Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Báo cáo hồ sơ 24 tranh chấp chia di sản thừa kế Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Huy Thành, Nguyễn Thăng, Trần Thị Trọng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.68 KB, 29 trang )

HỒ SƠ 24: TRANH CHẤP THỪA KẾ
NGUYÊN ĐƠN: NGUYỄN THỊ KIM LAN
BỊ ĐƠN: NGUYỄN HUY THÀNH

MỤC LỤC
I.

Tóm tắt hồ sơ vụ án................................................................................2

II. Tóm tắt nội dung vụ án.........................................................................16
III.

Kết quả nghiên cứu hồ sơ...................................................................16

1. Yêu cầu khởi kiện, phạm vi yêu cầu khởi kiện và quan hệ pháp luật tranh chấp. .16
2. Xác định tư cách đương sự.....................................................................................17
3. Xác định diện và hàng thừa kế của ông Nguyễn Thăng, bà Trần Thị Trọng và bà
Nguyễn Thị Lan............................................................................................................18
4. Xác định thời điểm mở thừa kế của cụ Nguyễn Thăng, cụ Trần Thị Trọng, cụ
Nguyễn Thị Lan. Xác định thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế của cụ Nguyễn
Thăng, cụ Trần Thị Trọng, cụ Nguyễn Thị Lan..............................................................21
5. Xác định di sản thừa kế của cụ Nguyễn Thăng, cụ Trần Thị Trọng, cụ Nguyễn Thị
Lan 22
6. Kết quả nghiên cứu hồ sơ về các vấn đề nội dung của vụ án................................22
7. Dự kiến bản trình bày ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
(yêu cầu phản tố nếu có) tại phiên tịa sơ thẩm và các chứng cứ chứng minh cho ý
kiến/yêu cầu phản tố của bị đơn là có căn cứ và hợp pháp.........................................23
8. Luận cứ bảo vệ bị đơn............................................................................................24


I.



Tóm tắt tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án
Ngày 24/06/2012, bà Nguyễn Thị Kim Lan (sinh năm 1951) khởi kiện ơng
Nguyễn Huy Thành (sinh năm 1968) đến Tịa án nhân dân huyện Cái Bè,
tỉnh Tiền Giang yêu cầu chia 2000m2 đất và 1 căn nhà tường do cha bà là
ông Nguyễn Thăng đứng tên quyền sử dụng đất tọa lạc tại số 18 khu 4, thị
trấn Cái Bè, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Bà Lan yêu cầu chia ½ tài sản
chung cho mẹ bà, phần của cha bà là ông Nguyễn Thăng chia đều cho 6
người con, trong đó có bà và 5 đứa em con vợ sau của cha bà. Bà yêu cầu
được nhận bằng hiện vật.


Theo Đơn khởi kiện, bà Kim Lan trình bày:
Bà Kim Lan là con chung duy nhất của ông Nguyễn Thăng (sinh năm 1922,
chết ngày 04/01/2002) với bà Trần Thị Trọng (sinh năm 1917, chết năm
2007). Ông Thăng với bà Trọng cùng sinh sống tại số 18 khu 4, thị trấn Cái Bè,
huyện Cái Bè, Tiền Giang từ năm 1969 cho đến lúc chết.
Vào năm 1963 ơng Thăng có quan hệ về tình cảm với bà: Nguyễn Thị Lan
(sinh năm 1936, chết năm 2007) sinh ra 05 người con chung bao gồm:
1.

Nguyễn Huy Lộc, sinh năm 1963

2.

Nguyễn Huy Tài, sinh năm 1963

3.

Nguyễn Huy Thành, sinh năm 1968


4.

Nguyễn Lan Tố Quyên, sinh năm 1971

5.

Nguyễn Thị Bích Ngọc, sinh năm 1973

Bà Kim Lan trình bày trước đây do việc mẹ kế chăm sóc dậy dỗ không chu
đáo, năm 1963 bà đem em là ông Nguyễn Huy Lộc về sống chung với bà và
cha mẹ, cho ăn học. Năm 1963 bà tiếp tục đem em là ông Nguyễn Huy Tài,
năm 1968 đem ông Nguyễn Huy Thành về sống chung với gia đình cha mẹ
bà.
Bà Lan trình bày là ơng Nguyễn Thăng với bà Trần Thị Trọng có diện tích
đất 2.000m2 và 01 căn nhà trên đất . Phần đất này đã được UBND huyện Cái
Bè cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cha bà là ơng Nguyễn
Thăng đứng tên. Trên đất có 01 căn nhà tường ngang 9m dài 30m, nền lót
gạch bơng vách tường mái lợp tơn. Hiện nay tồn bộ giấy chứng nhận


quyền sử dụng đất đối với 2000m2 đất và căn nhà nêu trên do em bà
là ông Nguyễn Huy Thành quản lý sử dụng.
Bà yêu cầu Tòa án giải quyết chia thừa kế 2.000m2 đất và 01 căn nhà trên
đất nêu trên.


CMND, hộ khẩu bà Kim Lan;




Phán quyết về việc bà Kim Lan là con của Nguyễn Thăng và Trần Thị
Trọng (photo);



Giấy chứng tử (bản sao) của ông Nguyễn Thăng, tạm trú cuối cùng tại số
18 Tổ 01 khu IV thị trấn Cái Bè huyện Cái Bè tỉnh Tiền Giang, chết ngày
04/01/2002;



Giấy chứng tử (bản sao) của bà Trần Thị Trọng, tạm trú cuối cùng tại số
18 Tổ 01 khu IV thị trấn Cái Bè huyện Cái Bè tỉnh Tiền Giang, chết ngày
22/08/2007;



Biên bản hòa giải về việc tranh chấp quyền thừa kế ngày 9/4/2022 tại
tổ dân phố khu 4 Thị trấn Cái Bè giữa 2 bên là bà Nguyễn Thị Kim Lan với ơng
Nguyễn Huy Thành, hịa giải khơng thành.
Trong biên bản này bà Kim Lan có ý kiến: Trước đây ơng Thăng có bán ngơi
nhà cho ơng Trần Gia Lâm và một số đất cho ông ba Huệ. Trong việc mua bán
này bà Lan khơng có nhận số tiền nào cả. Còn chuyện bệnh hoạn ở cha mẹ
bà, cũng như mọi vấn đề khác là do tiền của cơ bà ở nước ngồi gởi về lo liệu.
Ý kiến của ơng Huy Thành: Ơng khơng đồng ý vì trong tài sản có nhà và đất.
Năm 1979 ơng Thăng có bán một số đất lúc này ơng cịn nhỏ mới 11 tuổi, đã
có đưa bà Lan một số tiền. Cịn cái nhà hiện giờ ông Thành đã sửa tu bổ vẫn
đó.




Đơn yêu cầu giải quyết chia thừa kế ngày 20/04/2012, tại đơn này bà
Nguyễn Thị Kim Lan trình bày như sau:
Cha bà là ông Nguyễn Thăng, mẹ bà là Trần Thị Trọng. Cha bà có 02 người vợ,
vợ chính thức là bà Trọng (đã chết), có 01 con chung duy nhất là bà Kim Lan;
vợ thứ là bà Nguyễn Thị Lan (đã chết) có 05 người con chung là: Nguyễn Huy
Lộc, Nguyễn Huy Tài, Nguyễn Huy Thành, Nguyễn Thị Tố Un, Nguyễn Thị
Bích Ngọc (05 người này khai sinh khơng có tên họ cha). Ngày 04/01/2002
ơng Thăng chết, ngày 22/08/2007 bà Trọng chết, không để lại di chúc.


