dục
theo truyền thống gia đình); gia lễ (nghi lễ truyền thống hay tập tục riêng
trong cung cách ăn nói, ứng xử); gia huấn (truyền dạy cho con cháu những
điều hay lẽ phải phù hợp với gia đình và đạo lý của xã hội); gia phả (để biết
công đức của tổ tiên); gia đạo (đạo lý của gia tộc); gia pháp (nguyên tắc, quy tắc
của gia đình); gia thanh (tiếng thơm của gia đình); gia thế (thế lực của gia đình).
Với tư cách là văn hóa của một nhóm xã hội, văn hóa gia đình và văn hóa xã hội
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, biến đổi cùng với văn hóa xã hội.
Xuất phát từ quan niệm cho rằng, gia đình là một thiết chế văn hóa - xã
hội đặc biệt, bao trùm trong tồn bộ cuộc sống gia đình là sự chi phối của hệ
thống giá trị văn hóa, các chuẩn mực đạo đức của cộng đồng xã hội đối với
nhận thức, thái độ, hành vi của các thành viên trong gia đình khi giải quyết
các mối quan hệ trong và ngồi gia đình theo hướng Chân - Thiện - Mỹ, tác
giả Hồng Hồng Hạnh đưa ra định nghĩa “Văn hóa gia đình là hệ thống giá trị
văn hóa được tích hợp từ các giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại của một
dân tộc, thể hiện nhận thức, thái độ, hành vi của các thành viên trong việc
thực hiện các chức năng của gia đình và ứng xử trong các mối quan hệ cá
nhân - gia đình - xã hội, nhằm xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ và
hạnh phúc” [71, tr.479]. Văn hóa gia đình có vai trò hết sức quan trọng đối
với sự phát triển của cá nhân, gia đình và xã hội. Sức mạnh nội sinh của hệ
thống giá trị văn hóa gia đình “sẽ quy định thái độ, tình cảm, cách thức ứng


17
xử, tổ chức cuộc sống tích cực giữa các thành viên trong gia đình và mối quan
hệ của gia đình với xã hội” [71, tr.479].

Từ những trình bày trên đây về văn hóa gia đình, trong luận văn này,
văn hóa gia đình được quan niệm như sau:
Văn hóa gia đình là dạng đặc thù của văn hóa cộng đồng bao gồm
tổng thể sống động các hoạt động sống của gia đình mang đặc trưng
văn hóa bị chi phối bởi các giá trị, chuẩn mực, truyền thống, thị hiếu
của một cộng đồng mà các thành viên trong gia đình đã chọn lựa và
ứng xử với nhau trong gia đình và ngồi xã hội [24, tr.33].
1.1.2. Cấu trúc văn hóa gia đình
Từ các cách tiếp cận khác nhau về văn hóa gia đình nên việc phân chia
cấu trúc văn hóa gia đình cũng đa dạng. Quan niệm văn hóa gia đình là hệ
thống các giá trị, các tác giả của đề tài cấp Nhà nước Văn hóa gia đình thuộc
chương trình KX06, do PGS,TS Lê Minh làm chủ nhiệm, xác định cấu trúc
văn hóa gia đình gồm ba yếu tố: các giá trị cấu trúc, các giá trị chức năng và
các giá trị tâm linh. Cũng ở cách tiếp cận này, nhóm nghiên cứu đề tài cấp Bộ
Bạo lực gia đình dưới góc độ tiếp cận văn hóa học, chia văn hóa gia đình
thành những nhóm giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại: nhóm giá trị văn
hóa tâm linh, nhóm giá trị tình cảm - đạo đức, nhóm giá trị xã hội - công dân.
Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Hạnh chia giá trị văn hóa gia đình thành hai loại: thứ
nhất là các giá trị văn hóa gia đình gắn với đời sống hiện hữu, với các quan hệ
hiện hữu của gia đình và các thành viên của nó. Tiêu biểu như cấu trúc gia
đình, kiến trúc nhà ở… Thứ hai là các giá trị về mặt tâm linh, những giá trị
bền vững và có thể xem là hằng số của văn hóa gia đình, hạt nhân của văn hóa
gia đình.
Luận văn nghiên cứu văn hóa gia đình dưới góc độ văn hóa của một
nhóm xã hội là gia đình, tập hợp những người có quan hệ mật thiết với nhau
trong cả đời sống vật chất, tinh thần và các quan hệ đặc thù khác theo hôn
nhân và huyết thống. Do đó, cấu trúc văn hóa gia đình được lựa chọn, là cơ sở
để khảo sát thực trạng văn hóa gia đình ở thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng



18
được xác định bởi ba yếu tố: văn hóa sản sinh và ni dạy con người, văn hóa
vật chất và tiêu dùng các sản phẩm vật chất, văn hóa tinh thần và hưởng thụ
các sản phẩm tinh thần.
Văn hóa sản sinh và nuôi dạy con người
Việc sinh đẻ, tái sản xuất ra thế hệ tương lai một mặt để đáp ứng nhu
cầu của xã hội. Mặt khác, đáp ứng nhu cầu của chính những thành viên trong
gia đình, đặc biệt là những người đóng vai trị làm cha, làm mẹ. Con cái là tài
sản vô giá mà mỗi một cặp vợ chồng khi kết hơn có được. Mong muốn thiên
chức được làm cha, làm mẹ là điều tất yếu và thiêng liêng cao cả của các gia
đình. Niềm vui, hạnh phúc của người làm cha, làm mẹ là được chăm sóc, ni
dạy, dưỡng dục con cái. Vì vậy, khi tái sản xuất ra thế hệ tương lai, sinh con
dù trai hay gái đều rất thiêng liêng cao cả trong mỗi gia đình.
Để đáp ứng nhu cầu dạy dỗ con cái, các gia đình đã “tích lũy một loạt
những tri thức, kinh nghiệm, cách thức, thái độ và các thể chế cho việc sinh
nở, nuôi dạy con người”. Từ những hiểu biết về quan hệ tính giao hay quan hệ
tình dục đến việc chăm sóc giáo dục thai nhi (thai giáo) ở trong bụng mẹ đến
lúc trưởng thành, từ lúc một sinh thể người được sinh ra cho tới lúc trưởng
thành. Những tri thức đó được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác
thơng qua vai trị của giáo dục gia đình. Do vậy, giáo dục trong gia đình là
một yếu tố quan trọng của văn hóa gia đình. Bài học đầu tiên của con người là
trong gia đình, nơi diễn ra q trình nhập thân văn hóa của con người từ tuổi
thơ ấu. Giáo dục trong gia đình diễn ra liên tục trong cuộc đời con người. Đó
là sự tác động một cách “kiên trì, thường xuyên, tổng thể và sâu sắc của gia
đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách mỗi con người” [71,
tr.358]. Giáo dục gia đình chủ yếu được thực hiện bằng tình cảm, vừa tồn
diện, vừa cụ thể và mang tính cá biệt cao.
Giáo dục gia đình được thực hiện thơng qua cách thức tổ chức đời sống
gia đình, quá trình tổ chức các hoạt động của các thành viên, dựa trên nền
tảng căn bản là sự gương mẫu, sự nêu gương của các bậc cha mẹ. Nguyên tắc

của giáo dục trong gia đình là tơn trọng nhân cách, cá tính và phẩm chất riêng


19
của mỗi thành viên. Nội dung giáo dục gia đình rất phong phú, bao gồm: hành
vi đạo đức, tri thức căn bản; thái độ, kỹ năng sống và lao động, thể chất và
thẩm mỹ. Trong đó, kỹ năng sống là một nội dung mới và đặc biệt quan trọng
của giáo dục gia đình trong xã hội hiện đại. Mục tiêu của giáo dục gia đình là
tạo ra những con người hiếu thảo, có đạo đức trong sáng, có lối sống lành
mạnh, có trách nhiệm với gia đình và xã hội.
Văn hóa vật chất và tiêu dùng các sản phẩm vật chất
Để đáp ứng nhu cầu vật chất, gia đình và các thành viên của nó phải
tiến hành sản xuất ra các sản phẩm vật chất cho những sinh hoạt hàng ngày về
ăn, mặc, ở, đi lại và các phương thức sử dụng. Những sản phẩm ấy và các
phương thức sử dụng nói lên trình độ chiếm lĩnh, khai thác các vật thể trong
tự nhiên, trình độ phát triển lực lượng bản chất của con người trong lĩnh vực sản
xuất và đời sống vật chất. Từ những kinh nghiệm hiểu biết, kỹ năng, bí quyết
trong sản xuất sản phẩm tiêu dùng đến cách thức, kỹ thuật công nghệ chế tác
công cụ sản xuất, các phương tiện sử dụng… từ cách tiêu dùng, phân phối,
hưởng thụ, trao đổi, dâng biếu các sản phẩm vật chất đến thể chế phân chia tài
sản, thừa kế gia sản đã tạo nên văn hóa vật chất của gia đình.
Văn hóa tinh thần và hưởng thụ các giá trị tinh thần
Bên cạnh những biểu hiện, kinh nghiệm, cách thức ứng xử trong văn
hóa sản sinh, ni dạy con người, văn hóa sản xuất và tiêu dùng vật chất của
gia đình là tồn bộ giá trị đạo đức, tín ngưỡng tâm linh, phong tục, tập quán,
thị hiếu thẩm mỹ và cả những bí quyết nghề nghiệp truyền thống… là phương
diện văn hóa tinh thần của gia đình. Chúng được đúc kết lại thành hệ giá trị,
chuẩn mực, khuôn mẫu văn hóa của gia đình mà trong gia đình truyền thống
gọi là gia phong. Hệ giá trị văn hóa gia đình là yếu tố cốt lõi làm nên đặc
điểm riêng của mỗi loại hình gia đình và có sức mạnh chi phối đời sống tâm

