Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

Chính sách chống bán phá giá của hoa kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (626.9 KB, 48 trang )

1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
BỘ MÔN: KINH TẾ QUỐC TẾ
BÀI TẬP NHÓM MÔN CHÍNH SÁCH
KINH TẾ ĐỐI NGOẠI II
Đề tài:
CHÍNH SÁCH CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA HOA
KỲ: NỘI DUNG, NHỮNG ĐIỂM CẦN LƯU Ý VÀ
GIẢI PHÁP CHO CÁC DOANH NGHIỆP XUẤT
KHẨU VIỆT NAM
Giảng viên hướng dẫn :
Lớp chuyên ngành :
Nhóm thực hiện :
Hà Nội, tháng 10/2013
2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng đã tạo ra nhiều cơ
hội và thách thức to lớn cho các quốc gia. Cùng với sự cạnh tranh gay gắt trên thị
trường thế giới, các quốc gia phải đối mặt với những khó khăn trong đẩy mạnh xuất
khẩu do các nước nhập khẩu đã tận dụng những quy ddnhj mở để tạo ra những rào cản
mới như chông bán phá giá, chống trợ cấp để bảo hộ sản xuất trong nước.
Những năm gần đây, chống bán phá giá nổi lên là một vấn đề thương mại gây
nhiều tranh cãi trong thương mại quốc tế. Chống bán phá giá là một biện pháp phòng vệ
thương mại dành cho những ngành sản xuất nội địa bị thiệt hại bởi những hành vi
thương mại không lành mạnh của người xuất khẩu. Chống bán phá giá hoạt động như
một bức tường thành chống lại hành vi cạnh tranh không công bằng của các nhà xuất
khẩu nước ngoài.
Đối với một số thị trường khó tính nhất thế giới như Hoa Kỳ, EU, Việt Nam là
một trong những nước bị khởi kiện điều tra bán phá giá nhiều nhất. Từ những năm


2003, Việt Nam đã vi phạm Luật chống bán phá giá của Hoa Kì khi xuất khẩu các mặt
hàng cá da trơn. Cho đến những tháng gần đây, mặt hàng tôm của Việt Nam cũng bị
Hoa Kỳ đem ra điều tra bán phá giá
3
Hoa Kỳ, với tư cách là bạn hàng lớn nhất của Việt Nam và cũng là bạn hàng khó
chơi nhất, là một trong những quốc gia tiên phong trong việc sử dụng luật chống bán
phá giá để điều chỉnh mối quan hệ thương mại với các quốc gia khác. Các doanh nghiệp
Việt Nam cũng đã có dịp đối mặt với luật chống bán phá giá của Mỹ. Sự đơn giản về
mặt bản chất nhưng phức tạp về các quy định cũng như cách thức xử lý đòi hỏi các
doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam phải có vốn hiểu biết nhất định về chính sách chống
bán phá giá của Hoa Kỳ.

4
CHƯƠNG 1: CHÍNH SÁCH CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA HOA
KỲ
1.1 – BÁN PHÁ GIÁ VÀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
1.1.1 – Khái niệm
- Bán phá giá: Bán phá giá trong thương mại quốc tế có thể hiểu là hiện tượng xảy ra
khi một loại hàng hóa được xuất khẩu từ nước này sang nước khác với mức giá thấp
hơn giá bán của hàng hóa đó tại thị trường nội địa nước xuất khẩu.
Cụ thể, nếu một sản phầm của nước A bán tại thị trường nước A với giá X, nhưng lại
được xuất khẩu sang nước B với giá Y (Y<X) thì sản phẩm đó được xem là bán phá giá
từ nước A sang nước B.
- Chống bán phá giá:
Bán phá giá được coi là hình thức cạnh tranh không lành mạnh trong thương mại quốc
tế. Vì vậy các nước nhập khẩu cần có những biện pháp chống bán phá giá để bảo hộ nền
sản xuất nội địa. Các biện pháp chống bán phá giá như một công cụ phản công, tái lập
lại sự bình đẳng trong cạnh tranh.
1.1.2 – Nguyên nhân của việc bán phá giá
- Do có các khoản tài trợ của Chính phủ hoặc cơ quan công cộng nước ngoài. Chính

sách tài trợ nhằm đạt được 2 muc đích chính sau:
+ Duy trì mức sử dụng nhất định với các yếu tố sản xuất như lao động và tiền
vốn trong nền kinh tế. Các hình thức tài trợ chủ yếu là: trợ cấp, ưu đãi về thuế, tín dụng
ưu đãi, sự tham gia của Chính phủ vào các chi phí kinh doanh cũng như các hỗ trợ xuất
khẩu
+ Các khoản tài trợ giúp các ngành thực hiện công nghệ mới, trang bị máy và
thiết bị hiện đại, nghĩa là giúp cho các ngành mới gia nhập thị trường và đẩy mạnh phát
triển những ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước, tăng cường xuất khẩu. Do đó
chi phí sản xuất giảm xuống dẫn đến việc hạ giá bán.
- Do nhập siêu lớn, vẫn phải có ngoại tệ để bù đắp cho thiếu hụt này. Khi đó có thể áp
dụng biện pháp bán phá giá để giải quyết cho vấn đề thiếu hụt ngoại tệ
- Do trong nước có quá nhiều hàng tồn kho, không thể giải quyết theo cơ chế giá bình
thường
5
- Bán phá giá cũng được sử dụng như một công cụ cạnh tranh. Sau khi đã chiếm lĩnh
được thị trường nội địa của nước nhập khẩu, triệt tiêu được sự cạnh tranh của hàng nội
địa thì các hãng sẽ tìm cách thao túng thị trường nội địa để thu được lợi nhuận tối đa.
- Cũng có thể có một số nước làm ra sản phẩm với giá thành rất thấp do sử dụng lao
động trẻ em, tiền lương thấp và sử dụng lao động tù nhân làm hàng xuất khẩu. Việc sử
dụng lao động trẻ em ngoài việc mang lại siêu lợi nhuận còn là cách để cạnh tranh với
các đối thủ. Nhờ giá nhân công rẻ mạt, người ta có thể hạ giá thành sản phẩm, xuất
khẩu hàng hóa bán phá giá ở nước ngoài.
1.1.3 – Tác động của việc bán phá giá
• Đối với nước xuất khẩu
- Tích cực: Bán phá giá giúp cho các doanh nghiệp trong nước xuất khẩu mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm, tăng thu được ngoại tệ, giúp tiêu thụ được lượng hàng tồn
kho, đặc biệt là các mặt hàng lương thực, thực phẩm, quần áo lỗi mốt
Ngoài ra biện pháp bán phá giá còn là công cụ quan trọng trong chính sách Ngoại
thương của đất nước nhằm giúp cho việc thực hiện những mục tiêu cụ thể trong chiến
lược phát triển kinh tế xã hội của nước đó.