Lúc sinh thời, năm 1969 cha mẹ bà (ông Nguyễn Thăng, bà Trần Thị Trọng)
mua được một thửa đất bằng tiền của cha mẹ bà với giá 950.000đ (tương
đương 47 lượng vàng). Mẹ bà là bà Trọng đã đưa bà 50.000đ để đi đặt cọc cho
ông Ba Đê (chủ đất) là làm giấy đặt cọc, nửa tháng sau cha mẹ bà và bà cùng
đi chồng đủ thêm 900.000đ nữa và làm giấy mua bán.
Lúc cịn sống cha mẹ bà có bán đi phân nửa nay còn lại 2.000m 2 và 01 căn
nhà tường tọa lạc tại số 18, khu 4, Thị Trấn Cái Bè, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền
Giang, đất được UBND huyện Cái Bè cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
do ông Thăng đại diện đứng tên.
Trên thửa đất hiện nay cịn có 03 căn nhà của Lộc, Tài, Thành. Thửa đất và
căn nhà của cha mẹ bà đều do vợ chồng Thành cùng quản lý và sử
dụng, nhà cha mẹ bà thì vợ Thành tên là Nguyễn Thị Nàng đứng chủ
hộ khẩu, nhà Thành cất thêm số nhà 18C thì Thành đứng tên chủ hộ (mỗi
người đứng chủ hộ 01 căn).
Bà yêu cầu UBND và Địa Chính Thị Trấn Cái Bè giải quyết chia thừa kế căn
nhà và thửa đất cho bà và các em bà theo quy định của pháp luật. Nguyện
vọng bà được nhận phân nửa phần tài sản của mẹ bà và một phần sau của
cha bà.

Bà còn cung cấp thêm việc bà Nguyễn Thị Lan đã được cho 03 cơng ruộng ở
tỉnh Bình Phước, bà Lan đã bán chia tiền cho các con của bà mà bà không biết
tới.


Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số 449/QSDĐ do UBND huyện Cái Bè, tỉnh Tiền
Giang cấp cho hộ ông Nguyễn Thăng ngày 19/09/1997, thửa đất sơ 631
tờ bản đồ 01 có diện tích 1951 m2, mục đích sử dụng LN.k + T.



Biên lai nộp tạm ứng án phí ngày 05/10/2012, bà Kim Lan nộp tạm ứng
án phí 200.000đ.



Thơng báo thụ lý vụ án số 342/2012/TLST-DS ngày 05/10/2012 về việc
“Tranh chấp di sản thừa kế” về việc “Tranh chấp di sản thừa kế”



Tờ tường trình ngày 01/10/2012, ơng Nguyễn Huy Tài có ý kiến: Trước
khi ông Thăng mất, vào ngày 16/8/2001, ông Thăng có cho ông Tài 200m2
đất, lý do: nếu ông Thăng không cho đất thì nhà ơng khơng được cấp hộ
khẩu, ơng Thăng có làm 01 tờ giấy ủy quyền, có ơng trưởng khu là


ông Trần Văn Lợi xác nhận, nay ông Trần Văn Lợi là bí thư chi bộ của
khu 4.

Về phần nhà đất của cha mẹ để lại, ơng Tài có ý kiến như sau:
+ Phần nhà: 05 anh em ông thống nhất dùng làm nhà thờ cúng, vì hiện nay
em ơng là Nguyễn Huy Thành đang sử dụng để thờ cúng ông bà và cha mẹ,
nên không thể phân chia hoặc bán.
+ Phần đất: trước lúc ơng Thăng mất, có trối lại rằng đất để cho các con các
cháu ở, không được quyền bán hoặc phần chia. Vì vậy anh em ông đều thực
hiện theo lời của cha tôi dặn trước khi mất.


Tờ tường trình ngày 02/10/2012, ơng Nguyễn Huy Lộc có ý kiến:
Cha ơng là ơng Nguyễn Thăng sống với mẹ lớn của ông là bà Trần Thị Trọng
cũng đã lâu mà không sinh được người con nào. Do vậy mới xin bà Nguyễn Thị
Kim Lan về làm con đỡ đầu (1951) mong muốn sau này sẽ có con (do mẹ lớn
của ơng). Vì mong muốn có con nên ơng Thăng lại lấy mẹ ông (bà Nguyễn Thị
Lan) làm vợ và đến năm 1963 ông Lộc được sinh ra.
Khi ông Lộc được sinh ra khoảng trên 1 tháng tuổi thì mẹ lớn của ơng cùng bà
nội ơng qua điều đình với mẹ ruột của ông để xin ẵm ông về ni. Với lý do là
mẹ ơng cịn sinh được mà mẹ lớn của ơng khơng sinh được, vì lý do đó vả lại
mẹ ruột ơng rất nể bà nội ơng, thành thử mẹ tơi đành chấp nhận. Xin thưa
q tồ, một người phụ nữ lần đầu tiên làm mẹ, vậy mà cái thiên chức ấy bị
cướp đoạt, thử hỏi có đau lịng khơng?
Bà Nguyễn Thị Kim Lan chỉ lớn hơn ông 12 tuổi. Vậy có ai giám giao 1 đứa bé
hơn 1 tháng tuổi cho 1 bé gái 12 tuổi.
Mẹ lớn của ông là người đàn bà tuyệt vời, bà đối xử với các anh em ông rất
tốt. Ngược lại anh em ơng cũng xem bà như mẹ ruột. Chính bà cùng cha ông
đứng ra cưới xin cho 3 anh em ơng.
Từ năm 1976 gia đình ơng dọn về ở số 18 tổ 1 khu 4 cho đến nay, trước ở tổ
20 khu 4. Từ thời đó bà Kim Lan đã có chồng và khơng phụ giúp gì cho gia
đình, ở những năm nước lụt 1978-1979, gia đình ơng gặp vơ cùng khó khăn về
kinh tế……

Cái nhà mà hiện nay ở thị trấn Nhà Bè do bà Kim Lan cùng chồng con ở, ngày
xưa là căn nhà gỗ, bà Kim Lan đã về khóc lóc năn nỉ cha ơng, lúc đó cha ơng


có …., thấy vậy ơng cũng thuận lịng cho bà Kim Lan mượn 1 chỉ vàng. Sau
này bà Kim Lan cùng chồng không trả bằng tiền mặt
Cha ông qua đời đột ngột vì bị đột quỵ, nhưng với mẹ lớn của ơng do gãy
xương khớp háng và vì tuổi cao nên khơng đi đứng được. Bà nằm đó khoảng 2
– 3 năm do vợ chồng của em trai ông là Nguyễn Huy Thành lo phụng dưỡng
cho đến ngày mất, lo ln ma chay và mồ mả.
Vì những lý do trên nên ý kiến của ông là:
1. Cái nhà do cha ông để lại là nhà thờ, để thờ ông bà cha mẹ. Vì là nhà thờ
nên khơng được bán mà phải để cho em trai ông là Nguyễn Huy Thành ở để lo
cúng kiếng giỗ quảy.
2. Phần đất còn lại (trừ đi mộ cha mẹ) Nếu có nhu cầu thì sẽ chia ra đều,
nhưng không được bán (chỉ để ở).


Tờ tường trình ngày 01/10/2012, ơng Nguyễn Huy Thành có ý kiến:
Cha ông là Nguyễn Thăng, sinh năm 1922, sống với mẹ lớn của ông là bà Trần
Thị Trọng, sinh năm 1917, cha mẹ ơng có xin chị ơng là bà Nguyễn Thị Kim
Lan về làm con nuôi. Đến năm 1962 do mẹ lớn của ông là bà Trần Thị Trọng
không cịn khả năng sinh nở, nên mẹ lớn ơng đồng ý cho cha ông sống với mẹ
ruột ông là bà Nguyễn Thị Lan, sinh ra được 05 người con, mẹ lớn ơng đều
nhìn nhận và ni nấng, dạy dỗ 05 người nên người và dựng vợ gả chồng cho
các anh em ông.
Nay cha mẹ ông đã mất, bà Nguyễn Thị Kim Lan đã khởi kiện đòi phân chia tài
sản thật là vơ lý vì bà Lan cho rằng chỉ có bà Lan là con của mẹ lớn ông trong
khi bà Lan không phụng dưỡng cha và mẹ lớn của ông. Cịn riêng phần ơng đã
lo cho cha và mẹ lớn của ông đến lúc qua đời, đến nay ông vẫn thờ cúng ơng

bà nội và cha và 02 bà mẹ.
Vì vậy 05 anh em ông thống nhất là căn nhà đang sử dụng để thờ cúng không
thể nào đem bán để phân chia được, nếu bà Kim Lan có ý muốn cùng ở chung
trong căn nhà thờ thì anh em ông đồng ý. Riêng về phần đất, nếu bà Kim Lan
có nhu cầu xây nhà để ở thì anh em ông đồng ý, nhưng không được bán phần
đất trên.