lý, tâm linh, hành vi ứng xử của các thành viên trong gia đình, trong đó nổi
bật là mối quan hệ giữa bố mẹ và con cái.
Quan hệ giữa cha mẹ và con cái bao gồm hai chuẩn mực cơ bản đó là
Từ và Hiếu. Từ địi hỏi và thể hiện tình thương, trách nhiệm với con cái. Tình


20
thương và trách nhiệm của cha mẹ với con cái được hình thành trong lịng sâu
của sinh hoạt gia đình của nền văn hóa truyền thống dân tộc. Trong đời sống
thường nhật, tình thương ấy được thể hiện ở sự quan tâm chăm sóc cho đời
sống tinh thần và vật chất, cho tương lai của những đứa con. Nuôi con khỏe,
dạy con ngoan khôn lớn, trưởng thành, nhân cách ứng xử trong quan hệ cha
mẹ, anh em, họ hàng và cộng đồng xã hội, dựng vợ, gả chồng và cố gắng chắt
chiu, dành dụm cho con một chút sản nghiệp vừa là trách nhiệm và vừa là
niềm vui của cha mẹ. Tình thương u và trách nhiệm đó tạo nên công nghĩa
sinh thành dưỡng dục của cha mẹ mà ca dao đã nói:
Cơng cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lịng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
Con cái yêu quý, kính trọng, biết ơn và hiếu thảo với cha mẹ là chuẩn
mực và trách nhiệm của những người con trong gia đình. Đã có nhiều tấm
gương hiếu thảo với gia đình, ơng bà, cha mẹ được thể hiện qua hành động
chăm chỉ học tập làm làm việc, rèn đức luyện tài.
1.1.3. Vai trị của văn hóa gia đình
1.1.3.1. Truyền tải văn hóa từ thế hệ trước đến thế hệ sau
Gia đình là nơi bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống Việt Nam trong thời kỳ đất nước đổi mới và hội nhập.
Gia đình có vai trị rất lớn trong việc hình thành và phát triển của xã
hội, góp phần xây dựng, tơ thắm, làm rạng rỡ thêm bản sắc văn hoá dân tộc;

là nơi duy trì nịi giống, là mơi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và
giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt
đẹp, chống lại tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc muốn tồn tại và phát triển đều
phải biết chăm sóc và bảo vệ gia đình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trị của gia đình trong xã hội:
“Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã


21
hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì muốn
xây dựng chủ nghĩa xã hội phải chú ý hạt nhân cho tốt” [42, tr.523].
Gia đình là tế bào của xã hội, cấu thành cộng đồng xã hội, là nền tảng
của sự cấu kết cộng đồng. Chính vì vậy mà khi gia đình có nguy cơ sụp đổ thì
xã hội khơng tránh khỏi chao đảo, kỷ cương xã hội trở nên yếu kém, chuẩn
mực xã hội, giá trị đạo đức bị đảo lộn. Cho nên Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn
mạnh xã hội tốt thì gia đình càng tốt và ngược lại gia đình tốt thì xã hội mới
tốt. Thơng qua sự giữ gìn, giáo dục các giá trị truyền thống, văn hóa gia đình
đã thực hiện chức năng giữ gìn văn hóa truyền thống dân tộc.
Các giá trị truyền thống văn hóa gia đình cũng như truyền thống văn
hóa của dân tộc được các gia đình quan tâm giáo dục con cháu. Đó là việc
giáo dục lịng u nước và ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đồn kết, lịng
dũng cảm, kiên cường, lòng nhân ái thủy chung, việc truyền dạy đức tính cần
cù chịu khó, tinh thần lạc quan và ý chí phấn đấu vươn lên trong cuộc sống,
giáo dục lịng hiếu thảo, biết ơn ơng bà, tơn kính tổ tiên, tinh thần học tập,
ham hiểu biết, nâng cao tri thức, kinh nghiệm, đạo đức, lối sống, thẩm mỹ cho
con cái và tinh thần tôn sư, trọng đạo, thông qua lễ tết và thờ cúng tổ tiên;
thông qua các quan hệ ứng xử giữa các thành viên trong gia đình và giữa các
gia đình với nhau; thơng qua việc giữ gìn nền văn hóa nghệ thuật truyền thống
của dân tộc và giữ gìn các di sản văn hóa…những giá trị ấy được truyền thụ

và giáo dục cho các thế hệ con cháu từ khi mới sinh ra cho đến lúc trưởng
thành, từ đời này sang đời khác.
1.1.3.2. Duy trì sự cân bằng của đời sống gia đình
Ở nước ta hiện nay, đang thực hiện đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH và
hội nhập kinh tế quốc tế trong xu hướng toàn cầu hóa. Sự giao lưu, mở cửa hội
nhập đã đem đến cho gia đình Việt Nam nhiều cơ hội phát triển kinh tế, giao lưu
hội nhập với các nền văn hóa tiến tiến của các nước trên thế giới. Song, bên cạnh
những mặt tích cực đó, mặt trái của cơ chế thị trường cũng nẩy sinh nhiều vấn đề
tác động đến đời sống gia đình Việt Nam đang đứng trước những thử thách sóng


22
gió. Chính vì vậy, cơ sở của sự cần bằng trong đời sống gia đình có được chính
là ở việc lựa chọn các giá trị văn hóa truyền thống của gia đình. Bên cạnh đó,
cịn phải biết tiếp thu những tinh hoa của giá trị mới, hợp với thời đại là yếu tố
cần thiết để vận dụng cụ thể trong các quan hệ ứng xử cơ bản của gia đình để
duy trì sự tồn tại, cân bằng bền vững của đời sống gia đình.
1.1.3.3. Hình thành các giá trị văn hóa mới
Gia đình chính là mơi trường tạo nên nhân cách con người ngay từ thuở
ấu thơ, là nơi chắp cánh cho chúng ta vào đời. Gia đình là tế bào của xã hội, là
hạt nhân cơ bản của sự phát triển xã hội, là nơi gắn kết tình cảm của mọi thế
hệ con người với nhau.
Điều đó đã được khẳng định qua mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và
giữ nước của dân tộc. Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, với xu hướng hòa nhập
với cộng đồng quốc tế, chúng ta vẫn đang giữ gìn và phát huy những nét đặc
trưng cơ bản về bản sắc văn hóa dân tộc, đặc biệt vấn đề gia đình vẫn phải
được nhìn nhận, xem xét dưới góc độ văn hóa, và là nền tảng chủ yếu để hình
thành nhân cách văn hóa con người từ thuở ban đầu.
Mỗi con người, ai cũng được sinh ra và lớn lên nơi mái ấm gia đình,
những năm tháng của tuổi thơ đã đi qua để lại những ký ức tốt đẹp về một tổ

ấm gia đình, về hình ảnh của những người thân yêu trong gia đình. Và chính
những tháng năm của thời thơ ấu đó có một ý nghĩa quyết định trong bước
đường hình thành nhân cách, lối sống, tư tưởng, văn hóa… của mỗi cá nhân
trước những tác động và ảnh hưởng sâu sắc của mơi trường văn hóa, xã hội và
tất cả cộng đồng.
Chính vì vậy, gia đình hơm nay phải là một môi trường tái sản xuất ra
những con người mới phát triển tồn diện, có tri thức, có lương tâm, đạo đức,
sống có đạo lý, biết kết hợp hài hịa giữa lợi ích cộng đồng và lợi ích cá nhân
nhằm thỏa mãn chung mọi nhu cầu về tâm lý, tinh thần, tình cảm và vật chất
của mỗi thành viên trong gia đình. Giáo dục con cái từ thuở ấu thơ là chắp đôi
cánh cho các cháu vào đời với niềm vui sáng tạo, cảm nhận được vai trò làm
chủ của mình trong việc chiếm lĩnh tri thức và có đầy đủ ý thức trách nhiệm


