Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Gia đình ở thành phố Hà Nội thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.06 MB, 126 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ





TRẦN THỊ YẾN





GIA ĐÌNH Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY








LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

















HÀ NỘI - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ




TRẦN THỊ YẾN






GIA ĐÌNH Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY


Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

Mã số : 60 22 85




LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC





Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. ĐỖ THỊ THẠCH








HÀ NỘI - 2012

MỤC LỤC
1
Chương 1.
QUỐC TẾ 9
1.1. Quan niệm về gia đình và vai trò của gia đình đối với sự phát triển cá nhân và xã hội 9
1.1.1. Quan niệm chung về gia đình 9
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng
Cộng sản Việt Nam về vai trò của gia đình đối với sự phát triển cá nhân và xã

hội 12
1.2. Thành phố Hà Nội và đặc điểm của gia đình Thành phố Hà Nội 20
1.2.1. Một vài nét về Thành phố Hà Nội 20
1.2.2. Đặc điểm của gia đình Thành phố Hà Nội 32
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG GIA ĐÌNH THÀN
NHẬP QUỐC TẾ 51
2.1.
51
2.1.1. Thực trạng của gia đình Thành phố Hà Nội 51
2.1.2. Một số vấn đề đặt ra đối với gia đình Thành phố Hà Nội trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế 78
2.2. Giải pháp xây dựng gia đình Thành phố Hà Nội thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế 87
2.2.1. Xác định những nội dung trọng tâm xây dựng gia đình Thành phố Hà Nội thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế 87
2.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức về vị trí của gia đình đối với sự phát triển
cá nhân và xã hội 91
2.2.3.
cho người dân 93
2.2.4.
96
2.2.5. Nhóm
98
2.2.6. Nhóm giải pháp xây dựng gia đình theo tiêu chí gia đình văn hóa của Thành
phố 102
KẾT LUẬN 106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 108
DANH MỤC MỘT SỐ BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN
VĂN 114
PHỤ LỤC 115



NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNTB: Chủ nghĩa tư bản
TBCN: Tư bản chủ nghĩa
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
UBND: Ủy ban nhân dân
TDTT: Thể dục thể thao

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Gia đình là tế bào của xã hội, nơi con người được sinh ra và lớn lên, là
điểm tựa cội nguồn của tình cảm, là cái nôi của sự bình yên và là môi trường
đầu tiên của mỗi cá nhân, nơi mỗi con người được chăm lo cả về thể chất, trí
tuệ, đạo đức và nhân cách để hội nhập vào cuộc sống cộng đồng, xã hội.
Gần đây, gia đình không chỉ nổi lên như một vấn đề quan trọng và cấp
thiết của riêng Việt Nam mà còn đối với các dân tộc trên toàn thế giới [21,
tr.13]. Nhiều nước trên thế giới sau quá trình thực hiện CNH, HĐH, đã trở
thành những cường quốc về kinh tế, song chưa thấy hết được tầm quan trọng
của vị trí, vai trò, chức năng của gia đình nên đã phải trả giá đắt cho sự đổ vỡ,
quan hệ giữa con người với con người trở nên lạnh nhạt, lòng nhân ái bị xem
nhẹ, sự thiếu thốn về tình cảm, sự cô đơn tẻ nhạt trong cuộc đời có xu hướng
gia tăng. Nhiều nước trên thế giới đang muốn quay lại tìm kiếm những giá trị
nhân văn vốn có của gia đình

Ở Việt Nam, sau nhiều năm tiến hành chiến tranh giải phóng và hơn 25
năm thực hiện công cuộc đổi mới, đại đa số gia đình đã được hưởng những
thành tựu to lớn của phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, nhờ đó mối quan
hệ giữa các thành viên trở nên dân chủ cởi mở và bình đẳng, mỗi thành viên
trong gia đình được tôn trọng và bảo vệ. Việc phát huy những giá trị truyền
thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, thích ứng với những đòi hỏi của quá
trình CNH, HĐH được Đảng ta chỉ rõ: Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng,
tiến bộ và hạnh phúc làm cho gia đình thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội
là tổ ấm của mỗi người. Phát huy trách nhiệm của gia đình trong việc lưu
truyền những giá trị văn hóa dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác [9, tr.112].
Tuy nhiên, trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, gia đình ở
nước ta đang phải đối mặt với nhiều thách thức. Việc thực hiện các chức năng

2
chưa được cân đối, đề cao, xem nhẹ chức năng này hay chức năng khác, do
vậy gia đình Việt Nam đang đứng trước sự gia tăng của tình trạng bạo lực, ly
hôn, giá trị truyền thống xuống cấp, mối quan hệ gia đình lỏng lẻo ảnh hưởng
trực tiếp đến độ bền vững của gia đình và xã hội.
Là Thủ đô và trung tâm chính trị, văn hóa của cả nước, Hà Nội đang trên
đà phát triển mạnh mẽ. Trong những năm thực hiện CNH, HĐH và hội nhập
quốc tế Hà Nội đã có nhiều đổi mới trên hầu hết các mặt của đời sống kinh tế,
văn hóa, xã hội. Đời sống của các gia đình được nâng cao nhiều mặt, song cũng
trong bối cảnh đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập quốc tế Hà Nội cũng gặp nhiều
khó khăn trong việc xây dựng gia đình văn hóa mới. Tỷ lệ ly hôn, tỷ lệ trẻ em
hư, bạo lực ở gia đình Hà Nội gia tăng, thuần phong mỹ tục của đất Tràng An
đang đứng trước những thách thức của cơ chế thị trường, lối sống pha tạp…
gây cản trở lớn tới việc xây dựng gia đình văn hóa, ảnh hưởng đến sự phát triển
kinh tế - xã hội ở Thành phố Hà Nội và của cả đất nước. Việc nghiên cứu thực
trạng gia đình ở Thành phố Hà Nội, từ đó đề xuất giải pháp để xây dựng gia
đình văn hóa của Thủ Đô trở nên cấp thiết, do vậy tôi chọn đề tài “Gia đình ở