Biên bản hịa giải ngày 25/10/2012:
Trình bày của bà Kim Lan: Bảo lưu lời trình bày như trong đơn khởi kiện. Nay
bà yêu cầu chia 2000 m2 đất và 1 căn nhà tương ứng do cha bà là ông


Nguyễn Thăng đứng tên. ½ tài sản chia cho mẹ bà (bà Trọng) thì bà được thừa
kế và ½ đất chia cho 5 người con là Lan, Thành, Lộc, Tài, Qun, Ngọc.
Trình bày của ơng Thành: Lời trình bày của bà Lan có 1 số điểm ơng khơng
đồng ý vì ông Lộc không do Lan đem về nuôi và ông và 4 anh em của ông
cùng sống với cha ông và bà Trọng từ trước đến nay còn bà Lan là con ni,
bà Lan khơng cịn sống chung với gia đình từ năm 1975 và khơng có tên trong
hộ khẩu gia đình, cịn tài sản của cha ơng là 2000 m2 đất và căn nhà, căn nhà
này năm 1998 ông có tu bổ lại phịng, hành lang với nhà sau đất khơng trồng
gì, đất toạ lạc tại khu 4, TT Cái Bè, huyện Cái Bè. Hiện tại ông và Tài đang
sống. Và lúc cịn sống cha ơng có Phạm Thị Tâm 200 m2 vào năm 2001. Nay
ông yêu cầu trừ phần đất cho bà Tâm ra và trừ nhà thờ và mồ mả ra
yêu cầu chia đều đất cho 6 người con.
Tất cả những người liên quan: bảo lưu như ơng Thành
Trình bày bà Kim Lan: tiền đóng lại phịng là do Thành làm bà không ý kiến.
Việc cho Tâm đất bà không biết việc này.



Biên bản định giá tài sản ngày 20/01/2013:
Phần đất tranh chấp theo xác định của UBND Thị Trấn Cái Bè thì sổ mục kê địa
chính do ông Nguyễn Thăng đăng ký trong sổ mục kê có diện tích 1951m2
nằm trong phần đất tại thửa số 631, diện tích thực đo là 1.651,7m2 (đo
đạc thực tế 1.651,7m2)
A. Trị giá đất:
I. Từ đường vào làng nghề bánh phồng (cặp lô nhựa)
Phần đất mặt tiền lô nhựa (lô hàng bánh phồng) về hướng bắc 26,6m. Trên
phần đất này có căn nhà Thờ, nhà phụ và nhà kho thì giá đất thực tế chuyện
nhượng tại địa phương: 3.000.000đ/m2.
II. Phần đất còn lại
- Giá đất thực tế chuyển nhượng tại địa phương là: 300.000đ/m2
B. Nhà trên đất và cơng trình phụ:
I. Nhà cửa, vật kiến trúc của ông Nguyễn Huy Thành:
1/ Nhà sàn trên sông Cái Bè (Cặp lô nhựa):
- Diện tích: 8,05m x 12m = 96,6m2.
- Thành tiền: 96,6m2 x 1.401.760đ/m2 x 60% = 81.246.010đ.


2/3/Mái che: 2.900.898đ, hàng rào 961.389đ.
Tổng cộng: 85.108.297đ.
II. Nhà cửa, vật kiến trúc của ông Nguyễn Huy Lộc.
1. Nhà sàn trên sơng Cái Bè (Cặp lơ nhựa):
- Diện tích: 7,5m x 9m = 67,5m2
- Thành tiền: 67,5m2 x 2.144.540đ/m2 x 70% = 101.329.515đ.
2/ Mái che: 2.948.400đ, sàn bê tông cốt thép: 3.525.638đ, hàng rào lưới B40:
1.544.400đ,
Tường rào: 1.917.094đ
Tổng cộng: 111.265.047đ

III. Nhà cửa, vật kiến trúc của nhà thờ:
- Giá trị nhà chính sau khi đã trừ phần sửa chữa và làm them: 96.692.252đ –
(7.079.952đ + 5.484.864đ + 8.105.664đ) = 76.021.772đ
Nhà phụ: 72.870.988đ
Nhà kho: 39.802.291đ
Hàng rào: 10.098.000đ
IV. Nhà cửa, vật kiến trúc của ơng Nguyễn Huy Tài
1/ Nhà ở:
- Diện tích: 6,4m x 11,9m = 76,16m2
- Thành tiền: 76,16m2 x 2.160.600đ/m2 x 70% = 115.185.907đ
2/ Máy che lò bánh tráng: 3.331.536đ
Cộng: 118.517.443đ
V. 02 mộ đá: (có ốp gạch men)
Thành tiền: 02 cái 4.700.000đ/cái = 9.400.000đ
C. Cây trồng trên đất: 10.437.000đ
Sau khi cơng bố kết quả định giá, các đương sự có ý kiến như sau:
* Ông Nguyễn Huy Lộc:


- Về phần đất: Theo ơng thì giá đất 3.000.000đ/m2 (ngoài mặt tiền) là quá
cao giá thực tế bao nhiêu thì ơng khơng biết cịn phần đất cịn lại thì
300.000đ/m2 thì cũng q cao nhưng ơng khơng biết thực tế là bao nhiêu.
* Ông Nguyễn Huy Thành:
- Về phần đất: Theo ơng thì giá đất (ngồi mặt tiền) là khơng q
1.500.000đ/m2 cịn phần phía sau thì khơng q 100.000đ/m2 vì phía sau
khơng có đường cơng cộng mà chỉ có đường nội bộ thơi.
- Về vật kiến trúc và cơng trình phụ:
+ Về phần nhà thờ: Nhà anh ông là ông Tài cất năm 2006 mà định giá còn
70% trong khi nhà của cha ơng cất năm 1990 mà cịn 50% thì khơng hợp lý.
+ Phần lót gạch men và phần hành lang: Ơng lót hết gạch men và hành lang

nhà thờ là 77m2 x 2.915.000đ/m2 x 60% = 13.467.300đ
* Bà Nguyễn Thị Kim Lan: thống nhất với toàn bộ biên bản định giá và
khơng có ý kiến gì thêm.
* Ơng Nguyễn Huy Tài:
- Về phần đất: thống nhất với ý kiến của ông Thành và ông Lộc là giá đất quá
cao.


Tại Đơn yêu cầu V/v xác nhận di sản thừa kế của cha, Tờ tự khai ngày
11/03/2013 bà Nguyễn Thị Tố Qun, bà Nguyễn Thị Bích Ngọc (con vợ
sau) trình bày Cha bà và bà Trần Thị Trọng có tạo lập khối tài sản chung gồm
gần: 2.000m2 đất thổ cư và đất vườn, 01 căn nhà. Bà yêu cầu Chia di sản
thừa kế của ông Nguyễn Thăng và bà Trần Thị Trọng nêu trên làm 6 phần
bằng nhau. Mỗi bà xin nhận 1 phần.



Biên lai nộp tạm ứng án phí ngày 11/03/2013, bà Tố Quyên, bà Bích Ngọc nộp
tạm ứng án phí 200.000 đồng.