23
đối với gia đình, đất nước đang bước vào thiên niên kỷ mới. Đó chính là
những nền tảng quan trọng để trên cơ sở đó, các cá nhân sáng tạo và cống
hiến những giá trị văn hóa mới cho xã hội, tạo nên sự phát triển của xã hội.
1.2. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THÀNH PHỐ BẢO LỘC, TỈNH LÂM ĐỒNG

1.2.1. Điều kiện địa lý, tự nhiên
Bảo Lộc là một thị xã trực thuộc tỉnh Lâm Đồng, được thành lập năm
1994 trên cơ sở tách huyện Bảo Lộc cũ thành hai đơn vị mới là thị xã Bảo Lộc
và huyện Bảo Lâm. Bảo Lộc nằm trên tuyến quốc lộ 20, cách Thành phố Đà
Lạt khoảng 110 km, cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 190 km, cách
thành phố Phan Thiết (Bình Thuận) khoảng 100 km. Tháng 3-2009, Bảo Lộc
được công nhận là đô thị loại III thuộc tỉnh và ngày 8-4-2010, Chính phủ đã
ra Nghị quyết thành lập thành phố Bảo Lộc (trực thuộc tỉnh Lâm Đồng). Bảo
Lộc có diện tích 23.256 ha, chiếm 2,38% diện tích tồn tỉnh Lâm Đồng. Phía
đơng, phía nam và phía bắc giáp với huyện Bảo Lâm. Phía tây giáp với huyện

ĐạHuoai. Địa bàn huyện này thuộc Vườn quốc gia Cát Tiên đã được
UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Thành phố Bảo Lộc
nằm trên cao nguyên Bảo Lộc-Di Linh, địa hình có sự phân hố thành 3 dạng
địa hình chính là núi cao, đồi dốc và thung lũng:
Núi cao ở khu vực Tây Nam (900-1.100m) chiếm 11% diện tích tồn
thành phố, khoảng 2.500 ha.
Đồi dốc với các ngọn đồi và dải đồi dốc có đỉnh tương đối bằng phẳng
(800-850m), độ dốc sườn đồi lớn, chiếm 79,8% diện tích tồn thành phố, là
địa bàn sản xuất cây công nghiệp dài ngày như chè, cà phê, dâu tằm.
Thung lũng tập trung ở Lộc Châu và Đại Lào, chiếm 9,2% diện tích
tồn thành phố. Đây là địa hình thấp, bằng phẳng, thích hợp phát triển cà phê
và chè, cũng có thể trồng cây dâu và cây ngắn ngày.
Thành phố Bảo Lộc được xây dựng trên các ngọn đồi tương đối bằng
phẳng có độ cao trung bình 850m, địa hình dốc từ Bắc xuống Nam, từ Đông
sang Tây. So với các đô thị miền núi, Bảo Lộc có địa hình xây dựng lý tưởng,
đẹp về cảnh quan thiên nhiên, thuận lợi về xây dựng và phát triển du lịch.


24
Bảo Lộc có khí hậu thuận lợi nhất trong vùng cao nguyên, quanh năm
mát mẻ. Khí hậu theo chế độ nhiệt đới gió mùa nhưng biến thiên theo độ cao
và hình thể địa hình. Với những điều kiện địa lý, tự nhiên như vậy, Bảo Lộc là
vùng đất phù hợp để chuyên canh trà, cà phê, dâu tằm, chăn nuôi gia súc và
phát triển các ngành công nghiệp chế biến bao gồm các ngành chế biến trà, cà
phê, se tơ, dệt, may mặc...
Thành phố Bảo Lộc có 11 đơn vị hành chính gồm 6 phường, 5 xã.
1.2.2. Điều kiện kinh tế, xã hội
Với chức năng là vùng kinh tế trọng điểm phía nam tỉnh Lâm Đồng,
đồng thời là trung tâm công nghiệp của cả tỉnh, trong những năm qua, kinh tế
thành phố Bảo Lộc luôn tăng trưởng ở mức cao, cơ cấu kinh tế trên địa bàn