- Tiêu cực: Người tiêu dùng trong nước phải chịu thiệt do phải chịu giá cao hơn so với
trước đây do có sự thỏa thuận về giá giữa các doanh nghiệp.
Do việc bán phá giá nhằm mục đích thu được siêu lợi nhuận nên một vài nước đã sử
dụng lao động trẻ em, phũ nữ, lao động tù nhân với giá rẻ mạt. Hậu quả là người lao
động bị ngược đãi nặng nề. Trung Quốc là một trong những nước tiêu biểu sử dụng lao
động tù nhân. Theo số liệu mới đây của văn phòng quốc tế về lao động trẻ em (BIT) thì
trên toàn thế giới có trên 250 triệu trẻ em từ 5-14 tuổi đang tham gia hoạt động kinh tế.
• Đối với nước nhập khẩu
- Tích cực: Người tiêu dùng có cơ hội để lựa chọn, tiêu dùng những mặt hàng mới lạ,
giá cả dễ chấp nhận.
Đối mặt với những mặt hàng từ nước ngoài đưa vào với giá rẻ hơn, buộc các dịch vụ
trong nươc phải tìm cách cải tiến mẫu mã hàng hóa, đổi mới máy móc thiết bị, nâng cao
chất lượng sản phẩm, tích cực áp dụng công nghệ tiên tiến, tận dụng nguồn nhân lực để
hạ chi phí sản xuất nhằm giữ vững vị trí trên thị trường và thu đươc lợi nhuận tối ưu.
6
- Tiêu cực: Bán phá giá hàng hóa gây ra không ít khó khăn cho nước nhập khẩu, nhất
là đối với các nước đang phát triển, có thị trường hẹp.
Trước hết với người tiêu dùng của nước nhập khẩu, họ phải sử dụng những mặt hàng
kém chất lượng, hàng giả, đôi khi cả hàng quá thời hạn sử dụng, không đảm bảo về an
toàn thực phẩm, vệ sinh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe.
Các chủ doanh nghiệp, những người kinh doanh hám lợi, tìm mọi cách nhập lậu hàng
hóa, trốn thuế, gây thất thu cho ngân sách nhà nước. Hơn thế, do không thể cạnh tranh
được với hàng hóa nước ngoài nên nhiều xí nghiệp trong nước bị đình trệ sản xuất, bị
phá sản hoàn toàn.
1.1.4 – Mục đích chống bán phá giá
Bán phá giá bị coi là hành vi thương mại quốc tế không công bằng. Như vậy, để
tạo dựng lại thế cạnh tranh cân bằng giữa sản phẩm trong nước và sản phẩm nhập khẩu,
bảo vệ thị trường nội địa chống lại các hành vi cạnh tranh quốc tế không lành mạnh, các
quốc gia có quyền áp dụng các biện pháp chống bán phá giá. Do đó mục tiêu của các
biện pháp chống bán phá giá là để bù đắp lại những thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa

phải gánh chịu do hành vi bán phá giá gây ra.
Mặc dù, mục tiêu của các biện pháp chống bán phá giá được cho là để đảm bảo
sự công bằng trong thương mại quốc tế nhưng trên thực tế không đơn giản như vậy. Đối
với các nước đang phát triển như Ấn Độ, Brazil, Achentina… sử dụng các biện pháp
chống bán phá giá để bảo vệ nền sản xuất còn non trẻ của chính mình. Đối với các quốc
gia phát triển, các biện pháp chống bán phá giá vừa là công cụ để hạn chế mở cửa thị
trường, hạn chế sự thâm nhập thị trường từ các quốc gia đang phát triển và vừa là cái
van an toàn cần thiết cho chính họ.
Các quốc gia có quyền tự do trong việc xây dựng các thủ tục để xác định hiện
tượng bán phá giá và áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu
vào nước mình. Dẫn đến, nhiều quốc gia đã lạm dụng các biện pháp chống bán phá giá
một cách tùy tiện để hạn chế nhập khẩu, hơn là để đạt được các mục tiêu khắc phục có
tính hạn chế mà Hiệp định chống bán phá giá của WTO cho phép.
1.2 – NỘI DUNG CHÍNH SÁCH CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA HOA KỲ
1.2.1 – Căn cứ xác định
1.2.1.1 – Xác định bán phá giá
7
Định nghĩa về phá giá và cách xác định phá giá của WTO đã được quy định tại
Điều 6 của GATT: “Phá giá là hành vi mà sản phẩm của một quốc gia được bán ở quốc
gia khác tại mức thấp hơn giá trị thông thường và làm thiệt hại hay đe dọa làm thiệt hại
về mặt vật chất một ngành của quốc gia khác hoặc làm chậm trễ sự thiết lập một ngành
ở quốc gia khác.
Một quốc gia bị cho là đã bán sản phẩm của mình ở một quốc gia khác tại mức
thấp hơn giá trị thông thường nều:
- Giá đó thấp hơn mức giá tương đối trong điều kiện thương mại thông thường đối với
sản phẩm tương tự tại nước xuất khẩu
- Nếu không thể xác định dược mức giá nội địa:
+ Mức giá đó thấp hơn mức giá tương đối cao nhất được xuất khẩu tới một nước
thứ ba trong điều kiện thương mại thông thường
+ Mức giá đó thấp hơn chi phí sản xuất tại nước xuất khẩu cộng với một tỷ lệ

hợp lý chi phí và lợi nhuận bán hàng.
Theo quy định tại khoản 800-801, chương 463 thuộc bộ Luật Doanh Thu 1916
của Mỹ (Revenue Act of 1916) hành vi bán phá giá là hành vi nhập khẩu, hỗ trợ việc
nhập khẩu, bán hàng hóa nhập khẩu vào thị trường Mỹ tại mức giá thấp hơn đáng kể so
với giá trị thực hoặc giá bán buôn của hàng hóa đó, tính tại thời điểm xuất khẩu vào thị
trường Mỹ, hoặc tại thị trường chính của nước sản xuất, hoặc tại một nước thứ ba cũng
nhập khẩu hàng hóa đó (giá trị thực của giá bán buôn nói trên là giá không bao gồm
cước vận chuyển, thuế, và các khoản phí khác cần thiết cho việc nhập khẩu và bán tại
thị trường Mỹ) với điều kiện hành vi nói trên được thực hiện nhằm phá hủy hoặc
phương hại một ngành sản xuất ở Mỹ hoặc ngăn cản việc thành lập một ngành sản xuất
ở Mỹ, hoặc giành vị trí độc quyền buôn bán hàng hóa đó ở Mỹ.
Theo định nghĩa trên, một hành vi sẽ được coi là bán phá giá nếu thỏa mãn 2 tiêu chí:
- Hàng hóa đó được bán tại mức giá thấp hơn giá trị thông thường
- Việc bán hàng hóa tại mức giá đó gây thiệt hại tới ngành sản xuất của Mỹ
1.2.1.2 – Các loại sản phẩm có liên quan đến điều tra chống bán phá giá của Hoa Kỳ
- Sản phẩm bị điều tra: là những sản phẩm nhập khẩu bị kiện bán phá giá và loại sản
phấm sẽ bị áp đặt thuế chống bán phá giá nếu quyết định chống bán phá giá được ban
hành
8
- Sản phẩm nước ngoài tương tự với sản phẩm bị điều tra: là các sản phẩm sản xuất bởi
các nhà sản xuất, xuất khẩu liên quan và được bán tại thị trường nước ngoài (nước nhập
khẩu hoặc nước thứ ba, tùy từng trường hợp) giống hệt, hoặc giống về những thành
phần cơ bản với giá trị tương đương, hoặc gống về mục đích sử dụng với sản phẩm
đang bị điều tra, được sử dụng trong so sánh để xác định xem có bán phá giá không.
- Sản phẩm nội địa tương tự với sản phẩm bị điều tra: là các sản phẩm sản xuất tại Hoa
Kỳ tương tự với sản phẩm bị điều tra, được sử dụng khi xác định ngành sản xuất nội địa
liên quan và xác định thiệt hại đối với ngành sản xuất đó.
1.2.2 - Quy trình điều tra và tiến hành các vụ kiện chống bán phá giá
1.2.2.1. Các cơ quan liên quan
- Bộ Thương Mại Hoa Kỳ (DOC): có nhiệm vụ đẩy mạnh phát triển kinh tế và việc