Thơng báo thụ lý u cầu độc lập của bà Quyên, bà Ngọc ngày
11/03/2013



Ngày 11/03/2013, ông Nguyễn Huy Thành nộp cho Tòa án Giấy xác nhận ghi
ngày 22/2/2013 và ngày 11/6/2012. Trong đó:




Giấy xác nhận ghi ngày 11/06/2012:
Ơng Nguyễn Huy Lộc, ơng Nguyễn Huy Tài, bà Nguyễn Lan Tố Quyên, bà
Nguyễn Thị Bích Ngọc đồng ý làm giấy xác nhận cho ông Nguyễn Huy Thành:


“Ông Nguyễn Huy Thành được sinh ra và lớn lên cùng sống chung với cha mẹ
đến nay.
Cha họ và tên: Nguyễn Thăng, sinh năm 1922 (chết năm 2002)
Mẹ họ và tên: Trần Thị Trọng, sinh năm 1917 (chết năm 2007)
Khi Nguyễn Huy Thành trưởng thành phụ giúp chăm lo cho cha mẹ tất cả mọi
việc …
Đến năm 1998 cha bị bệnh tim Huy Thành phải bỏ ra mọi chi phí để chữa trị
bệnh cho cha và cũng năm 1998 mẹ lại bị té gãy chân bán thân năm một chỗ
Huy Thành phải bỏ ra mọi chi phí để chữa bệnh cho mẹ cho đến chết. Khi cha
mẹ chết Huy Thành lo mọi chi phí như ma chay, phụng thờ, cúng giỗ ông bà
cha mẹ cho đến nay, tất cả mọi chi phí trong gia đình hồn tồn do Huy
Thành chịu trách nhiệm
Năm 2001 Huy Thành được đồng ý của chúng tôi cho xây cất lại căn nhà trên
cố nằm trên phần đất của cha đứng tên chi phí Thành bỏ ra xây dựng căn nhà
đo là 10 cây vàng 24K (Mười cây)
Đối với bà Nguyễn Thị Kim Lan, sinh năm 1951 đã bỏ gia đình cha mẹ cùng
chồng để đi đến Thành phố Hồ Chí Minh sinh sống từ năm 1986 đến nay hồn
tồn khơng có cơng hay chi phí gì để phụ giúp cho cha mẹ.
Nay chúng tơi xét thấy Nguyễn Huy Thành đã có rất nhiều cơng sức và xuất
nhiều chi phí để chăm lo gia đình cha mẹ được hồn chỉnh đến ngày hơm nay.
Vậy chúng tơi chấp nhận đồng giao cho Nguyễn Huy Thành được trọn quyền
sử dụng căn nhà kiên cố đã xây dựng trên thửa đất của cha tôi đứng tên. Bởi
căn nhà này tồn bộ chi phí xây dựng, sửa chữa do ơng Huy Thành bỏ ra”.




Giấy xác nhận ghi ngày 20/02/2013
Ông Nguyễn Huy Lộc, ông Nguyễn Huy Tài, bà Nguyễn Lan Tố Qun, bà
Nguyễn Thị Bích Ngọc, ơng Nguyễn Huy Thành xác nhận:
Vào năm 1969, ba tôi ông Nguyễn Thăng cùng mẹ tôi là bà Đỗ Thị Lan sinh
được 3 người con trai. Vì muốn có đất sau này cho những người con ở nên ba
mẹ tôi là ông Nguyễn Thăng và bà Đỗ Thị Lan có mua 1 miếng đất cát nhà để
ở, của ông Lê Văn Trân thường gọi là ông Ba Đê. Miếng đất hiện toạ lạc số nhà
18 tổ 1 khi 4 thị trấn Cái Bè, Tiền Giang. Hiện nay phần đất trên do 3 anh em
trai chúng tôi sử dụng và canh tác.


Nay anh em tôi nhờ bà con thân thuộc, biết rõ sự việc mua bán đất giữa ba
mẹ tôi và ông Ba Đê. Xin xác nhận giùm
Xác nhận
“Đinh Văn Sên sinh 1932 số nhà 32 tổ 2 khu 4 Cái Bè. Có biết ông Nguyễn
Thăng và bà Đỗ Thị Lan mua 1 miếng đất của ông Ba Đê vào năm 1969
Tôi tên Nguyễn Thị Lý sinh năm 1942 số nhà 19 tổ 1 khu 4 Cái Bè. Tôi có biết
vợ chồng ông Nguyễn Thắng có dắt theo 3 đứa con về mua 1 miếng đất của
ông Ba Đê gần nhà lột
Tôi tên là Nguyễn Thị Nguyệt sinh 1937, số nhà 31 tổ 2
Tôi là em ruột của ông Lê Văn Trâu, là ông Ba Đê, con là Lê Thị Tiểu
Anh tôi có bán cho ông Nguyễn Thăng và bà Đỗ Thị Lan vào năm 1969 là
đúng sự thật. Khi về mua có dắt theo 3 đứa con nhỏ là sự thật.
Tôi là Lê Thị Bồng, là em ruột của ông Lê Văn Trân xác nhận ông Nguyễn
Thăng và bà Đỗ Thị Lan có mua miếng đất của ông Lê Văn Trân năm 1969 là
sự thật.
Căn cứ vào xác nhận nguồn gốc đất của các hộ lân cận tất cả chữ ký trong

đơn đều hiện ngụ tại tổ 1 khu 4 Cái Bè và nợi dung đơn đúng sự thật”.
Có chứng thực chữ ký của UBND thị trấn Cái Bè.


Giấy xác nhận ngày 04/03/2013:
“Tôi tên: Trần Văn Đê sinh năm 1952 ngụ tại ấp An Thái xã An cư huyện Cái
Bè. Tôi là cháu gọi bà Trần Thị Trọng là cô ruột nay tôi biết sự việc này
như sau:
Nguyên do Dượng tôi là ông Nguyễn Thăng và bà vợ sau có mua một
miếng đất của ông Phước Tín (Ba Đê) hiện tại là khu 4 TT Cái Bè cho đến nay
Nếu tơi nói sai tơi chịu trách nhiệm trước pháp ḷt”.
Có chứng thực chữ ký của Công an xã.



Tại Giấy xác nhận ngày 04/03/2013:
“Tôi tên Nguyễn Thị Biến sinh năm 1937
Ngụ tại 438 tổ 22 khu 4 thị trấn Cái Bè, Tiền Giang
Là cháu kêu bà Trần Thị Trọng là dì ruột, ông Nguyễn Thăng dượng rể. Bà
Trọng và ông Nguyễn Thăng sôngs chung với nhau và không có con nên năm


1951 có xin một đứa con gái về nuôi đặt tên là Nguyễn Thị Kim Lan. Ông
Nguyễn Thăng cất nhà tường tại khu 4 (Căn nhà hiện nay là ông 9 Lâm ở) để
cho bà Trọng và Nguyễn Thị Kim Lan ở. Con ông Nguyễn Thăng và vợ nhỏ
là bà Đỗ Thị Lan có chung 05 người con dẫn vào t18 tổ 1 khu 4 mua
đất cất nhà ở riêng cho đến nay. (Lúc đó bà Trần Thị Trọng già yếu thì
3 người con trai của bà Đỡ Thị Lan rước về phụng dưỡng đến ngày bà
Trần Thị Trọng qua đời 3 người con này lo mai táng làm mồ mả rất
tốt.

Tôi là cháu kêu bà Trọng là dì ruột, tôi biết rất rõ, nên xác nhận đây là đúng
sự thật”.
Có chứng thực chữ ký của UBND TX Cái Bè


Tại Giấy xác nhận ngày 31/10/2012:
“Vào tháng 10/2001, do nhà cửa chật hẹp, được sự đồng ý nên cha mẹ tôi và
các anh em, tôi đã sửa và xây dựng thêm căn nhà như sau:
-Toàn bộ căn nhà phía sau gồm: 02 phòng ngủ, 01 bếp ăn, 01 toilet
- Toàn bộ khu hành lang và hàng ba phía trước của căn nhà
- Việc xây dựng trên là do ông Võ Văn Tròn, ngụ khu 1B số nhà 329B đứng ra
xây cất, tiền công trả cho ông Tròn là 10.000.000đ (mười triệu đồng), tiền vật
tư là 45.000.000đ (bốn mươi lăm triệu). Tổng cộng chi phí là 55.000.000đ
(năm mươi lăm triệu), tương đương trên 10 lượng vàng (mười lượng vàng)”.
Có ký xác nhận của anh Tròn và chứng thực chữ ký: Xác nhận: Anh Võ Văn
Tròn hiện cư ngụ tổ 16 khu 1 thị trấn Cái Bè.
Từ trước đến nay có làm thợ hồ là đúng, và chữ viết của anh Tròn là đúng.



Giấy xác nhận ngày 09/09/2012:
“Chúng tôi kính nhờ địa phương và hàng xóm láng giềng xác nhận cho chúng
tôi những việc như sau:
1. Từ năm 1963 đến năm 2003, mẹ chúng tôi, bà Trần Thị Trọng đã chấp nhận
chúng tôi là con và đứng ra tổ chức hôn lễ cho ba anh em trai chúng tôi,
chúng tôi gọi bà Trọng bằng mẹ, các con của chúng tôi gọi bà bằng bà nội, bà
ngoại.


