Lời mở đầu
Từ hơn một thập kỷ nay, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá trở
thành một xu thế khách quan và diễn ra nhanh chóng, vừa tạo cơ hội cho các nền
kinh tế vừa tăng sức ép cạnh tranh. Cạnh tranh là một trong những quy luật kinh tế cơ
bản của kinh tế thị trờng, là công cụ để thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo dựng nên
những doanh nghiệp thành đạt đủ sức cạnh tranh trên thị trờng trong nớc và quốc tế.
Vì thế doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải có khả năng cạnh tranh
cao. Đặc biệt đối với ngành sản xuất dệt may là ngành có tốc độ phát triển nhanh
chóng sản phẩm dệt may luôn chiếm tỷ trọng lớn và đứng vị trí thứ hai sau dầu thô
của nớc ta, có khả năng thâm nhập không chỉ những thị trờng quy định hạn ngạch mà
cả những thị trờng không có hạn ngạch.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2003 đạt 3,6 tỷ USD, tăng thêm 30%
so với năm 2002 là một mốc son mới của ngành dệt may, trong vòng 3 năm kim
ngạch xuất khẩu tăng gần hai lần.
Do có đặc điểm là không đòi hỏi vốn lớn, lại thu hồi vốn nhanh và sử dụng
nhiều lao động, là ngành hầu hết các nớc đang phát triển tham gia nên mức độ cạnh
tranh càng cao.
Từ năm 1995 đến nay, với những lợi thế so sánh về lao động, chi phí, hàng dệt may
Việt Nam đã từng bớc chiếm lĩnh đợc thị trờng quốc tế, trong đó có ba thị trờng lớn:
thị trờng EU, thị trờng Nhật Bản và thị ttrờng Mỹ. Nhng chỉ còn cha đầy chín tháng
nữa Hiệp định hàng dệt may trong khuôn khổ WTO sẽ đợc thực hiện hoàn toàn. Th-
ơng mại thế giới bớc vào giai đoạn mới - giai đoạn tự do hoá thơng mại hàng dệt
may. Khi hàng dệt may thế giới( ATC) chấm dứt, chuyển từ chế độ bảo hộ bằng hạn
ngạch sang cạnh tranh thực sự giữa các nớc xuất khẩu dệt may trong tổ chức thơng
mại thế giới thì cạnh tranh quốc tế sẽ ngày càng gay gắt. Hơn thế nữa sức cạnh tranh
của phần lớn sản phẩm dệt may của Việt Nam còn yếu cả về chất lợng và giá cả.
Cánh cửa duy nhất đảm bảo thành công là nâng cao sức cạnh tranh của hàng dệt may
1
Việt Nam trên thị trờng quốc tế vì đó là vấn đề sống còn của các doanh nghiệp dệt
may Việt Nam hiện nay.
Để thực hiện đợc mục tiêu hàng dệt may Việt Nam giành thắng lợi trong cạnh
tranh khi hội nhập kinh tế quốc tế, cần phải nâng cao khả năng cạnh tranh và đa ra
các giải pháp nhằm tăng khả năng cạnh tranh đối với hàngdệt may Việt Nam trên thị
trờng quốc tế.
Đó cũng là lý do mà em chọn đề tài: Giải pháp nhằm nâng cao khả năng
cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trờng quốc tế .
Nội dung của đề án:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và mục lục, đề án gồm những phần chính sau
đây:
Chơng I: Một số vấn đề về khả năng cạnh tranh.
Chơng II: Thực trạng về khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam
trên thị trờng quốc tế.
Chơng III: Giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt
may Việt Nam trên thị tròng quốc tế.
Do trình độ còn hạn hẹp và thời gian hạn chế nên đề án không tránh khỏi
những thiếu sót nhất định.Mong đợc sự góp ý, điều chỉnh, bổ sung của thầy Nguyễn
Đình Trung để đề án của em đợc đầy đủ và hoàn thiện hơn. Em xin cảm ơn thầy.