làm. Có trách nhiệm thực thi luật thương mại của Mỹ. Đơn vị quản lý hoạt động nhập
khẩu bao gồm 9 cơ quan (văn phòng).
- Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (ITC): có trách nhiệm lớn trong các điều tra về
các vấn đề thương mại.Thủ tục chống bán phá giá được nêu rõ trong Cuốn Sổ tay về
Chống bán phá giá và Thuế Chống bán phá giá (bản 4056)
1.2.2.2. Các bên tham gia tố tụng về chống bán phá giá
Có hai nhóm người tham gia vào các vụ kiện chống bán phá giá - những người
có quyền đại diện pháp lý (các bên liên quan) và những người khác, người không có
quyền đó.
Các bên liên quan bao gồm:
- Nhà chế tạo, sản xuất hoặc xuất khẩu nước ngoài, hoặc nhà nhập khẩu hoặc các
tổ chức kinh
doanh thương mại Mỹ với đa số các nhà sản xuất, xuất khẩu hoặc nhập khẩu mặt hàng
liên quan;
- Chính phủ của nước sản xuất/xuất khẩu;
- Nhà chế tạo, sản xuất, bán buôn các sản phẩm tương tự trong nước của Mỹ;
- Nghiệp đoàn hoặc nhóm công nhân Mỹ tham gia chế tạo, sản xuất hoặc bán buôn
sản phẩm
tương tự liên quan;
9
- Hiệp hội thương mại hoặc kinh doanh doanh Mỹ với đa số tham gia chế tạo, sản
xuất, hoặc
bán buôn các sản phẩm tương tự liên quan.
- Đối tượng khác bao gồm người tiêu dùng và sử dụng hàng công nghiệp Mỹ.
1.2.2.3. Các giai đoạn chính trong cuộc điều tra chống bán phá giá tại Hoa Kỳ
A. Nộp đơn khởi kiện – Đơn khởi kiện phải có tính chất đại diện cho “Ngành công
nghiệp nội địa Hoa Kỳ”
Một vụ kiện chống bán phá giá bắt đầu bằng việc nộp đơn khởi kiện nhân danh
“ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ”. Ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ được định
nghĩa bao gồm:

- Các nhà sản xuất hoặc kinh doanh một loại sản phẩm nội địa giống hệt với mặt hàng
nhập khẩu bị điều tra
- Hiệp hội các nhà sản xuất hoặc kinh doanh loại sản phẩm đó
- Và công đoàn hoặc nhóm công nhân làm việc trong ngành công nghiệp nội địa đó
Đơn khởi kiện phải được sự ủng hộ của các nhà sản xuất Hoa Kỳ có sản lượng
vừa đồng thời chiếm tối thiểu 25% tổng sản lượng trong nước, vừa chiếm trên 50% tổng
sản lượng của tất cả các doanh nghiệp Hoa Kỳ lên tiếng nhân danh “ngành công nghiệp
nội địa Hoa Kỳ” (ủng hộ hoặc phản đối vụ kiện). Khi thụ lí vụ kiện, trước hết các cơ
quan giải quyết vụ kiện sẽ xem nội dung đơn khởi kiện có bao gồm những thông tin cần
thiết và được ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ ủng hộ hay không.
B. Cơ quan giải quyết: ITC và DOC
Đơn khởi kiện chống bán phá giá phải được gửi đồng thời cho cả ITC và DOC.
Hai cơ quan này sẽ đồng thời tiế hành điều tra cáo buộc ngành công nghiệp nội địa Hoa
Kỳ theo hai trình tự có mục đích và nội dung điều tra khác nhau.
Công việc mà ITC đảm trách trong một vụ kiện chống phá giá là phân tích sự tổn
hại của ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ do hàng nhập khẩu gây nên.
Còn DOC sẽ xác định có hay không việc hàng hóa nhập khẩu được bán ở mức
“thấp hơn giá trị thông thường” và biên độ phá giá của từng nhà xuất khẩu nước ngoài
là bao nhiêu.
C. Tiến trình điều tra chống bán phá giá
1. Bắt đầu điều tra:
10
ITC và DOC sẽ bắt đầu điều tra trong vòng 20 ngày sau khi nguyên đơn nộp đơn
khởi kiện bằng việc xem xét đơn khởi kiện có hội đủ các điều kiện luật định hay không
Giai đoạn điều tra của ITC và DOC là khác nhau. Đối với ITC là 3 năm trước
thời điểm đơn kiện được nộp, và khi cần thiết ITC vẫn có thể yêu cầu các bên cung cấp
thông tin dự đoán cho 2 năm tiếp theo kể từ thời điểm nộp đơn kiện. Trong khi DOC
chỉ quan tâm đến thông tin và dữ liệu của 4 quý tài khóa tròn trước và gần ngày nộp
đơn khởi kiện nhất – áp dụng đối với những nước có nền kinh tế thị trường, hoặc 2 quý
tài khóa tròn trước và gần ngày nộp đơn kiện nhất – áp dụng đối với những nước có nền

kinh tế phi thị trường
2. Điều tra sơ bộ của ITC
a) Điều tra trần tại ITC: ITC sẽ yêu cầu các bên trong vụ kiện cung cấp thông tin và dữ
liệu để phân tích các « dấu hiệu hợp lý » của sự tổn hại nghiêm trọng hoặc sự đe dọa
gây tổn hại nghiêm trọng mà ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ gánh chịu do hàng
nhập khẩu bị điều tra gây ra. Các nhà sản xuất được yêu cầu trả lời một bảng câu hỏi
(questionnaire) về tình hình sản xuất và xuất khẩu của mình. Sau đó các bên sẽ tham gia
một phiên điều tra trần (hearing) trước các ủy viên của ITC để trình bày luận điểm của
mình.
b) Quyết định sơ bộ của ITC: Sau phiên điều tra trần, ITC sẽ đưa ra Quyết định sơ bộ
kết luận về sự tổn hại của ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ (thông thường trong vòng
45 ngày sau khi có đơn khởi kiện)
3. Điều tra sơ bộ của DOC
a) DOC điều tra tình trạng bán phá giá – Bảng câu hỏi : Sau khi ITC công bố Quyết
định Sơ bộ kết luận rằng ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ bị tổn hại nghiêm trọng
hoặc bị đe dọa gây tổn hại nghiêm trọng, DOC sẽ bắt đầu cuộc điều tra sơ bộ của mình
bằng cách yêu cầu những nhà xuất khẩu tham gia vụ kiện trả lời một bảng câu hỏi
b) Phân chia các bị đơn : DOC phân chia các nhà xuất khẩu nước tham gia vụ kiện
thành 2 nhóm chính
- Nhóm các bị đơn bắt buộc (mandatory respondents), bao gồm những nhà xuất khẩu
chiếm ít nhất 60% lượng hàng bị điều tra nhập khẩu vào Mỹ, đây là nhóm bị DOC điều
tra trực tiếp bất kể họ muốn hay không muốn tham gia vào vụ kiện
11
- Nhóm các bị đơn tự nguyện (voluntary respondents) bao gồm những nhà xuất khẩu
tình nguyện tham giam vụ kiện để được hưởng thuế suất chống phá giá riêng biệt được
tính bằng mức bình quân gia quyền của thuế suất chống bán phá giá của tất cả các bị
đơn bắt buộc
c) DOC quyết định Quy chế nền kinh tế thị trường (ME) và nền kinh tế pphi thị trường
(MNE) : Để xác định phương pháp tính biên độ phá giá, DOC đưa ra quyết định về quy
chế ME hoặc MNE của quốc gia nơi nhà xuất khẩu bị điều tra.