2. Năm 1998, mẹ tôi bị té gãy chân, nằm một chỗ cho đến lúc qua đời, vợ

chồng Nguyễn Huy Thành đã phụng dưỡng bà chu đáo, đến năm 2007, bà
qua đời đã tổ chức tang lễ và thờ cúng cho đến nay.
3. Riêng bà Nguyễn Thị Kim Lan, từ năm 1976 đến nay đã không ở chung với
gia đình, khi mẹ tôi, bà Trọng bị tai nạn nằm một chỗ đã không chăm sóc,
phụng dưỡng và ngaỳ giỗ hàng năm của mẹ bà Lan cũng không về dự”.
Những người ký xác nhận: Chủ hộ Đinh Văn Sên: 74 tuổi, Số nhà 32 tổ
2 khu 4 Cái Bè; Chủ hộ Phạm Thị Quyên: 62 tuổi, Số nhà 28 khu 4;
Chủ hộ Nguyễn Thị Đẹp: 55 tuổi, Số 13 tổ 1 khu 4 Cái Bè, Chủ hộ Số
nhà 19 tuổi 69 Nguyễn Thị Lý (khơng có chứng thực chữ ký).


Giấy xin xác nhận chữ ký và sự đờng tình cua 2 bên nội ngoại:
“- Xác nhận của nên nội:
Tôi tên là Nguyễn Thị Thược sinh năm 1929 hiện ngụ tại 13 Hoàng Văn Thụ
Long Xuyên, là em ruột của ông Nguyễn Thăng. Tôi xin xác nhận cháu
Nguyễn Thị Kim Lan là con nuôi của anh chị tôi đã xin cháu về nuôi lúc cháu
mới lọt lòng tại bệnh viện Long Xuyên.
Tôi tên Nguyễn Thị Biến sinh năm 1937, ngụ tại 438 tổ 2 khu 4 thị trấn Cái Bè,
là cháu kêu bà Trần Thị Trọng là dì ruột. Bà Trần Thị Trọng và ông Nguyễn
Thăng chung sống với nhau không có con nên năm 1951 có xin một đứa con
nuôi tên Nguyễn Thị Kim Lan về nuôi.
Sau đó ông Nguyễn Thăng có vợ thứ sinh được 5 người con (3 trai 2 gái) và bà
Trần Thị Trọng đem về nuôi như con ruột. Sau này ông Nguyễn Thăng và bà
Trân Thị Trọng già yếu và qua đời đều do 5 người con của vợ thứ chăm
sóc và chôn cất.
Tôi biết rất rõ nên xác nhận đây là đúng sự thật”.
(Khơng có chứng thực chữ ký)




Ngày 25/03/2013, Luật sư Nguyễn Văn Diểm – người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho bà Kim Lan làm đơn gửi CAND thị trấn Cái Bè xin xác nhận:
1. Vào năm 2002 hộ ông Nguyễn Thăng có bao nhiêu thành viên
trong hộ khẩu.
2. Vào năm 2007 hộ bà Trần Thị Trọng có bao nhiêu thành viên trong
hộ khẩu.


Công an thị trấn Cái Bè xác nhận: vào năm 2002 hộ ơng Nguyễn Thăng có:
1. Nguyễn Thăng – sinh năm:1922 – Chủ hộ chết 04/01/2002
2. Trần Thị Trọng – sinh năm: 1917 – Vợ chết 22/8/2007
3. Nguyễn Huy Thành – sinh năm : 1968 – Con
4. Nguyễn huy Lộc – sinh năm: 1963 – Con
5. Nguyễn Thị Nàng – sinh năm: 1970 – Con
6. Nguyễn Thành Huy – sinh năm:1990 – Cháu (con Nàng)
7. Trần Thị Ngọc Phượng – sinh năm: 1965 – Dâu (vợ Lộc)
8. Nguyễn Trần Hải Đăng – sinh năm: 2000 – Cháu
9. Trương thoại Khao – sinh năm: 1977 –Cháu
10. Trương Thị Hiếu Thảo – sinh năm: 1980 - Cháu
Đến 04/01/2002 ông Thăng chết từ năm 2003 tại hộ trên còn lại các khẩu như
trên đến năm 2007 bà Trọng chết hộ này do Nguyễn Thị Nàng đứng chủ hộ.


Tại Đơn yêu cầu không đề ngày, ơng Nguyễn Huy Lộc trình bày: Hiện nay
bà Kim Lan gửi đơn khởi kiện đòi chia thừa kế 1 miếng đất của cha ông chết
để lại là 1651m2 và 1 căn nhà nằm trên miếng đất đó với diện tích 77m2.
Riêng ơng cất nhà ở mé sơng, nên khơng dính líu gì đến.




Trong hồ sơ có bộ hồ sơ cấp GCN cho hộ ông Nguyễn Thăng



Đơn ủy quyền ngày 16/08/2001:
“Kính gửi: Chính quyền các cấp
Tơi tên Nguyễn Thăng sinh năm 1922
Hiện ngụ tại số 18 tổ 1 khu 4 thị trấn Cái Bè, huyện Cái Bè, Tiền Giang
Nay tôi làm tờ giấy uỷ quyền này cho con dâu tôi tên Phạm Thị Tâm – 1968 số
đất thổ cư để cất nhà ở canh tác là 200 m2
Tôi viết tờ uỷ quyền kính trình các cấp xét giúp đỡ cho con dâu tôi được phép
cất nhà tách hộ lập hộ mới
Trong khi chờ đợi sự chấp thuận của quý ông xin nhận nơi đây lòng thành thật
và sự biết ơn


Có xác nhận của Trưởng khu phố Trần Văn Lợi: Ông Nguyễn Thăng sinh năm
1922 ngụ sô 18 tổ 1 khu 4 làm tờ uỷ quyền lại cho con dâu 200m2 đất trên
phần đất ông đang quản lý và sử dụng tại địa chỉ trên là đúng”.


Tại Biên bản hòa giải ngày 04/05/2013:
Phía bà Kim Lan: Yêu cầu chia di sản thừa kế như sau: 1/2 tài sản là của mẹ
bà thì bà được hưởng (mẹ bà là Trần Thị Trọng) cịn ½ cịn lại thì chia cho bà
cùng 5 người con của bà Nguyễn Thị Lan; bà trình bày thêm ông Thăng và bà
Lan (mẹ kế) cùng sinh sống ở Sài Gịn sau 1975 ơng Thăng về Cái Bè sinh
sống với bà Trần Thị Trọng cho đến khi chết.
Bị đơn Nguyễn Huy Thành trình bày: quá trình nhân thân quan hệ gia đình
và phần tài sản ơng Thăng chết để lại khoảng 2000m2 đất và 1 căn nhà là
đúng, riêng nguồn gốc phần đất thì ơng khơng xác định được, ơng thống nhất

như lời trình bày của bà Lan về nhân thân và di sản thừa kế; Hiện nay ông
đang quản lý căn nhà thờ và phần đất phía sau, anh ơng tên Nguyễn Huy Tài
có quản lý sử dụng 1 phần đất găn liền với căn nhà của Tài và 1 phần đất làm
trại bánh phồng. Ông sống chung với ông Thăng, bà Trọng (mẹ lớn) từ 1973
đến nay, ông Thăng và bà Trọng cùng chết ở Cái Bè (nhà ông); ông là người
nuôi dưỡng ông Thăng, bà Trọng; cịn mẹ ruột ơng (bà Lan) ở cùng 2 em gái
ơng ở Sài Gịn; mẹ ruột ơng là Lan chết Năm 2007 khơng có để lại di chúc gì
cả.
Ơng không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của bà Kim Lan; phần đất cịn lại
hiện ơng đang quản lý thì ơng đồng ý cho bà Lan căn nhà ở nếu bà Lan có nhu
cầu sử dụng đất. Tơi đề nghị căn nhà thờ để làm nơi thờ cúng ông bà, cha mẹ;
phần đất còn lại chia đều cho các anh em kể cả bà Kim Lan.
- Người có liên quan trình bày:
+ Nguyễn Huy Lộc: ơng sống chung với ông Thăng, bà Trọng từ lúc ông mới
sinh từ năm 1970, ơng cũng thống nhất như lời trình bày của bà Kim Lan và
Nguyễn Huy Thành về nhân thân và di sản thừa kế. Ông đề nghị căn nhà thờ
dùng vào việc thờ cúng phần đất còn lại chia đều làm 6 phần mỗi người
hưởng 1 phần
+ Nguyễn Huy Tài (Nguyễn Quy Tài) thống nhất như lời trình bày và ý kiến
của ông Lộc và ông Thành


