Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

nghiên cứu, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi nhánh Đông Anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.8 KB, 58 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, trong xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa của nhân loại, hoạt
động kinh tế quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ và chiếm vị trí quan trọng
trong giai đoạn công nghiệp hóa – hiện đại hóa của nước ta. Với tư cách là
chất xúc tác cho sự phát triển thương mại quốc tế, công tác thanh toán quốc tế
cũng không ngừng được mở rộng và chú trọng phát triển.
Trong khi đó, với sự non trẻ và còn ít kinh nghiệm thực tế trong thanh
toán quốc tế, các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và Chi nhánh
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Đông Anh nói riêng đang
gặp rất nhiều khó khăn trong việc đối phó với xu thế hội nhập ngân hàng khu
vực và quốc tế cũng như tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt. Do vậy, việc
hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế là mối quan
tâm hết sức cấp bách và thường xuyên của mỗi ngân hàng.
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài:
“Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi nhánh Đông Anh” làm nội dung
chuyên đề tốt nghiệp. Với mục đích làm sáng tỏ vị trí, vai trò của hoạt động
thanh toán quốc tế trong nền kinh tế, luận giải có tính hệ thống cơ sở lý luận
và thực tiễn, các hạn chế và nguyên nhân gây ra khó khăn trong việc phát
triển hoạt động thanh toán quốc tế. Từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế tại Chi nhánh.
Đề tài tập trung nghiên cứu một số hoạt động thanh toán quốc tế như:
phương thức thanh toán Chuyển tiền, phương thức Nhờ thu, phương thức Tín
dụng chứng từ tại NHNo&PTNT Chi nhánh Đông Anh.
Các phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu: phương pháp duy
vật biện chứng, phương pháp duy vật lich sử của chủ nghĩa Mác – Lênin,
phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương pháp thống kê chọn mẫu kết
hợp với phân tích tổng hợp, so sánh và mô hình hóa.
Ngoài phần lời mở đầu và kết luận, chuyên đề được kết cấu thành 3
chương :
Chương 1: Tổng quan về hoạt động thanh toán quốc tế và hiệu quả hoạt


động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Thương Mại
Chương 2: Phân tích các hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi nhánh Đông Anh
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế
tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi nhánh Đông Anh.
CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ VÀ
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA THANH TOÁN QUỐC TẾ
1.1.1. Khái niệm thanh toán quốc tế
Quan hệ đối ngoại của mỗi quốc gia bao gồm tổng thể các lĩnh vực:
kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học kĩ thuật, du lịch... trong đó các quan hệ
này nếu xét trên khía cạnh kinh tế thì được chia thành quan hệ mậu dịch và
quan hệ phi mậu dịch.
Trong các quan hệ đối ngoại trên thì quan hệ kinh tế là quan hệ giữ vị
trí quan trọng nhất, là cơ sở của các quan hệ khác. Hiệu quả các quan hệ đó
đều được đánh giá thông qua kết quả hoạt động của nghiệp vụ thanh toán
quốc tế.
“Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ tiền tệ, phát sinh
trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ chức hay cá nhân
nước này với tổ chức hay cá nhân nước khác, hoặc giữa một quốc gia với một
tổ chức quốc tế, thường được thông qua quan hệ giữa các ngân hàng của các
nước có liên quan”.
Khác với các hoạt động thanh toán nội địa, hoạt động thanh toán quốc
tế gắn với việc trao đổi giữa đồng tiền của quốc gia này với đồng tiền của
quốc gia khác.
Để tiến hành các hoạt động thanh toán quốc tế đòi hỏi các bên tham gia
trong hợp đồng thương mại phải lựa chọn phương tiện thanh toán, phương
thức thanh toán sao cho phù hợp nhất. Các phương tiện thanh toán ở đây có:
Séc, hối phiếu, kì phiếu, thẻ thanh toán. Các phương thức thanh toán phổ biến

được sử dụng hiện nay gồm có: phương thức Chuyển tiền, phương thức Nhờ
thu và phương thức Tín dụng chứng từ.
1.1.2. Vai trò của thanh toán quốc tế đối với nền kinh tế
“Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ,
tín dụng mà hoạt động chủ yếu của nó là nhận tiền gửi của khách hàng với
trách nhiệm hoàn trả, sử dụng số tiền đó để đầu tư, cho vay, chiết khấu và làm
phương tiện thanh toán”.
Với nền kinh tế thế giới đang ngày càng hội nhập và phát triển, việc mở
rộng các lĩnh vực hoạt động, xây dựng mô hình Ngân hàng hiện đại đang là
hướng đi chung của tất cả các Ngân hàng thương mại trên thế giới. Ngân hàng
hiện đại là ngân hàng hoạt động theo hướng đa năng, tức là ngoài các nghiệp
vụ truyền thống như nhận tiền gửi của khách hàng, cho vay và làm trung gian
thanh toán còn thực hiện nhiều hoạt động dịch vụ khác. Một trong các dịch vụ
đem lại lượng doanh thu lớn cho ngân hàng chính là hoạt động TTQT.
Hoạt động thanh toán quốc tế có vai trò bổ sung và hỗ trợ cho các hoạt
động kinh doanh khác của ngân hàng phát triển. Nó tạo ra một nguồn thu lớn
cho các ngân hàng thương mại, phí thu từ hoạt động này chiếm tỷ trọng
không nhỏ trong tổng thu nhập của Ngân hàng.
Trong xu thế hội nhập, toàn cầu hoá như hiện nay thì hoạt động TTQT
ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng,
cũng như trong việc thúc đẩy xuất nhập khẩu của nền kinh tế. Tháng 11/2006,
Việt Nam đã trở thành thành viên của tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Nền kinh tế Việt Nam bước vào một sân chơi lớn, khắc nghiệt, đòi hỏi hệ
thống pháp luật, các doanh nghiệp cần có những đổi mới nhanh, quyết liệt
hơn để thích ứng kịp thời. Tốc độ phát triển của nền kinh tế nước ta diễn ra
phụ thuộc vào tốc độ phát triển của các ngành kinh tế then chốt, trong đó có
lĩnh vực kinh doanh Ngân hàng. Hoạt động Ngân hàng hội nhập và phát triển
như thế nào có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế. Chính vì vậy, mở rộng và
phát triển hoạt động TTQT là việc các Ngân hàng cần phải chú trọng quan
tâm.