Thành phố Hà Nội thời kỳ và hội nhập quốc
tế hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp của mình nhằm góp phần nhỏ bé vào
công tác xây dựng gia đình ở Thủ đô trong bối cảnh hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Ở Việt Nam trong những năm qua đã có khá nhiều công trình, bài viết
liên quan tới chủ đề gia đình được đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau.
Gia đình truyền thống của TS. Khuất Thu Hồng (chủ biên) xuất bản
năm 1996, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. Cuốn sách cung cấp cho chúng ta
một cách nhìn khoa học về hôn nhân gia đình truyền thống của người Việt
thông qua phỏng vấn sâu các cụ ông, các cụ bà ở thành thị và nông thôn (Hà
Nội, Hà Tây), với mong gìn giữ và phát huy những nét đẹp của nó cũng như

3
thấy được những gì là không thích hợp của nó với một đời sống công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
Gia đình và phụ nữ trong biến đổi văn hóa nông thôn, do tiến sỹ
Nguyễn Linh Khiếu (chủ biên), xuất bản năm 2001. Trong cuốn sách đã làm
rõ sự biến đổi của xã hội nông thôn nói chung và người phụ nữ nông thôn nói
riêng đang đứng trước cơ hội và thách thức vô cùng lớn lao trong giai đoạn
biến đổi hiện nay.
Gia đình trong tấm gương xã hội học do Mai Quỳnh Nam (chủ biên),
xuất bản năm (2002). Trong cuốn sách là sự tập hợp những nghiên cứu của
các tác giả về gia đình trước những biến đổi xã hội trong bối cảnh của công
cuộc đổi mới và kinh tế thị trường.
Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới do GS. Lê Thi (chủ
biên) xuất bản năm 2002. Trong cuốn sách tác giả làm rõ những thay đổi về
cấu trúc, quy mô về việc thực hiện các chức năng cũng như trong quan hệ
giữa các thành viên trong gia đình.
Ly hôn nghiên cứu trường hợp Hà Nội do Nguyễn Thanh Tâm (chủ
biên) xuất bản năm 2002. Trong cuốn sách tác giả đề cập đến bức tranh ly hôn

thời mở cửa trong phạm vi cả nước và tác giả nghiên cứu nhiều trường hợp ở
Hà Nội đã ly hôn và đặc điểm, nguyên nhân ly hôn của gia đình Hà Nội. Qua
nghiên cứu nhiều trường hợp đã ly hôn ở các phường đều có trình độ học vấn
cao và có nghề nghiệp ổn định.
Mâu thuẫn vợ chồng trong gia đình và những yếu tố ảnh hưởng do TS.
Vũ Tuấn Huy (chủ biên) xuất bản năm 2003. Trong cuốn sách tác giả gợi mở
cho bạn đọc kiểm soát và giải quyết các xung đột. Xem mâu thuẫn không phải
là có ảnh hưởng tiêu cực phá vỡ hệ thống xã hội và sự tương tác của con
người, mà đúng hơn mâu thuẫn là vốn có trong tất cả các hệ thống và sự
tương tác, kể cả trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Nếu các chuẩn mực và
mục tiêu trong hôn nhân và gia đình thường nảy sinh mâu thuẫn, vấn đề là

4
không phải lảng tránh những mâu thuẫn đó mà giải quyết nó. Khi mâu thuẫn
được giải quyết, nó không còn là yếu tố phá vỡ quan hệ hoặc chỉ mang lại
những hậu quả tiêu cực, mà trái lại nó củng cố các quan hệ, tạo ra sự thay đổi
và kết quả là quan hệ trở lên có ý nghĩa hơn.
Nghiên cứu phụ nữ, giới và gia đình của Nguyễn Linh Khiếu (chủ biên)
x b năm 2003. Tác giả đã phân tích làm sáng rõ vai trò của phụ nữ cũng
như quan hệ giới trong gia đình thể hiện trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế,
tiếp cận nguồn lực, giáo dục và chăm sóc sức khỏe. Đặc biệt, tác giả nhấn
mạnh hơn đối với phụ nữ nông thôn miền núi, vị thế của họ trong gia đình
cũng như những rào cản văn hóa đang cản trở quá trình phát triển của họ.
Những kết luận mà tác giả khái quát cũng chính là những vấn đề đặt ra cho
những nhà khoa học cũng như những nhà hoạch định chính sách đối với phụ
nữ - giới và gia đình.
Gia đình Việt Nam những giá trị truyền thống và các vấn đề tâm - bệnh
lý xã hội của GS.BS Đặng Phương Kiệt (chủ biên) xuất bản năm 2007. Trong
cuốn sách nhiều bài viết đánh giá xác thực về các truyền thống quý giá của
gia đình Việt Nam, được các nhà nghiên cứu có uy tín tiếp cận dưới nhiều góc

độ lịch sử, văn hóa, giáo dục, tâm lý, mỹ học
Gia đình học của Đặng Cảnh Khanh và Lê Thị Quý, xuất bản năm
2007, nhà xuất bản Lý luận Chính trị. Trong cuốn sách này tác giả đề cập
nhiều vấn đề về gia đình giúp cho người học tập và nghiên cứu về gia đình
nhận thức được những vấn đề cơ bản nhất trong nghiên cứu và học tập về gia
đình, những luận cứ khoa học cho các giải pháp tăng cường vai trò gia đình
Việt Nam phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của nước ta hiện
nay. Trên cơ sở đó nêu nên những định hướng cơ bản cho việc xây dựng mô
hình gia đình mới kế thừa được các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và
kết hợp với việc tiếp thu những tinh hoa của nhân loại. Đồng thời các tác giả
cũng nêu lên một số kiến nghị với Đảng và Nhà nước hướng tới việc hoạch