d) Quyết định sơ bộ của DOC : Sau khi nhận và phân tích các câu trả lời, thông tin và
dữ liệu từ phía các nhà xuất khẩu, DOC đưa ra Quyết định sơ bộ (DOC Preliminary
Determination) thông thường trong vòng 140 ngày sau khi DOC bắt đầu điều tra hoặc
tối đa 190 ngày trong trường hợp phức tạp. Trong quyết định sơ bộ, DOC tạm thời tính
biên phá giá, của các nhà xuất khẩu và đưa ra nhận định về nhiều vấn đề khác nhau, như
trường hợp nhập khẩu khẩn cấp và thuế suất riêng biệt. Sau thời điểm này, giai đoạn
điều tra sơ bộ kết thúc và chuyển sang giai đoạn điều tra cuối cùng.
4. Điều tra cuối cùng của DOC
a) Thẩm tra tại chỗ : Do quyết định sơ bộ được đưa ra trên cơ sở giả định rằng các
thông tin và dữ liệu do bên bị đơn cung cấp là xác thực, DOC cần tiến hành thẩm tra để
khẳng định tính xác thực này trước khi công bố Quyết định cuối cùng về tình trạng phá
giá. DOC cử chuyên viên kỹ thuật đến cơ sở sản xuất và kinh doanh của các bị đơn bắt
buộc ở nước sở tại nhằm thẩm tra tại chỗ
b) Báo cáo thẩm tra : Sau khi thẩm tra tại chỗ, các chuyên viên kỹ thuật của DOC lập
Báo cáo thẩm tra, trong đó nhận định những thông tin và dữ liệu mà các bị đơn cáo
buộc đã báo cáo trong giai đoạn điều tra sơ bộ của DOC.
c) Quyết định cuối cùng của DOC : Trên cơ sở Báo cáo thẩm tra, DOC đưa ra Quyết
định cuối cùng (thông thường trong vòng 215 ngày sau khi DOC bắt đầu điều tra hoặc
tối đa 275 ngày trong trường hợp phức tạp), trong đó xác định biên phá giá của các nhà
xuất khẩu và kết luận về nhiều vấn đề khác nhau, như trường hợp nhập khẩu khẩn cấp
và thuế suất riêng biệt.
5. Điều tra cuối cùng của ITC
Sau phiên điều tra trần, ITC đưa ra quyết định cuối cùng kết luận về sự tổn hại của
ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ (thông thường trong vòng 260 ngày sau khi có đơn
12
khởi kiện hoặc khoảng 45 ngày sau khi quyết định cuối cùng của DOC trong trường
hợp phức tạp)
6. Lệnh áp dụng thuế chống bán phá giá
Nếu quyết định cuối cùng của ITC khẳng định dấu hiệu có tổn hại nghiêm trọng hoặc
đe dọa gây tổn hại nghiêm trọng đối với ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ, thì DOC sẽ

ban hành lệnh áp dụng thuế chống bán phá giá và giao cho cơ quan hải quan thực hiện
việc thu thuế chống bán phá giá (thông thường khoảng 1-2 tuần sau Quyết định cuối
cùng của ITC). Lệnh áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ chính thức được thực hiện sau
khi được công bố trên Công báo Liên Bang (Federal Registry)
7. Xem xét hành chính hàng năm
Mỗi năm, đến tháng DOC ban hành lệnh áp dụng thuế chống bán phá giá, các bên có
liên quan có quyền yêu cầu DOC xem xét lại biên phá giá theo thủ tục hành chính trong
5 năm liên tiếp.
1.2.3. Các biện pháp chống bán phá giá của Hoa Kỳ
1.2.3.1. Thuế chống bán phá giá
- Mục đích: Để bảo vệ nền sản xuất trong nước, Hoa Kỳ ban hành Luật chống bán phá
giá cho phép chính quyền Hoa Kỳ đánh thuế nhập khẩu đặc biệt, được gọi là “thuế
chống bán phá giá” để bù lại phần tổn hại do việc nhập khẩu hàng hóa với mức giá thấp
ở mức được cho là “không công bằng”.
- Điều kiện áp dụng thuế:
+ Hàng nhập khẩu bị bán phá giá
+ Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của Hoa Kỳ bị thiệt hại đáng kể
+ Có mối quan hệ nhân quả giữa việc hàng nhập khẩu bán phá giá và thiệt hại
nói trên
- Việc áp thuế chống bán phá giá sẽ được DOC phân định như sau:
+ .Mức thuế chống bán phá giá không được vượt quá biên độ bán phá giá được
xác định trong quyết định cuối cùng.
+ Về vấn đề hoàn thuế được áp dụng nếu thuế chống bán phá giá chính thức
được xác định thấp hơn thuế chống bán phá giá tạm thời thì phải thoái trả phần tạm thu
vượt quá. Nếu quyết định chính thức là không thu thuế chống bán phá giá thì phải trả lại
13
tiền nộp thuế chống bán phá giá tạm thời, tiền ký quỹ hoặc các bảo đảm dưới các hình
thức khác.
+ Về vấn đề truy thu thuế, nếu thuế chống bán phá giá chính thức được xác định
cao hơn thuế chống bán phá giá tạm thời thì không thu bổ sung phần thu còn thiếu.

- Cách tính thuế: Thuế chống bán phá giá sẽ được ấn định bằng mức chênh lệch giữa
“giá trị thông thường” và mức giá xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Bộ Thương mại Hoa Kỳ (U.S
Department of Commerce – DOC) sẽ xác định giá trị thông thường của hàng nhập khẩu
bằng một trong ba cách. Theo thứ tự ưu tiên là:
(1) Giá bán của hàng hóa tại thị trường nội địa
(2) Giá bán hàng hóa sang thị trường nước thứ ba
(3) “Giá trị tính toán” được coi là giá trị thông thường để tính biên phá giá khi giá bán ở
thị trường nội địa hoặc giá bán sang nước thứ ba thấp hơn chi phí sản xuất hoặc hàng
hóa đang bị điều tra không bán ở thị trường nội địa, hoặc không được bán ở nước thứ ba
 Đối với các nền kinh tế phi thị trường (Non-Market Economy – NME)
Tiêu chí xác định quy chế kinh tế
Khi xem xét để quyết định kinh tế của nước bị kiện là kinh tế thị trường hay phi thị
trường, DOC căn cứ vào 6 tiêu chí sau đây:
(1) Mức độ chuyển đổi của đồng tiền
(2) Mức độ lương dựa trên cơ sở thị trường
(3) Mức độ cho phép đầu tư nước ngoài ở nước bị kiện
(4) Mức độ chính phủ sở hữu và khống chế tư liệu sản xuất
(5) Mức độ chính phủ quản lý về giá và phân bổ các nguồn lực
(6) Các yếu tố thích hợp khác
Hiện nay, Việt Nam vẫn bị Hoa Kỳ coi là nền kinh tế phi thị trường. Lý do Hoa
Kỳ đưa ra để giải thích cho quyết định này là mặc dù Việt Nam đã có những bước mở
cửa nhất định và cho phép có giới hạn quy luật cung cầu tác động tới sự phát triển kinh
tế, song mức độ can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế vẫn còn ở mức làm cho giá cả
và chi phi sản xuất không phải là thước đo thực sự đối với giá trị. Quy chế kinh tế này
sẽ tiếp tục tồn tại và sẽ được áp dụng cho các vụ kiện chống bán phá giá mới và các đợt
xem xét lại hàng năm cho đến khi có quyết định thay đổi của DOC.
14
DOC quan niệm sự can thiệp của Chính phủ ở những nước có nền kinh tế phi thị
trường đã làm các số liệu về chi phí sản xuất và giá cả không phản ánh đúng giá trị
thông thường của sản phẩm. Do vậy, đối với những vụ kiện bán phá giá liên quan đến