1.2. CÁC PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Trong các điều kiện thanh toán quốc tế, phương thức thanh toán có một
vị trí quan trọng. Quan hệ TTQT được thực hiện thông qua các phương thức
thanh toán. Phương thức thanh toán là phương pháp, cách thức tiến hành
nghiệp vụ nhất định, thông qua đó người nhập khẩu trả tiền, nhận hàng và
người xuất khẩu giao hàng, nhận tiền thanh toán.
Có nhiều phương thức thanh toán khác nhau, mỗi phương thức đều có
những ưu, nhược điểm riêng biệt. Để phù hợp với từng mối quan hệ thương
mại và trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể, các bên sẽ thỏa thuận và lựa
chọn một phương thức thanh toán nhất định sao cho có lợi nhất.
Sau đây là một số phương thức thanh toán chủ yếu được sử dụng trong
thương mại quốc tế:
1.2.1. Thanh toán quốc tế theo phương thức Chuyển tiền
Khái niệm : Phương thức thanh toán chuyển tiền là một phương thức
thanh toán trong đó một khách hàng (người có yêu cầu chuyển tiền) yêu cầu
Ngân hàng phục vụ mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác
(người thụ hưởng) ở một địa điểm nhất định.
Các hình thức chuyển tiền:
- Chuyển tiền bằng thư (Mail Transfer), gọi tắt là M/T (phải gửi địa
chỉ tên những người có quyền ký ở ngân hàng);
- Chuyển tiền bằng điện (Telegraphic Transfer), gọi tắt là T/T (phải quy
định khoá mật mã điện tử);
- Chuyển tiền bằng Fax (trong phạm vi giới hạn Fax được sử dụng như
là một phương tiện chuyển tiếp trong thanh toán quốc tế);
- Chuyển tiền bằng điện thoại (thường có nhiều sai sót nên ít được sử
dụng);
- Chuyển tiền qua hệ thống SWIFT: SWIFT (Society for Worldwide
Interbank Financial Telecommunication). Đây là một tổ chức hoạt động theo
đạo luật của Bỉ, có trụ sở tại Brucxen. Mục đích hoạt động của SWIFT là

chuyển những thông tin thanh toán, giá thành hạ, an toàn, nhanh chóng,
không dùng chứng từ giữa ngân hàng với ngân hàng. Mọi thông tin của
SWIFT đều được mật mã hoá mà chỉ những người có phận sự mới được tiếp
nhận.
Dùng nghiệp vụ chuyển tiền trong thanh toán xuất nhập khẩu thường
không an toàn nên ít khi sử dụng. Người ta thường sử dụng phương thức
chuyển tiền trong các trường hợp sau:
- Thanh toán các khoản chi tiêu phi thương mại và các chi phí liên quan
đến xuất nhập khẩu hàng hoá, trị giá hợp đồng nhỏ, đối tác quen biết, tín
nhiệm;
- Chuyển vốn ra bên ngoài để đầu tư;
- Chuyển kiều hối;
- Thanh toán hàng hoá xuất nhập khẩu (khi hai bên mua bán có quan hệ
lâu đời và tín nhiệm lẫn nhau hoặc khi trị giá hợp đồng không lớn).
Trong phương thức thanh toán chuyển tiền ngân hàng đóng vai trò
trung gian thực hiện dịch vụ chuyển tiền và thu phí chuyển tiền.
1.2.2. Thanh toán quốc tế theo phương thức Nhờ thu
Khái niệm: Nhờ thu (ủy thác thu) là phương thức thanh toán, trong đó
người xuất khẩu (bên bán hàng) sau khi hoàn thành nghĩa vụ chuyển giao
hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ cho khách hàng, ủy thác cho Ngân hàng
phục vụ mình thu hộ số tiền ở người nhập khẩu (người mua hàng), trên cơ sở
tờ hối phiếu do người xuất khẩu kí phát hành.
Căn cứ vào nội dung chứng từ được gửi đến ngân hàng nhờ thu mà
người ta chia phương thức thanh toán này thành hai loại:
- Nhờ thu trơn (Clean Collection): là phương thức thanh toán, trong
đó người xuất khẩu ủy nhiệm cho Ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền ở
người nhập khẩu, chỉ căn cứ vào hối phiếu do nhà xuất khẩu lập ra mà không
kèm theo các chứng từ hàng hóa.
- Nhờ thu kèm chứng từ (Documentary Credit): là một phương thức
thanh toán, trong đó người xuất khẩu ủy nhiệm cho Ngân hàng phục vụ mình

thu hộ số tiền ở người nhập khẩu, không chỉ căn cứ vào hối phiếu mà còn căn
cứ vào bộ chứng từ gửi kèm theo, yêu cầu ngân hàng chỉ trao bộ chứng từ
hàng hóa cho người nhập khẩu sau khi họ đã thanh toán tiền (phương thức
thanh toán D/P) hoặc ký chấp nhận thanh toán lên tờ hối phiếu có kỳ hạn
(phương thức thanh toán D/A).
Phương thức thanh toán quốc tế qua nhờ thu, nhất là nhờ thu hối phiếu
trơn thường gặp rất nhiều rủi ro trong thanh toán. Người ta thường sử dụng
phương thức nhờ thu trong các trường hợp sau:
- Người bán và người mua tin cậy lẫn nhau;
- Trị giá hợp đồng không lớn.
1.2.3. Thanh toán quốc tế theo phương thức L/C
Theo “ quy tắc và thực hành thống nhất về Tín dụng chứng từ” (UCP
No.600) Tín dụng chứng từ được định nghĩa như sau:
“Tín dụng chứng từ là bất cứ một thỏa thuận nào, dù cho được gọi hoặc
mô tả như thế nào, theo đó một Ngân hàng (Ngân hàng phát hành) hành động
theo yêu cầu và chỉ thị của một khách hàng (người yêu cầu phát hành Thư tín
dụng) hoặc đại diện cho chính bản thân Ngân hàng mình: thực hiện thanh toán
theo lệnh của một người thứ 3 (người thụ hưởng) hoặc chấp nhận và thanh
toán hối phiếu do người thụ hưởng ký phát hành; hoặc ủy quyền cho Ngân
hàng khác thực hiện việc thanh toán hoặc chấp nhận và thanh toán hối phiếu;
hoặc cho phép Ngân hàng khác chiết khấu chứng từ quy định trong Thư tín
dụng với điều kiện chứng từ phù hợp với tất cả điều khoản và điều kiện của
Thư tín dụng”.
Đây là phương thức thanh toán phức tạp nhất nhưng lại có độ an toàn
cao và phổ biến nhất hiện nay. Chính vì sự phức tạp trong quá trình thực hiện
mà phí dịch vụ của loại hình này cao, thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
thu nhập về thanh toán quốc tế của ngân hàng. Với loại hình này, ngân hàng
vừa có thể cung cấp dịch vụ thu phí, vừa có thể kinh doanh thu lãi.
Các loại Thư tín dụng
- Thư tín dụng có thể hủy ngang (Revocable L/C): là loại Thư tín dụng