5
định các chính sách về giải pháp đúng đắn cho vấn đề gia đình ở nước ta
trong thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
Ngoài những công trình lớn nêu trên, về chủ đề gia đình còn được
nhiều tác giả quan tâm ở mức độ hạn hẹp hơn:
Ly hôn thời hiện đại, Mai Hạ, tạp chí Văn nghệ trẻ số 21 (1997) trong
bài viết tác giả nêu lên những nguyên nhân dẫn đến ly hôn trong những năm
qua. Những thực trạng và thách thức đặt ra đối với gia đình hiện nay.
Trách nhiệm của gia đình và vai trò của Nhà nước trong việc bảo vệ,
chăm sóc, giáo dục trẻ vị thành niên, Lê Thi, Tạp chí Tâm lý học, số 5 (2002).
Trong bài viết, tác giả nêu lên ngoài việc gia đình có trách nhiệm trong việc
bảo vệ, chăm sóc, giáo dục vị thành niên, Nhà nước cũng phải thể hiện vai trò
thông qua việc đưa ra một số luật lệ, chính sách. Nhưng trong việc bảo vệ,
chăm sóc, giáo dục trẻ vị thành niên, gia đình vẫn là đơn vị cơ sở có trách
nhiệm nặng nề nhất và có khả năng nhất. Đồng thời sự phối hợp chặt chẽ giữa
gia đình với nhà nước và cộng đồng sẽ làm tăng cường sức mạnh của gia đình
và tận dụng được hậu quả tích cực của các tổ chức xã hội.
Bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam hiện nay, TS. Đỗ Thị

Thạch (2003). Tạp chí Lý luận chính trị, đã phân tích một cách sâu sắc thực
trạng bình đẳng giới trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay, đồng thời cũng
nêu ra quan điểm, giải pháp thiết thực góp phần thực hiện bình đẳng giới và
xây dựng gia đình trong thời kỳ đổi mới hiệu quả.
Quản lý nhà nước về gia đình lý luận và thực tiễn, GS.
(2010), N x b
nhà nghiên cứu và của chính tác giả viết về lĩnh vực quản lý nhà nước về gia
đình in
.

6
- Người cha bất nhân, cả nhà đau đớn, H.Vũ - M.Tiến, Báo An ninh
thế giới số 1.069 (2011), trong bài viết phóng sự, tác giả đã nêu lên vấn đề
bạo lực trong gia đình tại Thành phố Hà Nội, qua đó lên án những hành động
phản nhân văn của người cha và sự nhu nhược của người mẹ đã không bảo vệ
được đứa con gái của mình trong nhiều năm qua. Qua bài viết tác giả cũng
mong muốn mọi người chung tay giúp đỡ những nạn nhân của bạo lực gia
đình để các em và gia đình có cuộc sống tốt đẹp. Đó là trách nhiệm của tất cả
mọi người.
Tác động của toàn cầu hóa đối với việc thực hiện bình đẳng giới ở Việt
Nam hiện nay, PGS. TS. Đỗ Thị Thạch (2010).
. Từ đó, đưa ra những
giải pháp chủ yếu để phát huy sự tác động tích cực, hạn chế sự tác động tiêu
cực nh .
, PGS. TS. (2011),
nhận thức của Đảng ta về
và làm rõ những
giải pháp xây dựng gia đình Việt Nam theo .
- Dưới góc độ chuyên ngành CNXHKH, đã có nhiều luận văn luận án
nghiên cứu về chủ đề gia đình, giáo dục gia đình. Tác giả tập trung nghiên

cứu phụ vụ cho luận văn của mình đó là luận án tiến sĩ của Nghiêm Sỹ Liêm
“Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay” Hà
Nội 2001; Luận án đã làm rõ vai trò, các yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục gia
đình và thực trạng của giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay.
Từ đó đề xuất một số phương hướng, giải pháp nâng cao vai trò của giáo dục
gia đình đối với thế hệ trẻ trong thời kỳ đổi mới. Luận văn thạc sĩ của Nguyễn
Thế Vinh “Gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở tỉnh Quảng Ninh hiện

7
nay” Hà Nội 2010, Luận văn làm rõ vấn đề giáo dục thế hệ trẻ trong gia đình
đang bộc lộ nhiều bất cập, qua đó luận văn cũng đề xuất một số giải pháp giáo
dục thế hệ trẻ trong gia đình hiện nay.
Các công trình nêu trên góp phần làm rõ thêm về lý luận cũng như thực
tiễn vai trò của gia đình trong việc xây dựng gia đình văn hóa ở nước ta hiện
nay. Đây là những tư liệu quý phục vụ cho quá trình hoàn thiện luận văn của
tác giả. Tuy nhiên, nghiên cứu về gia đình Hà Nội trên góc độ chuyên ngành
CNXHKH cho đến nay chưa có công trình nào đề cập. Do vậy, tác giả luận
văn đã đặt ra mục đích và nhiệm vụ của luận văn như sau.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra trong xây dựng gia
đình văn hóa ở Thành phố Hà Nội thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập
quốc tế, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng gia đình Thủ đô
theo chuẩn gia đình văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển Thủ đô và
đất nước hiện nay.
* Nhiệm vụ:
+ Phân tích cơ sở lý luận về gia đình và đặc điểm của gia đình Thành
phố Hà Nội thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
+ Làm rõ thực trạng và đề xuất giải pháp xây dựng gia đình ở Thành
phố Hà Nội thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu gia đình ở Thành phố Hà Nội (đặc điểm, thực
trạng và giải pháp xây dựng), trong đó chọn 3 quận nội thành: Ba Đình (chủ
yếu gia đình cán bộ công chức), Hoàn Kiếm (chủ yếu gia đình buôn bán và
làm nghề thủ công), Hai Bà Trưng (chủ yếu gia đình lao động - công nhân) để
nghiên cứu. Đây là 3 địa bàn có tính đại diện cao cho các quận nội thành của