các công ty ở những nước này, DOC không sử dụng phương pháp so sánh giá-với-giá
hoặc giá tri tính toán để xác định giá trị thông thường của sản phẩm. Thay vào đó, DOC
sử dụng một phương pháp hoàn toàn khác, là phương pháp “Các yếu tố sản xuất” để
xây dựng giá trị thông thường của sản phẩm.
Cách tính giá trị thông thường trong trường hợp quốc gia có nền kinh tế phi thị
trường
Đối với trường hợp nền kinh tế phi thị trường các nhà sản xuất hàng bị điều tra
phải cung cấp các thông tin và số liệu về loại và số lượng, khối lượng của các yếu tố
đầu vào của sản xuất (nguyên liệu, nhiên liệu, lao động, các chi phí vốn, các chi phí cần
thiết khác ). DOC xây dựng chi phí sản xuất trực tiếp của một đơn vị sản xuất của một
đơn vị sản phẩm bằng cách nhân số lượng (khối lượng) của các yếu tố đầu vào do bị
đơn cung cấp với giá của các yếu tố đầu vào này ở nước thay thế. Sau đó, DOC sẽ cộng
thêm một khoản các chi phí cố định (factory overhead cost), chi phí khấu hao, và các
chi phí chung, bán hàng và hành chính (GSA) để tính ra toàn bộ chi phí sản xuất của
một đơn vị sản phẩm. Chi phí sản xuất này cộng với lãi và chi phí đóng gói theo mức ở
nước này thay thế được coi là giá trị thông thường của sản phẩm.
Nước thay thế là nước có nền kinh tế thị trường và có trình độ phát triển kinh tế
tương đương với nước bị kiện (chủ yếu dựa trên cơ sở thu nhập quốc dân bình quân đầu
người), và là nước sản xuất đáng kể mặt hàng tương tự như mặt hàng nước bị điều tra.
- Áp dụng phương pháp “Zeroing” hay “ Quy về 0” để tính thuế chống phá giá
Ngoài cách tính biên độ bán phá giá theo phương pháp thông thường, Hoa Kỳ
còn áp dụng phương pháp “Zeroing” để tính biên độ bán phá giá cho một số mặt hàng
nhập khẩu của các quốc gia.
Biên độ phá giá là mức độ chênh lệch giữa giá xuất khẩu với giá thông thường
của hàng nhập khẩu
(Biên độ bán phá giá = Giá trị thông thường – Giá xuất khẩu )
15
+ Nếu như theo phương pháp thông thường tất cả các mức biên độ của các chênh lệch
được cộng hết với nhau. Các giá trị biên độ âm bù trừ cho các giá trị biên độ dương để
ra một biên độ bán phá giá cuối cùng.

+ Theo phương pháp “Zeroing” thì chỉ lấy những giao dịch có biên độ dương để tính
khối lượng bán phá giá còn các giao dịch có biên độ bán phá giá âm thì được quy về 0
và đưa vào công thức tính toán
Hiển nhiên, việc sử dụng ‘zeroing’ sẽ gần như là luôn làm tăng bất kỳ mức thuế
chống bán phá giá nào, và đôi khi sẽ tạo ra một loại thuế chưa bao giờ có, làm phát sinh
biện pháp chưa bao giờ được sử dụng. Chính vì vậy đây là phương pháp gây tranh cãi
gay gắt trong thực tiễn áp dụng biện pháp chống bán phá trên thế giới, đặc biệt là Hoa
Kỳ, quốc gia thường xuyên sử dụng phương pháp này khi tính toán biên độ phá giá.
Việc Hoa Kỳ áp dụng “zeroing” trong 1 thời gian dài đã bị phản đối ít nhất 6 lần tại Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO), và nói chung là đi ngược lại với các cam kết của
Hoa Kỳ tại WTO.
- Thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ
Cũng như các quốc gia trên thế giới, Hoa Kỳ sử dụng thuế chống bán phá giá là
công cụ hữu hiệu nhất trong việc chống lại tình trạng bán phá giá của các nước xuất
khẩu vào Hoa Kỳ để bảo vệ nền sản xuất trong nước.
Hiện nay Trung Quốc luôn là đối tác thương mại lớn của Hoa Kỳ, nhưng Trung
Quốc cũng là quốc gia có nhiều mặt hàng nhập khẩu bị Hoa Kỳ áp thuế chống phá giá
nhiều nhất. Tính đến năm 2012, Trung Quốc có khoảng 25 mặt hàng bị DOC áp thuế
chống bán phá giá, một số mặt hàng bị áp mức thuế rất cao.
Bảng 1.1: Một số mặt hàng nhập khẩu vào Hoa Kỳ từ Trung Quốc
bị áp thuế chống bán phá giá
Mặt hàng Năm áp dụng Mức thuế chống bán phá giá
Tôm đông lạnh 2004 27,89-112,81%
Túi nhựa PE 2004 77,57%
Ống thép 2008 85,55%
Tuabin gió 2011 73%
Sợi 2012 3,47-44,3%
Pin mặt trời 2012 30-250%
Gỗ 2013 56-122%
Dây ruybăng 2013 231,4%

(Nguồn: Tự tổng hợp số liệu)
16
Năm 2004, Mỹ đồng loạt kiện 6 nước gồm: Trung Quốc, Ecuado, Ấn Độ, Thái
Lan, Braxin và Việt Nam khi DOC cho rằng các nước này đã xuất ồ ạt sản phẩm tôm
đông lạnh vào thị trường Hoa Kỳ với giá thấp hơn giá thành sản xuất. Trong số các
quốc gia này thì Trung Quốc là nước bị áp thuế chống bán phá giá cao nhất.
Để đưa ra lý lẽ rằng các Công ty Trung Quốc bán phá giá tôm tại Hoa Kỳ, các
luật sư của nguyên đơn đã đặt ra một mô hình kinh tế phức tạp để xác định chi phí sản
xuất tôm tại Trung Quốc và Việt Nam. Nhưng Trung Quốc và Việt Nam bị xếp vào
diện các nước không có nền kinh tế thị trường, do vậy họ nói rằng số liệu cơ bản, xác
thực về chi phí sản xuất có thể là không hiệu lực. Thay vào đó, các luật sư nguyên đơn
lấy mức giá và chi phí tại Mỹ và Ấn Độ làm thị trường phụ để xác định số liệu. Đối với
trường hợp Trung Quốc các luật sư khảo sát các nhà chế biến tôm ở Hoa Kỳ nhằm tính
toán các hạng mục để có thể chế biến được 1 pao (0,454kg) tôm đông lạnh, như điện
nước, vật liệu đóng gói…Tiếp đến họ nghiên cứu nền kinh tế Ấn Độ để xác định chi phí
của các mục này. Sau đó họ kết hợp hai kết quả này để đưa ra mức chi phí sản xuất.
Cuối cùng họ ước tính tỷ lệ lãi đối với mặt hàng của Trung Quốc. Kết quả của cách tính
toán này đưa ra “giá sản xuất” đối với tôm loại to của Trung Quốc là 10,6 USD/pao, cao
hơn 7,72 USD/pao so với mức giá tôm Trung Quốc nhập khẩu vào Hoa kỳ, và mức
chênh lệch này được chuyển thành mức thuế chống phá giá được đề nghị là 263,68%
(mức cao nhất được dự kiến đối với tôm của Trung Quốc”. Kết quả của vụ kiện, phán
quyết cuối cùng của DOC , tôm động lạnh của Trung Quốc bị áp thuế chống bán phá
giá là 27,89-112,81%. Tuy nhiên các nhà kinh tế cho rằng cách tính toán của chính phủ
Hoa Kỳ như vậy là không hợp lý, bộc lộ đầy rẫy những bất cập.
Về phía Trung Quốc, hoàn toàn cho rằng mức thuế chống phá giá mà Hoa Kỳ áp
dụng đối với tôm đông lạnh của Trung Quốc là không hợp lý. Năm 2011, Trung Quốc
đã kiện Mỹ ra tòa án của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) về các biện pháp chống
bán phá giá hàng nhập khẩu tôm đông lạnh và lư•i cưa gắn kim cương của Trung Quốc
xuất khẩu sang thị trường Mỹ, song không có kết quả, người phát ngôn Chính phủ Mỹ
cho rằng, cáo buộc đó là “không có căn cứ” và rằng Mỹ đã ngừng cách tính này. Hồi