sau khi được mở vẫn có thể bị sửa đổi một số điều khoản hoặc hủy bỏ toàn bộ
mà không cần báo trước cho người thụ hưởng. Việc sửa đổi, hủy bỏ L/C này
chỉ được thực hiện trước khi người xuất khẩu chuyển giao hàng hóa và vận
đơn chưa được chuyển nhượng.
Loại L/C này không bảo đảm quyền lợi cho người xuất khẩu, do vậy
ngày nay hầu như không sử dụng nó trong thương mại quốc tế.
- Thư tín dụng không thể hủy ngang (Irrevocable L/C): là loại L/C sau
khi được mở, mọi việc liên quan đến sửa đổi, hủy bỏ, bổ sung… chỉ được
thực hiện bởi Ngân hàng phát hành khi có sự đồng ý của các bên có liên quan.
Loại L/C này được sử dụng rộng rãi trong thương mại quốc tế, nó bảo đảm
quyền lợi cho các bên tham gia.
- Thư tín dụng không thể hủy ngang có xác nhận (Confirmed
Irrevocable L/C): là loại L/C không thể hủy ngang được một Ngân hàng có uy
tín xác nhận đảm bảo việc thanh toán cho người thụ hưởng theo yêu cầu của
Ngân hàng phát hành. Loại Thư tín dụng này là phương thức thanh toán đảm
bảo quyền lợi cho người xuất khẩu nhưng người xuất khẩu đương nhiên phải
chịu một khoản phí xác nhận tương đối cao.
- Thư tín dụng không thể hủy ngang miễn truy đòi (Irrevocable
Without Recourse L/C): là loại Thư tín dụng không thể hủy ngang mà sau khi
người thụ hưởng đã được thanh toán tiền thì Ngân hàng phát hành không có
quyền đòi lại tiền người xuất khẩu trong bất cứ tình huống nào. Loại Thư tín
dụng này cũng được sử dụng rộng rãi trong TTQT.
- Thư tín dụng chuyển nhượng (Transferable L/C): là loại Thư tín
dụng không thể hủy ngang cho phép Ngân hàng trả tiền được quyền trả toàn
bộ hay một phần số tiền của L/C cho một hay nhiều người theo lệnh của
người hưởng lợi đầu tiên. L/C chuyển nhượng chỉ được chuyển nhượng một
lần, chi phí chuyển nhượng do người thụ hưởng đầu tiên chịu trách nhiệm.
Loại L/C này áp dụng trong trường hợp người thụ hưởng đầu tiên
không có đủ số lượng hàng hóa để xuất khẩu hoặc không có hàng, họ chỉ là
người môi giới thương mại.

- Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C): là loại Thư tín dụng không
thể hủy ngang sau khi đã sử dụng xong hoặc hết thời hạn hiệu lực lại tự động
có giá trị như cũ và được tiếp tục sử dụng sau một thời gian nhất định.
L/C tuần hoàn thường được dùng khi các bên có sự tin cậy lẫn nhau,
sau khi mua hàng thường xuyên, định kì, khối lượng lớn và trong thời hạn dài.
- Thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C): là loại L/C được mở dựa
trên giá trị của L/C đã được mở trước đó. Loại L/C này thường được sử dụng
nhiều trong phương thức giao dịch mua bán qua trung gian, chiết khấu. Quy
trình thanh toán loại L/C khá phức tạp, đặc biệt là những điều kiện chặt chẽ
về bộ chứng từ và thời hạn.
- Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C): là loại L/C chỉ bắt đầu có
hiệu lực khi L/C của bên đối tác đã được mở. L/C đối ứng được sử dụng trong
phương thức hàng đổi hàng (Barter) và phương thức gia công thương mại
quốc tế.
- Thư tín dụng dự phòng (Stand by L/C): là loại L/C do người nhập
khẩu mở cho bên thụ hưởng. Trong trường hợp người xuất khẩu vi phạm hợp
đồng thương mại đã ký kết, gây thiệt hãi cho người nhập khẩu thì Ngân hàng
mở L/C dự phòng sẽ thanh toán tiền, đền bù những thiệt hại, tổn thất đó. Loại
L/C này được phát hành với mục tiêu trực tiếp bảo vệ quyền lợi của người
nhập khẩu. Điều kiện mở L/C này rất chặt chẽ.
- Thư tín dụng thanh toán dần (Deferred Payment L/C): là loại L/C
không thể hủy ngang mà Ngân hàng phát hành sẽ cam kết thanh toán dần dần
giá trị L/C cho người thụ hưởng theo tiến trình hoàn thành nghĩa vụ giao hàng
của họ. Loại L/C này thích hợp với các hợp đồng giao hàng nhiều lần.
- Thư tín dụng điều khoản đỏ (Red Clause Credit): là loại L/C có kèm
theo một điều khoản đặc biệt thể hiện ở: người yêu cầu mở L/C cho phép
người thụ hưởng được nhận một số tiền nhất định trong tổng giá trị của L/C,
ngay cả khi người này còn chưa thực hiện nghĩa vụ chuyển giao hàng hóa.
Đây là một hình thức tài trợ vốn cho nhà xuất khẩu.
1.3. HIỆU QUẢ THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI
1.3.1. Khái niệm
Hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế: là một phạm trù hiệu quả kinh
tế phản ánh chất lượng kinh doanh trong lĩnh vực thanh toán quốc tế tại Ngân
hàng thương mại. Nó được đo bằng hiệu số giữa doanh thu hoạt động thanh
toán quốc tế và chi phí hoạt động thanh toán quốc tế.
Hiệu quả hoạt động TTQT được thể hiện qua công thức sau:
H
ttqt
= D
ttqt
- C
ttqt
Trong đó:
H
ttqt
: Hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế
D
ttqt
: Doanh thu hoạt động thanh toán quốc tế
C
ttqt
: Chi phí hoạt động thanh toán quốc tế
Hiệu quả hoạt động TTQT trong cơ chế thị trường hiện nay không chỉ
đơn thuần ở việc đo lường hữu hình bằng hiệu số giữa doanh thu và chi phí
mà còn được đánh giá thông qua mối liên hệ giữa hoạt động TTQT và các
hoạt động khác, là hiệu quả mang lại do sử dụng dịch vụ TTQT làm đòn bẩy
để phát triển các hoạt động kinh doanh khác như: Tín dụng, kinh doanh ngoại
hối. Hơn thế nữa, nó còn là uy tín và mối quan hệ rộng lớn của NHTM trên
thương trường quốc tế, là thị phần hoạt động TTQT của NHTM, là hiệu quả