8
Thành phố Hà Nội. Luận văn cũng giới hạn về mặt thời gian nghiên cứu gia
đình Thành phố Hà Nội từ năm 2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước Việt Nam về gia đình. Đồng thời có tham khảo các công trình nghiên
cứu, các đề tài luận văn, luận án về gia đình ở Việt Nam.
- Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: phân
tích, tổng hợp,lôgic, lịch sử, so sánh, điều tra xã hội học
6. Đóng góp mới của luận văn
- Góp phần làm rõ đặc điểm, thực trạng của gia đình ở Thành phố Hà
Nội thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
- Đề xuất một số giải pháp để xây dựng gia đình văn hóa ở Thủ đô hiện nay.
* Ý nghĩa của luận văn
- Góp phần cung cấp một số cơ sở lý luận, thực tiễn cho công tác đánh
giá, xây dựng chính sách đối với gia đình ở Thành phố Hà Nội hiện nay.
- Làm tư liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy những môn
học liên quan tới hôn nhân, gia đình ở các cơ sở đào tạo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu kết luận và danh mục tham khảo, luận văn được kết
cấu thành 2 chương, 6 tiết:
Chương 1

.
Chương 2
.



9
Chương 1
GIA ĐÌNH VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA GIA ĐÌNH
THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI KỲ ,
VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

1.1. Quan niệm về gia đình và vai trò của gia đình đối với sự phát
triển cá nhân và xã hội
1.1.1. Quan niệm chung về gia đình
Gia đình là một thiết chế xã hội có tính lịch sử và toàn cầu là “phạm trù
xuất hiện sớm nhất trong lịch sử loài người” [29, tr.35]. Con người sinh ra bản
thân đã thuộc về một gia đình và khi trưởng thành, họ lại tự mình lập nên một
gia đình mới. Đó là nhu cầu tự nhiên và cũng là một nhu cầu xã hội vì sự hình
thành các gia đình sẽ tạo nên xã hội.
Đề cập đến vấn đề gia đình, đã có nhiều quan điểm, quan niệm khác
nhau. Tùy theo cách khai thác, cách tiếp cận, góc độ nghiên cứu khác nhau,
mà người ta đưa ra các định nghĩa khác nhau về gia đình.
Theo C.Mác, trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” (1845), khi luận
chứng về những tiền đề, điều kiện cho sự tồn tại của con người, ông đã nói
“Hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình con người còn tạo ra những
người khác, sinh sôi, nảy nở, đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con
cái đó là gia đình” [31, tr.41] với quan niệm này khái niệm gia đình được hiểu
ba nội dung:
Thứ nhất: Gia đình ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển

của xã hội loài người, con người cùng với quá trình tái tạo ra bản thân mình
thì đồng thời cũng tạo ra gia đình.
Thứ hai: Chức năng chính của gia đình là tái tạo ra con người, chức
năng tái sản xuất con người.

10
Thứ ba: Gia đình được cấu thành bởi hai mối quan hệ chủ yếu quan hệ
hôn nhân (vợ - chồng) và quan hệ huyết thống (cha mẹ - con cái).
Hướng tới việc xây dựng gia đình bền vững, tổ chức UNESCO của Liên
hiệp quốc đã quyết định lấy năm 1994 là năm quốc tế về gia đình và khẳng
định: Gia đình là một yếu tố tự nhiên và cơ bản, một đơn vị kinh tế của xã hội.
Gia đình được coi như một giá trị vô cùng quý báu của nhân loại, cần được gìn
giữ và phát huy. Trên tinh thần đó, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về gia đình
“Gia đình là một nhóm người có quan hệ họ hàng, cùng sống chung và có ngân
sách chung. Các thành viên trong gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm và
quyền lợi về mọi mặt, được pháp luật thừa nhận” [5, tr.10].
Dưới khía cạnh xã hội học, gia đình thuộc về phạm trù cộng đồng xã
hội. Các nhà xã hội học đưa ra khái niệm về gia đình như sau:
Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù một nhóm xã hội nhỏ mà các
thành viên gắn bó với nhau bởi mối quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống
hoặc quan hệ nuôi dưỡng, bởi tính cộng đồng về sinh hoạt, trách nhiệm đạo
đức với nhau nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng của các thành viên cũng như
để thực hiện tính chất tất yếu của xã hội về tái sản xuất con người [44, tr.306].
Từ góc độ triết học, giáo sư Lê Thi, một chuyên gia về lĩnh vực gia
đình đã cho rằng:
Khái niệm gia đình được sử dụng để chỉ một nhóm xã hội hình thành
trên cơ sở quan hệ hôn nhân và huyết thống, nảy sinh từ quan hệ hôn nhân và
cùng chung sống (cha mẹ, con cái, ông bà, họ hàng nội ngoại), gia đình có thể
bao gồm một số người được gia đình nuôi dưỡng, tuy không có quan hệ huyết
thống, các thành viên trong gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền

lợi (kinh tế, văn hóa, tình cảm), giữa họ có những điều rằng buộc bởi tính
pháp lý, được nhà nước thừa nhận và bảo vệ (được ghi rõ trong luật hôn nhân
và gia đình của nước ta). Đồng thời trong gia đình có những quy định rõ ràng