2
CHơng I
Một số vấn đề về khả năng cạnh tranh
I - Khái niệm
1. Cạnh tranh là gì?
Ngày nay, hầu hết tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải thừa nhận trong mọi
hoạt động kinh tế đều phải có cạnh tranh và coi cạnh tranh không những là môi tr-
ờng, động lực của sự phát triển nói chung, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển và
tăng năng suất lao động, hiệu quả của các doanh nghiệp nói riêng mà còn là yếu tố
quan trọng làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội.
Một trong những khó khăn là không có một sự đồng nhất trong quan niệm về cạnh
tranh. Lý do là thuật ngữ này đợc sử dụng để đánh giá cho tất cả các doanh nghiệp,
các ngành, các quốc gia và cả khu vực liên quốc gia.
Khi xác định tính cạnh tranh của một doanh nghiệp hay của một ngành công
nghiệp chỉ cần xét đến tiềm năng sản xuất một hàng hoá hay dịch vụ ở một mức giá
ngang bằng hay thấp hơn mức giá phổ biến mà không phải có trợ cấp.
Uỷ ban cạnh tranh công nghiệp của Tổng thống Mỹ sử dụng định
nghĩa cạnh tranh đối với một quốc gia nh sau:
Cạnh tranh đối với một quốc gia là mức độ mà ở đó dới các điều kiện thị trờng tự do
và công bằng , có thể sản xuất các hàng hoá và dịch vụ đáp ứng đợc các đòi hỏi của
các thị trờng quốc tế , đồng thời duy trì và mở rộng đợc thu nhập thực tế của nhân
dân nớc đó.
Báo cáo về cạnh tranh toàn cầu định nghĩa cạnh tranh đối với một quốc gia là:
Khả năng của nớc đó đạt đợc những thành quả nhanh và bền vững về mức sống
nghĩa là đạt đợc các tỉ lệ tăng trởng kinh tế kinh tế cao đợc xác định bằng sự thay đổi
của tổng sản phẩm quốc nội(GDP) trên đầu ngời theo thời gian.
3
Diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức Hợp tác và phát triển
kinh tế (OECD) đã chọn định nghĩa về cạnh tranh, cố gắng kết hợp các doanh nghiệp
, ngành và quốc gia nh sau :
Khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia và vùng trong việc tạo ra việc
làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế.
Định nghĩa trên phù hợp vì nó phản ánh khả năng cạnh tranh quốc gia nằm
trong mối liên hệ trực tiếp với hoạt động cạnh tranh của các doanh nghiệp và lợi thế
cạnh tranh trở thành một nhân tố quan trọng trong hoạt động kinh tế .
2. Khả năng cạnh tranh là gì ?
Thuật ngữ khả năng cạnh tranh đợc sử dụng rộng rãi trong các phơng tiện
thông tin đại chúng, trong sách báo chuyên môn, trong giao tiếp hàng ngày của các
chuyên gia kinh tế, các nhà kinh doanh Nh ng cho đến nay vẫn cha có một sự nhất
trí cao trong các học giả và giới chuyên môn về khái niệm khả năng cạnh tranh ở cả
cấp quốc gia lẫn cấp ngành, công ty, xí nghiệp. Lý do cơ bản là ở chỗ có nhiều cách
hiểu khác nhau về khả năng cạnh tranh.
Đối với một số ngời, khả năng cạnh tranh chỉ có ý nghĩa rất hẹp, đợc thể hiện
qua các chỉ số về tỷ giá thực và trong mối quan hệ thơng mại.Trong khi đó, đối với
những ngời khác, khái niệm khả năng cạnh tranh lại bao gồm khả năng sản xuất
hàng hoá và dịch vụ đủ sức đáp ứng đòi hỏi của cạnh tranh quốc tế và yêu cầu bảo
đảm mức sống cao cho các công dân trong nớc .
Trong cuốn sách nổi tiếng Lợi thế cạnh tranh của các quốc giacủa M.Porter đã
cho rằng chỉ có năng suất là chỉ số có ý nghĩa khi nói về khả năng cạnh tranh quốc
gia.