+ Nguyễn Lan Tố Quyên (Nguyễn Thị Tố Quyên) đề nghị xác định di sản
thừa kế của ông Thăng chia đều là 6 phần cho 6 chị em bà, xin chia 1 phần di
sản của ơng Thăng
+ Nguyễn Thị Bích Ngọc: bà đề nghị chia di sản của ông Thăng để lại làm 6
phần bà xin nhận 1 phần
- Các bên đều thống nhất không tranh chấp cây trồng trên đất và các vật kiến
trúc khác (ngoại trừ căn nhà thờ).



II.

Tóm tắt nội dung vụ án
Ơng Nguyễn Thăng (mất ngày 04/01/2002) và bà Trần Thị Trọng (mất ngày
22/08/2007) có một người con chung là bà Nguyễn Thị Kim Lan. Trong thời kỳ
hơn nhân, giữa ơng Thăng và bà Trọng có tạo lập được khối tài sản chung là
phần diện tích đất 2.000m2 và 01 căn nhà trên đất tại địa chỉ tại Khu 4, TT
Cái Bè, huyện Cái Bè. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên đứng tên hộ
ông Nguyễn Thăng được cấp ngày 19/09/1997. Đến năm 1963, ông Nguyễn
Thăng có quan hệ tình cảm với bà Nguyễn Thị Lan (mất năm 2007) và có 05
người con chung là: Nguyễn Huy Lộc - sinh năm: 1963; Nguyễn Huy Tài - sinh
năm: 1963; Nguyễn Huy Thành - sinh năm: 1968; Nguyễn Lan Tố Quyên - sinh
năm: 1971; Nguyễn Thị Bích Ngọc - sinh năm: 1973.
Từ năm 1963 đến năm 1973, gia đình bà Lan đã đưa các ơng Lộc, Tài và
Thành về sống chung tại phần diện tích đất trên. Hiện nay, phần diện tích đất
trên và tài sản trên đất đang do ông Nguyễn Huy Thành quản lý và sử dụng.
Ông Nguyễn Thăng và bà Trần Thị Trọng mất đều không để lại di chúc.
Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim Lan u cầu Tồ án giải quyết chia đơi khối tài
sản chung của ông Nguyễn Thăng và bà Trần Thị Trọng, cụ thể là phần diện
tích đất 2.000m2 và 01 căn nhà trên đất tại địa chỉ Khu 4, TT Cái Bè, huyện
Cái Bè. Bà Lan yêu cầu được nhận ½ của khối tài sản trên là phần tài sản của
mẹ bà. Đối với ½ khối tài sản cịn lại là tài sản của cha bà (là ông Nguyễn
Thăng), bà Lan yêu cầu được chia thành 06 phần cho bà và 05 người con
chung của ông Thăng và bà Nguyễn Thị Lan. Nguyên đơn yêu cầu được nhận
bằng hiện vật.
Bị đơn ơng Nguyễn Huy Thành) và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
(Nguyễn Huy Lộc; Nguyễn Huy Tài; Nguyễn Lan Tố Quyên và Nguyễn Thị Bích
Ngọc) đều thừa nhận khối tài sản diện tích 2.000m2 và 01 căn nhà trên đất
tại địa chỉ tại Khu 4, TT Cái Bè, huyện Cái Bè, Giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất trên đứng tên hộ ông Nguyễn Thăng được cấp ngày 19/09/1997 là tài sản
do ông Nguyễn Thăng và bà Trần Thị Trọng tạo lập trong thời kỳ hôn nhân.
Các ông/bà đều có yêu cầu chia đều khối tài sản chung trên thành 06 phần
cho bà Nguyễn Thị Kim Lan; Nguyễn Huy Lộc; Nguyễn Huy Tài; Nguyễn Huy
Thành; Nguyễn Lan Tố Quyên và Nguyễn Thị Bích Ngọc.

III.

Kết quả nghiên cứu hồ sơ


1.

Yêu cầu khởi kiện, phạm vi yêu cầu khởi kiện và quan hệ pháp luật
tranh chấp
Bà Lan khởi kiện yêu cầu chia di sản do ông Thăng, bà Trọng để lại. Các bên
trong tranh chấp đã thống nhất về nhân thân ông Thăng, bà Trọng, bà
Nguyễn Thị Lan; đồng thời cũng thống nhất quyền sử dụng đất và căn nhà
mà nguyên đơn yêu cầu chia thừa kế là tài sản chung của ông Thăng - bà
Trọng. Các bên chỉ không thống nhất về phần di sản mà mỗi người được
hưởng, do đó quan hệ pháp luật có tranh chấp phải giải quyết trong tình
huống này là “Tranh chấp về chia di sản thừa kế”.
Các quan hệ pháp luật phải giải quyết trong vụ án bao gồm:
o

Hơn nhân gia đình: xác định có quan hệ hơn nhân hợp pháp giữa ơng
Thăng - bà Trọng, ông Thăng - bà Lan hay không, nhằm xác định di sản
của từng người và xác định người thuộc hàng thừa kế thứ nhất.

o


Quyền sở hữu: Xác định quyền sử dụng đất và căn nhà có tranh chấp
thuộc quyền sử dụng, sở hữu hợp pháp của ông Thăng, bà Trọng do các
bên đã thống nhất và đất đã được cấp GCN.

o

Thừa kế: xác định diện, hàng thừa kế, di sản thừa kế, công sức quản lý,
tôn tạo di sản, cơng sức chăm sóc, ni dưỡng đối với người để lại di
sản.

2.

Xác định tư cách đương sự
Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Kim Lan, sinh năm 1951, cư trú tại Khu Phố 4,
Thị Trấn Nhà Bè, Huyện Nhà Bè, Thành Phố Hồ Chí Minh (căn cứ Khoản 2 Điều
68 Bộ luật tố tụng dân sự 2015)
Bị đơn: Ông Nguyễn Huy Thành, sinh năm 1968, cư trú tại Khu 4, thị trấn Cái
Bè, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang (căn cứ theo Khoản 2 Điều 68 Bộ luật tố
tụng dân sự 2015)
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (căn cứ khoản 4 Điều 68, khoản 3
Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự 2015) là những người con của ông Nguyễn
Thăng, người đã được ông Thăng cho tài sản lúc còn sống và những người
thực tế cư trú trên nhà đất tranh chấp, cụ thể là:
1. Nguyễn Huy Lộc, sinh năm: 1963
2. Nguyễn Huy Tài (Quy Tài), sinh năm: 1964
Cùng trú quán: Khu 4, Thị Trấn Cái Bè, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang


3. Nguyễn Thị Tố Quyên (Nguyễn Lan Tố Quyên), sinh năm: 1970

Trú quán: 74/23 Đường 13, khu phố 3, phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ
Đức, TP Hồ Chí Minh.
4. Nguyễn Thị Bích Ngọc, sinh năm 1973
Trú quán: 74/23 Đường 13, khu phố 3, phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ
Đức, TP Hồ Chí Minh.
5. Trần Thị Ngọc Phượng, sinh năm 1966 (Vợ ông Lộc)
Đại diện theo ủy quyền Nguyễn Huy Lộc, sinh năm 1963
Trú quán: Khu 4, Thị Trấn Cái Bè, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.
6. Phạm Thị Tâm, sinh năm: 1968
Đại diện theo ủy quyền Nguyễn Huy Tài, sinh năm: 1963
Trú quán: Khu 4, thị trấn Cái Bè, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.
7. Nguyễn Thị Nàng, sinh năm: 1970
8. Nguyễn Thành Huy, sinh năm: 1990
Đại diện ủy quyền của bà Nàng và anh Huy: Ông Nguyễn Huy Thành, sinh
năm: 1968
Trú quán: Khu 4, thị trấn Cái Bè, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang
3.