11
về quyền được phép và những cấm đoán trong quan hệ tình dục giữa các
thành viên [59, tr.20-21].
Khái niệm về gia đình mang tính pháp lý ở Việt Nam được ghi trong
Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000 (Điều 8) xác định “Gia đình
là tập hợp những người gắn bó với nhau do quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết
thống, hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền lợi
giữa họ với nhau theo luật định” [40,tr.11]. Đây là quan niệm chính thống của
Nhà nước ta vừa mang tính khoa học vừa là cơ sở pháp lý để giải quyết những
vấn đề liên quan đến gia đình.
Qua một số quan niệm về gia đình của các tác giả, có thể thấy rằng gia
đình được nhận diện trên các khía cạnh sau đây:
Một là, gia đình là một thiết chế xã hội được hình thành trước hết trên
cơ sở của quan hệ hôn nhân. Quan hệ hôn nhân là sự liên kết các cá nhân
(nam - nữ) theo quy định của pháp luật hay nhà thờ, nhằm để cùng sống với
nhau và xây dựng gia đình hạnh phúc. Quan hệ hôn nhân được biểu hiện là
một loại quan hệ xã hội gắn liền với thân nhân đó là quan hệ vợ chồng kết
hợp với nhau để sinh sản và cùng nuôi dạy con cái. Mỗi hình thái kinh tế xã
hội có các kiểu hôn nhân đặc trưng và trong xã hội có giai cấp, các giai cấp
thống trị dùng luật để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân cho phù hợp với ý chí
và lợi ích của giai cấp mình.
Hai là, quan hệ huyết thống là quan hệ giữa cha mẹ và con cái, là sự
tiếp tục và là hệ quả tất yếu của quan hệ hôn nhân, nó chỉ phát triển tốt đẹp
dựa trên quan hệ tình yêu và hôn nhân chính đáng, hợp pháp.
Ba là, quan hệ nuôi dưỡng là loại quan hệ hình thành giữa chủ thể và
đối tượng được nuôi dưỡng, họ gắn bó với nhau vì trách nhiệm, quyền lợi,

nghĩa vụ, được họ hàng ủng hộ và được pháp luật thừa nhận, bảo vệ.
Như vậy, không có một định nghĩa duy nhất về gia đình cho mọi nền
văn hóa, song với quan niệm như trên chúng ta có thể thống nhất về cơ bản:

12
Gia đình là một cộng đồng người được xây dựng trên cơ sở hai mối quan hệ
cơ bản là hôn nhân và huyến thống được xã hội thừa nhận.
Có thể còn nhiều vấn đề phải tìm hiểu và nghiên cứu thêm, nhưng căn
cứ vào tình hình chung của hôn nhân gia đình nước ta, kế thừa những nghiên
cứu và văn bản luật về gia đình, để phù hợp với những mục tiêu nghiên cứu
của lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, theo chúng tôi: Gia đình là một cộng
đồng người đặc biệt được hình thành, phát triển và củng cố bởi hai mối quan
hệ cơ bản là quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống. Các thành viên trong
gia đình có chung những giá trị vật chất và tinh thần có quyền lợi, nghĩa vụ
và trách nhiệm về tài sản cũng như người thân mà mục tiêu cao nhất là phát
triển kinh tế, nuôi dưỡng các thành viên và xây dựng gia đình bền chặt.
Từ khi ra đời đến nay, dù ở thời đại nào, gia đình cũng luôn gắn liền
với các cá nhân và xã hội, có vai trò đặc biệt đối với sự phát triển của cá nhân
và xã hội.
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của gia đình đối với sự phát
triển cá nhân và xã hội
Bàn về vấn đề này, C.Mác và Ph.Ăngghen coi vấn đề gia đình như là
một nhân tố có ý nghĩa quyết định cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài
người. Sự vận động và phát triển của gia đình được xem là thước đo để đánh
giá sự vận động và phát triển của một xã hội nhất định. Hay có thể khẳng định
gia đình có tác động quan trọng đến tiến trình phát triển của xã hội.
Ph.Ăngghen chỉ ra rằng:
Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử, quy cho đến
cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp Những thiết chế xã hội,

trong đó con người của một thời đại lịch sử nhất định và của một nước nhất
định đang sống là do hai loại sản xuất đó quyết định: một mặt là do trình độ

13
phát triển của lao động và mặt khác là do trình độ phát triển của gia đình [28,
tr.26].
Khái quát vấn đề gia đình như là một hiện tượng lịch sử tự nhiên mang
tính xã hội, từ thừa nhận gia đình là sản phẩm của xã hội, của lịch sử và vận
động trong điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, Ph.Ăngghen đã khẳng định:
"Gia đình là một yếu tố năng động, nó không bao giờ đứng nguyên một chỗ
mà chuyển từ một hình thức thấp đến một hình thức cao khi xã hội phát triển
từ một giai đoạn thấp đến một giai đoạn cao" [28, tr.
.Ăn
những quy định trong xã hội phụ thuộc vào quan hệ sở hữu thống trị trong xã
hội đó và bước chuyển từ hình thái gia đình này lên một hình thái gia đình
khác cao hơn suy cho cùng được quyết định bởi những thay đổi trong điều
kiện vật chất của đời sống xã hội.
Trong tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức" C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra
những luận chứng đầu tiên về gia đình với cái nhìn về chức năng tái sản xuất
ra đời sống xã hội và vai trò của nó đối với thiết chế xã hội. Đồng thời, C.Mác
Ph.Ăngghen đã luận chứng về sự phát triển của hôn nhân và gia đình trong
xã hội mới là thủ tiêu chế độ tư hữu, xóa bỏ bất bình đẳng trong gia đình và
đảm bảo, phát huy chức năng giáo dục của gia đình. C.Mác, Ph.Ăngghen viết:
"Quan hệ nam nữ sẽ trở thành một công việc hoàn toàn tư nhân, chỉ thuộc về
những người hữu quan và xã hội không cần phải can thiệp vào. Điều đó có thể
có được nhờ vào việc thủ tiêu chế độ tư hữu và nhờ vào công tác giáo dục của
xã hội đối với thanh niên, kết quả sẽ là tiêu diệt được hai cơ sở của hôn nhân
hiện đại gắn liền với chế độ tư hữu: "Vợ phụ thuộc vào chồng, con phụ thuộc
vào cha mẹ" [31, tr.461-462].
Năm 1845 Ph.Ăngghen gặp C.Mác tại Anh và hai người đã có cùng chí