Còn Krugman(1994) thì lại cho rằng : Khái niệm về khả năng cạnh tranh chỉ phù
hợp với cấp độ công ty, đơn giản là vì nếu một công ty nào đó không đủ khả năng bù
đắp chi phí của mình, thì chắc chắn phải từ bỏ kinh doanh hoặc phá sản.
II .Phân loại khả năng cạnh tranh
Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế gồm khái niệm cạnh tranh quốc gia, khái
niệm cạnh tranh doanh nghiệp và khái niệm cạnh tranh của hàng hoá và dịch
vụ.Trong đó, khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ là nhiệm vụ trọng tâm và
4
cơ bản để phát triển nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế của nớc ta.
1 . Khả năng cạnh tranh quốc gia
Đây là một khái niệm phức hợp, bao gồm các yếu tố ở tầm vĩ mô, đồng thời
cũng bao gồm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong cả nớc. Khả năng
cạnh tranh đợc định nghĩa là khả năng của một nền kinh tế đạt đợc tăng trởng bền
vững, thu hút đợc đầu t bảo đảm ổn định kinh tế xã hội, nâng cao đời sống của ngời
dân .
2 . Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp đợc đo bằng khả năng duy trì và mở
rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trờng cạnh tranh trong nớc
và quốc tế.
Một doanh nghiệp có thể kinh doanh một hay nhiều sản phẩm và dịch vụ. Vì
vậy mà có phân biệt khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp với khả năng cạnh tranh
của sản phẩm, dịch vụ.
3 . Khả năng cạnh tranh của sản phẩm
Khả năng cạnh tranh của sản phẩm đợc đo bằng thị phần của sản phẩm đó trên
thị trờng .
Giữa ba cấp độ khả năng cạnh tranh có mối quan hệ qua lại mật thiết với
nhau, tạo điều kiện cho nhau, chế định và phụ thuộc lẫn nhau. Một nền kinh tế có
khả năng cạnh tranh cao phải có nhiều doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh. Ngựơc
lại để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh, môi trờng kinh doanh
của nền kinh tế phải thuận lợi, các chính sách kinh tế vĩ mô phải rõ ràng, có thể dự
báo đợc, nền kinh tế phải ổn định, bộ máy nhà nớc phải trong sạch, hoạt động có
hiệu quả, có tính chuyên nghiệp.
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp đợc thể hiện qua hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp đợc đo thông qua lợi nhuận, thị phần của doanh nghiệp, thể hiện qua
chiến lợc kinh doanh của doanh nghiệp. Là tế bào của nền kinh tế , khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp tạo cơ sở cho khả năng cạnh tranh quốc gia.
Đồng thời khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng thể hiện qua khả năng
5
cạnh tranh của các sản phẩm mà doanh nghiệp đó kinh doanh. Doanh nghiệp có thể
kinh doanh một hay một số sản phẩm có khả năng cạnh tranh. Khả năng cạnh tranh
của sản phẩm phụ thuộc vào chính sách quốc gia, vào năng lực và hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp.
III - Các nhân tố ảnh hởng đến khả năng cạnh tranh của dệt may
Việt Nam
1. Nhóm nhân tố ảnh hởng đến khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt
Nam
1.1. Các đối thủ cạnh tranh hiện tại và tiềm ẩn
Một trong các yếu tố ảnh hởng đến lợi thế cạnh tranh của ngành dệt may là
cuộc cạnh tranh giữa các đối thủ cạnh tranh hiện tại và đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn.