của hoạt động TTQT tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến nền kinh tế xã hội.
Như vậy, bản chất hiệu quả hoạt động TTQT phản ánh chất lượng các
hoạt động này. Nâng cao hiệu quả hoạt động này cũng chính là nâng cao chất
lượng các hoạt động này.
1.3.2. Các chỉ tiêu định tính đánh giá hiệu quả hoạt động TTQT tại
NHTM
Hiệu quả hoạt động TTQT tại NHTM có thể được đánh giá qua một số
chỉ tiêu định tính sau:
Một là, hiệu quả hoạt động TTQT được đánh giá thông qua việc góp
phần tạo hiệu quả và chất lượng hoạt động tín dụng:
Khi Ngân hàng cho vay thu mua hàng xuất khẩu, hoặc cho vay trên cơ
sở đảm bảo bằng bộ chứng từ xuất khẩu theo L/C, Ngân hàng sẽ thu lãi trên
khoản vốn đã đầu tư tín dụng này, nếu nghiệp vụ TTQT được thực hiện an
toàn thì đồng vốn tín dụng sẽ được thu hồi cả gốc và lãi, sẽ làm tăng hiệu quả
cho hoạt động kinh doanh tín dụng của Ngân hàng. Đồng thời việc thu nợ
đúng hạn sẽ phát sinh nợ quá hạn, nâng cao chất lượng của công tác tín dụng,
góp phần làm tăng doanh thu dịch vụ, nâng cao hiệu quả hoạt động Ngân
hàng.
Hai là, hiệu quả hoạt động TTQT được mang lại thông qua việc tăng
cường hỗ trợ nghiệp vụ tài trợ xuất nhập khẩu:
Bên cạnh các khoản thu phí dịch vụ trên, Ngân hàng còn có thể thu
được lãi trong các nghiệp vụ tài trợ thương mại trên cơ sở phương thức thanh
toán Nhờ thu, phương thức thanh toán Tín dụng chứng từ, tài trợ thương mại
trên cơ sở bảo lãnh Ngân hàng… Các khoản phí dịch vụ Ngân hàng thu được
thông qua dịch vụ tài trợ XNK như: Phí chiết khấu chứng từ hàng xuất miễn
truy đòi, Ngân hàng mua đứt bộ chứng từ hàng xuất khẩu của khách hàng,
mọi rủi ro trong thu hồi tiền hàng từ nước ngoài thuộc về Ngân hàng. Do vậy
tỷ lệ phí chiết khấu trong trường hợp này thường cao hơn phí chiết khấu truy
đòi.
Khi hoạt động này càng phát triển thị hiệu quả mang lại từ hoạt động

TTQT càng cao.
Ba là, hiệu quả hoạt động TTQT được đánh giá qua việc góp phần tăng
cường và tạo hiệu quả kinh doanh ngoại hối:
Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ TTQT, Ngân hàng bán ngoại tệ
cho khách hàng có nhu cầu thanh toán tiền hàng nhập khẩu, hoặc mua của
khách hàng có nguồn ngoại tệ thu về trong thanh toán hàng xuất. Khi nghiệp
vụ thanh toán XNK qua Ngân hàng ngày càng phát triển sẽ tạo điều kiện cho
hoạt động kinh doanh ngoại tệ nâng cao được doanh số. Như vậy, nhờ vào
hoạt động TTQT các Ngân hàng phát triển được hoạt động kinh doanh ngoại
tệ, tạo khả năng tăng doanh thu dịch vụ, đạt hiệu quả trong kinh doanh Ngân
hàng.
Bốn là, hiệu quả hoạt động TTQT được đánh giá thông qua việc làm
tăng và củng cố nguồn vốn cho Ngân hàng:
Khi thực hiện nghiệp vụ TTQT, mọi nguồn thu ngoại tệ từ nước ngoài
hoặc chi ngoại tệ để thanh toán cho nước ngoài, các NHTM phải thực hiện
thông qua tài khoản NOSTRO – Tài khoản tiền gửi ngoại tệ tại nước ngoài.
Trong khi đó, hoạt động thanh toán quốc tế ngày càng phát triển, doanh số
thanh toán hàng xuất càng cao thì nguồn ngoại tệ thu về trên tài khoản
NOSTRO càng lớn, số dư tiền gửi ngoại tệ của NHTM cũng sẽ tăng. Như
vậy, hoạt động TTQT đã ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng nguồn vốn tiền
gửi ngoại tệ ở nước ngoài. Đây chính là hiệu quả mà hoạt động thanh toán
quốc tế mang lại cho quá trình kinh doanh của Ngân hàng.
Năm là, hiệu quả mà hoạt động TTQT đem lại còn được đánh giá thông
qua sự phát triển mạng lưới Ngân hàng đại lý, phát triển quan hệ hối ngoại,
nâng cao uy tín của Ngân hàng:
Để quá trình thực hiện các hoạt động kinh doanh đối ngoại của mình
trên lĩnh vực thanh toán, bảo lãnh được nhanh chóng, an toàn và thuận lợi, các
Ngân hàng trong nước phải có quan hệ với các Ngân hàng đại lý ở nước
ngoài. Mối quan hệ này phải dựa trên cơ sở hợp tác và tương trợ. Với thời
gian hoạt động nghiệp vụ càng lâu, mối quan hệ này ngày càng được mở rộng