hướng. Ph.Ăngghen đã tập trung tư liệu viết lịch sử xã hội Anh dựa trên sách báo

14
công khai thời kỳ đó. Trong quá trình viết và quan sát thực tiễn Ph.Ăngghen đã
viết tác phẩm "Tình cảnh giai cấp công nhân lao động ở Anh".
Ở tác phẩm này với nội dung tỷ mỷ miêu tả về cuộc sống của công
nhân lao động Anh, Ph.Ăngghen nhấn mạnh và cảm thông sâu sắc với gia
đình công nhân lao động và đặc biệt là cuộc sống, vai trò của người phụ nữ.
Khi CNTB chưa ra đời, gia đình, theo quan niệm của Ph.Ăngghen là một
chốn bình yên mà ở đó quan hệ vợ chồng, con cái là quan hệ lao động khá
bình đẳng. Song, dưới CNTB, do yêu cầu của sản xuất, sự phát triển của đại
công nghiệp đã "giật đàn bà ra khỏi nhà", đem họ ra thị trường lao động và xô
đẩy họ vào côn
- .
Từ lúc mang thai đến khi sinh nở, họ phải cật lực làm việc, thậm chí không
được nghỉ cho con bú và khi con ốm. Ph.Ăngghen ch : "
12-13 giờ trong công xưởng còn người chồng lại cũng
làm việc ở đấy hay ở nơi nào khác trong một thời gian cũng dài như vậy thì
vận mệnh con cái họ như thế nào?" [30, tr.507].
được Ph.Ăngghen luận chứng gắn liền với vai trò, vị trí của người phụ nữ.
Bởi, người mẹ là người trực tiếp chăm sóc con cái, thu vén cho gia đình thì
lại không thể đảm đương hết vì thời gian quá dài ở công xưởng đã cướp đi
chức năng thiêng liêng ấy của họ. Điều này, Ph.Ăngghen đã phân tích một
cách cặn kẽ:
Công việc của người phụ nữ ở công xưởng không tránh khỏi làm tan rã
gia đình, trong tình trạng xã hội hiện tại lấy gia đình làm cơ sở thì tình hình ấy
vô luận đối với vợ chồng hay con cái cũng đều gây nên những hậu quả bại
hoại đạo đức nghiêm trọng nhất. Một người mẹ không có thì giờ săn sóc con
mình, không có thì giờ để cho đứa con trong mấy năm đầu được hưởng sự âu


15
yếm thông thường nhất của người mẹ, một người mẹ rất ít khi nhìn thấy con
mình, thì không thể là một người mẹ đối với nó; người mẹ ấy tất nhiên đối với
con rất lạnh nhạt, thiếu tình thương, không chút săn sóc hoàn toàn xem nó
như con người khác. Những đứa trẻ lớn lên trong những điều kiện như thế sau
này đối với gia đình sẽ không có chút gì quyến luyến, đôi khi ở trong gia đình
mà chính bản thân chúng xây dựng, chúng cũng không cảm thấy hương vị gia
đình, vì chúng đã quá quen với cuộc sống cô độc điều đó tất nhiên sẽ làm cho
gia đình công nhân càng bị phá hoại nghiêm trọng [30, tr.509].
quan hệ gia đình bị biến đổi căn bản bởi dù, trong nhiều trường hợp, việc
người p
: "Người vợ kiếm tiền nuôi sống cả nhà, người chồng
thì ở nhà trông con, quét dọn nấu nướng" [30 , theo
Ph. : phải giải phóng phụ nữ mà
trước hết là giải phóng lao động cho phụ nữ để giữ vững nền tảng gia đình.
Đây là một luận điểm góp phần quan trọng vào học thuyết giải
phóng con người của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Kế thừa những tư tưởng về gia đình của C.Mác và Ph.Ăngghen ở thời
kỳ trước. V.I.Lênin tiếp tục luận chứng về gia đình trong đó gắn chặt với việc
giải phóng phụ nữ. Mặc dù xã hội mới đã tác động không nhỏ một cách tích
cực vào gia đình song vị trí của người phụ nữ trong xã hội với những gánh
nặng công việc gia đình còn làm hạn chế khả năng tham gia hoạt động xã hội
của họ: "Mặc dù có mọi luật lệ giải phóng nhưng phụ nữ vẫn cứ còn là nô lệ
trong gia đình, vì những công việc nội trợ linh tinh còn đè nặng lên lưng họ,
làm cho họ nghẹt thở, mụ mẫm, nhọc nhằn, ràng buộc họ vào bếp núc, vào
buồng con cái, lãng phí sức lực " [27, tr.27-28].
Đồng thời, V.I.Lênin cũng chỉ ra biện pháp giải phóng phụ nữ là: chỉ
khi nào và nơi nào có đấu tranh quần chúng bắt đầu (dưới sự lãnh đạo của giai