M.Porter- Giáo s trờng kinh doanh Havard nói: cuộc cạnh tranh giữa các đối thủ nói
chung cũng có hình thức nh một cuộc đua ngựa để giật giải, sử dụng các chiến thuật
nh cạnh tranh về giá, các cuộc chiến về quảng cáo, giới thiệu sản phẩm và tăng cờng
phục vụ khách hàng
Có thể nói khi xâm nhập vào thị trờng dệt may thế giới đặc biệt là thị trờng
EU, Nhật Bản, Mỹ bằng con đờng xuất khẩu thì đối thủ cạnh tranh khổng lồ và đáng
gờm nhất đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam là Trung Quốc. Trung Quốc
giữ vị trí hàng đầu trong ngành dệt may thế giới về sản lợng sợi bông, vải bông và
sản phẩm may mặc và đứng thứ hai về sợi hoá học.
Kể từ đầu những năm 90, Trung Quốc luôn là một trong những nớc đứng đầu
thế giới về xuất khẩu hàng dệt và may mặc. Kim ngạch xuất khẩu chiếm tỷ trọng
ngày càng cao trong tổng kim ngạch buôn bán hàng dệt may toàn cầu. Trung bình
kim ngạch xuất khẩu hàng may chiếm 20% kim ngạch xuất khẩu toàn cầu trong đó
các thị trờng truyền thống là: Nhật Bản, Hồng Kông, Mỹ, EU. Bốn thị trờng chính
này chiếm trên 80% tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may của Trung Quốc năm 2002.
Sau khi gia nhập WTO, đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu hàng may của Trung
Quốc sẽ chiếm đến 47% thị trờng may mặc của thế giới( theo dự đoán của các
chuyên gia nghiên cứu thế giới). Ngành dệt may của Trung Quốc là một ngành có
sức cạnh tranh mạnh nhất trên thị trờng thế giới vì ngành này có nhiều lợi thế rất lớn
6
từ nguyên liệu bông, xơ, hóa chất, thuốc nhuộm đến máy móc thiết bị sợi, dệt hoàn
tất đều do các ngành sản xuất trong nớc cung cấp cộng với giá nhân công thấp và các
chính sách hỗ trợ xuất khẩu của chính phủ Trung Quốc đã làm cho ngành này phát
triển nhanh chóng.
Bên cạnh Trung Quốc thì các đối thủ cạnh tranh khác nh: Hàn Quốc, Đài
Loan, Thái Lan, Singapore, Philippines là các n ớc xuất khẩu hàng may với kim
ngạch xuất khẩu cao hơn Việt Nam bởi họ tạo đợc nhiều lợi thế hơn so với các sản
phẩm hàng dệt may củaViệt Nam. Năm 2001, kim ngạch xuất khẩu hàng may của
Thái Lan bằng 4 lần, Trung Quốc bằng hơn 25 lần của Việt Nam.
Ngoài ra, ấn độ, cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên cũng là những nhà sản
xuất tơ lụa có tiếng mà các doanh nghịêp Việt Nam phải tính đến khi tham gia vào
thị trờng khu vực và thế giới.
Rõ ràng đối với ngành dệt may Việt Nam có quá nhiều đối thủ cạnh tranh nặng
ký. Điều này làm cho mức độ cạnh tranh trên thị trờng xuất khẩu thế giới rất gay gắt
và quyết liệt buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải đầu t đúng mức về mọi phơng
diện để trụ đợc một cách vững vàng trên thị trờng thế giới.
12. Nhà cung ứng
Trong sản xuất dệt may , nguyên liệu đóng vai trò quan trọng và có ảnh hởng
quyết định đến chất lợng sản phẩm và hiệu quả sản xuất. Ngành dệt may Việt Nam
sử dụng các nguyên liệu chính là: bông xơ, xơ sợi tổng hợp, len, đay ,tơ tằm, xơ liber
khác, các loại hoá chất cơ bản khác và thuốc nhuộm trong đó quan trọng nhất là
bông xơ và xơ sợi tổng hợp.