đầu năm, Mỹ nhất trí ngừng cách tính “quy về 0” nhằm chấm dứt tranh cãi suốt 9 năm
tại WTO và tránh tổn thất hàng trăm triệu USD bởi các biện pháp trả đũa của Nhật Bản
và Liên minh châu Âu.
17
Kết quả, vào ngày 8/6/2012, Tổ chức Thương mại Quốc tế ủng hộ Trung Quốc
trong vụ Mỹ kiện Trung Quốc bán phá giá tôm đông lạnh và lư•i cưa gắn kim cương.
Cụ thể, Ban giải quyết tranh chấp của WTO cho rằng, Mỹ đã không tuân thủ các quy
tắc thương mại quốc tế khi áp thuế chống bán phá giá lên các sản phẩm nhập khẩu từ
Trung Quốc và cáo buộc rằng những sản phẩm này cố tình được bán thấp hơn giá thị
trường và vì thế gây thiệt hại cho nhiều doanh nghiệp của Mỹ. Hai nước sẽ có thời gian
60 ngày để kháng cáo quyết định của WTO.
1.2.3.2. Các biện pháp tạm thời
Theo quy định, DOC có thể áp dụng các biện pháp tạm thời nếu như quyết định
sơ bộ xác định có sự tồn tại của bán phá giá và có thiệt hại gây ra bởi bán phá giá cho
một ngành công nghiệp trong nước.
Các biện pháp tạm thời có thể được áp dụng:
- Thuế chống bán phá giá tạm thời;
- Cung cấp các khoản tiền gửi tiền mặt, trái phiếu hoặc các hình thức bảo đảm khác
không vượt quá biên độ bán phá giá được thành lập trong quyết định sơ bộ.
Theo quy định của WTO tại Điều 52 về “Hình thức của các biện pháp tạm thời” thì:
“Các biện pháp tạm thời sẽ có dạng một đảm bảo - đặt cọc bằng tiền mặt hoặc trái phiếu
– không lớn hơn biên phá giá dự tính được nêu ra trong thông báo về quyết định sơ
bộ” . Thời hạn các biện pháp tạm thời theo quy định của Hoa Kỳ là không quá 4 tháng
và trong trường hợp đặc biệt có thể kéo dài đến 9 tháng; trong khi đó theo quy định của
WTO thì lại quy định “các biện pháp tạm thời sẽ được áp dụng trong một thời hạn
không quá 6 tháng.
1.2.3.3. Các cam kết về giá
Thứ nhất, theo quy định của DOC, trong suốt quá trình điều tra chống bán phá
giá, một nhà xuất khẩu bán phá giá hàng hóa có đề xuất với DOC một cam kết nhằm
thay đổi mức giá bán hoặc ngừng xuất khẩu hàng hoá bán phá giá. Cam kết này được

gọi là “cam kết về giá”. Điều khoản Cam kết về giá của Hoa Kỳ định nghĩa như sau:
Thuật ngữ “Cam kết về giá” được đề cập đến trong các quy định này là cam kết một
cách tự nguyện của các nhà xuất khẩu và các nhà sản xuất với DOC, họ hưởng ứng
cuộc điều tra chống bán phá giá bằng cách thay đổi mức giá bán hoặc ngừng xuất khẩu
18
hàng hóa đang được điều tra chống bán phá giá để được DOC chấp thuận đình chỉ hoặc
chấm dứt điều tra.
Thứ hai là, theo Quy định chống bán phá giá của Hoa Kỳ, nếu các nhà xuất khẩu
vi phạm các thỏa thuận về cam kết giá thì cơ quan điều tra của Hoa Kỳ có thể tiếp tục
cuộc điều tra dựa trên các thông tin sẵn có tốt nhất và quyết định áp dụng các biện pháp
tạm thời và áp thuế chống bán phá giá có hiệu lực hồi tố lên các sản phẩm nhập khẩu
trong vòng 90 ngày trước khi áp dụng các biện pháp chống bán phá giá tạm thời, miễn
là trước khi vi phạm cam kết các sản phẩmnhập khẩu không bị áp thuế có hiệu lực hồi
tố. Quy định “áp dụng hiệu lực hồi tố 90 ngày” này về cơ bản là phù hợp với các quy
định của WTO.
Các Quy định tạm thời về cam kết giá quy định thêm rằng nếu trong kết luận
cuối cùng đưa ra mức thuế chống bán phá giá chính thức thấp hơn mức đặt cọc trong
kết luận sơ bộ, thì khoản chênh lệch phải được hoàn lại. Điều khoản này phù hợp với
nguyên tắc bồi hoàn theo Hiệp định chống bán phá giá.
1.2.3.4. Vấn đề rà soát
Theo Quy chế thuế chống bán phá giá của DOC thì sau một năm kể từ ngày
thông báo công khai việc áp đặt thuế chống bán phá giá hoặc thuế chống trợ cấp, DOC
sẽ đệ trình vụ kiện lên Uỷ ban thuế quan để rà soát sự cần thiết phải tự tiến hành điều
tra về việc hết hiệu lực hay thay đổi lý do của việc áp thuế, hoặc điều tra theo yêu cầu
của người khiếu kiện hay bất kỳ bên liên quan nào đệ trình thông tin tích cực cho thấy
cần thiết phải tiến hành rà soát.
Trường hợp Uỷ ban thuế quan quyết định tiến hành điều tra theo quy định trên,
trong vòng 9 tháng kể từ ngày tiếp theo ngày thông báo công khai về vụ điều tra, cơ
quan liên quan sẽ đưa ra kết luận. Trường hợp cần thiết, thời gian đó sẽ được kéo dài,
nhưng thông thường, cuộc điều tra sẽ kết thúc trong vòng 12 tháng kể từ ngày bắt đầu