16

cấp vô sản nắm chính quyền Nhà nước) chống lại nền kinh tế gia đình nhỏ ấy,
hay nói cho đúng hơn, khi nào cải tạo được toàn khối kinh tế nhỏ đó thành
kinh tế XHCN quy mô lớn, thì mới bắt đầu thật sự giải phóng phụ nữ và mới
có chủ nghĩa cộng sản thật sự được.
Gia đình dưới CNXH là nơi đảm bảo hạnh phúc và sự tiến bộ cho mỗi
cá nhân. Trong gia đình các thành viên có quan hệ bình đẳng dân chủ thực sự,
phụ nữ cũng như nam giới được coi trọng như nhau "gạt bỏ tất cả những gì
làm cho phụ nữ bị thiệt thòi".
Như vậy, từ quá trình hình thành, hoàn thiện lý luận của C.Mác,
Ph.Ăngghen đến sự phát triển của VI.Lênin về gia đình thì vấn đề này đã
được nghiên cứu một cách đầy đủ và có tính hệ thống đồng thời được phát
triển đầy đủ hơn: chế độ XHCN là chế độ xã hội thật sự nhân đạo, thực sự vì
hạnh phúc của con người, vì sự nghiệp giải phóng con người, gia đình trong
chế độ XHCN là tiến bộ, là gia đình mới bình đẳng hạnh phúc và thương yêu
lẫn nhau. Ở đó, con người được tự do, bình đẳng thực sự và được sống, lao
động cho mình, cho mọi người và cho xã hội.
.Mác, Ph.Ăngghen và VI.Lênin, Chủ tịch
Hồ Chí Minh - vị anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất của thế giới
đã nghiên cứu, tiếp thu một cách sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
về vấn đề gia đình. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Người luôn
quan tâm đến vấn đề con người, đề cao vai trò của quần chúng cách mạng mà
trong đó gia đình là yếu tố quan trọng đầu tiên.
Trên cơ sở thấm nhuần học thuyết Mác-Lênin về hôn nhân và gia đình,
Hồ Chí Minh khẳng định: Gia đình là "tế bào" của xã hội. Người cho rằng, sự
nghiệp xây dựng CNXH phải gắn chặt và bắt đầu từ sự nghiệp xây dựng gia
đình. Theo Người, trong xã hội, mỗi cộng đồng người đều có những vị trí, vai
trò nhất định, trong đó, gia đình có vị trí to lớn trong tiến trình lịch sử loài
người. Gia đình và xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau. Xã hội tốt

17

đẹp, tiến bộ là tiền đề cho các gia đình phát triển lành mạnh. Các gia đình
hạnh phúc, đầm ấm sẽ tác động tích cực trở lại cho sự phát triển của xã hội.
Người khẳng định: "Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng
CNXH mà phải chú ý hạt nhân cho tốt" [32, tr.523].
Người cho rằng, chăm lo xây dựng gia đình mới là phương thức tích
cực để giải phóng phụ nữ khỏi những công việc nặng nhọc của gia đình, tạo
điều kiện cho phụ nữ tham gia tích cực phong trào cách mạng, hoàn thành
tốt chức năng của người công dân. Do đó, sự giúp đỡ của các cấp, các
ngành đối với phụ nữ rất quan trọng. Chính từ nhận thức sâu sắc đó, Hồ
Chí Minh luôn nhắc nhở Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể: phải hết
lòng giúp đỡ phụ nữ để chị em tiến bộ về mọi mặt.
Mặt khác, về việc chăm lo đến gia đình, Hồ Chí Minh luôn coi trọng
việc giáo dục, nuôi dưỡng con cái trong gia đình. Người nhấn mạnh: thiếu
niên, nhi đồng là người chủ tương lai của nước nhà, do đó việc chăm sóc giáo
dục các cháu là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là các gia đình
phải làm thật tốt việc đó. Và cụ thể là việc giáo dục trẻ em phải là sự kết hợp
giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội.
Đặc biệt, trong suốt quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Hồ Chí
Minh có dịp tìm hiểu đời sống phụ nữ các nơi, so sánh đời sống khổ cực của
nhiều nước thuộc địa nghèo nàn lạc hậu phương Đông với đời sống phụ nữ
các nước, Người càng hiểu sâu sắc hơn những căn nguyên gây nên tình trạng
bất bình đẳng mà người phụ nữ phải gánh chịu. Khi hội nhập trong mình chủ
nghĩa yêu nước chân chính, giành độc lập cho dân tộc gắn với xây dựng
CNXH, đấu tranh cho tự do, hạnh phúc của con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khẳng định: giải phóng phụ nữ là một bộ phận của sự nghiệp giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp. Và trên phương diện này, tư tưởng Hồ Chí Minh
về giải phóng phụ nữ đã mang tính dân tộc và quốc tế sâu sắc. Người khẳng
định: "Giải phóng phụ nữ, tức là giải phóng phần nửa xã hội, nếu không giải