Do không chủ động đợc nguồn nguyên liệu(80%% nguyên liệu sử dụng cho
ngành dệt may phải nhập từ nớc ngoài)nên ngành dệt may Việt Nam phải chịu sức ép
nặng nề của việc tăng giá nguyên liệu trên thế giới. Mặt khác, nguồn nguyên liệu phụ
thuộc vào nhập khẩu mà không thống nhất ở một vài đơn vị có chức năng nhập và do
nhiều đầu mối, thậm chí không phải ngành dệt may vẫn đứng ra nhập và phân phối
theo nhiều loại giá khác nhau, làm cho biến động giá đầu vào khiến đầu ra không ổn
định.Hiện nay phần lớn nguyên liệu sử dụng cho ngành dệt may phải nhập từ Trung
Quốc. Ngoài ra còn nhập của một số nớc nh:Thái Lan,Australia,Hàn
7
Quốc,Pakistan làm ảnh h ởng đến hiệu quả kinh tế của ngành dệt may, gây nên tình
trạng bị động trong điều hành sản xuất
1.3. .Khách hàng
Thị trờng đợc hiểu là những nhóm khách hàng. Quyền lực thơng lợng của nhóm
khách hàng này xét về tổng thể là một trong những lực lợng cạnh tranh cơ bản quyết
định khả năng sinh lợi tiềm tàng của một ngành. Các khách hàng là khác nhau, việc
lựa chọn khách hàng là một yếu tố chiến lợc.Sự lựa chọn khách hàng có thể tác động
mạnh đến tỉ lệ tăng trởng của ngành và có thể giảm tới mức tối thiểu quyền lực của
khách hàng .
Hàng dệt may Việt Nam hiện đang xuất khẩu vào hai khu vực : thị trờng có hạn
ngạch và thị trờng phi hạn ngạch.
Trong thị trờng có hạn ngạch quan trọng nhất là thị trờng EU.Thời gian gần
đây, việc xuất khẩu hàng dệt may vào EU trở nên khó khăn hơn vì kiểm tra chất lợng
gắt gao và phía EU gây sức ép đối với ta.
Mỹ là thị trờng xuất khẩu dệt may rất hấp dẫn,có thể khai thác lợi thế từ đặc
điểm của thị trờng Mỹ.Tuy nhiên vào thị trờng Mỹ cần phải chú ý đến các vấn đề nh:
quy dịnh rất khắt khe về nhãn hiệu, biểu tợng hàng may
Nhật Bản là thị trờng phi hạn ngạch quan trọng nhất. Nhng trong thời gian gần
đây, xuất khẩu sang thị trờng này cũng gặp nhiều khó khăn do nền kinh tế Nhật Bản
vẫn tiếp tục suy thoái, làm giảm sức mua của ngời dân.
2 . Nhóm nhân tố ảnh hởng đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt
may Việt Nam
2.1.Marketing
Marketing là thực hiện các công việc bao gồm việc định giá, xúc tiến bán hàng,
quảng cáo và phân phối giúp cho doanh nghiệp bán đợc hàng hoá và giữ đợc vị trí
trên thị trờng so với các đối thủ cạnh tranh. Đặc biệt các doanh nghiệp dệt may cần
quảng bá sản phẩm hàng hóa của mình để tiêu thụ đợc sản phẩm trên thị trờng quốc
tế. Xúc tiến rhơng mại là vấn đề bức xúc của hoạt động xuất khẩu, để đạt đợc hiệu
quả cao, công tác nàyphải đợc đẩy mạnh ở cả 3 cấp: chính phủ, các bộ, các cơ quan
xúc tiến thơng mại và các doanh nghiệp.
8
Các doanh nghiệp có thể chủ động tìm kiếm khác hàng qua các biện pháp xúc
tiến xuất khẩu nh: Internet, hội chợ, triển lãm, đại lý Hợp tác liên kết mở văn
phòng đại diện thơng mại tại các thị trờng xuất khẩu. Việc định ra đợc các chính
sách Marketing thích hợp sẽ giúp cho các doanh nghiệp cạnh tranh với các đối thủ
cạnh tranh trên thị trờng để chiếm lĩnh và mở rộng đợc thị trờng.