điều tra.
Bên cạnh đó DOC còn thực hiện các biện pháp rà soát , kiểm soát hết sức chặt
chẽ đối với các mặt hàng nhập khẩu từ các quốc gia có nguy cơ bán phá giá tại thị
trường Hoa Kỳ.
Mặt hàng dệt may Việt Nam tuy chưa bị kiện nhưng Việt Nam luôn bị đặt trong
tình trạng “báo động đỏ” về khả năng bị kiện chống bán phá giá mặt hàng này. Cụ thể
19
ngày từ đầu năm 2007 Hoa Kỳ bắt đầu chương trình giám sát đặc biệt đối với mặt hàng
dệt may của Việt Nam và có thể khởi xướng chống bán phá giá khi có điều kiện. Cùng
với đó, sự gia tăng mạnh về lượng xuất khẩu của một số mặt hàng khác (như đồ gỗ, bao
bì nhựa…) vào thị trường Hoa Kỳ cũng khiến cho tình hình trở nên “căng thẳng”.
1.2.4. Đánh giá chính sách chống bán phá giá của Hoa Kỳ
1.2.4.1. Ưu điểm
Nhìn chung, chính sách chống bán phá giá của Hoa Kỳ về thủ tục, trình tự tiến
hành điều tra, thực hiện chống bán phá giá là khá phù hợp với các quy định của WTO
về chống bán phá giá. Hoa Kỳ đã ban hành các Đạo luật chống phá giá 1916, Đạo luật
chống phá giá 1921 quy định rất rõ ràng, cụ thể các thủ tục hành chính áp dụng cho việc
chống bán phá giá. Những quy định trong các Đạo luật này nhìn chung đã tuân thủ các
tiêu chuẩn của WTO và là công cụ hữu ích đảm bảo công bằng giữa các quốc gia trong
hệ thống WTO nếu xảy ra cuộc tranh chấp về bán phá giá .
Luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ rất chặt chẽ và tỉ mỉ, vì vậy đòi hỏi các nước
khi xuất khẩu sang thị trường này cần phải có sự chuẩn bị , hiểu thấu đáo các quy định
liên quan về luật pháp của nước này, đây là tiền đề vững chắc để Hoa Kỳ bảo vệ các
ngành sản xuất nội địa tránh bị ảnh hưởng tiêu cực bởi hành động bán phá giá của các
quốc gia khác.
1.2.4.2. Nhược điểm
Thứ nhất, chính sách chống bán phá giá của Hoa Kỳ còn đầy dẫy những bất cập,
bất hợp lý. Với “lối chơi” không công bằng quen thuộc của mình, Hoa Kỳ đã vấp phải
sự phản đối của rất nhiều quốc gia trên thế giới.
Luật pháp của Mỹ về các biện pháp đảm bảo cạnh tranh thương mại bình đẳng

nói chung, thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng nói riêng cũng như điều khoản
201 về biện pháp tự vệ thường vẫn luôn được coi là những hỗ trợ chính trị trong nước
cho nền kinh tế trong quá trình tự do hoá thương mại. Do đó, có quan điểm cho rằng
những biện pháp nói trên đã thực sự củng cố thêm các cam kết của Mỹ đối với Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO).Tuy nhiên, luận điểm đó đã bỏ qua một điều gây tranh cãi
rằng luật thương mại Mỹ đang gây xung đột rất lớn với các đối tác thương mại nước
ngoài. Mỹ là nước đang phải đối mặt với nhiều cáo buộc nhất về việc không tuân thủ
các quy tắc đa phương liên quan đến vấn đề chống bán phá giá, thuế đối kháng và tự vệ.
20
Trên cơ sở hàng loạt đơn kiện luật pháp và thông lệ mà Mỹ đang áp dụng, Uỷ ban giải
quyết các tranh chấp của WTO đã đưa ra nhiều quyết định quan trọng trong đó khẳng
định Chính phủ Mỹ đã vi phạm các nghĩa vụ quốc tế của mình.
Việc Hoa Kỳ áp dụng phương pháp “zeroing” trong một thời gian dài đã bị
phản đối ít nhất 6 lần tại Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), và nói chung là đi
ngược lại với các cam kết của Hoa Kỳ tại WTO. Với phương pháp này khi tính toán
biên độ bán phá giá trung bình qua thời gian hoặc qua các sản phẩm, DOC thường bỏ
qua các biên độ bán phá giá "tiêu cực", ví dụ như trong trường hợp giá của các sản
phẩm nhập khẩu ở Mỹ cao hơn giá thị trường nội địa, đương nhiên sẽ làm mức thuế
chống bán phá giá của Hoa Kỳ tăng lên so với các quốc gia khác trên thế giới, tạo ra
những mức thuế phi lý, chưa từng có. Đây là biện pháp gây nhiều tranh cãi đôi khi
khiến cho luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ mang tính bảo hộ nhiều hơn. Chính vì
vậy, việc áp dụng phương pháp “Quy về 0” một cách tùy tiện đã làm cho chính sách
chống bán phá giá của Hoa Kỳ bị lên án gay gắt trong thương mại quốc tế và trực tiếp
làm cho Hoa Kỳ dính vào vòng kiện tụng nhiều lần với các nước trên thế giới.
Thứ hai, chính sách chống bán phá giá của Hoa Kỳ còn gây ra những ảnh hưởng
tiêu cực đến bản thân nền kinh tế Hoa Kỳ
Luật chống bán phá giá bấy lâu nay đã bị lạm dụng bởi những người theo chủ
nghĩa bảo hộ, những người muốn tìm kiếm một lối thoát khỏi sự cạnh tranh của hàng
hóa nhập khẩu. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tình hình đã bắt đầu thay đổi.
Việc lạm dụng luật chống bán phá giá phần nào giảm bớt sự cạnh tranh của hàng hóa

nhập khẩu đối với các sản phẩm tiêu thụ nội địa của Hoa Kỳ nhưng lại chuyển những
khó khăn đó sang cho các nhà xuất khẩu bởi các nhà xuất khẩu Hoa Kỳ đang dần trở
thành mục tiêu chính mà đạo luật chống bán phá giá của các chính phủ nước ngoài
hướng tới. Với việc Hoa Kỳ lạm dụng luật chống bán phá giá vào thương mại quốc tế ,
các quốc gia khác cũng tích cực xây dựng bộ luật chống bán phá giá riêng cho mình
như 1 công cụ đối kháng khi mà các hàng rào thuế quan và phi thuế quan khác phải dần
loại bỏ theo quy định của WTO.
Bên cạnh đó, do những điều luật phi lý của Hoa Kỳ về thuế chống bán phá giá đã
khiến Hoa Kỳ phải đương đầu với những biện pháp trả đũa của các quốc gia trên thế
giới để bù lại những thiệt hại do điều luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ gây ra.
21
Ngày 11/11/2004, Liên minh châu Âu (EU) và 6 nước gồm Nhật Bản, Hàn
Quốc, Ấn Độ, Canada, Mexico và Brazil đã trình Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
danh sách các sản phẩm của Mỹ bị đánh thuế trả đũa vì Mỹ đã không chịu hủy bỏ điều
luật chống bán phá giá Byrd theo phán quyết của WTO. Điều luật này, do Thượng nghị
sĩ Robert C.Byrd đưa ra năm 2000, cho phép chính phủ Mỹ "phân phối lại" tiền tăng
thuế đối với các công ty nước ngoài bị tố cáo bán sản phẩm với giá quá thấp tại thị
trường Mỹ. WTO coi đây là một hình thức bảo hộ mậu dịch, vi phạm các quy định
thương mại quốc tế và cho phép Liên minh châu Âu cùng 6 quốc gia, trong đó có
Mexico, Brazil và Canada áp dụng các biện pháp trả đũa để bù lại những thiệt hại do
điều luật chống bán phá giá Byrd gây ra.
22
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÁC VỤ KIỆN CHỐNG BÁN PHÁ
GIÁ CỦA MỸ ĐỐI VỚI VIỆT NAM
2.1-DIỄN BIẾN CÁC VỤ KIỆN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA MỸ ĐỐI VỚI
VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2000 - 2013
2.1.1. Thực trạng các vụ kiện chống bán phá giá của Mỹ đối với Việt Nam trong
giai đoạn 2000 – 2013
Tại cuộc hội thảo tìm giải pháp đối phó với nguy cơ đang ngày càng có nhiều vụ
kiện chống bán phá giá nhằm vào hàng xuất khẩu của Việt Nam do Phòng Thương mại