18

phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải
phóng phụ nữ là xây dựng CNXH chỉ có một nửa" [32, tr.523].
, Đảng Cộng sản Việt
Nam, ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam luôn quan tâm đến vấn đề hôn nhân và gia đình và đã có những chủ
trương chính sách phù hợp để phát triển gia đình.
Mười năm sau khi đất nước thống nhất, chuyển biến toàn bộ sự nghiệp
cách mạng theo hướng đổi mới, đáp ứng yêu cầu của nhân dân ta, hòa nhịp
với những đổi thay của thời đại, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI
(1986) đã thành công tốt đẹp - Đại hội đánh dấu sự đổi mới của Đảng về tư
duy, về phong cách, tổ chức và cán bộ. Quán triệt tinh thần đổi mới, văn kiện
Đại hội nêu rõ quan điểm về gia đình như sau:
Gia đình là tế bào của xã hội, có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp
xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, con người mới. Đảng, Nhà nước và
các đoàn thể quần chúng cần đề ra phương hướng, chính sách và có biện pháp
tổ chức thực hiện về xây dựng gia đình văn hóa mới, đảm bảo hạnh phúc gia
đình. Nâng cao trình độ tự giác xây dựng những quan hệ tình cảm, đạo đức
trong từng gia đình, bảo đảm sinh đẻ có kế hoạch và nuôi dạy con ngoan, tổ
chức tốt cuộc sống vật chất, văn hóa của gia đình [7, tr.95-96].
Trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH"
gia đình được Đại hội Đảng lần thứ VII (4/1991) nhấn mạnh:
Gia đình là tế bào của xã hội là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời
người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách.
Các chính sách của Nhà nước phải chú ý tới xây dựng gia đình ấm no, hòa
thuận, tiến bộ. Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối với mọi lớp người [8,
tr.15].
Nhận thức được vị trí, vai trò quan trọng của vấn đề hôn nhân và gia
đình đối với sự nghiệp xây dựng CNXH, Đảng và Nhà nước ta đã sớm đề ra

19

và thực hiện những chủ trương, chính sách về lĩnh vực này. Trong hai bản
Hiến pháp 1946 và 1959, do nhiều nguyên nhân nên chưa có điều khoản riêng
về hôn nhân và gia đình nhưng vấn đề này đã được đề cập gián tiếp qua các
nội dung như: tuyên bố về quyền bình đẳng nam nữ, tạo điều kiện cho phụ nữ
phát triển trên mọi phương diện Sau ngày đất nước thống nhất, trong các
bản Hiến pháp 1980, 1992 vấn đề này đã được thể hiện trực tiếp ở điều 64:
"Gia đình là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình. Hôn
nhân theo nguyên tắc tiến bộ, tự nguyện một vợ một chồng; vợ chồng bình
đẳng" [39, tr.36]. Đặc biệt, Luật Hôn nhân và gia đình của nước ta được Quốc
hội thông qua năm 2000 cho phù hợp với tình hình mới.
Sau 20 năm đổi mới, hơn lúc nào hết, gia đình đã thể hiện rõ vai trò là một
động lực tích cực của công cuộc đổi mới. Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần
thứ IX chỉ rõ: "Nêu cao
, làm cho gia đình thực sự là
tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội" [10, tr.116].
,
h
[13].
Như vậy, chúng ta thấy rằng Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến vấn
đề hôn nhân và gia đình. Trong sự nghiệp xây dựng CNXH, Đảng ta luôn coi
vấn đề xây dựng gia đình mới là một yêu cầu cấp bách của cách mạng, là
một bộ phận của cách mạng tư tưởng văn hóa, gắn liền với xây dựng con
người mới XHCN. Đảng ta luôn quan niệm rằng xây dựng con người mới

20
XHCN là phải xây dựng từ trong gia đình, là trách nhiệm của từng gia đình
đối với xã hội. Điều đó khẳng định: gia đình luôn giữ vai trò trung tâm
trong đời sống xã hội.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước XHCN đã tiến hành mạnh mẽ
việc cải tạo quan hệ hôn nhân và gia đình lạc hậu, xây dựng chế độ hôn nhân

và gia đình mới phù hợp với nguyện vọng bảo đảm lợi ích chính đáng của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động trong đó có lợi ích của người phụ nữ.
1.2. Thành phố Hà Nội và đặc điểm của gia đình Thành phố Hà Nội
1.2.1. Một vài nét về Thành phố Hà Nội
Hà Nội - Thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nằm ở
đồng bằng Sông Hồng. Trước ngày 01/08/2008, Hà Nội gồm 9 quận và 5
huyện với 125 phường, 99 xã và thị trấn, tiếp giáp với 5 tỉnh: phía Bắc giáp
với tỉnh Thái Nguyên và Tỉnh Vĩnh Phúc, phía Đông tiếp giáp với tỉnh Bắc
Ninh và Hưng Yên, phía Tây và phía Nam tiếp giáp với tỉnh Hà Tây cũ. Diện
tích tự nhiên hơn 920km
2
và dân số trên 3 triệu người. So với cả nước diện
tích tự nhiên của Hà Nội thời kỳ này bằng 0,28% và dân số bằng 3,74%.
Sau đợt mở rộng hành chính vào tháng 8/2008, Hà Nội hiện có diện
tích 3.324,92km
2
, gồm một thị xã, 10 quận và 18 huyện. Dân số Hà Nội từ
ngày 01/8/2008 là 6.232.940 người. Cơ cấu dân số Hà Nội không phải là 80%
dân đô thị, 20% nông thôn như trước đây mà ngược lại, hiện tại là khoảng
35% đô thị, 65% nông thôn và đang trong quá trình nhanh chóng được đô thị
hóa [15, tr.221].
Hà Nội là đầu mối giao thông quan trọng của cả nước và quốc tế về
đường bộ, đường sắt, đường sông và đường hàng không và từ đầu mối giao
thông quan trọng đó đã gắn kết chặt chẽ Hà Nội với các trung tâm cả nước
cũng như thế giới tạo điều kiện để Hà Nội tiếp nhận nhanh các thành tựu khoa
học, công nghệ kỹ thuật hiện đại, được bổ sung về nguồn nhân lực từ các địa
phương khác và hình thành các khu công nghiệp và khu đô thị vệ tinh xung

×