2.2 .Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực có vai trò quyết định và ảnh hởng tới sự thành bại của một
doanh nghiệp. Lao động của doanh nghiệp là một yếu tố đầu vào cơ bản của quá
trình sản xuất. Doanh nghiệp sử dụng lao động có kỹ năng càng cao thì càng hiệu
quả và thực hiện nhiệm vụ một cách nhanh hơn và chính xác hơn so với các lao động
có kỹ năng thấp. Do vậy nguồn nhân lực tốt là một đảm bảo cho sự phát triển lâu dài
và bền vững. Các doanh nghiệp dệt may cần một đội ngũ lớn công nhân lành nghề,
cán bộ quản lý, kỹ s thực hành, nhà thiết kế thời trang, thiết kế mẫu mã cho đến giám
đốc doanh nghiệp và cán bộ quản lý cấp cao để đảm bảo hoạt động có hiệu quả, góp
phần nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may đặc biệt là trên thị trờng
quốc tế.
2.3 .Tài chính
Tài chính của các doanh nghiệp có thể tạo lập điểm mạnh hay điểm yếu.
Thực vậy, khả năng tài chính có thể ảnh hởng đến khả năng của doanh nghiệp đối với
việc xây dựng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ mà yêu cầu cần có những
khoản đầu t thích hợp. Khả năng tạo lập vị thế tài chính của một doanh nghiệp phụ
thuộc vào việc doanh nghiệp lập kế hoạch cho sự phát triển của nó nh thế nào theo
cách nhìn của ngân hàng và các nhà đầu t. Đối với ngành sản xuất dệt may, do có đặc
điểm là không đòi hỏi vốn lớn, lại thu hồi vốn nhanh và sử dụng nhiều lao động nên
mức độ cạnh tranh của ngành này rất cao. Do vậy, doanh nghiệp muốn tồn tại và
phát triển phải có nguồn lực về tài chính khá cao.
2.4 . Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng giúp cho doanh nghiệp đạt đợc mục tiêu một cách có hiệu quả và
là môi trờng trong đó tất cả các hoạt động tạo ra giá trị khác diễn ra. Trớc hết, cơ sở
hạ tầng giúp cho doanh nghiệp có thể thúc đẩy, duy trì hiệu qủa trên phạm vi doanh
9
nghiệp và khuyến khích sự hợp tác giữa các bộ phận chức năng trong việc theo đuổi
mục tiêu hiệu quả.
Các doanh nghiệp cầnphát triển cơ sở hạ tầng để tạo điều kiện thuận lợi cho
các bộ phận chức năng đạt đợc hiệu quả siêu ngạch, nâng cao khả năng cạnh tranh
cho các sản phẩm của doanh nghiệp .
10
Chơng II
Thực trạng về khả năng cạnh tranh của hàng dệt
may Việt Nam trên thị trờng quốc tế
I Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong những năm qua
Ngành may Việt Nam thực sự khởi săc từ thập niên 90 và có tốc độ tăng trởng
khá nhanh. Số liệu về tốc độ tăng xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam trên ba thị
trờng chủ yếu: Mỹ , EU và Nhật Bản đã phản ánh những cố gắng lớn của ngành này
trong hơn mời năm qua.
Hàng may Việt Nam xuất khẩu giai đoạn 1994-2000 sang thị ttrờng Mỹ cha
đáng kể , tốc độ tăng xuất khẩu đạt trung bình 52,6 % / năm. Nhng với sự mở đờng
của Hiệp định thơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ thì kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ đã
tăng nhanh từ 49 triệu USD năm 2001 lên 975 triệu USD năm 2002 và theo Hiệp
định dệt may Việt Nam - Hoa Kỳ vừa ký, hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may của
Việt Nam năm 2003 ớc đạt 1,7 tỷ USD và triển vọng tăng trởng ổn định trong những
năm tới.