và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cùng công ty luật Mỹ Squire Sanders đồng tổ chức
mới đây, các chuyên gia Việt Nam và Mỹ đã nhận định: tính đến quý I năm 2013, Việt
Nam đang phải đối mặt với nguy cơ kiện chống bán phá giá tăng đặc biệt từ thị trường
Mỹ từ cá ba sa sẽ có thể đang lan sang các mặt hàng như dệt may, đồ gỗ, thép và đinh.
Ngoài ra một số mặt hàng có thể cũng sẽ bị điều tra như túi nhựa, và một số mặt hàng
mới như hóa chất, sản phẩm cơ khí, điện, nhựa.
Theo như Luật sư Peter John Koenig của công ty luật Mỹ Squire Sanders nhận
định: “Những mặt hàng này đều thuộc diện mặt hàng khai phá thị trường của
Việt Nam nên chưa có kim ngạch lớn. Một khi bị áp thuế chống bán phá giá trong thời
kỳ 5 năm, rà soát từng năm và cuối kỳ để xem gia hạn, thiệt hại đối với doanh nghiệp sẽ
vô cùng dai dẳng. Hiện tôm đông lạnh của Việt Namxuất sang Mỹ đang bị rà soát năm
thứ 4, mặt hàng cá đang rà soát cuối kỳ, và có khả năng bị áp thuế thêm 5 năm nữa”.
Bảng 2.1: Thống kê các vụ kiện chống bán phá giá của Mỹ đối với Việt Nam
trong giai đoạn 2000 – 2013
Năm
Mặt
hàng bị
kiện
Ngày
nộp đơn
kiện
Quá trình điều tra
Biện pháp tạm thời Biện pháp cuối cùng
Thời
gian
khởi
kiện
Ngày
Biên
độ bán

phá
giá
(%)
Thời
gian
Ngày
Biên
độ
bán
phá
giá
(%)
Thời
gian
23
2013 Ống dẫn
dầu
2/7/2013 23/7/13
Ống thép
không gỉ
16/5/13 6/6/13
2012 Turbin
điện gió
29/12/12 18/01/1
2
2/8/12 52.67 –
59.91
24/12/1
2
51.5-

58.49
5 năm
Mắc áo
thép
29/2/12 18/05/1
2
25/8/1
2
135.81-
187.51
24/12/1
2
157-
220.6
8
5 năm
2011 ống thép
carbon
26/10/20
11
15/11/2
011
1/6/20
12
0-
29.76
2010 Mắc treo
quần áo
bằng thép
22/07/20

10
2009 Túi nhựa
PE
31/03/2
009
28/10/
2009
52.3-
76.11
4/5/201
0
52.3-
76.11
5 năm
2008 Lò xo
không
bọc
25/01/2
008
6/4/20
08
116.31 22/12/2
008
116.3
1
5 năm
2003 Tôm 31/12/2
003
26/07/
2004

12.11-
93.12
8/12/20
04
4.13-
25.76
2002 Cá da
trơn
24/07/2
002
31/01/
2003
23/06/2
003
36.84
-
63.88
(Nguồn: Phòng công nghệ và thương mại Việt Nam – VCCI)
2.1.2. Diễn biến các vụ kiện chống bán phá giá tiêu biểu của Mỹ đối với VN
• Cá da trơn (Catfish)
Giai đoạn 1:
Vào cuối năm 2000, CFA tung lên báo chí Mỹ những thông tin thất thiệt, bôi xấu
hình ảnh cá tra, cá basa VN. Đến tháng 2/2001, Mỹ khan hiếm cá nheo, cá Việt Nam
nhập khẩu tăng, cuộc chiến lại rộ lên. Mỹ phát động chiến dịch quảng cáo kéo dài 9
tháng, tiêu tốn 5,2 triệu USD do Viện cá nheo Mỹ phát động và được CFA tài trợ để
chốn lại việc nhập khẩu cá tra và cá basa của Việt Nam.
Ngày 25/10/01, Thượng việc Mỹ biểu quyết, thông qua 35 điều luật bổ sung và
không cho phép FDA sử dụng ngân sách được cấp làm thủ tục cho phép nhập khẩu các
loài cá da trơn mang tên “catfish’ trừ phi chúng thuộc họ cá nheo Mỹ và cấm hoàn toàn
việc dùng tên catfish cho cá tra và cá basa của Việt Nam áp dụng cho tất cả các khâu từ

nhập khẩu, bán buôn, bán lẻ,…trong vòng 5 năm và có khả năng kéo dài vĩnh viễn.
24
28/6/2002 CFA đã chính thức khởi kiện Việt Nam bán phá giá cá tra và cá basa vào thị
trường Mỹ tại Washington DC. CFA cáo buộc 53 doanh nghiệp VN bán phá giá. Trong
tình hình đó thì VASEP đã tuyên bố bác bỏ cáo buộc của CFA về việc các doanh
nghiệp của Việt Nam bán phá giá cá tra, cá basa sang thị trường Mỹ và khẳng định chấp
hành tuân thủ nghiêm ngặt quy tác thương mại của Mỹ và luật quốc tế.
Trong đơn kiện CFA đưa ra đề nghị cách tính biểu thuế bán phá giá:
- Nếu Việt Nam là nước có nền KTTT thì cách tính giá phải theo kiểu Mỹ và mức
thuế phải chịu là 144%
- Nếu Việt Nam là nước không được công nhận có nền KTTT thì lấy mức giá cả
của Ấn Độ - nước mà CFA cho rằng có trình độ phát triển tương đương và nếu
có bán phá giá thì mức thuế áp dunggj là 191%
- Các yếu tố tính giá: giá cá nuôi sống, giá phế liệu bao bì, đóng gói, nhân công
lao động,…
Ngày 3/7/2002, Ủy ban thương mại quốc tế Mỹ (ITC) gửi đến VASEP 1 bảng câu
hỏi liên quan đến vấn đề cá tra, cá basa và tiến hành điều tra xem liệu cá phile đông
lạnh nhập khẩu từ VN vào Mỹ có được bán phá giá thấp hơn giá trị thực và gây thiệt hại
cho nông nghiệp Mỹ hay k?
Tại đây, VN đã có những lý lẽ xác đáng chứng minh không bán phá giá cá da trơn
vào Mỹ. Ngoài ra chúng ta còn được sự ủng hộ của nhiều nhà nhập khẩu, các nhà khoa
học trên thế giới còn bên phía CFA thì lúng túng trong việc chứng minh các luận điểm
của mình và kêu ca những thiệt hại mà họ cho rằng do chúng ta gây ra.
Giai đoạn 2:
Đến 8/8/2002, ITC bỏ phiếu và thống nhất kết luận: “ Dựa trên kết quả điều tra
sơ bộ, ITC thấy ngành nuôi cá da trơn của Mỹ có thể có nguy cơ bị đe dọa bởi mặt hàng
này cá da trơn đông lạnh nhập khẩu từ VN bán với giá thấp”. Kết luận này khiến vụ
kiện bước sang giai đoạn 2 của quá trình tranh tụng.
Đến 12/8/2012. DOC tiếp nhận vụ kiện, tiến hành điều tra và yêu cầu 53 doanh
nghiệp của VN báo cáo về tình hình chế biến và doanh số xuất cá basa, cá tra sang Mỹ.

Cũng vào ngày này, các bộ ban ngành liên quan của VN đã soạn thảo văn bản giải trình
đề nghị Mỹ trao cho VN quy chế nền KTTT. Nội dung văn bản là làm rõ:
- Khả năng chuyển đội tự do của đồngVND
- Sự thỏa thuận tự do giữa chủ DN và lao động về lương bổng
25

×