đồng thời uy tín của Ngân hàng trên thương trường quốc tế được nâng cao.
Đây chính là hiệu quả mà hoạt động TTQT đem lại cho Ngân hàng.
Tóm lại, hoạt động TTQT phải gắn liền với hoạt động kinh tế quốc tế
của quốc gia, phải phù hợp với đường lối phát triển kinh tế đối ngoại của đất
nước trong từng thời kì. Hiệu quả hoạt động TTQT không chỉ thể hiện ở phần
lợi nhuận của hoạt động này mang lại cho Ngân hàng cao hay thấp mà còn
thông qua nó tạo hiệu quả cho các hoạt động khác tại Ngân hàng cũng như
khách hàng và cho nền kinh tế phát triển.
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động TTQT
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động TTQT có
vai trò quan trọng trong việc đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
của nó. Chúng ta có thể tập trung vào một số nhân tố chủ yếu sau:
a) Nhân tố khách quan
Nhân tố khách quan có thể được chia thành:
- Môi trường kinh tế khu vực và trong nước: Bao gồm trình độ phát
triển của nền kinh tế, sự tham gia của mọi thành viên vào hoạt động của thị
trường với một trình độ phát triển nhất định của sức sản xuất. Một nền kinh tế
với sự phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch
vụ… đồng nghĩa với việc nâng cao về đầu tư quốc tế, xuất nhập khẩu. Nhu
cầu đó đòi hỏi hoạt động TTQT của các NHTM trong khu vực, quốc gia đó
càng lớn cả về quy mô, chất lượng cũng như phạm vi hoạt động.
- Môi trường chính trị: Một sự ổn định về chính trị sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho lĩnh vực kinh tế đối ngoại của một nước phát triển, trên cơ sở đó
các hoạt động thương mại quốc tế sẽ phát triển, nhu cầu thanh toán XNK sẽ
tăng theo.
- Môi trường pháp lý: Bất cứ hoạt động kinh doanh nào vượt ra ngoài
biên giới một quốc gia sẽ phải tuân thủ hai loại luật pháp: đó là luật pháp
trong nước và luật pháp của nước chủ nhà nơi tiến hành hoạt động kinh
doanh.
- Môi trường tài chính quốc tế: Sự tác động của các cuộc khủng hoảng

tài chính đã gây vỡ nợ, phá sản một số doanh nghiệp hoặc Ngân hàng, sẽ tác
động đến hoạt động đến hoạt động TTQT: tiền hàng trong thanh toán XNK
hoặc vốn tín dụng không thu hồi được, nợ đọng…
- Sự ổn định của đồng tiền trong thanh toán: Nếu đồng tiền thanh toán
bị mất giá thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến công tác xuất khẩu, nó làm cho hoạt
động xuất khẩu giảm sút. Ngược lại, nếu đồng tiền thanh toán tăng thì nó lại
làm giảm các hoạt động nhập khẩu. Chính sự bất ổn định của đồng tiền trong
thanh toán làm ảnh hưởng đến hoạt động ngoại thương, dẫn đến ảnh hưởng
tới hoạt động TTQT của các Ngân hàng. Do vậy, hoạt động TTQT khá nhạy
cảm với sự thay đổi về giá trị của đồng tiền trong thanh toán.
- Năng lực kinh doanh của khách hàng: Đối với lĩnh vực TTQT, khách
hàng của Ngân hàng là những doanh nghiệp kinh doanh XNK, có quan hệ
thương nhân với nước ngoài đòi hỏi họ phải là người năng động, có năng lực
và trình độ về TTQT và pháp luật nước ngoài.
b) Nhân tố chủ quan
Nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động TTQT điển hình
như:
- Chính sách đối ngoại của Ngân hàng: Bao gồm các định hướng
chung trong việc mở rộng quan hệ đối ngoại, quan hệ đại lí với các ngân hàng
nước ngoài, phát triển hoạt động TTQT, đưa ra các quy trình nghiệp vụ
TTQT… Chính sách đối ngoại của Ngân hàng phải phù hợp với quan điểm,
đường lối phát triển kinh tế đối ngoại của một quốc gia.
- Chính sách phát triển dịch vụ của NHTM: Nếu Ngân hàng chỉ quan
tâm đến các dịch vụ sẵn có mà không quan tâm đến phát triển các dịch vụ
mới sẽ đi dần vào lạc hậu, không theo kịp đà tiến bộ xã hội, không đủ khả
năng hội nhập và chắc chắn sẽ bị đào thải. Vì vậy, chính sách phát triển dịch
vụ phải nằm trong tổng thể chiến lược kinh doanh của Ngân hàng và phải bao
gồm dịch vụ TTQT. Một chính sách phát triển dịch vụ hấp dẫn, phù hợp với
yêu cầu của khách hàng sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng thu hút khách hàng.
Để thực hiện chính sách này, các Ngân hàng phải thực hiện đa dạng hóa

nghiệp vụ, nghiên cứu áp dụng các nghiệp vụ mới vào trong thực tiễn nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nói chung và hoạt
động TTQT nói riêng.
- Chính sách khách hàng: Cần phải gắn liền hiệu quả kinh doanh của
khách hàng với hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng, kết hợp nhiều loại hình
dịch vụ với các nhu cầu tổng thể. Đồng thời có chính sách ưu đãi với những
khách hàng trung thành, khách hàng truyền thống và khách hàng có doanh số
hoạt động TTQT qua Ngân hàng lớn.
- Chính sách tỷ giá của Ngân hàng: Phải phù hợp với cơ chế quản lí tỷ
giá của Ngân hàng Nhà nước. Một chính sách tỷ giá linh hoạt, phù hợp với cơ
chế thị trường, đáp ứng được yếu tố đôi bên cùng có lợi giữa khách hàng và
Ngân hàng sẽ làm phát triển hoạt động TTQT tại Ngân hàng.
- Năng lực kinh doanh ngoại hối của Ngân hàng trên thị trường ngoại
hối trong và ngoài nước: Nếu Ngân hàng có năng lực kinh doanh ngoại hối tốt
sẽ thu hút được nhiều ngoại tệ, từ đó có thể thỏa mãn nhu cầu thanh toán hàng
nhập khẩu cho khách hàng. Đồng thời nắm bắt những thông tin liên quan đến
hoạt động thanh toán quốc tế trong và ngoài nước để từ đó Ngân hàng sẽ có
những thông tin quan trọng có lợi cho hoạt động kinh doanh của mình cũng
như để tư vấn cho khách hàng. Điều này sẽ mang lại hiệu quả cho cả Ngân
hàng và khách hàng.
CHƯƠNG 2 : PHÂN TÍCH CÁC HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN
QUỐC TẾ TẠI NHNo & PTNT CHI NHÁNH ĐÔNG ANH
2.1. GIỚI THIỆU ĐÔI NÉT VỀ NHNo & PTNT CHI NHÁNH
ĐÔNG ANH
2.1.1. Sự ra đời và phát triển của NHNo & PTNT Chi nhánh Đông
Anh
Từ khi giành được chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã xác định: “
Để đạt được sự ổn định về chính trị, để nền kinh tế có thể phát triển đi lên
ngang tầm các quốc gia độc lập có nền kinh tế phát triển trên thế giới thì phải
giành và kiểm soát được hệ thống Ngân hàng – Tài chính”. Trong hoàn cảnh

đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã được thành lập ngày 06/05/1951.
Thực hiện chủ trương của Đảng, năm 1959 trên địa bàn Đông Anh
Ngân hàng Nhà nước Chi điếm Đông Anh được thành lập. Hoạt động của
Ngân hàng lúc bấy giờ thực chất là thay Ngân sách Nhà nước cấp phát vốn
tiền mặt cho đơn vị theo kế hoạch, hoạt động tín dụng mang tính bao cấp,
đồng vốn cho vay không tính đến hiệu quả kinh tế. Như vậy trong thời kì này,
Ngân hàng Đông Anh chưa phải là một Ngân hàng Thương Mại theo đúng
nghĩa của nó: là một tổ chức tài chính trung gian chuyên hoạt động về lĩnh
vực tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận
tiền gửi và cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán cho nền kinh tế.
Đến khi Đảng và Nhà nước thực hiện bước chuyển mình, từ nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước (1986). Theo quyết định số 53/HĐBT ngày 26/3/1988 thì hệ thống Ngân
hàng là một cấp chuyển sang hệ thống Ngân hàng hai cấp. Ngân hàng cấp một
là Ngân hàng Nhà nước với chức năng điều hành quản lí vĩ mô. Ngân hàng
cấp hai là Ngân hàng thương mại với chức năng kinh doanh tiền tệ. Với sự
tách bạch này thì hệ thống ngân hàng thương mại thực sự ra đời. Sau đó với
quyết định số 53/HĐBT – NHNN Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước chi điếm
Đông Anh đổi tên thành Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Đông Anh (NHNo & PTNT Đông Anh) thuộc NHNo & PTNT
Thành phố Hà Nội. Năm 1996 có sự thay đổi về cơ chế quản lí và cấp điều
hành, NHNo & PTNT Đông Anh tách ra khỏi NHNo & PTNT Hà Nội. Và từ
đó đến nay, NHNo & PTNT Chi nhánh Đông Anh trực thuộc trung tâm điều
hành NHNo & PTNT Việt Nam.
Chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của NHNo & PTNT Chi nhánh Đông
Anh là một tổ chức chuyên kinh doanh về tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân
hàng. Bên cạnh đó, NHNo & PTNT Chi nhánh Đông Anh còn phải bảo đảm
hoạt động được lành mạnh, an toàn có hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích của
các cá nhân, tổ chức, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà

nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chi nhánh NHNo & PTNT Đông Anh có văn phòng trụ sở chính đặt tại
ngã tư trung tâm thị trấn Đông Anh (Khối 1A – Thị trấn Đông Anh – Thành
phố Hà Nội). Hiện nay, mô hình tổ chức của Chi nhánh gồm có phòng tổ chức
hành chính, phòng kiểm soát nội bộ và 5 phòng nghiệp gồm phòng Kinh
doanh, phòng Kế toán – ngân quỹ, phòng Thẩm định, phòng Thanh toán quốc
tế (nay mới đổi tên thành phòng Kinh doanh ngoại hối), phòng Tín dụng, 4
chi nhánh cấp 2 gồm: chi nhánh Bắc Thăng Long, chi nhánh Mai Lâm, chi
nhánh Nguyên Khê, chi nhánh Liên Hà và 3 phòng giao dịch gồm: phòng giao
dịch Nam Hồng, phòng giao dịch Vân Trì, phòng giao dịch Dâu. Tổng số cán
bộ nhân viên là 117 người.
 Cơ cấu tổ chức của NHNo&PTNT Đông Anh được mô tả theo
sơ đồ sau :
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Đông Anh có một hệ
thống các phòng chức năng phối kết hợp chặt chẽ với nhau tạo điều kiện
thuận lợi cho việc quản lí, điều hành và đã tạo cho NHNo&PTNT Đông Anh
một mô hình hoạt động khá hiệu quả.
2.1.2. Kết quả hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT Chi
nhánh Đông Anh
Trong mấy năm gần đây tình hình kinh tế trên địa bàn huyện Đông Anh
tiếp tục phát triển ổn định, đạt mức tăng trưởng khá. Tháng 11/2006 Việt
Nam chính thức là thành viên thứ 150 của tổ chức Thương Mại Thế Giới
(WTO), kéo theo đó thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam cũng được mở
rộng hơn, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân ngày càng nâng cao, bộ
mặt nông thôn đổi mới từng ngày. Từ đó đến nay, tốc độ đô thị hóa, các khu
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề truyền thống được mở rộng và
phát triển mạnh. Đạt được thành tựu đó không thể không nhắc đến sự nỗ lực
và đóng góp không nhỏ của hệ thống NHTM trong khu vực, đặc biệt phải kể
Phòng
kế toán

– ngân
quỹ
Phòng
thẩm
định
Phòng
hành
chính
-tổ
chức
Phòng
tín
dụng
Phòng
nguồn
vốn kế
hoạch
Phòng
kiểm
tra-
kiểm
toán
nội bộ
Phòng
Kinh
doanh
Ngoại
hối
Phòng
kinh

doanh
Các chi
nhánh
cấp 2
GIÁM ĐỐC
CÁC PHÓ GIÁM
ĐỐC
Các
phòng
giao dịch
đến là NHNo & PTNT chi nhánh Đông Anh. Hoạt động của NHNo & PTNT
chi nhánh Đông Anh năm 2007 đã đạt được một số kết quả nhất định như sau:
Nguồn vốn huy động
Nguồn vốn huy động năm 2007 đạt 1510 tỷ VND đạt 102/100 so với kế
hoạch, trong đó :
- Nguồn vốn nội tệ đạt : 1408 tỷ VNĐ
- Nguồn vốn ngoại tệ quy đổi đạt :102 tỷ VNĐ
Trong đó, vốn huy động từ dân cư tại chi nhánh là 835 tỷ VNĐ tăng so
với năm 2006 là 192 tỷ đồng, tốc độ tăng 29.86 %.
Kết quả tài chính năm 2007
Lợi nhuận đạt : 24,2 tỷ VNĐ, tăng 6.5% so với năm 2006 và đạt 96%
so với kế hoạch.
Nhìn chung, năm 2007 Chi nhánh đã thực hiện cơ chế lãi suất huy động
và cho vay một cách linh hoạt, cơ cấu lãi suất hợp lí, đa dạng hóa các loại sản
phẩm, đảm bảo tính cạnh tranh lành mạnh mà vẫn đem lại lợi ích cho khách
hàng và ngân hàng. Đồng thời, ngân hàng cũng không phân biệt thành phần
kinh tế mở rộng đầu tư cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, chọn lọc khách
hàng để đầu tư vốn, đặc biệt chi nhánh đã chăm sóc những khách hàng truyền
thống có quan hệ tốt với ngân hàng. Nhờ đó mà hoạt động kinh doanh của chi
nhánh luôn đạt được hiệu quả cao.