Xác định diện và hàng thừa kế của ông Nguyễn Thăng, bà Trần Thị
Trọng và bà Nguyễn Thị Lan

 Diện và hàng thừa kế của ông Nguyễn Thăng
Ngày 04/01/2002 ông Nguyễn Thăng mất nên áp dụng BLDS 1995 giải quyết
việc chia thừa kế của ông Thăng. Ông Thăng chết không để lại di chúc nên di
sản của ông được chia theo pháp luật.
(i)

Hàng thừa kế thứ nhất có vợ của ông Thăng, do đó cần xác định bà Trọng, bà
Lan có phải vợ ông Thăng không.
- Bà Trần Thị Trọng là vợ hợp pháp của ông Thăng

Theo quy định tại điểm a khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày
09/6/2000 của Quốc hội thì “Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác
lập trước ngày 03 tháng 1 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm
1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết


hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Tòa án thụ lý giải quyết
theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000”.
Theo đó, ơng Nguyễn Thăng với bà Trần Thị Trọng chung sống với nhau trước
ngày 03/01/1987 (từ trước năm 1951, lấy mốc thời gian là năm sinh của bà
Nguyễn Thị Kim Lan), khơng đăng ký kết hơn thì vẫn được pháp luật công
nhận là vợ chồng. Như vậy bà Trọng là vợ hợp pháp của ông Thăng.
- Bà Nguyễn Thị Lan là vợ hợp pháp của ông Thăng
Bà Nguyễn Thị Lan chung sống với ông Nguyễn Thăng đã được các bên
đương sự thừa nhận, năm 1963 bà Lan sinh ra ông Nguyễn Huy Lộc, như vậy
xác định thời điểm sống chung như vợ chồng giữa bà Lan với ông Thăng là từ
năm 1963. Tại thời điểm này, Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 chưa có
hiệu lực pháp luật ở miền Nam nên không áp dụng luật này.
Theo điểm a Điều 4 Nghị quyết 02/HĐTP năm 1990 quy định “a) Trong trường
hợp một người có nhiều vợ (…; trước ngày 25-3-1977 - ngày công bố danh
mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối với miền
Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy
thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp
luật), thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người
chồng và ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả
các người vợ.”. Theo đó, bà Nguyễn Thị Lan, bà Trần Thị Trọng và ông Nguyễn
Thăng đều cư trú tại huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang (miền nam) nên bà
Nguyễn Thị Lan cũng là vợ hợp pháp của ông Thăng.
Như vậy, bà Trần Thị Trọng và bà Nguyễn Thị Lan đều là người thừa kế hợp
pháp của cụ Thăng.

(ii)

Bà Nguyễn Thị Kim Lan có phải là con chung của ông Thăng với bà Trọng
không
Theo Điều 681 BLDS 1995 quy định “Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được
thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều
679 và Điều 680 của Bộ luật này.”, Theo đó, bà Nguyễn Thị Kim Lan (1951)
được ơng Thành, Lộc Tài xác định là con nuôi của cụ Nguyễn Thăng và cụ
Nguyễn Thị Lan (1936) nhưng khơng có chứng cứ, tài liệu nào đủ cơ sở kết
luận việc này. Trong khi đó, Chánh lục sự Tịa sơ thẩm Sài Gòn ngày
05/02/1969 Bút lục 07 đã Tuyên án tại phần phán quyết bà Nguyễn Thị Kim
Lan (1951) là con của cụ Nguyễn Thăng và cụ Trần Thị Trọng cho nên bà


Nguyễn Thị Kim Lan (1951) được công nhận là con của 2 người này và có
quyền được hưởng di sản thừa kế cụ Nguyễn Thăng để lại như những anh chị
em khác.
Tóm lại, theo Điều 679 BLDS 1995 quy định “1. Những người thừa kế theo
pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm:
Vợ, … con đẻ, con nuôi của người chết; 2. Những người thừa kế cùng hàng
được hưởng phần di sản bằng nhau” thì có tổng cộng 08 người thuộc hàng
thừa kế thất của ông Thăng bao gồm:
-

Bà Trần Thị Trọng (vợ)

-

Bà Nguyễn Thị Lan (vợ)


-

Bà Nguyễn Thị Kim Lan (con)

-

Ông Nguyễn Huy Lộc (con)

-

Ông Nguyễn Huy Tài (con)

-

Ông Nguyễn Huy Thành (con)

-

Bà Nguyễn Lan Tố Quyên (con)

-

Bà Nguyễn Thị Bích Ngọc (con)
08 người này được hưởng phần một phần di sản bằng nhau.

 Diện và hàng thừa kế của bà Trần Thị Trọng
Ngày 22/08/2007 cụ Trần Thị Trọng mất nên áp dụng điểm a khoản 1 Điều
675; điểm a khoản 1 Điều 676 BLDS 2005 giải quyết chia di sản cuả bà Trọng.
Theo Chánh lục sự Tòa sơ thẩm Saigon Bút lục 07; Đơn yêu cầu giải quyết
chia thừa kế tại Bút lục 13 (1951) thì bà Nguyễn Thị Kim Lan là con của bà

Trọng thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bà Trọng.
Bên cạnh đó, 05 người con riêng của ông Thăng là ông Lộc, ông Tài, ông
Thành, bà Quyên, bà Ngọc đã được bà Trọng đón về chăm sóc, ni dưỡng
như con đẻ từ khi cịn nhỏ. Theo xác nhận của họ hàng, hàng xóm tại BL65,
66, xác nhận của Công an Thị trấn Cái Bè tại BL68, Cụ Thăng và Cụ Trọng
chung sống với những người con riêng đến cuối đời, các con gọi Cụ Trọng là
mẹ và chăm sóc Cụ lúc bệnh tật, già yếu. Năm 2007, Cụ chết và không để lại
di chúc, do vậy, di sản của Cụ Trọng sẽ được chia thừa kế theo quy đinh pháp
tại Điểm a Khoản 1 Điều 675 Bộ luật Dân sự 2005 (“BLDS 2005”).


Theo đó, những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của Cụ Trọng là Bà Kim
Lan, Ông Lộc, Ông Tài, Ông Thành, Bà Quyên, Bà Ngọc.
 Diện và hàng thừa kế của cụ Nguyễn Thị Lan
Năm 2007 cụ Nguyễn Thị Lan (1936) mất nên áp dụng BLDS 2005 giải quyết,
lúc này có 05 người con của cụ Nguyễn Thị Lan gồm ông Lộc (1963), ông Tài
(1963), ông Thành (1968), bà Quyên (1971), bà Ngọc (1973) là hàng thừa kế
thứ nhất của cụ Lan và hưởng một phần di sản bằng nhau.
Theo Điều 675 BLDS 2005 quy định “1.Thừa kế theo pháp luật được áp dụng
trong những trường hợp sau đây: a) Khơng có di chúc.”. Theo đó, cụ Lan chết
khơng có di chúc nên chia thừa kế theo pháp luật cho các người con của cụ
Lan.
Theo quy định tại Điều 676 BLDS 2005 quy định “1. Những người thừa kế
theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: a) Hàng thừa kế thứ nhất
gồm: … con đẻ, của người chết; 2. Những người thừa kế cùng hàng được
hưởng phần di sản bằng nhau.”. Theo đó, 05 người con của cụ Lan sẽ hưởng
phần di sản phân chia thành 5 phần bằng nhau.
4.