thành phố được chuyển dịch tích cực phù hợp với tính chất kinh tế đô thị theo
hướng: tăng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng, giảm tỷ trọng nông lâm nghiệp.
Với thế mạnh là các ngành công nghiệp chế biến nông sản, dệt may, tơ tằm,
công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác, chế biến khống sản và các
ngành cơng nghiệp hỗ trợ, phụ trợ…, với hàng trăm doanh nghiệp lớn, nhỏ đã có
những đóng góp đáng kể trong sự phát triển kinh tế của Bảo Lộc. Các khu, cụm
công nghiệp đã hình thành và đi vào hoạt động ổn định như: Khu công nghiệp
Lộc Sơn, cụm Công nghiệp - dịch vụ Lộc Phát, cụm công nghiệp Đại Lào…
Thương mại - Dịch vụ - Du lịch trong những năm gần đây tăng trưởng ổn
định, hệ thống trung tâm thượng mại, siêu thị, chợ trung tâm, chợ khu dân cư,
nhà hàng… được quan tâm đầu tư xây mới và nâng cấp như chợ trung tâm
thành phố, Siêu thị Coop Mart,….; hệ thống cơ sở lưu trú phát triển mạnh với
52 khách sạn, nhà nghỉ, các dịch vụ: tài chính, ngân hàng, bưu chính viễn
thơng, dịch vụ kiểm hóa, kiểm định... ngày càng phát triển theo hướng hiện
đại. Trên địa bàn thành phố có hầu hết chi nhánh các ngân hàng lớn như Ngân
hàng Nông nghiệp phát triển nông thôn, Ngân hàng Đầu tư phát triển BIDV,
Ngân hàng Công thương (ViettinBank), Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài
Gịn Thương tín (Sacombank), Ngân hàng Sài Gòn - Hà Nội (SHB), Ngân


25
hàng Á Châu (ACB)….với cơ sở vật chất khang trang cùng với hệ thống các
Quỹ tín dụng nhân dân trên địa bàn các phường xã, hoạt động kinh doanh đạt
hiệu quả cao, góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng chung của thành phố.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, phát huy thế mạnh của các loại cây công nghiệp
lâu năm trên địa bàn thành phố như trà, cà phê, dâu tằm với diện tích trà 7.756
ha, cà phê hơn 8000 ha, dâu tằm 160 ha, sản lượng trà, cà phê tăng hàng năm.
Trong đó sản lượng chè tươi bình qn hàng năm đạt trên 75.000 tấn, sản
lượng chè chế biến đạt 17.000 tấn/ năm; Thành phố tập trung thực hiện các
mô hình ứng dụng nơng nghiệp cơng nghệ cao, nâng cao hiệu quả sản xuất

nông nghiệp; Kinh tế trang trại phát triển, có trọng tâm, quy hoạch cụ thể theo
thế mạnh của địa phương. Đến nay, thành phố Bảo Lộc có gần 100 trang trại,
bao gồm trang trại chăn nuôi và trang trại trồng trọt phát triển theo hướng quy
mô, tập trung, đảm bảo cung ứng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến [76].
Các hoạt động y tế, khoa học công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, văn
hóa - thơng tin, thể dục thể thao… có nhiều chuyển biến tiến bộ. Tồn thành
phố hiện có 74 cơ sở giáo dục từ hệ mầm non đến cao đẳng, tỷ lệ kiên cố hóa
trường lớp đạt 82%. Thành phố đang tập trung triển khai các dự án xây dựng
phân hiệu Đại học Tôn Đức Thắng, trường PTTH chuyên Bảo Lộc, góp phần
đào tạo nguồn nhân lực cho thành phố và khu vực [76].
Ngành y tế thực hiện tốt các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế,
dân số, truyền thông sức khỏe cộng đồng, chăm sóc sức khỏe sinh sản; tỷ lệ
tăng dân số tự nhiên giảm còn 12,1%, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn 12,5
%, tỷ lệ dân số đô thị sử dụng nước sạch trên 88%.Trên địa bàn thành phố có
2 bệnh viện cấp tỉnh, 2 phịng khám khu vực và có 11 trạm y tế phường, xã,
Thành phố đang tập trung triển khai dự án xây dựng mới Bệnh viện II Lâm
Đồng. Nhìn chung, các cơng trình y tế tương đối đầy đủ về lực lượng, trang
thiết bị, đã đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho
nhân dân thành phố và các địa phương trong khu vực phía Nam của tỉnh [75].
Cơng tác thông tin tuyên truyền gắn với các sự kiện chính trị, văn hóa
quan trọng và thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của thành phố được triển


×