Thành tựu mà chi nhánh NHNo & PTNT Đông Anh đã đạt được trong
những năm qua có đóng góp rất lớn của hoạt động thanh toán quốc tế.
Sự phát triển hoạt động thanh toán quốc tế của Chi nhánh trong những
năm qua gắn với sự tăng trưởng các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến ngoại tệ
như: kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế, thanh toán thẻ. Séc, chi trả kiều
hối, các lĩnh vực tài trợ thương mại phục vụ xuất nhập khẩu, góp phần tạo ra
sự thay đổi cả về chiều rộng và chiều sâu trong quan hệ với khách hàng nội
địa và quốc tế.
Hoạt động thanh toán quốc tế năm 2007
Năm 2007 là năm thứ 8 chi nhánh thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc
tế. Hoạt động thanh toán quốc tế tại Chi nhánh ngày càng được mở rộng và đi
vào chiều sâu, hoạt động thanh toán ngày càng đạt được hiệu quả cả về mặt
lượng lẫn chất. Thực hiện thanh toán cho các ngân hàng nước ngoài đúng thời
hạn cam kết, ngày càng có uy tín đối với các ngân hàng đại lý nước ngoài, với
khách hàng trong và ngoài nước.
2.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ
TẠI CHI NHÁNH NHNo&PTNT ĐÔNG ANH
Hoạt động thanh toán quốc tế của NHNo&PTNT Việt Nam được tổ
chức theo mô hình quản lý vốn tập trung, xử lý nghiệp vụ tổng hợp. Trong đó
các Chi nhánh cấp I (bao gồm NHNo&PTNT Chi nhánh Đông Anh) được
phép trực tiếp thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Phòng Thanh toán
quốc tế của NHNo & PTNT Chi nhánh Đông Anh được thành lập vào ngày
01/04/2002. Mọi quy trình kĩ thuật nghiệp vụ TTQT được thực hiện theo
quyết định số 447/QĐ – NHNo – QHQT ngày 07/06/2001 về quy trình kĩ
thuật nghiệp vụ thanh toán quốc tế trong hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam
và đến ngày 01/01/2006 thực hiện theo quyết định số 1998/QĐ – NHNo –
QHQT ngày 15/12/2005 về quy trình kĩ thuật nghiệp vụ thanh toán quốc tế
trong hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam.
2.2.1. Thanh toán chuyển tiền
Đây là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận cho Chi nhánh. Mặc dù

Đông Anh là địa bàn hoạt động ngoại thương không mấy thuận lợi song hoạt
động thanh toán này của Chi nhánh đã có những bước đầu phát triển khá khả
quan.
2.2.1.1. Quy trình nghiệp vụ thanh toán Chuyển tiền
* Thanh toán chuyển tiền đi
Trong quan hệ thanh toán XNK, nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu có thể
thỏa thuận điều kiện thanh toán bằng phương thức chuyển tiền TTR. Khi
khách hàng mang chứng từ tới Ngân hàng xin làm thủ tục thanh toán chuyển
tiền, Ngân hàng tiếp nhận bộ hồ sơ liên quan đến việc chuyển tiền bao gồm
các chứng từ: Hợp đồng ngoại thương, Lệnh chi ngoại tệ, Giấy đề nghị mua
ngoại tệ, Bộ chứng từ gửi hàng của người xuất khẩu và Bộ hồ sơ pháp lí (đối
với khách hàng giao dịch lần đầu với Ngân hàng) bao gồm : Giấy đăng kí mã
số kinh doanh xuất nhập khẩu, mã số thuế, quyết định bổ nhiệm Giám đốc và
Kế toán trưởng, Biên bản họp Hội đồng thành viên sáng lập và điều lệ hoạt
động của công ty (nếu có).
Căn cứ vào bộ hồ sơ xuất trình thanh toán viên sẽ kiểm tra tính đầy đủ,
xác thực và phù hợp của các chứng từ theo yêu cầu của chế độ quản lí ngoại
hối và thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt hiện hành của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, đồng thời thanh toán viên cũng sẽ kiểm tra và xác nhận số dư
tài khoản của khách hàng. Nếu hồ sơ phù hợp thì thanh toán viên tiến hành
lập điện MT 103 trong hệ thống SWIFT nội bộ và in làm 03 bản, trong đó : 01
bản lưu hồ sơ chuyển tiền, 01 bản chuyển bộ phận kế toán ngoại tệ hạch toán,
01 bản trả cho khách hàng.
Sau khi kiểm tra xong, thanh toán viên trình lãnh đạo Phòng và Ban
giám đốc duyệt. Khi ban giám đốc đã phê duyệt, lãnh đạo Phòng gửi điện về
Sở đầu mối NHNo & PTNT Việt Nam và điện được chuyển tiếp ra nước
ngoài cho người thụ hưởng.
* Thanh toán chuyển tiền đến
Hàng ngày, lãnh đạo Phòng và các thanh toán viên truy cập vào chương
trình SWIFT nội bộ kiểm tra các bức điện được chuyển đến từ Sở Quản lý