Xác định thời điểm mở thừa kế của cụ Nguyễn Thăng, cụ Trần Thị

Trọng, cụ Nguyễn Thị Lan. Xác định thời hiệu khởi kiện chia di sản
thừa kế của cụ Nguyễn Thăng, cụ Trần Thị Trọng, cụ Nguyễn Thị Lan.
Theo Giấy chứng tử số 04, quyển số 01/2002 do UBND Thị trấn Cái Bè cấp
ngày 30/01/2002 (BL 9) thì ơng Nguyễn Thăng chết ngày 04/01/2002. Theo
đó, thời điểm mở thừa kế của ông Thăng là ngày 04/01/2002.
Theo Giấy chứng tử số 31, quyển số 01/2002 do UBND Trị trấn Cái Bè cấp
ngày 14/07/2008 (BL 10) thì bà Trần Thị Trọng chết ngày 22/08/2007. Theo
đó, thời điểm mở thừa kế của bà Trọng là ngày 22/08/2007.
Bà Nguyễn Thị Lan chết năm 2007 theo lời khai của các bên đương sự.
Căn cứ vào Điều 623 Bộ luật dân sự 2015:
“1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất
động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời
hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp
không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như
sau:


a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại
Điều 236 của Bộ luật này;
b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại
điểm a khoản này.
2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình
hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở
thừa kế.
3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người
chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.”
Bà Kim Lan khởi kiện yêu cầu chia di sản là bất động sản, do đó thời hiệu khởi
kiện chia di sản là 30 năm kể từ thời điểm mở thừa kế, vậy:
Thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản của ông Thăng là đến 04/01/2032;
Thời hiệu khởi kiện chia di sản của bà Trọng là đến 22/08/2037;

Thời hiệu khởi kiện chia di sản của bà Lan là đến năm 2037.
5.

Xác định di sản thừa kế của cụ Nguyễn Thăng, cụ Trần Thị Trọng, cụ
Nguyễn Thị Lan
Ông Thăng được cấp quyền sử dụng đất ngày 19 tháng 7 năm 1997 tại thửa
đất 631 với diện tích 1951 mét vng đất gồm đất: LN + T với thời hạn sử
dụng là 50 năm. Ông Thăng chết ngày 04/01/2002, bà Trọng chết ngày
22/8/2007 không để lại di chúc thừa kế.
Căn cứ Khoản 1, khoản 1, khoản 1 mục II quy định về thừa kế, tranh chấp liên
quan đến quyền sử dụng đất của Nghị quyết 02/2004 NQ-HĐTP ngày
10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán tịa án nhân dân tối cao thì diện tích đất
này thuộc phần đất di sản thừa kế.
Căn cứ theo Khoản 2 Điều 92 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 quy định về những
tình tiết, sự kiện khơng phải chứng minh. Nội dung trong hồ sơ vụ việc dân sự
thì các bên đương sự đều thống nhất di sản thừa kế đang tranh chấp là tài
sản chung của ông Thăng, bà Trọng khi cịn sống nên khơng cần chứng minh
quyền sở hữu thuộc về ông Thăng hay bà Trọng đối với tài sản này.

6.

Kết quả nghiên cứu hồ sơ về các vấn đề nội dung của vụ án




Người làm chứng (BL 56) xác định bà Lan có mua mảnh đất nhưng lại không
xác định được địa chỉ ơ đâu? Đối với những người con xác định vị trí thửa đất
thì chưa đảm bảo tính khách quan.




Ơng Thăng quan hệ với bà Lan là vợ chồng



Xác định di sản thừa kế là nguồn gốc của Thăng - Trọng hay Thăng - Lan thì
trước hết cần xác định quan hệ hôn nhân. Hôn nhân Thăng - Lan trước năm
1977 là hợp pháp.



Nếu đủ cơ sở xác định là của ông Thăng và bà Trọng thì khi ông Thăng mất
trước sẽ chia 50/50 di sản vợ chồng. Phần của ông Thăng sẽ chia cho hàng
thừa kế thứ 1 và thừa kế thế vị; Khi bà Trọng chết thì chia di sản của bà Trọng
cho thừa kế của bà Trọng (trường hợp này chỉ có bà Kim Lan)



Nếu đủ cơ sở xác định tài sản là của Thăng - Lan thì khi ông Thăng mất cũng
sẽ chia 50/50, phần của ông Thăng sẽ chia cho thừa kế hàng thừa kế thứ
nhất. Khi bà Lan chết thì chia di sản cho thừa kế của bà Lan (Trường hợp này
khơng có bà Kim Lan).
Vấn đề nguyên đơn cần chứng minh
+ Quan hệ hôn nhân giữa ông Nguyễn Thăng và bà Trần Thị Trọng là hôn
nhân hợp pháp.
+ Phần di sản để lại của bà Trần Thị Trọng (bao gồm ½ tài sản của vợ chồng
và một phần di sản bà Trọng được thừa kế khi ông Thăng mất vào năm
2002).
+ Phần di sản để lại của ơng Nguyễn Thăng (½ tài sản của vợ chồng ông

Thăng, bà Trọng).
Các chứng cứ nguyên đơn cần thu thập thêm:
+ Hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất tranh chấp
để từ đó xác định phần diện tích đất tranh chấp được cấp cho hộ gia đình
hay cá nhân. Trường hợp nếu cấp cho hộ gia đình thì tại thời điểm cấp
Giấy, hộ gồm những ai để từ đó làm căn cứ giải quyết vụ án.
+ Giấy đăng ký kết hôn giữa ông Thăng và bà Trọng (bản gốc hoặc bản trích
lục) (Nếu có).
+ Giấy khai sinh của bà Nguyễn Thị Kim Lan (bản gốc hoặc bản trích lục)


+ Trích lục Sổ hộ khẩu của hộ ơng Nguyễn Thăng vào năm 1997 (thời điểm
hộ ông Nguyễn Thăng được cấp giấy CNQSDĐ)
Vấn đề bị đơn cần chứng minh
+ Xác định cơng sức đóng góp, làm tăng giá trị di sản của bị đơn
+ Mối quan hệ nuôi dưỡng như mẹ con giữa bị đơn và bà Trọng
Các chứng cứ bị đơn cần thu thập thêm
+ Các tài liệu, chứng cứ thể hiện việc ông Nguyễn Huy Thành đã bỏ tiền lo
các chi phí chữa bệnh cho ơng Nguyễn Thăng và bà Nguyễn Thị Trọng và
các chi phí lo ma chay, phụng thờ, cúng giỗ ông Thăng và bà Trọng cho
đến hiện nay.
+ Chi phí xây dựng, sửa chữa căn nhà năm 2001 và các chi phí khác cho việc
bảo quản khối tài sản trên trong quá trình bị đơn sinh sống trên đất.
+ Tài liệu, chứng cứ chứng minh bị đơn là con chung của ông Nguyễn Thăng
và bà Nguyễn Thị Lan. (Do Giấy khai sinh đều không thể hiện tên cha).
7.

Dự kiến bản trình bày ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn (u cầu phản tố nếu có) tại phiên tịa sơ thẩm và các
chứng cứ chứng minh cho ý kiến/yêu cầu phản tố của bị đơn là có căn

cứ và hợp pháp
Bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Bà Nguyễn Thị Kim Lan yêu cầu nhận toàn bộ 1/2 di sản và 1/6 của 1/2 di sản
của ông Thăng – bà Trọng là chưa đúng, bởi vì: Ngồi bà Nguyễn Thị Kim Lan
thì ơng: Nguyễn Huy Thành, sinh năm 1968; ông: Nguyễn Huy Lộc, sinh năm
1963; ông: Nguyễn Huy Tài, sinh năm 1963; Bà: Nguyễn Lan Tố Quyên, sinh
năm 1971; Bà: Nguyễn Thị Bích Ngọc, sinh năm 1973 cũng thuộc hàng thừa
kế thứ nhất của người để lại di sản. Do đó, yêu cầu của bà Nguyễn Thị Kim
Lan là chưa phù hợp quy định pháp luật.



u cầu Hội đồng xét xử khơng chấp nhận tồn bộ yêu cầu của bà Nguyễn Thị
Kim Lan.



Yêu cầu không chia thừa kế phần đất mồ mã, phần căn nhà thờ cúng và công
nhận phần đất 200m2 của bà Phạm Thị Tâm đang sử dụng. Đồng thời, yêu
cầu phản tố thanh tốn chi phí bảo quản di sản (tiền cơng sửa chữa căn nhà
thờ cùng) và được hưởng thù lao theo thỏa thuận từ cơng bảo quản các di sản
cịn lại trước khi chia thành 06 phần bằng nhau.


×