Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.25 KB, 5 trang )
Cây dướng - cây hoang, cây thuốc
Cây dướng còn có nhiều tên gọi khác nhau như chử đào thụ, người Thổ gọi là cây
xa, người Lào gọi là cây sa le, po sa… là cây thuộc họ dâu tằm, mọc hoang và
cũng được trồng nhiều nơi, không chỉ ở Việt Nam, một số nước như Trung Quốc,
Lào, Ấn Độ… cũng có cây này. Tại Hà Nội, cây dướng mọc hoang và được trồng
ở rất nhiều nơi.
Toàn cây có nhiều bộ phận được sử dụng làm thuốc trong phạm vi nhân dân như
quả, lá, vỏ cây, nhựa mủ… Theo y học cổ truyền phương Đông, quả dướng có tên
là chử thực, có vị ngọt,tính hàn, vào hai kinh tâm và tỳ, có tác dụng lợi tiểu, bổ gân
cốt, bổ thận, sáng mắt, chỉ khái (cầm ho), bổ hư nhược…; lá dướng có tác dụng chỉ
lỵ, nhuận tràng, giải cảm…; nhựa cây có tác dụng chữa trùng cắn như ong đốt, rắn
cắn, chó mèo cắn…; vỏ cây có tác dụng chỉ lỵ, cầm máu… Khi thu hái quả và lá có
thể phơi hoặc sấy khô dùng dần.
Một số bài thuốc Nam thường dùng trong dân gian:
- Đơn thuốc chữa người già hư nhược, phù thũng: quả dướng 12g, phục linh
10g, đỗ trọng 10g, kỷ tử 10g, ngưu tất 8g, tiểu hồi hương 3g, bạch truật 10g. Sắc
đặc uống ngày một thang, chia 2-3 lần uống trong ngày.
- Chữa lỵ: lá dướng tươi 50 – 100g, giã nát, vắt nước uống (theo kinh nghiệm của
nhân dân Lai Châu). Có thể sắc lấy nước uống trong ngày. Hoặc vỏ thân cây