vốn và Kinh doanh ngoại tệ - NHNo & PTNT Việt Nam. Căn cứ vào các bức
điện MT 103 được chuyển tới, lãnh đạo Phòng tiến hành kiểm tra nội dung
bức điện và in ra làm 02 bản chuyển bộ phận kế toán ngoại tệ hạch toán vào
tài khoản chỉ định trong bức điện cho người thụ hưởng. Đồng thời thông báo
bằng điện thoại, fax… cho khách hàng của Ngân hàng biết.
2.2.1.2. Thực trạng hoạt động thanh toán Chuyển tiền
Tại Chi nhánh, hoạt động thanh toán Chuyển tiền được coi là một
nghiệp vụ chiếm doanh số tương đối lớn (chỉ đứng sau hoạt động thanh toán
Tín dụng chứng từ), bao gồm thanh toán Chuyển tiền đi và thanh toán Chuyển
tiền đến. Hoạt động này cũng mang đến nguồn thu phí đáng kể cho Chi
nhánh.
* Thanh toán chuyển tiền đi
Hoạt động chuyển tiền đi chủ yếu là chuyển tiền thương mại (Thanh
toán TTR.TT).
Đối tượng khách hàng thanh toán chuyển tiền qua Chi nhánh đa số là
các DN cổ phần, DN nhà nước như : Công ty cổ phần XNK Hà Anh, Công ty
ô tô 1-5, Công ty xích líp Đông Anh, Công ty Đông Thành, Công ty TNHH
Vạn Lộc, Công ty TNHH SX & KD XNK Tuyên Quang, Công ty cổ phần In
sách giáo khoa Hà Nội để thanh toán tiền nhập khẩu hàng hóa dịch vụ.
Bảng 1.1 : Doanh số thanh toán tiền chuyển đi
Đơn vị: Quy 1000 USD
Chỉ tiêu
Năm
2005
Năm
2006
Năm
2007
Năm 2006
so với 2005

Năm 2007
so với
2006
Số món chuyển tiền đi 38 47 88 1,24 lần 1,87 lần
Doanh số chuyển tiền đi 5,091 1,846 7,792 63,7% 322%
(Nguồn: Báo cáo hoạt động TTQT)
Qua số liệu bảng 1.1 ta thấy doanh số chuyển tiền năm 2006 là
1,846 nghìn USD giảm mạnh so với năm 2005 là 3,245 nghìn USD, đạt
36,3% (tức giảm 63,7%) so với năm 2005, trong khi đó số món chuyển tiền đi
lại tăng 1,24 lần. Nguyên nhân là do chỉ số giá tiêu dùng năm 2006 tiếp tục
tăng, làm sức cạnh tranh của nhiều hàng hóa, dịch vụ, nhiều mặt hàng thiết
yếu như: lương thực thực phẩm, sắt thép, vật liệu xây dựng, xăng dầu và một
số nguyên vật liệu tăng cao, đã ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm, hạn chế
việc mở rộng sản xuất cũng như là nhập khẩu các mặt hàng của các DN. Do
vậy mà doanh số cho những món tiền chuyển đi trong năm 2006 của khách
hàng là nhỏ hơn năm 2005 đã làm cho tổng doanh số chuyển tiền đi năm 2006
bị giảm so với năm 2005. Đến năm 2007 thì số món chuyển tiền đi đã tăng rất
nhanh, cụ thể là 88 món, gấp 1,87 lần so với năm 2006 và doanh số đạt 7,792
nghìn USD tức tăng 322% so với năm 2006 và tăng 53% so với năm 2005. Có
được kết quả này là do các doanh nghiệp thường xuyên hoạt động thanh toán
chuyển tiền qua NHNo & PTNT chi nhánh Đông Anh đã tạo dựng được uy
tín của mình với các đối tác nước ngoài do đó họ có thêm nhiều những hợp
đồng ngoại thương với điều khoản thanh toán là TTR.
Song song với nhân tố khách quan trên là Chi nhánh đã tiến hành nhiều
chính sách tiếp thị, thu hút khách hàng và tạo dựng được uy tín trên địa bàn
nên ngoài các khách hàng truyền thống còn có các khách hàng mới khác đến
yêu cầu thanh toán chuyển tiền.
* Thanh toán chuyển tiền đến
Hoạt động Chuyển tiền đến tại Chi nhánh chủ yếu là Chuyển tiền cá
nhân (trong đó chuyển tiền Western Union chiếm tỷ trọng khá lớn), chi kiều

hối và một số ít là chuyển tiền thanh toán L/C hàng xuất khẩu. Doanh số cho
những món chuyển tiền đến thường là nhỏ.
Bảng 1.2 : Doanh số thanh toán chuyển tiền đến
Đơn vị: Quy 1000 USD
Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007
Năm 2006
so với 2005
Năm 2007
so với 2006
Số món tiền chuyển đến 1218 1196 1341 0,98 lần 1,12 lần
Doanh số tiền chuyển đến 3,847 3,406 9,701 11,5% 184%
(Nguồn: Báo cáo hoạt động TTQT)
Qua bảng số liệu 1.2 cho ta thấy trong năm 2006 số món chuyển tiền
đến giảm 0,98 lần và doanh số là 3,406 nghìn USD giảm 11,5 % so với năm
2005. Nguyên nhân là do cuộc khủng hoảng xăng dầu trên thế giới đã ảnh
hưởng đến sự biến động chỉ số giá cả ở hầu hết các nước trên thế giới. Do đó
nguồn thu nhập của các cá nhân đi lao động ở nước ngoài gặp khó khăn hơn
và nguồn ngoại tệ gửi về bị hạn chế hơn. Đến năm 2007, số món tiền chuyển
đến đã tăng 1,12 lần so với năm 2006 và doanh số đạt 9,701 nghìn USD tức là
tăng so với năm 2006 184%. Để đạt được kết quả này, Ngân hàng No &
PTNT Chi nhánh Đông Anh đã không ngừng cố gắng thu hút khách hàng mới
và tạo dựng được uy tín trong và ngoài địa bàn. Và cũng bởi lẽ, môi trường
kinh doanh trong nước đã an toàn và rộng mở hơn trước kể từ khi Việt Nam
gia nhập WTO. Bước ngoặt này đã làm các nhà kinh doanh trong nước thấy
rằng không thể thụ động và chờ đợi sự bảo hộ của Nhà nước nữa, họ cần phải
khai thác những cơ hội mà WTO đem lại. Đồng thời những doanh nhân nước
ngoài cũng nhận thấy thị trường Việt Nam là một thị trường tiềm năng, cần
đầu tư để phát triển hơn.
Hoạt động chuyển tiền đến làm tăng nguồn thu nhập cho Chi nhánh, là
hoạt động không thể thiếu được trong quá trình thu hút nguồn vốn ngoại tệ

phục vụ hoạt động thanh toán chuyển tiền đi của Chi nhánh. Vì vậy, NHNo &
PTNT đã và đang không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ, đẩy mạnh công

×