EU đợc coi là thị trờng chính, khá quen thuộc của ngành may Việt Nam, khi
Việt Nam ký Hiệp định hàng Dệt- May vào năm 1992 thì từ năm 1993 đến 1997, tốc
độ tăng trởng xuất khẩu hàng dệt may đạt hơn 23%/ năm. Và hạn ngạch giai đoạn
1998 -2000 tăng thêm 40% so với giai doạn trớc và thoả thuận sơ bộ cho giai đoạn
2003-2005 có mức tăng từ 50- 70% tuỳ theo nhóm hàng.Tuy nhiên, 2 năm 2001 và
2002 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU đang có xu hớng giảm từ 617 triệu
USD năm 2001 xuống còn 540 triệu USD năm 2000 ( giảm 12%)
Nhật bản là thị trờng không hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch
xuất khẩu tăng nhanh, đặc biệt kể từ năm 1994. Năm 1997, Việt Nam đã trở thành
một trong bẩy nớc xuất khẩu quần áo lớn nhất vào Nhật Bản với thị ttrờng hàng dệt
thoi là 3,6% và dệt kim là 2,3%. Nhng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật
Bản đang trong chiều hớng giảm, năm 2000 đã đạt 619 triệu USD tăng 5% so với
năm trớc nhng năm 2001 giảm 0,5% còn 616 triệu USD và năm 2002 là 419 triệu
11
USD, giảm 20%. Tuy nhiên, cũng nh ở các thị trờng khác, hàng may Việt Nam cũng
chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ bé trong tổng nhập khẩu của thị trờng này: năm 2001 tỷ trọng
hàng dệt may Việt Nam là 3,18%.
Trong 10 năm trở lại đây ngành dệt may đã chứng tỏ là một ngành công
nghiệp mũi nhọn trong nền kinh tế, có những bớc tiến vợt bậc trong lĩnh vực xuất
khẩu. Từ năm 1991 đến nay, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may nớc ta không ngừng
tăng. Năm 1991, tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam chỉ đạt 158 triệu
USD, đến năm 1998 đã gấp 9,18 lần, đạt 1450 triệu USD, tơng đơng với tốc độ tăng
trởng bình quân hàng năm là 43,5% tức khoảng 160 triệu USD/năm. Năm 2001 kim
ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 2 tỷ USD gấp 16,9 lần so với năm 1990 và chiếm
tỷ trọng 13,25% trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu hàng
dệt may năm 2003 đạt 3,6 tỷ USD, tăng thêm 30% so với năm 2002 là một thắng lợi
lớn của ngành dệt may. Nó không chỉ góp phần đa kim ngạch xuất khẩu nói nhung
của cả nớc tăng 20% mà còn tạo cơ sở vững chắc cho sự tăng trởng xuất khẩu trong
những năm sau.
Hàng dệt may Việt Nam hiện đang xuất khẩu vào hai khu vực thị trờng : thị
trờng có hạn ngạch và thị trờng phi hạn ngạch.Trong các thị trờng xuất khẩu đó thì
ba thị trờng quan trọng nhất là: thị trờng Mỹ ,thị trờng Eu và thị trờng Nhật Bản với
tình hình xuất khẩu nh sau:
1.Tình hình xuất khẩu sang thị trờng Mỹ
1.1.Kim ngạch xuất khẩu
Hoa Kỳ là nớc đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng may mặc. Hàng năm Hoa
Kỳ nhập khẩu khoảng 50-60 tỷ USD hàng may mặc và dệt. Kim ngạch xuất khẩu
hàng dệt may của Việt Nam sang thị trờng Hoa Kỳ tăng dần lên qua các năm, từ
19,74 triệu USD năm 1994 lên tới 26,34 triệu USD năm 1998 và đạt 49,57 triệu USD
năm 2000. Năm 2002 con số này là 975 triệu USD và ớc đạt 1,7 tỷ USD năm
2003.Tuy nhiên tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu
sang Mỹ lại có xu hớng giảm dần. Nếu năm 1998 chiếm 8,4% sang Mỹ thì đến năm
1999 là 5,8% và năm 2001 chỉ còn 4,4% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, trong khi
kim ngạch xuất khẩu tuyệt đối vẫn tăng.
12